Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Mô tả tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi đến khám tại phòng khám dinh dưỡng bệnh viện trẻ em hải phòng từ tháng 52020 đến tháng 52021

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.01 KB, 33 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Dinh dưỡng đóng một vai trị rất quan trọng đến sự tồn tại và phát triển của
con người trong suốt cuộc đời, đặt biệt đối với trẻ em, những cơ thể đang lớn và
phát triển. Vì vậy chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của trẻ em là một trong những
mục tiêu hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta.
Suy dinh dưỡng (SDD) trẻ em là tình trạng phổ biến của các nước nghèo và
các nước đang phát triển, là nguyên nhân làm cản trở cơ hội của hàng triệu trẻ em
được phát triển và phát huy hết tiềm năng của mình. Trong thế kỷ 21, chúng ta
cần nhìn nhận suy dinh dưỡng trẻ em trong bối cảnh có nhiều sự thay đổi đang
diễn ra nhanh chóng như đại dịch COVID - 19, sự gia tăng dân số thành thị, tồn
cầu hóa hệ thống thực phẩm, …. Trẻ bị suy dinh dưỡng sẽ có hệ thống miễn dịch
yếu và có thể đối mặt với nguy cơ tử vong do COVID-19 cao hơn. Đồng thời,
những đứa trẻ này có thể gặp khó khăn hơn trong việc tiếp cận được với việc
điều trị và chăm sóc mà chúng cần để tồn tại và phát triển. Đặc biệt trong giai
đoạn từ 0 đến 5 tuổi, trẻ em có nguy cơ bị thiếu hụt dinh dưỡng cao. SDD ở lứa
tuổi này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển thể chất và tinh thần của trẻ về
sau. Theo Báo cáo Tình hình trẻ em Thế giới năm 2019 phân tích, hiện nay vẫn
còn 144 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị thấp còi và 47 triệu trẻ em bị gầy còm.
Trong 30 năm qua (1999 – 2019), Việt Nam đã có tiến bộ lớn trong công
tác nâng cao sức khỏe cho người dân, trong đó có dinh dưỡng. Theo Báo cáo của
Viện Dinh dưỡng quốc gia, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể về
cải thiện tình trạng dinh dưỡng cho người dân như tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em đã
giảm nhanh và bền vững. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân giảm từ 30% năm
2000 xuống còn 14% năm 2015 và năm 2016 tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân ở trẻ
dưới 5 tuổi là 13,8% Về kết quả của Tổng điều tra Dinh dưỡng toàn quốc (20182020) đã được công bố tại Hội nghị tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi (chiều
cao/tuổi) ở trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn quốc 19,6% (mức <20% ) được xếp vào
mức trung bình theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới. Tuy nhiên, tình trạng



2

suy dinh dưỡng (tỷ lệ nhẹ cân, thấp còi) của người dân Việt Nam nói chung và
trẻ em nói riêng vẫn còn cao so với khu vực và trên thế giới.
Hiện nay, SDD thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi vẫn luôn là mối quan tâm hàng
đầu của Thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Tỷ lệ SDD thấp cịi có ý
nghĩa quan trọng bậc nhất trong đánh giá tình trạng sức khỏe và dinh dưỡng, vì
nó phản ánh rõ rệt chất lượng sinh học của một cộng đồng hay một quốc gia. Trẻ
em thấp còi sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ, thấp bé khi trưởng thành,
giảm khả năng làm việc và những bà mẹ thấp bé có nguy cơ sinh con có cân
nặng sơ sinh thấp. Cuối cùng tạo nên một vòng xoắn luẩn quẩn gây suy mòn
giống nòi, đe dọa nguồn nhân lực tương lai và tổn hại nền kinh tế nước nhà. Điều
đó cho thấy ta cần có những can thiệp kịp thời để cải thiện tình trạng này.
Hải Phịng là một thành phố cảng lớn của miền Bắc, là cửa ngõ giao
thương với các nước trong khu vực cũng như các tỉnh trong cả nước. Trong năm
2020 vừa qua, mặc dù chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, Hải Phịng vẫn
có sự khởi sắc về kinh tế, đời sống nhân dân vẫn được cải thiện, tình trạng sức
khỏe người dân được nâng lên trong đó có cả đối tượng là trẻ em. Bệnh viện Trẻ
em Hải Phòng là Bệnh viện chuyên khoa Nhi tuyến thành phố. Do tình hình
dịch bệnh, việc bệnh nhi đến khám tại Bệnh viện nói chung và Phịng khám
Dinh dưỡng của Bệnh viện nói riêng có giảm hơn so với các năm trước tuy
nhiên phòng khám vẫn luôn sát sao trong việc khám, đánh giá và tư vấn dinh
dưỡng. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi đến khám tại phòng khám
trong thời điểm này ra sao và những yếu tố nào liên quan đến thực trạng này, tôi
thực hiện đề tài nghiên cứu với hai mục tiêu sau :
1. Mơ tả tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi đến khám tại

Phòng khám Dinh dưỡng Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng từ tháng 5/2020 đến
tháng 5/2021
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến suy dinh dưỡng thấp còi ở những


