Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Dân chủ và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay sinh viên cần làm gì để thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.09 KB, 16 trang )

ĐẠI HỌC ĐẠI NAM
Khoa lý luận chính trị

—^^^3^^—

BÀI TIỂU LUẬN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Đề tài 2: Dân chủ và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay. Sinh viên cần làm gì để thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay?
Giảng viên hướng dẫn: Trần Lan Hương
Họ và tên sinh viên: Hoàng Thu Hương
Mã sinh viên: 1451030091
Lớp: QTDL-1402
Hà Nội - 2021


Lời mở đâu
Nền dân chủ ở nước ta là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN). Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng nền dân chủ XHCN,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Dân
chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN. Ngày nay xây dựng nhà nước pháp quyền là một xu hướng tất
yếu
trong tiến trình phát triển của mỗi quốc gia. Nhiều cơng trình nghiên cứu dưới các
góc độ khác nhau đều khẳng định nhà nước pháp quyền là “điều kiện cơ bản để
phát
triển nền dân chủ. Em chọn đề tài 2 “Dân chủ và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay. Sinh viên cần làm gì để thực hiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay?” để sinh viên nắm được bản chất nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa và khẳng định bản chất tiến bộ của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, có


thái độ phê phán những quan điểm sai trái phủ nhận tính chất tiến bộ của nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Mỗi sinh viên sau khi năm được kiến thức thì phải biết vận
dụng những kiến thức đó vào việc phân tích những vấn đề thực tiễn liên quan đến
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt nam và
nhiệm vụ của cá nhân.


I. Khái quát lý luận:
l.Khái niệm về dân chủ
*Quan niệm về dân chủ:
- Theo nghĩa gốc: Dân chủ xuất phát từ chữ Hy lạp “democratos”, có nghĩa

quyên lực thuộc về nhân dân (hay nhân dân là chủ thể quyên lực).
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Leenin, dân chủ có các nội dung:
+ Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ nhân của nhà
nước.
+ Dân chủ là một hình thức hay hình thái nhà nước.
+ Dân chủ là nguyên tắc trong quản lý xã hội - nguyên tắc dân chủ.
Nội dung trên của khái niệm dân chủ về cơ bản vẫn được giữ nguyên cho
đến ngày nay. Điểm khác biệt cơ bản giữa các cách hiểu về dân chủ đại mới hiện
đại là ở tính chất trực tiếp quan hệ sử hữu quyền lực công cộng và cái hiểu về nội
hàm của khái niệm nhân dân.
Từ nghiên cứu các chế độ dân chủ trong lịch sử và thực tiễn lãnh đạo cách
mạng xã hội chủ nghĩa, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng dân chủ là
sản phẩm và thành quả của đấu tranh giai cấp cho những giá trị tiến bộ của nhân
loại.
Chủ nghĩa Mác-Lênin nhấn mạnh, dân chủ với tư cách nêu trên phải được
coi là mục tiêu là tiền đề và cũng là phương tiện để vươn tới tự do giải phóng con
người giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội. Dân chủ với tư cách một tổ chức
thiết chế chính trị, một hình thức hay hình thái nhà nước, nó là một phạm trù lịch

sử, ra đời và phát triển gắn liền với nhà nước và mất đi khi nhà nước tiêu vong.
Xong, dân chủ với tư cách một giá trị xã hội là một phạm trù vĩnh viễn, tồn tại và
phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của con người, của xã hội loài người.
Chừng nào con người và xã hội loài người còn tồn tại, chừng nào mà nền văn minh
nhân loại chưa bị diệt vong thì chừng đó dân chủ vẫn còn tồn tại với tư cách là một
giá trị nhân loại chung.


Tóm lại: Dân chủ là một giá trị xã hội phản ảnh những quyền cơ bản của còn
người; là một phạm trù chính trị gắn với các hình thức tổ chức nhà nước của giai
đoạn cầm quyền; là một phạm trù lịch sử gắn với quá trình ra đời, phát triển của
lịch
sử xã hội nhân loại.
*Sự ra đời, phát triển của dân chủ:
Nhu cầu của dân chủ xuất hiện từ rất sớm trong xã hội tự quản của cộng
đồng thị tộc,bộ lạc. Trong chế độ cộng sản nguyên thủy đã xuất hiện hình thức
manh nha của dân chủ mà Ph.Ăngghen gọi là “dân chủ nguyên thủy” hay còn gọi
là”dân chủ quân sự”. Đặc trưng cơ bản của hình thức dân chủ này là nhân dân bày
ra thủ lĩnh quân sự thông quan “Đại hội nhân dân”. Trong “Đại hội nhân dân”, mọi
người đều có quyền phát biểu và tham gia quyết định bằng cách giơ tay hoặc hồn
hộ, ở đó “Đại hội nhân dân” và nhân dân có quyền lực thực sự (nghĩa là có dân
chủ) ,mặc dù trình độ sản xuất cịn kém phát triển.
Khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển dẫn tới sự ra đời của chế độ tư
hữu và sau đó là giai cấp đã làm cho hình thức “dân chủ nguyên thủy” tan rã, nền
dân chủ chủ nô ra đời. Nền dân chủ chủ nô được được tổ chức thành nhà nước với
đặc trưng là dân tham gia bầu ra Nhà nước. Tuy nhiên, “Dân là ai”, theo quy định
của giai cấp cầm quyền chỉ gồm giai cấp chủ nô và phần nào thuộc về các công
nhân tự do (tăng nữ, thương gia và một số trí thức). Đa số cịn lại khơng phải là
“dân” mà là “nô lệ”. Họ không được tham gia vào công việc nhà nước. Như vậy,
về thực chất, dân chủ chủ nô cũng chỉ thực hiện dân chủ cho thiểu số, quyền lực

của dân đã bó hẹp nhằm duy trì, bảo vệ, thực hiện lợi ích của “dân” mà thôi.
Cùng với sự tan rã của chế độ chiếm hữu nơ lệ, lịch sử lồi người bước vào
thời kì đen tối với sự thống trị của nhà nước chuyên chế phong kiến, chế độ dân
chủ chủ nô đã bị xóa bỏ và thay vào đó là chế độ độc tài chuyên chế phong kiến.
Sự thống trị của giai cấp thời kì này được khốc lên chiếc áo thần bí của thế lực
siêu nhiên. Họ xem việc tuân theo theo ý chí của giai cấp thống trị là bổn phận của
mình trước sức mạnh của đấng tối cao. Do đó, ý thức về dân chủ và đấu tranh để
thực diện quyền làm chủ của người da đã khơng có bước tiến đáng kể nào. "


Cuối thế kỉ XIX - đầu XV, giai cấp tư sản với những tư tưởng tiến bộ về tự
do, công bằng, dân chủ đã mở đường cho sự ra đời của nền dân chủ tư sản. Trong
chế độ dân chủ tư sản, dù chế độ này có nhiều thành tựu to lớn, dù chế độ đó có
mang tên chế độ dân chủ, nhà nước dân chủ, n nhưng về thực chất vẫn không phải
là nhà nước thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân, mà chỉ là nhà nước của giai
cấp tư sản.
Khi cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thắng lợi (1917), một thời
đại mới mở ra - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân
lao động ở nhiều quốc gia giành được quyền làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội,
thiết lập nhà nước công - nông (nhà nước xã hội chủ nghĩa), thiết lập nền dân chủ
vô sản (dân chủ xã hội chủ nghĩa) để thực hiện quyền lực của đại đa số nhân dân.
Đặc trưng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực hiện quyền lực của nhân dầntức là xây dựng nhà nước dân chủ thực sự, dân làm chủ nhà nước và xã hội, bảo vệ
quyền lợi cho đại đa số nhân dân.
Như vậy, với tư cách là một hình thái nhà nước, một chế độ chính trị thì
trong lịch sử nhân loại, cho đến nay có ba nền (chế độ) dân chủ. Nền dân chủ chủ
nô gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ, nền dân chủ tư sản, gắn với chế độ tư bản chủ
nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, gắn với chế độ xã hội chủ nghĩa.
*Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn quá trình hình thành và phát triển các nền dân
chủ trong lịch sử và trực tiếp nhất là nền dân chủ tư sản, các nhà sáng lập chủ