đối tượng nghiên cứu trên


3

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Dinh dưỡng và sức khỏe bệnh tật
Tất cả mọi người ai cũng thấy được tầm quan trọng của vấn đề ăn uống.
Nhu cầu ăn uống là một trong các nhu cầu quan trọng nhất của mọi cơ thể sống,
kể cả con người. Đây là một nhu cầu hàng ngày, một nhu cầu cấp bách, không
thể thiếu được. Cơ thể con người cần sử dụng thức ăn để duy trì sự sống, để tăng
trưởng và thực hiện các chức phận bình thường của các cơ quan, các mô trong cơ
thể, cũng như để tạo năng lượng cho lao động và hoạt động khác của con người.
Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Dinh dưỡng khơng hợp lý, khơng đảm
bảo vệ sinh thì cơ thể con người phát triển kém, không khỏe mạnh và dễ mắc
phải bệnh tật.
Tình trạng dinh dưỡng là tập hợp các đặc điểm chức phận, cấu trúc và hoá
sinh phản ánh mức đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể. Tình trạng dinh
dưỡng của các cá thể là kết quả của ăn uống và sử dụng các chất dinh dưỡng của
cơ thể. Tình trạng dinh dưỡng tốt phản ảnh sự cân bằng giữa thức ăn ăn vào và
tình trạng sức khoẻ, khi cơ thể thiếu hoặc thừa dinh dưỡng là thể hiện có vấn đề
về sức khoẻ hoặc vấn đề về dinh dưỡng. Mà sự phát triển của trẻ em chính là
thước đo được sử dụng rộng rãi nhất để đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ
em.
Con người ta từ khi còn là bào thai trong bụng mẹ, được sinh ra, lớn lên
trưởng thành cho đến tuổi già đều có thể bị ảnh hưởng hoặc mắc bệnh bởi chế
độ dinh dưỡng không hợp lý. Người phụ nữ khi mang thai mà thiếu dinh dưỡng,
tăng cân ít sẽ có nguy cơ sinh ra đứa trẻ có cân nặng sơ sinh thấp, những đứa trẻ
này sẽ có nguy cơ tử vong cao hơn, khi trưởng thành cũng có nguy cơ cao mắc

các bệnh mạn tính, phát triển trí tuệ kém,…Đứa trẻ sinh ra nếu được nuôi dưỡng
kém sẽ chậm tăng trưởng, nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng cao, khi lớn lên có
nguy cơ thấp cịi, giảm năng lực trí tuệ,… Người già thiếu hoặc thừa dinh dưỡng
cũng sẽ có nguy cơ cao mắc các bệnh về dinh dưỡng và các bệnh mạn tính.


4

Hình 1.1. Dinh dưỡng theo chu kỳ vịng
đời 1.2. Khái niệm về suy dinh dưỡng
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc định
nghĩa: “SDD là hậu quả để lại do thiếu hụt lượng dinh dưỡng cần được cung cấp
vào hoặc do yếu tố bệnh tật tác động đến q trình tiêu hóa của cơ thể.”
Theo Payne, SDD là tình trạng các chức năng sinh lý của đứa trẻ bị suy
giảm, đứa trẻ không duy trì được tốc độ phát triển, giảm khả năng chống đỡ và
vượt qua bệnh tật, giảm hoạt động thể lực và quá trình tăng cân.
Tùy theo sự thiếu hụt các chất dinh dưỡng mà SDD biểu hiện các thể, các
hình thái khác nhau: SDD protein – năng lượng, Thiếu vi chất dinh dưỡng
(vitamin A, thiếu máu dinh dưỡng, thiếu sắt, iod, kẽm,… ) bao gồm nhiều tình
trạng bệnh lý khác nhau. Tuy nhiên, SDD protein – năng lượng là thường gặp
nhất.
SDD protein – năng lượng (Protein – Energy Malnutrition: PEM ) là loại
thiếu dinh dưỡng quan trọng, khó có bệnh nào có thể so sánh được về ý nghĩa
cộng đồng, đặc biệt là với trẻ em, với biểu hiện là tình trạng chậm lớn và hay
đi kèm với nhiễm khuẩn.


5

Mặc dù gọi là SDD protein – năng lượng nhưng đây khơng chỉ là tình trạng

thiếu hụt protein và năng lượng mà thường thiếu kết hợp nhiều chất dinh dưỡng
khác, nhất là các vi chất dinh dưỡng.
1.3. Phân loại suy dinh dưỡng
1.3.1 Cách xác định tình trạng dinh dưỡng qua chỉ số nhân trắc
Hiện nay, người ta có thể áp dụng rất nhiều phương pháp đánh giá tình
trạng dinh dưỡng như xét nghiệm sinh hóa, đo nhân trắc, đánh giá chức năng cơ
thể. Trong đó, việc đánh giá tình trạng dinh dưỡng bằng phương pháp đo nhân
trắc rất đơn giản, an tồn, có thể điều tả trên mẫu lớn và áp dụng dễ dàng trong
điều kiện thực địa. Theo khuyến nghị của TCYTTG năm 1995, các chỉ tiêu nhân
trắc thường dùng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng là: cân nặng theo tuổi
(CN/T), cân nặng theo chiều cao (CN/C), chiều cao theo tuổi (CC/T).
Năm 1966 Jelliffe viết: “Nhân trắc liên quan với các số đo, nó đơn giản
và là cơng cụ quan trọng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng”.
Sự lựa chọn các số đo nhân trắc tùy thuộc vào mục đích của nghiên cứu,
cỡ mẫu, tuổi… mặc dù có nhiều số đo nhân trắc khác nhau như: vòng đầu, vòng
cánh tay, lớp mỡ dưới da … nhưng theo đề nghị của Ủy ban, các số đo dinh
dưỡng của Tổ chức Dinh dưỡng và thực phẩm thuộc Hội đồng Nghiên cứu quốc
gia Mỹ thì để đánh giá tình trạng dinh dưỡng nên dùng các số đo cân nặng và
chiều cao.
CN/T là phản ánh tình trạng dinh dưỡng nói chung. Chỉ số này phản ánh
tốc độ phát triển của một đứa trẻ. Đây là một chỉ số nhậy, dễ thu thập và xử lý,
thường được áp dụng trong các nghiên cứu được triển khai tại cộng đồng.
CC/T phản ánh tiền sử dinh dưỡng. Chỉ số này thấp phản ánh tình trạng
thiếu dinh dưỡng kéo dài hoặc tình trạng này từ quá khứ, làm cho đứa trẻ bị
thấp còi. Tuy nhiên, chỉ số này khơng nhạy vì sự phát triển chiều cao của trẻ là
từ từ mà các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của chiều cao xảy ra trước khi
chiều cao bị ảnh hưởng. Như vậy khi thấy trẻ bị cịi thì đã muộn, trước đó trẻ đã
bị thiếu hay nhiễm trùng từ lâu.