nghĩa Mác- Lênin cho rằng, đấu tranh cho dân chủ là một quá trình lâu dài, phức
tạp và giá trị của nền dân chủ tư sản chưa phải là hồn thiện nhất, do đó, tất yếu
xuất hiện một nền dân chủ mới, cao hơn nền dân chủ tư sản và đó chính là nền dân
chủ vơ sản hay cịn gọi là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Theo chủ nghĩa Mác- Lênin: Giai cấp vô sản khơng thể hồn thành cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa, nếu học không được chuẩn bị để tiến tới cuộc cách


mạng đó thơng qua cuộc đấu tranh cho dân chủ. Rằng, chủ nghĩa xã hội
khơng thể
duy trì và thắng lợi, nếu khơng thực hiện đầy đủ dân chủ.

Q trình phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là từ thấp tới cao, từ
chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, có sự kế thừa một cách chọn lọc giá trị của các
nền dân chủ trước đó, trước hết là nền dân chủ tư sản.
Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng lưu ý đây là một quá trình lâu dài,
khi xã hội đã đạt trình độ phát triển rất cao, xã hội khơng cịn sự phân chia giai cấp,
đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa đạt tới mức độ hồn thiện, khi đó dân chủ xã hội
chủ nghĩa với sự tư cách là một chế độ nhà nước cũng tiêu vong, khơng cịn nữa.
Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền
dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ tư sản, là nền dân chủ mà ở đó, mọi
quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ, dân chủ và pháp luật làm
trong sự thống nhất biện chứng, được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản.
*Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Với tư cách là đỉnh cao trong toàn bộ lịch sử tiến hóa của nhân chủ, dân chủ
xã hội chủ nghĩa có bản chất sau:
Bản chất chính trị: Dưới sự lãnh đạo duy nhất của một đảng của giai cấp
công nhân (Đảng Mác - Lênin) mà trên mọi lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền
lực của dân dân, thể hiện qua các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con người, thỏa

mãn ngày càng cao các nhu cầu và các lợi ích của nhân dân.
Bản chất kinh tế: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã
hội về những tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày
càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học - công nghệ hiện đại
nhằm thỏa mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể
nhân dân lao động.
Bản chất tư tưởng - văn hóa - xã hội: Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư
tưởng Mác - Lênin - hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, làm chủ đạo đối với mọi
hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới. Đồng thời nó kế thừa, phát huy


những tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc, tiếp thu những giá trị tư
tưởng - văn
hóa, văn minh, tiến bộ xã hội... mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia,
dân
tộc...

Với tất cả những đặc trưng đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cao
hơn về chất so với nền dân chủ tư sản, là nền dân chủ mà ở đó, mọi quyền lực
thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ, dân chủ và pháp luật nằm trong sự
thống nhất biện chứng, được thực hiện bằng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
II. Phân tích thực tiễn

Thực Trạng:
Tình trạng vi phạm dân chủ, dân chủ hình thức, lợi dụng dân chủ,... đang
làm cho nhiều vấn đề xã hội nhức nhối, làm chậm bước tiến của dân tộc làm cho sự
nghiệp công nghệ hóa, hiện đại bị thách thức, nguy cơ chệch hướng XHCN trở
thành nỗi lo lớn. Chính vì vậy, xây dựng xã hội dân chủ XHCN phát huy quyền
làm chủ của nhân dân là nhiệm vụ, nội dung quá trình của cách mạng nước ta trong

giai đoạn hiện nay. Thực tiễn đã chỉ ra rằng chỉ có thể thực hiện một nền dân chủ
XHCN, phát huy được quyền làm chủ của nhân dân chúng ta mới phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, đấu tranh có hiệu quả chống mọi hiện tượng tham nhũng, tiêu
cực, khơi dậy sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhấn dân, mọi thành phần kinh tế để
xây dựng nước ta đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh” tiến lên CNXH.


Nguyên Nhân:

Những tồn tại mà Đảng ta chỉ ra là “tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn cịn
nghiêm trọng với biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp, gây bức xúc trong dư luận,
ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước. Ý thức của của một
số
bộ phận cơng dân chưa cao, trình độ hiểu biết và trách nhiệm xã hội còn thấp, chưa
tinh thần tự giác chấp hành pháp luật,. tuy vẫn còn những tồn không tốt nhưng
Đảng
và Nhà nước cũng đã khắc phục kịp thời và đồng thời tạo ra những thành tựu tốt.


Thành tựu:
Dựa vào kết quả quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất
nước từ năm 1986 đến nay. Trong đó, chú trọng thực tiễn hoạt động lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước và sự vận động của thực tiễn dân chủ hóa đời sống
xã hội ở nước ta trong 30 năm qua. Đồng thời, trong chừng mực nhất định, có liên
hệ với thực tiễn dân chủ hóa của các nước trên thế giới cũng như thực tiễn thực thi
dân chủ ở nước ta thời kỳ trước đổi mới.
Những thành tựu và tồn tại trong việc xây dựng Dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay. Những thành tựu có ý nghĩa lịch sử của đổi mới trong 30 năm
qua là kết quả của việc thực hiện các chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng. Sở

dĩ có các chủ trương, đường lối đúng đắn là do có dân chủ thảo luận và Đảng biết
lắng nghe ý kiến đóng góp của hàng triệu cán bộ, đảng viên, của các nhà khoa học
và của nhân dân.
Đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Hiến pháp 1992 và
nhiều Bộ luật, Luật, Pháp lệnh đã được ban hành, tạo khuôn khổ pháp lý để nhà
nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phịng... Đã có nhiều quyết định cải cách có ý nghĩa quan trọng trên lĩnh vực xây
dựng nhà nước và pháp luật, làm cơ sở cho đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ
chức hoạt động của bộ máy nhà nước.


về cơng tác tư tưởng.
Đảng ta đã thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng các hoạt động tuyên
truyền, thuyết phục và vận động quần chúng. Trong thực tế, kết quả của công tác
tư tưởng thể hiện ở chỗ: Tiếp tục giữ vững ổn định chính trị, người dân ngày càng
được biết nhiều hơn về các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cùng
với việc dân biết, dân cũng được bàn bạc và tham gia ý kiến về nhiều việc quan
trọng. Nhờ vậy, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhận được sự
đồng tình, ủng hộ của quảng đại quần chúng nhân dân.


Dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy trên nhiều lĩnh vực.
Dân chủ về kinh tế ngày càng được mở rộng đã tác động tích cực đến việc
giải phóng sức sản xuất, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống
nhân dân. Dân chủ về chính trị có bước tiến quan trọng, thể hiện ở việc bầu các cơ
quan dân cử, ở chất lượng sinh hoạt của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, tại
các cuộc thảo luận của nhân dân tham gia ý kiến xây dựng các dự án uật, trong
hoạt động của báo chí... Nhà nước đã tạo những điều kiện thuận lợi để nhân dân
nắm bắt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nắm được các thủ tục

hành chính giải quyết các cơng việc liên quan với nhân dân, biết được quy hoạch,
kế hoạch của Nhà nước về sử dụng đất đai, về dự toán, quyết toán ngân sách,...
Đồng thời, cùng với việc dân biết, dân còn được bàn bạc nhiều việc quan
trọng, như những dự án, mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng ở địa phương, các
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch dẫn cư, điều chỉnh địa giới hành
chính, phương án đền bù giải phóng mặt bằng... Nhà nước đều hỏi ý kiến nhân dân.
Công tác tổ chức, cán bộ đã có nhiều chuyển biến tích cực:
Các cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể được sắp xếp lại, kiện toàn
theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả. Nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp
về công tác cán bộ được thể chế hóa, cụ thể hóa thành các quy chế, quy định. Đảng
đã triển khai tương đối đồng bộ các khâu đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ. Cơng tác
tổ chức, cán bộ chuyển hướng theo hướng dẫn chủ hóa.
Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, trước hết là của cơ
quan hành chính nhà nước, đã có một bước điều chỉnh theo yêu cầu của quá trình
chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý nền kinh
tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhân dân ta cảm nhận bầu khơng khí dân chủ hơn, cởi mở hơn trong
xã hội