6

CN/CC là chỉ tiêu đánh giá tình trạng dinh dưỡng trẻ em hiện tại. Chỉ tiêu
này thấp là tình trạng SDD cấp (gày cịm). Chỉ tiêu cân nặng thấp chính là sự
thiếu hụt khối mỡ hay là phản ánh sự không tăng cân hay giảm cân, nếu so sánh
với trẻ có cùng chiều cao, nó cũng phản ánh mức độ thiếu ăn và nhiễm khuẩn là
2 nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này. Chỉ tiêu CN/CC thấp thường xuất
hiện nhiều ở trẻ em từ 12 – 23 tháng, là giai đoạn trẻ hay bị bệnh và thiếu ăn do
thiếu chăm sóc. Chỉ số này khơng cần biết tuổi của trẻ và cũng khơng phụ thuộc
yếu tố dân tộc vì trẻ dưới 5 tuổi có thể phát triển như nhau trên thế giới .
1.3.2. Phân loại tình trạng suy dinh dưỡng
1.3.2.1. Cách phân loại dựa vào phần trăm so với trung vị
Để tính tốn theo cách này người ta coi giá trị trung vị là 100% rồi tính
giá trị đo được trên đứa trẻ đạt bao nhiêu phần trăm so với trung vị.
Phân loại theo Gomez 1956: Gomez đã đưa ra thang phân loại SDD dựa
trên chỉ tiêu CN/T và quần thể tham khảo Harvard để chia SDD làm 3 loại:
Bảng 1.1. Phân loại suy dinh dưỡng theo Gomez

% cân

Cách phân loại này không phân biệt giữa Marasmus và Kwashiorkor cũng
như giữa suy dinh dưỡng cấp hay mạn vì cách phân loại này là nếu trẻ suy dinh
dưỡng bị phù thì sử dụng chỉ số CN/T sẽ khó đưa ra được quyết định chính
xác. 1.3.2.2. Phân loai suy dinh dưỡng theo Wellcome (1970)
Cách phân loại này cũng sử dụng chỉ số CN/T so với trung vị của quần thể
Harvard, nhưng chú ý thêm trẻ có bị phù hay khơng để hỗ trợ thêm trong sự
phân biệt giữa Marasmus và Kwashiorkor.


Bảng 1.2. Phân loại suy dinh dưỡng theo Wellcome



7

% cân

< 60%Marasmus - Kwashiorkor Marasmus

1.3.2.3. Phân loại theo Waterlow ( 1972)
Cách phân loại này sử dụng cả CN/T và CN/T so với trung vị quần thể tham
chiếu Harvard.
Bảng 1.3. Phân loại suy dinh dưỡng theo Waterlow
Cân nặng theo chiều cao

Chiều cao/tuổi

Tuy các phân loại có khác nhau nhưng thang phân loại của các tác giả kể
trên đều dựa vào tỷ lệ phần trăm đạt được so với giá trị trung bình của quần thể
tham chiếu để phân loại SDD, nên thang phân loại này thiếu chặt chẽ về cơ sở
thống kê.
1.3.2.4. Cách phân loại dựa vào độ lệch chuẩn với quần thể tham chiếu
Từ năm 1981: Tổ chức Y tế Thế giới đề nghị thống nhất lấy quần thể tham
chiếu là NCHS của Hoa Kỳ (National Centre for Health Statistics) và đưa ra thang
phân loại dựa vào độ lệch chuẩn (Standard Deviation) với ngưỡng – 2SD đến + 2SD
để phân loại SDD cho cả 3 chỉ tiêu CN/T, CC/T, CN/CC. Nếu độ lệch chuẩn - 2SD <- 3SD là SDD vừa. Từ - 3SD - (- 4SD) là SDD nặng và <- 4SD là SDD rất nặng.
Điều này không có nghĩa đây là một quần thể chuẩn mà chỉ là một cơng cụ đối chiếu
để lượng giá tình hình và so sánh trên phạm vi quốc tế .


Thang phân loại theo các chỉ số sau:



8

- Cân nặng/tuổi:
≥ -2SD

: bình thường

< -2SD đến -3SD : SDD thể nhẹ cân độ 1
< -3SD đến -4SD : SDD thể nhẹ cân độ 2

< -4SD

: SDD thể nhẹ cân độ 3

- Chiều cao theo tuổi:
≥ -2SD

: bình thường

< -2SD đến -3SD : SDD thể thấp còi độ 1
< -3SD

: SDD thể thấp còi độ 2

- Cân nặng theo chiều cao:
< -2SD

: SDD thể gày còm


Trong các phần mềm tính tỷ lệ SDD hiện nay, người ta sử dụng Z-Score
được tính theo cơng thức sau:
Kích thước (KT) đo được – KT trung bình của quần thể tham chiếu

Z- score =

Bình phương của độ lệch chuẩn của quần thể tham chiếu
1.4. Tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ em trên Thế giới và Việt Nam
hiện nay
1.4.1. Trên thế giới
Sự phân tích dựa trên các dữ liệu khẳng định rằng SDD vẫn là một vấn đề y
tế quan trọng của nhiều nước và tiếp tục cản trở sự phát triển thể chất và tinh thần
của trẻ. Thêm vào đó, nó cũng ảnh hưởng lớn đến sự sống còn của trẻ. Các yếu tố
liên quan đến dinh dưỡng góp phần vào khoảng 45% trường hợp tử vong ở trẻ
em dưới 5 tuổi. Trẻ em suy dinh dưỡng, đặc biệt là những người bị suy dinh
dưỡng cấp tính nghiêm trọng, có nguy cơ tử vong cao hơn do các bệnh thông
thường ở trẻ em như tiêu chảy, viêm phổi và sốt rét. Các báo cáo của UNICEF và
WHO đều cho thấy, số trẻ em dưới 5 tuổi bị SDD đặc biệt là SDD thấp còi còn
rất cao trên thế giới. Theo Báo cáo Sức khỏe tồn cầu năm 2015, vẫn cịn


9

gần

1

4 trẻ em dưới 5 tuổi bị thấp còi (23% hoặc 156 triệu trẻ em) với tỷ lệ hiện


mắc cao nhất ở khu vực Châu Phi (38%), tiếp theo là khu vực Đơng Nam Á
(33%). SDD gày cịm ảnh hưởng đến 50 triệu trẻ em dưới 5 tuổi (khoảng 7%)
trên tồn cầu vào năm 2015 trong đó tỷ lệ trẻ bị gầy còm cao nhất được quan sát
thấy ở Khu vực Đông Nam Á của WHO (13,5%, hay 24 triệu trẻ em).
Tuy vậy, dưới những nỗ lực của toàn thế giới,tỷ lệ SDD trong những năm
qua có xu hướng giảm dần ở tất cả các khu vực. Trên toàn cầu, tỷ lệ trẻ em dưới 5
tuổi bị suy dinh dưỡng thể thấp còi giảm gần 1/3 từ năm 2000 đến năm 2019.

Năm 2019, có khoảng 144 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị thấp còi, chiếm khoảng 1/5
trẻ (21,3%), giảm hơn so với tỷ lệ ¼ trẻ năm 2015 (23 %). Hơn 47,0 triệu trẻ em
dưới 5 tuổi trên toàn cầu (6,9%) bị gày còm vào năm 2019. Mặc dù tình trạng
suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn thế giới đã được cải thiện khá nhiều
trong những năm qua, tuy nhiên tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ vẫn còn khá cao,
đặc biệt ở những nước đang phát triển.Tỷ lệ này vẫn cao nhất ở khu vực Châu
Phi và khu vực Đông Nam Á, nơi mà cứ ba trẻ thì có một trẻ bị thấp cịi (> 30%).

Hình 1.2. Tỷ lệ trẻ em trên thế giới dưới 5 tuổi phát triển không tốt năm 2018 (
Nguồn: SOWC 2019)


10

Hình 1.2 trên mơ tả sự phân bố tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi phát triển khơng tốt
(thấp cịi, gày còm hoặc thừa cân) ở các khu vực trên thế giới. Có thể thấy tỷ lệ
này cao ở khu vực Nam Á và châu Phi ( 32,4% - 49,9%), trong khi đó hầu hết
các nước thuộc khu vực châu Mỹ và Thái Bình Dương có tỷ lệ thấp hoặc ở mức
trung bình (<20%).
1.4.2. Tại Việt Nam
Việt Nam phải trải qua thời kỳ vơ cùng khó khăn do hậu quả của nhiều năm
chiến tranh, tỷ lệ SDD ở trẻ em đầu những năm 80 của thế kỷ trước rất cao (trên

50% trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng) và hiện nay tình trạng SDD ở trẻ em vẫn
cịn ở ngưỡng có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là SDD thể thấp còi. Tại
Việt Nam, tỷ lệ SDD ở trẻ dưới 5 tuổi được đánh giá là đã giảm nhanh và bền
vững trong những năm qua, kiến thức thực hành dinh dưỡng của người dân ngày
càng được nâng lên, tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng ngày càng được cải
thiện.
Theo Báo cáo của Viện Dinh dưỡng quốc gia, Việt Nam đã đạt được
những thành tựu đáng kể về cải thiện tình trạng dinh dưỡng cho người dân như tỷ
lệ SDD trẻ em đã giảm nhanh và bền vững. Tỷ lệ SDD thể nhẹ cân giảm từ 30%
năm 2000 xuống còn 14% năm 2015 và năm 2016 tỷ lệ SDD nhẹ cân ở trẻ dưới 5
tuổi là 13,8%, SDD thấp còi là 24,3%, đến năm 2018, tỷ lệ SDD nhẹ cân giảm
xuống 12,8%, SDD thấp cịi có tỷ lệ là 23,2%. Tuy nhiên, vẫn còn sự chênh lệch
giữa các vùng miền về tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi; ở các vùng nơng thơn và
miền núi tỷ lệ này cịn ở mức cao.
Bảng 1.4. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng theo các vùng,các tỉnh
(năm 2018)
Tỉnh, thành phố
Tồn quốc
Đồng bằng sơng Hồng


11

Trung du và miền núi phía Bắc
Bắc Bộ và DH miền Trung
Tây Nguyên
Đồng bằng sông Cửu Long
Kom Tum
Gia Lai
Lai Châu

Hà Giang

Hình 1.3. Tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi của
Việt Nam (Nguồn: Số liệu thống kê VDD, 2018)
Báo cáo mới đây của Hội nghị công bố kết quả Tổng điều tra dinh dưỡng
toàn quốc 2017 – 2020, tỷ lệ SDD thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn quốc là
19,6% - mức <20% - được xếp vào mức Trung bình theo phân loại của WHO.
Như vậy, đến nay Việt Nam đang trên đà đạt được Mục tiêu Dinh dưỡng tồn cầu
(giảm 40% SDD thấp cịi trẻ em đến năm 2025).
1.5. Nguyên nhân và một số yếu tố ảnh hướng tới tình trạng SDD thấp cịi
Năm 1998, UNICEF đã phát triển mơ hình ngun nhân SDD. Một số tổ


12

chức khác cũng đã có những mơ hình ngun nhân - hậu quả SDD riêng, hoặc
phát triển mơ hình mới dựa trên mơ hình của UNICEF. Nhưng hiện nay, mơ hình
sau của UNICEF là mơ hình được sử dụng rộng rãi nhất, đã đưa ra 3 mức độ
nguyên nhân gây SDD: trực tiếp, tiềm tàng và cơ bản.
Mơ hình này cho thấy nguyên nhân của SDD là đa ngành, có mối liên quan
chặt chẽ với vấn đề thực phẩm, y tế và thực hành chăm sóc tại hộ gia đình.Mơ
hình này cũng chỉ ra các nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân cơ bản, nguyên
nhân sâu xa và các yếu tố ở cấp độ này ảnh hưởng đến cấp độ khác.
SDD trẻ em, tàn tật và tử vong