Ở cơ sở, người dân đã chủ động bàn bạc, tham gia ý kiến, thực hiện quyền
làm chủ, bày tỏ chính kiến của mình; đồng thời, tích cực tham gia cơng tác xây
dựng Đảng, chính quyền, thể hiện tốt vai trò giám sát đối với cán bộ, đảng viên,
thẳng thắn góp ý kiến về hoạt động của các cơ quan nhà nước ở địa phương.


Hạn chế:


Ngồi những thành tựu tốt thì vẫn cịn những hạn chế như:
Bộ máy nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh; tình trạng tham
nhũng, lãng phí, quan liêu cịn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn; hiệu lực quản
lý, điều hành chưa cao; kỷ cương xã hội cịn bị bng lỏng, làm giảm sút lịng tin
của nhân dân đối với Đảng, nhà nước ta.
Quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới; chưa phát
huy đầy đủ mặt tích cực và hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị
trường. Đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ, sử dụng lãng
phí và thất thốt nghiêm trọng.
Cơng tác tư tưởng cịn thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục, tính chiến đấu
cịn hạn chế, chưa sâu sát thực tế, chưa linh hoạt. Tình trạng suy thối của một bộ
phận khơng nhỏ cán bộ đảng viên về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống một
phần là do công tác tư tưởng chưa làm tốt chức năng, nhiệm vụ giáo dục chính trị
và tư tưởng. Các thông tin chưa được cung cấp thường xuyên để dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra. Chưa thật sự mở rộng dân chủ trong tự do ngôn luận, lắng
nghe các ý kiến khác biệt. Vẫn tồn tại tình trạng nói nhiều, làm ít hoặc nói nhưng
khơng làm.
Tổ chức bộ máy nhà nước cịn nặng nề, sự phân cơng và phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp cịn
có những điểm chưa rõ về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ, phân cấp trung ương
- địa phương còn một số mặt chưa cụ thể (như về quản lý đầu tư, tài chính, tổ chức
bộ máy, kết hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ...), làm cho tình trạng tập trung
quan liệu cũng như phân tán, cục bộ chậm được khắc phục.


Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước vẫn cịn tình trạng bng lỏng và
bao biện, chống chéo nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực
điều hành của bộ máy nhà nước.
Đảng chưa làm tốt việc lãnh đạo cụ thể hoá nghị quyết của Đảng về xây
dựng nhà nước đề có chủ trương kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh trong thực

tiễn đổi mới, đặc biệt là những vấn đề nổi lên ngày càng bức xúc như tình trạng
quan liêu, lãng phí, tham nhũng, thiếu trách nhiệm trong bộ máy nhà nước; thiếu
những biện pháp tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương kiên quyết, hợp lý và đủ
mạnh để tạo chuyển biến tích cực nhằm khắc phục những khuyết điểm, yếu kém.
Chưa kịp thời tổng kết thực tiễn và còn thiếu cơ sở khoa học khi quyết định
một số chủ trương về sắp xếp điều chỉnh tổ chức bộ máy ở trung ương và địa
phương nên khi thực hiện có vướng mắc, hiệu quả và tác dụng còn hạn chế.
Các cơ quan nhà nước chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm trong việc quán
triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng; trong việc tự đổi mới, tự chỉnh
đốn, bảo đảm sự trong sạch và nâng cao hiệu quả hoạt động ở từng cơ quan, đơn
vị.
Các đoàn thể quần chúng chưa chú trọng xây dựng các nội dung cụ thể, thiết
thực và đổi mới phương thức hoạt động để tổ chức vận động nhân dân phát huy
quyền làm chủ trong việc tham gia xây dựng chính quyền, giám sát hoạt động của
cán bộ, công chức nhà nước và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, sống, làm việc
theo hiến pháp, pháp luật...
Nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn
nhiều hạn chế, nên thiếu trách nhiệm trong việc triển khai thực hiện dân chủ ở cơ
sở.