Thức ăn

Bệnh tật

Không tiếp

cận được với
thực phẩm

Nguyên nhân
trực tiếp

Nguyên nhân
tiềm tàng

Thiếu kiến
hoặc thái độ phân
biệt đối xử làm
hạn chế tiếp cận

Số lượng và chất lượng
của các nguồn lực hiện
tại: con người, kinh tế
và cơ quan quản lý

với nguồn lực tại
gia đình và cộng đồng

Nguyên
nhân cơ bản
Vấn đề văn
tôn giáo, kinh tế
và hệ thống xã hội làm
hạn chế sử dụng các
nguồn lực tiềm năng


Nguồn lực tiềm năng:
môi trường, công nghệ và
con người


13

Sơ đồ 1.1. Mơ hình ngun nhân suy dinh dưỡng của UNICEF (1997)
1.5.1. Nguyên nhân trực tiếp
Trẻ dưới 5 tuổi cần có nhu cầu dinh dưỡng cao để phát triển cơ thể. Để đáp
ứng nhu cầu phát triển của trẻ, cần cho trẻ ăn uống đầy đủ theo lứa tuổi. Vì vậy,
một trong hai nguyên nhân trực tiếp phải kể đến ở đây là thiếu ăn về số lượng
hoặc chất lượng.
Sữa mẹ và thức ăn bổ sung đóng vai trị quan trọng đối với thời gian bị
SDD và thể loại SDD. Khi cho ăn bổ sung muộn, như một số nước châu Phi, các
trường hợp SDD nặng xảy ra vào năm tuổi thứ hai, thứ ba hoặc thứ tư và thường
là thể Kwashiorkor. Marasmus lại hay xảy ra vào trước 6 tháng tuổi, đối với
những trẻ không được bú sữa mẹ hoặc cho ăn bổ sung quá sớm. Ở các vùng
thành phố, Marasmus lại có liên quan đến bú chai, nhất là khi số lượng sữa
không đủ, đôi khi do cả các nguyên nhân sử dụng núm vú cao su, các đầu mút
không hợp vệ sinh. Cho trẻ ăn thức ăn đặc quá muộn và số lượng không đủ, năng
lượng và protein trong khẩu phần thấp cũng dẫn tới thể SDD này.
Bệnh tật kèm theo và chế độ ăn uống khơng hợp lý là 2 ngun nhân có xu
hướng tạo vòng xoắn bệnh lý, bệnh tật thường làm cho trẻ chậm lớn. Các bệnh
nhiễm khuẩn bệnh cấp và mãn tính làm rối loạn chuyển hóa, giảm hấp thu, mất
các chất dinh dưỡng, thiếu vi chất và giảm ngon miệng do đó trẻ thường giảm
cân hoặc tăng cân chậm, giảm miễm dịch làm tổn thương niêm mạc dẫn đến trẻ
dễ mắc bệnh nhiễm khuẩn.



14

Ăn vào không đủ
- Giảm ngon miệng
- Mất các chất dinh dưỡng
- Giảm hấp thu
- Rối loạn chuyển hóa

- Giảm cân
- Tăng trưởng chậm
- Giảm miễn dịch
- Tổn thương niêm mạc

Bệnh tật:
- Tăng tỷ lệ mắc mới
- Mức độ mắc bệnh trầm trọng hơn
- Thời gian mắc kéo dài hơn
Sơ đồ 1.2. Vòng xoắn bệnh lý : Bệnh tật – SDD – Nhiễm trùng
1.5.2. Nguyên nhân tiềm tàng
Thiếu an ninh thực phẩm hộ gia đình, chăm sóc bà mẹ và trẻ em chưa tốt,
thiếu dịch vụ y tế và vệ sinh mơi trường góp phần làm tăng mức độ thiếu ăn và
bệnh tật, đồng thời các nguyên nhân này cũng góp phần làm giảm sự sử dụng,
điều chỉnh, khai thác các nguồn lực khác nhau.
Muốn trẻ có tình trạng dinh dưỡng tốt phải có thực phẩm ăn vào đầy đủ và
cân đối theo nhu cầu của trẻ. Vấn đề sản xuất ra lương thực, thực phẩm sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới việc tiêu thụ lương thực, thực phẩm. Ở đâu có tỷ lệ trẻ SDD
cao có nghĩa ở đấy sản xuất lương thực cịn thiếu, vì khẩu phần của trẻ phụ
thuộc hồn tồn vào khẩu phần gia đình. Sự thiếu hụt khẩu phần cũng có thể gây
ra mẹ có quá ít thời gian dành cho chế biến các thức ăn hoặc cho trẻ ăn.
Nhiễm trùng, dịch vụ y tế kém, thiếu nước sạch và vệ sinh kém, trẻ

không được chăm sóc đầy đủ, những nguyên nhân này được xếp làm 3 nhóm:
- Thiếu an ninh thực phẩm hộ gia đình.
- Chăm sóc bà mẹ và trẻ em khơng hợp lý.


15

- Thiếu dịch vụ y tế.
Tỷ lệ SDD của trẻ ở miền núi, nông thôn, bao giờ cũng cao hơn ở đồng
bằng và thành thị. Khi gia đình có điều kiện kinh tế tốt, mức thu nhập cao thì
việc chăm sóc và ni dưỡng trẻ được đầy đủ, đảm bảo nước sạch và vệ sinh
hơn, chính vì vậy cũng cải thiện được rất nhiều trong việc phòng chống SDD ở
trẻ nhỏ. Ngược lại, những gia đình có thu nhập thấp thì khơng có điều kiện chăm
sóc trẻ cũng như cung cấp thực phẩm cần thiết cho sự phát triển của trẻ.
1.5.3. Nguyên nhân cơ bản
Nguyên nhân cơ bản bao gồm những vấn đề liên quan đến cơ cấu kinh tế,
các yếu tố chính trị - xã hội và văn hóa. Đó là sự phân phối khơng cơng bằng các
nguồn lực, thiếu những chính sách xã hội phối hợp, tập quán ăn uống sai lầm.
Những nguyên nhân gốc rễ của SDD ở các nước đang phát triển có liên quan đến
đói nghèo, nó liên quan đến SDD chung, tình trạng lao động của người phụ nữ và
kể cả cơ chế chính sách không được quan tâm. Bất cứ một chiến lược dinh
dưỡng nào cũng cần phải xem xét đến vấn đề an ninh thực phẩm hộ gia đình
nhằm cải thiện dinh dưỡng của trẻ. Dinh dưỡng kém sẽ dẫn đến sức khỏe ốm yếu
từ đó đến tình trạng SDD tồi tệ hơn và điều đáng buồn trẻ em lại là đối tượng
chính của SDD
1.5.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới SDD thấp cịi
1.5.4.1. Ni con bằng sữa mẹ
Ni con bằng sữa mẹ cung cấp sự khởi đầu tốt nhất cho cuộc đời của mỗi
trẻ. UNICEF coi nuôi con bằng sữa mẹ là biện pháp hàng đầu bảo vệ sức khỏe trẻ
em [34]. TCYTTG và UNICEF khuyến nghị cho trẻ bú sớm trong vòng 1/2 đến 1

giờ đầu sau đẻ và cho bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu và tiếp tục cho bú đến 2
năm hoặc lâu hơn nữa. Trong 6 tháng đầu trẻ cần được ni hồn tồn bằng sữa
mẹ mà không cần thêm thức ăn nào khác. Sữa mẹ là thức ăn hoàn chỉnh nhất, rẻ
nhất, dễ hấp thu, thích hợp nhất đối với trẻ. Nó cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng
cho trẻ từ 4 - 6 tháng tuổi. Ngồi ra, trong sữa mẹ cịn có các chất bảo vệ cơ thể


16

trẻ chống lại các bệnh nhiễm khuẫn, đặc biệt là tiêu chảy cấp và viêm phổi, hai
bệnh phổ biến nhất gây SDD và tử vong. Nhiều nghiên cứu chỉ rõ tỷ lệ SDD và
mắc các bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp, tiêu chảy cấp cao hơn một cách có ý
nghĩa ở nhóm trẻ mẹ bị thiếu sữa.
Tuy nhiên khơng nên cho trẻ bú mẹ hoàn toàn kéo dài trên 24 tháng tuổi.
Nghiên cứu của Grummer – Strawn và cộng sự năm 1993 chứng minh trẻ bú mẹ
hoàn toàn trên 24 tháng có mối tương quan tỷ lệ nghịch với tình trạng dinh
dưỡng do Sau thời gian này sữa mẹ đã giảm chất lượng rất nhiều và nhu cầu dinh
dưỡng để trẻ cần để phát triển rất lớn mà sữa mẹ khơng đủ cung cấp cho trẻ.
Điều này có nghĩa là trẻ bú mẹ càng dài khi trên 24 tháng tuổi thì nguy cơ bị
SDD thấp cịi càng cao.
1.5.4.2. Điều kiện nuôi dưỡng trẻ, nuôi con bằng thức ăn bổ sung Trẻ
em là một cơ thể đang lớn, sự tăng cân của trẻ là một biểu hiện của sự

phát triển bình thường. Nuôi dưỡng trẻ kém là một trong những nguyên nhân
quan trọng nhất dẫn đến SDD và hậu quả là sự kém phát triển cả về thể lực và trí
tuệ của trẻ. Trong năm đầu cơ thể phát triển nhanh, địi hỏi nhu cầu dinh dưỡng
tăng. Trong khi đó trẻ em ở độ tuổi này chưa thể tự chăm sóc được bản thân và tỷ
lệ mắc bệnh cịn cao. Vì vậy, thiếu ăn, nhu cầu dinh dưỡng không được thỏa mãn
sẽ dẫn đến tình trạng dinh dưỡng kém.
Ăn sam là q trình ni trẻ, tập cho trẻ thích ứng với sự chuyển đổi chế độ

ăn hoàn toàn dựa vào sữa mẹ sang một chế độ ăn sử dụng đều đặn các sản phẩm
sẵn có trong bữa ăn gia đình. Trong khẩu phần ăn cần có thêm nhiều năng lượng,
nhiều chất béo và vitamin. Trẻ cũng cần nhiều chất đạm, chất khoáng là những
nguyên vật liệu giúp trẻ phát triển, đặc biệt là chiều cao. Cho trẻ ăn bổ sung quá
sớm, trẻ không hấp thu được thức ăn, dễ bị rối loạn tiêu hóa. Ngược ăn bổ sung
quá muộn, trẻ thường hay bị thiếu chất vi chất dinh dưỡng và năng lượng.
Những nghiên cứu ở cộng đồng cho thấy số trẻ SDD có 71% là con thứ
nhất, 60% các bà mẹ không biết cách cho ăn bổ sung mà không biết thế nào là tô
màu bát bột cho trẻ. Ăn bổ sung là cần thiết cho trẻ em song hiện nay thức ăn bổ


17

sung thường không đạt yêu cầu về số lượng, chất lượng và an toàn vệ sinh thực
phẩm. Cách cho con ăn khơng thích hợp, khơng đúng ngun tắc, khơng tập cho
trẻ ăn từ ít đến nhiều, từ lỏng tới đặc và tăng đậm độ năng lượng trong bữa ăn
của trẻ. Nhiều bà mẹ chỉ cho trẻ ăn bột muối, thức ăn bổ sung thiếu dầu mỡ,
thiếu thức ăn động vật, rau xanh, hoa quả. Hơn nữa ở lứa tuổi này bữa ăn của trẻ
cịn phụ thuộc vào người chăm sóc vì trẻ chưa tự ăn được và chưa biết địi ăn nên
dễ bị SDD. Vì vậy, thời điểm cho trẻ ăn bổ sung và ăn như thế nào phụ thuộc
hoàn tồn vào người chăm sóc trẻ. Qua đó có thể thấy kiến thức của bà mẹ về
dinh dưỡng và sức khỏe cho trẻ đóng vai trị vơ cùng quan trọng.
1.5.4.3. Các bệnh nhiễm khuẩn
Bệnh nhiễm khuẩn được biết đến như là một nguyên nhân tất yếu gây SDD,
đó là các bệnh như viêm đường hô hấp, tiêu chảy, các bệnh giun sán và ký sinh
trùng đường ruột, bệnh sốt rét,…. Trong đó, viêm đường hơ hấp và tiêu chảy là