Giải pháp:

Xây dựng và phát triển các yếu tố cơ sở của dân chủ:
- Xây dựng, phát triển nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN. Đó là nền kinh tế vừa hoạt động theo quy luật thị trường vừa có sự
quản lý vĩ mơ của nhà nước. Trong nền kinh tế ấy mọi cá nhân, mọi thành phần
kinh



tế được tự do đầu tư kinh doanh, chủ động sáng tạo trong khuôn khổ
pháp luật, theo
cơ chế thị trường. Sự đa dạng về sở hữu cùng với quan hệ hàng hoá tiền tệ
quan hệ
thị trường sẽ tạo cho cá nhân nguồn sản xuất kinh doanh quyền chủ động
sáng tạo.
Nhờ vậy mọi nguồn lực, tiềm năng cá nhân và xã hội để làm giàu, để phát
triển kinh
tế xã hội. Cùng với nó là sự quản lý chặt chẽ mang tính định hướng của Nhà
nước
XHCN đối với nền kinh tế thị trường để đảm bảo sự ổn định hiệu quả của nền
kinh
tế. Kiên quyết chống và khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng, cửa quyền,
quan liêu,
duy ý chí của bộ máy nhà nước.

- Phát triển xã hội công dân với sự tôn trọng quyền con người, quyền tự do
của tất cả mọi cá nhân trong khuôn khổ pháp luật. Phát huy dân chủ xây dựng xã
hội
công dân vừa là mục tiêu vừa là động lực. Trong xây dựng CNXH. Càng mở rộng
dân chủ, mở rộng quyền công dân càng phát huy được trí tuệ của xã hội trong giải
quyết những vấn đề cuộc sống đặt ra, xây dựng xã hội công dân làm cho các tầng
lớp nhân dân được tham gia quản lý xã hội.
- Tính khách quan, hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước, quản lý xã hội
sẽ
tốt hơn. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định “cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, do quần chúng nhân dân làm nên bằng hoạt động tự giác, có tổ chức”. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói: “trong bầu trời khơng có gì q bằng nhân dân” “cái gì có
lợi cho dân thì quyết làm cho bằng được, cái gì có hại cho dân thì nên tránh cho
bằng

được. Thịnh hành dân chủ rộng rãi là chìa khố vạn năng để giải quyết những khó
khăn. Dân là chủ thì cán bộ, đảng viên, mọi công chức, nhân viên nhà nước của
Chính phủ, từ Trung ương đến cơ sở đều là đầy tớ, cơng bộc của dân. Dân có quyền
làm chủ thì dân cũng phải có nghĩa vụ của người chủ, tham gia quản lý giám sát,
các
cơ quan nhà nước và việc làm, hành vi của những người đảng đại diện cho mình, do
mình bầu ra, do mình uỷ quyền. “Dân chủ thực chất chứ khơng phải thứ dân chủ
hình thức. Dân chủ chứ không biến thành “quân” chủ. Nền dân chủ XHCN là nền
dân chủ của đa số nhân dân lao động được thực hiện thông qua nhà nước, nhà nước
của dân, do dân, vì dân. Nhân dân là chủ sở hữu nhà nước, đó là nhà nước mà nhân
dân tổ chức, xây dựng nên, nhân dân tham gia quản lý, nhân dân kiểm soát và giám
sát đảm bảo cho nhà nước thực sự của mình và với mình. Để thực sự là nhà nước