ngun nhân chính gây SDD thấp cịi và tử vong ở trẻ em Việt Nam.
Tình trạng nhiễm khuẩn làm chậm lớn thơng qua tình trạng dinh dưỡng.
Thường ban đầu, tình trạng nhiễm khuẩn gây tụt cân hoặc lên cân chậm, trẻ bị

mất các vi chất, thiếu hụt miễn dịch dẫn đến trẻ mắc bệnh nhiễm khuẩn, cuối
cùng tạo thành một vòng xoắn luẩn quẩn đẩy trẻ ra xa khỏi đà quy luật phát triển
thể chất. Nhiều nghiên cứu thuần tập trong và ngoài nước đã tiến hành cho thấy
trẻ mắc bệnh nhiễm khuẩn như lỵ trực khuẩn, tiêu chảy, nhiễm khuẩn hô hấp đều
là nguyên nhân trực tiếp gây SDD thấp còi. Tác giả Walker và CS đã chứng minh
rằng trẻ bị SDD thấp cịi có nguy cơ bị nhiễm khuẩn hô hấp dưới và tiêu chảy
cao gấp 1,8-2,5 lần so với trẻ không bị SDD.
1.5.4.4. Yếu tố thuận lợi
Cân nặng lúc sinh thấp: thường gặp ở trẻ đẻ non hoặc SDD bào thai. Cân
nặng lúc sinh dưới 2500g là chỉ tiêu có ý nghĩa đánh giá sức khỏe và phát triển
thể chất, do đó nó là chỉ tiêu quan trọng đánh giá sự chăm sóc cho trẻ. Các tác giả
Adair (1997) và Ricci cùng CS (1996) đã chỉ ra trẻ bị SDD trong 2 năm đầu là do


18

cân nặng sơ sinh thấp. Nghiên cứu của Lương Tuấn Dũng cùng CS đánh giá trẻ
dưới 5 tuổi ở huyện Chiêm Hóa, Tuyên Quang 2012 cho thấy những trẻ đẻ ra có
cân nặng dưới 2500gr có tỷ lệ SDD thấp còi gấp 2,3 lần.
Sức ép của dân số cũng ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng trẻ em trong
một vùng sinh thái, với cùng một thu nhập. Gia đình đơng con dẫn đến hậu quả
kinh tế kém, điều kiện chăm sóc trẻ em cũng kém, càng làm tăng tỷ lệ SDD ở trẻ
em. Theo kết luận của NCS Nga (Viện Dinh dưỡng Quốc gia) cho thấy hộ gia
đình có 3 con trở lên thì trẻ có nguy cơ bị SDD cao gấp 1,5 lần so với gia đình có
1-2 con.
Người mẹ trước và trong khi mang thai ăn uống không đầy đủ dẫn đến thiếu
dinh dưỡng và có thể đẻ ra đứa con nhẹ cân, còi cọc. Đứa trẻ bị SDD từ bào thai
sẽ bị SDD sau này. Người mẹ bị SDD, ăn uống kém trong những tháng đầu sau
đẻ dễ bị thiếu sữa hoặc mất sữa do đó đứa con dễ bị SDD.
Sức khỏe dinh dưỡng của trẻ em phụ thuộc và sức khỏe và thể lực của bà

mẹ, vào sự ni dưỡng và chăm sóc trẻ hàng ngày. Nghề nghiệp, trình độ học
vấn thấp, thiếu kiến thức ni dạy con, thời gian người mẹ dành chăm sóc con
khơng đầy đủ, đặc biệt là các bà mẹ trẻ, bà mẹ đến từ vùng cao, nông thôn, xa
thành phố đều ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ.
Những nơi có dịch vụ y tế chất lượng cao thì việc khám xét và điều trị hợp
lý cũng như dự phòng tốt (Tiêm chủng đầy đủ, phòng chống nhiễm khuẩn…) đã
giúp cho trẻ tránh bị mắc các bệnh nặng nề mà ảnh hưởng đến sự phát triển thể
chất sau này của trẻ.
1.6. Cơ chế bệnh sinh gây SDD
Chế độ ăn không cung cấp đầy đủ protein – năng lượng, các vi chất dinh
dưỡng cần thiết và cũng có khi bệnh nhiễm trùng thường xuyên làm cho cơ thể
tiếp nhận, hấp thu tiêu hóa kém, tăng q trình chuyển hóa, mất vi chất qua nước
tiểu, dẫn tới SDD. Biểu hiện sớm của SDD là trẻ chậm lớn, khơng tăng cân, có
cân nặng và chiều cao thấp, đứa trẻ gầy mòn, nặng hơn nữa là dẫn tới các thể
Marasmus (teo đét) và thể Kwashiorkor (thể phù).


19

Khi trẻ bị thiếu dinh dưỡng, tế bào biểu mô của hệ thống tiêu hóa, hơ hấp,
tiết niệu, da giảm khả năng ngăn cản các vi khuẩn, ký sinh trùng, virus xâm
nhập vào cơ thể. Đồng thời với tình trạng thiếu dinh dưỡng , các vi khuẩn và các
ký sinh trùng, virus cũng sẽ dễ dàng nhân lên trong cơ thể đưa đến tình trạng
nhiễm trùng của trẻ.
Khi đứa trẻ bị thiếu dinh dưỡng, nguyên liệu để tạo lên các yếu tố miễn
dịch và các tế bào bạch cầu cũng như hệ thống miễn dịch tế bào cũng bị ảnh
hưởng do đó cơ thể dễ rơi vào tình trạng nhiễm trùng, dễ bị mắc bệnh
Khi đứa trẻ bị SDD mặc bệnh nhiễm trùng thường bị nặng hơn, thời gian
để khỏi bệnh và phục hồi lâu hơn, nguy cơ dẫn đến tử vong cao hơn. Đồng thời,
các bệnh nhiễm khuẩn cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến tình trạng dinh