- của dân, do dân, vì dân nhà nước phải xây dựng được nội dung, cơ
chế
để
phát
huy
quyền làm chủ của nhân dân. Trong việc tham gia xây dựng bộ máy nhà
nước,
tham
gia xây dựng đường lối, chính sách nhà nước tham gia quản lý nhà nước,
tham
gia
kiểm tra giám sát nhà nước. Thực tiễn những năm vừa qua cho thấy quyền
làm
chủ
của nhân dân chưa thực sự được tơn trọng, phát huy. Chính vì vậy những hiện
tượng

tích cực chạy chức, chạy quyền, tham ơ, hối lộ. Bộ máy cồng kềnh, kém hiệu
lực.
Nhiều chế độ, chính sách chưa hợp lịng dân gây những lãng phí tiền của của
nhân
dân, kìm hãm cản trở sự phát triển của đất nước. Do đó, phát huy quyền làm
chủ
của
nhân dân trong chính trị, kinh tế, quản lý, giám sát nhà nước... đang trở nên
cấp
thiết
hơn bao giờ hết. Xây dựng xã hội cơng dân cùng với việc nâng cao dân trí
đang

vấn đề mang tính cấp bách nhằm đảm bảo xây dựng một nền dân chủ XHCN.
-

- Tăng cường pháp chế XHCN, đẩy mạnh, xây dựng hoàn thiện hệ
thống
pháp
luật và tổ chức thực hiện pháp luật. Chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường từ
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp lại vừa tranh qua những cuộc chiến tranh
khốc liệt, do vậy hệ thống pháp luật còn nhiều thiếu thốn và chưa đầy đủ. Tuy
nhiên,
trong xu hướng hội nhập, để quản lý nền kinh tế thị trường và xây dựng nước Cộng
hồ XHCN địi hỏi cấp bách là phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Đồng thời với nó là tính hiệu lực, hiệu quả trong thực thi pháp luật. Nhà nước quản
lý xã hội bằng pháp luật, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật phải trở
thành
mệnh lệnh của toàn xã hội. Thực tế cho thấy hệ thống luật của chúng ta vừa thiếu,
vừa yếu. Thực thi pháp luật cịn tuỳ tiện. Tình trạng vi phạm pháp luật xảy ra khá

nhiều việc xử lý vi phạm cũng thiếu tính nghiêm minh. Hiểu biết pháp luật của
nhân
dân cịn q nhiều hạn chế. Tính tuỳ tiện và đúng sai lẫn lộn trong pháp luật và xử
lý pháp luật đang làm cho lòng tin nhân dân giảm sút. Những vụ tiêu cực lớn gần
đây như PMU18, Lã Thị Kim Oanh, Trương Văn Cam, các vụ tiêu cực về đất đai.
Một mặt cho thấy sự quyết tâm của Đảng ta trong chống tham nhũng, mặt khác
cũng
cho thấy sự lỏng lẻo, yếu kém của hệ thống luật pháp cơ chế giám sát và năng lực
quản lý yếu kém của chúng ta. Do đó địi hỏi khách quan là phải xây dựng nhà nước
pháp quyền mạnh, xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đồng bộ và thực thi
pháp
luật một cách nghiêm minh. Rõ ràng pháp luật càng hoàn chỉnh, quản lý xã hội
bằng


pháp luật càng tốt thì quyền dân chủ của nhân dân càng được
phát
huy.
Tự
do
“tất
yếu” đó thúc đẩy năng lực tồn xã hội trong xây dựng đất nước và phát huy
sức
sáng
tạo của mỗi công dân.
-

- Phải tăng cường phát triển sự nghiệp giáo dục của văn hố chính trị
của
cơng

dân. Lênin viết “người mù chữ đứng ngồi chính trị”. Để thực hiện được quyền làm
chủ, nhân dân phải có tri thức, phải có học vấn. Tăng cường sự nghiệp giáo dục
chính là nâng cao dân trí. Trong những năm vừa qua giáo dục chúng ta vẫn đang
còn
nhiều lúng túng, “cải cách” nhưng vẫn chưa thốt khỏi vịng luẩn quẩn. Cùng với

chế thị trường, xã hội hoá giáo dục đang đặt nước ta trước những thách thức mới về
giáo dục cả về cơ chế, chính sách, cả nội dung chương trình. Những tiêu cực xã hội
đang tác động mạnh đến giáo dục ở cả hai góc độ, vừa tiêu cực ngay trong ngành
giáo dục vừa bị tiêu cực chi phối. Chất lượng giáo dục đang còn nhiều vấn đề phải
bàn. Do vậy tăng cường sự nghiệp giáo dục để đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao
dân trí đang là nỗi bức xúc. Bên cạnh đó, phải phát huy văn hố chính trị của cơng
dân. Thúc đẩy cơng dân khẳng định quyền của mình trong xã hội dân chủ. Cần phải
thủ tiêu tính mặc cảm, tư tưởng, tâm lý bàng quan vô cảm trước những tiêu cực,
trước những sai trái bất công. Thực hiện cho được cơ chế phản biện trong xã hội.
Quyền lực thực sự là của dân. Dân có quyền kiểm tra, giám sát đòi hỏi bộ máy nhà
nước phải thực hiện ý chí của nhân dân.
-

*Liên hệ bản thân
Sinh viên là đội ngũ thanh niên có trình độ học vấn cao, là lứa tuổi
nhạy
cảm,
ham tìm hiểu cái mới nên họ nắm bắt thơng tin rất nhanh nhạy. Hiện nay có rất
nhiều
nguồn cung cấp thông tin đa chiều tác động đến sinh viên nên dễ gây ra những biến
động trong tâm lý, tư tưởng của sinh viên. Là một sinh viên, em tự dặn lòng phải
tăng cường giáo dục, chăm chỉ học hỏi và tiếp thu những kiến thức bổ ích về đời
sống
xã hội, tuyên truyền những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc cho các

bạn nhỏ và những người cùng chí hướng, bắt tay cùngcộng đồng sinh viên khơi dậy
lịng nhiệt tình của tuổi trẻ, tinh thần trách nhiệm vì cộng đồng, thái độ sống tích
cực.


Những điều này cũng cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường
và xã hội
trong việc giáo dục.
III. Kết luận
Dân chủ là một giá trị xã hội, là một phạm trù lịch sử gắn với quá trình
ra
đời, phát triển của lịch sử xã hội nhân loại. Nhận thức mới của Đảng ta về dân chủ
XHCN là kết quả của quá trình đổi mới tư duy, phát triển nhận thức rất phức tạp.
Q trình đó có cơ sở lý luận, căn cứ thực tiễn và q trình đó chịu sự tác động
mạnh mẽ, sâu sắc của những nhân tố trong nước và ngoài nước. Về cơ sở lý luận,
đó là chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ XHCN và xây dựng nền dân chủ XHCN.
Về thực tiễn, đó là sự tác động của những thành tựu, hạn chế trong bước đầu tư xây
dựng và thực hiện xây dựng nền dân chủ XHCN. Tuy có những bước tiến quan
trọng, nhưng công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng, phát triển nền dân chủ
XHCN ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề gai góc cần phải tiếp tục nhận thức và
giải quyết. Đảng và nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu, đẩy mạnh việc thực hiện dân
chủ XHCN trên các lĩnh vực đời sống của đất nước; quán triệt, vận dụng sáng tạo
và thực hiện nghiêm túc, đồng bộ những quan điểm có tính ngun tắc và các
nhóm giải pháp là con đường đúng đắn để cơng tác lý luận tiếp tục làm tròn sứ
mệnh dẫn đường đối với công cuộc xây dựng XHCN và phát triển nền dân chủ
XHCN Việt Nam ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.

-

Tài liệu tham khảo:



-

-tài liệu chương 3,4,5 (tài liệu môn CNXHKH)

-

-giaoduc.net.vn

-

-tailieu.vn

-

-lyluanchinhtri .vn

-

-danvan.vn



×