dưỡng do giảm ngon miệng, trẻ ăn uống khó hơn. Khi đứa trẻ ốm, không được ăn
uống đầy đủ để tang cân trở lại, sẽ bị SDD và bị ốm thường xuyên càng làm cho
trẻ ăn không ngon miệng dẫn tới đứa trẻ ốm lâu và có thể làm tình trạng SDD
nặng hơn.
1.7. Hậu quả của SDD
Báo cáo Tình hình Trẻ em Thế giới năm 2019: “Trẻ em, thực phẩm và dinh
dưỡng” chỉ ra rằng trên thế giới cứ ba trẻ dưới năm tuổi thì có một trẻ thiếu dinh
dưỡng hoặc thừa cân – tương đương với khoảng hơn 200 triệu trẻ em. Cứ ba trẻ
từ sáu tháng đến hai tuổi thì có hai trẻ khơng được cho ăn những thực phẩm giúp
trẻ phát triển tốt thể chất và trí não, khiến trẻ có nguy cơ chậm phát triển nhận
thức, khả năng học tập kém, miễn dịch thấp, dễ nhiễm bệnh, thậm chí trong nhiều
trường hợp, có thể dẫn đến tử vong.
Theo TCYTTG, ước tính có khoảng 5,4 triệu trẻ em dưới 5 tuổi tử vong
trong năm 2017, trong đó 45% các trường hợp có liên quan tới thiếu dinh
dưỡng, chủ yếu là SDD thể vừa và nhẹ.


20

Hậu quả của tình trạng SDD trẻ em là sự hạn chế về chiều cao, suy giảm về
thể lực dẫn đến sức học kém, ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống sau này và tiếp
tục sinh ra những thế hệ thấp bé.
Theo một số tác giả, ở những trẻ sơ sinh dưới 2500gr và SDD khi 1 tuổi khả
năng mắc bệnh tim mạch, đái tháo đường cao hơn so với trẻ bình thường. Ở
nhiều nước đang phát triển, tỷ lệ trẻ em bị nhẹ cân và thấp còi thường cao những
khi thu nhập tang, điều kiện sống được cải thiện, chúng dễ dàng trở thành thừa
cân và béo phì, đây là một dạng kém thích nghi về dinh dưỡng ở thời kỳ chuyển
tiếp.
SDD thường thiếu nhiều chất dinh dưỡng cùng một lúc trong đó có các chất
cần thiết cho phát triển trí tuệ như Iod, sắt. Trẻ SDD thường lờ đờ, chậm chạp, ít

năng động nên ít tiếp thu qua được giao tiếp với cộng đồng và người chăm sóc.

Những trẻ thấp bé sẽ trở thành những người trưởng thành có tầm vóc
bé nhỏ, năng lực, khả năng lao động kém. Hơn nữa, những người mẹ thấp nhỏ
có nguy cơ đẻ khó cao, đẻ con nhẹ cân, những đứa bé này lại trở thành thấp bé
về sau này, tạo thành vòng luẩn quẩn.


21

CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng
Các cặp Mẹ/người chăm sóc trẻ và trẻ đến khám tại Phòng khám Dinh
dưỡng Bệnh viện Trẻ em Hải Phòng thỏa mãn những tiêu chuẩn sau đây đều
được lựa chọn:
- Tiêu chuẩn lựa chọn:
+ Trẻ trong độ tuổi dưới 60 tháng (được xác định chính xác ngày tháng năm

sinh bởi gia đình và tính đến ngày trẻ đi khám)
+ Mẹ hoặc người trực tiếp chăm sóc trẻ đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn loại trừ:
+ Trẻ bị các di chứng nặng nề về thần kinh, dị tật hoặc mắc các bệnh bẩm

sinh khác về tim mạch, tiêu hóa, nội tiết,…
+ Mẹ hoặc người trực tiếp chăm sóc trẻ mắc bệnh tâm thần, rối loạn trí nhớ
+ Mẹ hoặc người trực tiếp chăm sóc trẻ khơng đồng ý tham gia nghiên cứu

2.1.2. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại Phòng khám Dinh dưỡng Bệnh viện Trẻ em

Hải Phòng
2.1.3. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 5/2020 đến tháng 5/2021
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu


22

Nghiên cứu mô tả, cắt ngang
2.2.2. Cỡ mẫu
Cỡ mẫu được tính theo cơng thức sau:
n Z2
(1

Trong đó: n : Cỡ mẫu ( số trẻ dưới 5 tuổi cần điều trị)
p : Tỷ lệ SDD thấp còi của nghiên cứu trước là 19%
d : Sai số cho phép là 5%
Z(1

/ 2)

1,96%

( với độ tin cậy là 95%)

2 : Hiệu ứng mẫu
Cỡ mẫu tính được là 236. Thêm 5% bỏ cuộc, cỡ mẫu sẽ là 250 trẻ dưới 5
tuổi
2.2.3. Quá trình chọn mẫu

- Chọn mẫu ngẫu nhiên :
+ Nghiên cứu thực hiện các buổi trong tuần
+ Trẻ đáp ứng tiêu chuẩn
+ Chọn ngẫu nhiên, trẻ dưới 5 tuổi đến khám tại phòng khám trong thời gian

nghiên cứu thì được mời tham gia nghiên cứu cho đến khi đủ số lượng trẻ cần
nghiên cứu
- Mời trẻ được nghiên cứu và mẹ/người chăm sóc trực tiếp trẻ khám bệnh và

phỏng vấn các yếu tố liên quan
2.2.4. Các chỉ số và biến số nghiên cứu
Bảng 2.1. Các

Mục
tiêu
Mục
tiêu 1
Tỷ lệ

: Tuổi của trẻ
Cân nặng trẻ
Chiều cao trẻ


23

SDD

Tỷ lệ SDD


Tỷ lệ

nhẹ cân

SDD
CN/T ;
CC/T ;
CN/CC

Tỷ lệ SDD
thấp còi
Tỷ lệ SDD
gày còm
Tỷ lệ SDD
nhẹ cân, thấp
còi, gày còm
theo giới

Tỷ lệ SDD
nhẹ cân, thấp
cịi, gày cịm
theo nhóm
tuổi

Tỷ lệ SDD
nhẹ cân, thấp
còi, gày còm
theo địa dư



×