Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.78 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
NỘI DUNG....................................................................................................... 2
PHẦN I : MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐÊN PHẠM TRÙ LÝ
LUẬN, THỰC TIỄN VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN...............................................................................................................2
I. Phạm trù lý luận và phạm trù thực tiễn....................................................2
1. Phạm trù thực tiễn và lý luận trong triết học Mac-Lenin........................2
1.1 Phạm trù thực tiễn:
........................................................................................................................
2
1.2 Phạm trù lý luận
........................................................................................................................
5
II. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn....................................6
1. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn................................................................ 6
2. Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn.....................6
3. Lý luận và thực tiễn là thống nhất...........................................................7
4. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác- Lênin........................................................................................7
5. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn góp phần thúc đẩy sự phát triển
của trình độ nhận thức:................................................................................8
III. Một số căn bệnh cần nên tránh trong nhận thức..........................................9
1. Căn bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ trì trệ.................................9
2. Căn bệnh phiến diện.................................................................................12
3. Căn bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa............................... 14
PHẦN II: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY...................................................................................................17
KẾT LUẬN..................................................................................................... 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................21




MỞ ĐẦU
Khi bàn về sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, Hồ Chí Minh có chỉ
rõ:
“ Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác – Lê nin. Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn
mù qng, lý luận mà khơng có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông ”
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ
bản, là linh hồn của triết học Mác - Lênin. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học,
C.Mác đã phát hiện ra sức mạnh của lý luận chính là mối liên hệ của nó với
thực tiễn, cũng như sức mạnh của thực tiễn là ở mối quan hệ của nó với lý
luận. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là sự thống nhất biện chứng và
cơ sở của sự tác động qua lại ấy chính là thực tiễn. Thực tiễn ln ln vận
động, biến đổi, do đó lý luận cũng không ngừng đổi mới, phát triển; sự thống
nhất biện chứng giữa chúng - vì thế - cũng có những nội dung cụ thể và những
biểu hiện khác nhau trong mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử. Đất nước Việt
Nam bước vào thế kỷ XXI với những thành tựu to lớn đạt được trong hơn 20
năm đổi mới. Có được những kết qủa đó là do Đảng cộng sản Việt Nam đã
vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta. Do đó em chọn đề tài: “Vận dụng
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam hiện nay”
NỘI DUNG
PHẦN I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHẠM TRÙ LÝ LUẬN, THỰC
TIỄN VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

I. Phạm trù lý luận và phạm trù thực tiễn
1. Phạm trù thực tiễn và lý luận trong triết học Mac-Lenin
1.1 Phạm trù thực tiễn:



Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của
triết học Mác - Lênin nói chung và của lý luận nhận thức mácxít nói riêng.
Trong lịch sử triết học không phải mọi trào lưu đều đã đưa ra quan niệm một
cách đúng đắn về phạm trù này. Chẳng hạn chủ nghĩa duy tâm chỉ hiểu thực
tiễn như là hoạt động tinh thần sang tạo ra thế giới của con người, chứ khơng
xem nó là hoạt động vật chất, là hoạt động lịch sử xã hội. Ngược lại, chủ
nghĩa duy vật trước Mác, mặc dù đã hiểu thực tiễn là một hành động vật chất
của con người nhưng lại xem đó là hoạt động con bn, đê tiện, bẩn thỉu. Nó
khơng có vai trị gì đối với nhận thức của con người.
Khắc phục những yếu tố sai lầm, kế thừa và phát triển sáng tạo những
yếu tố hợp lý trong những quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước
đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra một quan niệm đúng đắn, khoa học về
thực tiễn và vai trị của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và
phát triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận
nhận thức, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin đã tạo nên một bước
chuyển biến cách mạng trong triết học nói chung và trong lý luận nhận thức
nói riêng.
Thực tiễn là tồn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử –
xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con người.
Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong
phú, song có ba hình thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động
chính trị xã hội và hoạt động thực tiễn có mục đích .
Thực tiễn là tồn bộ hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động
cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử
dụng các phương tiện, cơng cụ, sức mạnh vật chất của mình để tác động vào
tự nhiên, xã hội nhằm cải tại, biến đổi chúng phù hợp với nhu cầu của mình.
Đây là một quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể. Trong đó, chủ thể
hướng vào việc cải tạo khách thể. Cho nên thực tiễn trở thành khâu trung gian

nối liền ý thức con người với thế giới bên ngoài.


Hoạt động thực tiễn có mục đích là một hình thức đặc biệt của thực tiễn.
Đây là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra
gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm
xác định các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu.. Động
vật chỉ hoạt động theo bản năng để phù hợp với thế giới bên ngồi một cách
thụ động cịn con người chủ động thích nghi với thế giới bên ngồi bằng cách
cải tạo thể giới thoả mãn theo nhu cầu và mục đích của mình.Khi hoạt động
thực tiễn, để đạt hiệu quả cao, con người tạo ra những vật phẩm khơng có sẵn
trong tự nhiên, đó chính là những cơng cụ, và sử dụng chúng.
Dạng hoạt động thực tiễn này ngày càng có vai trị quan trọng trong sự
phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ cách mạng khoa học và cơng
nghệ hiện đại
Thực tiễn có tính chất lịch sử xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng
đồng người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội
để thúc đẩy xã hội phát triển.
Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan
trọng khác nhau, không thể thay thế được cho nhau song giữa chúng có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó,
hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất, đóng vai trò quyết định
đối với các hoạt động khác. Bởi vì, nó là hoạt động ngun thuỷ nhất và tồn
tại một cách khách quan, thường xuyên nhất trong đời sống của con người và
nó tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu có tính quyết định đối với sự sinh
tồn và phát triển của con người. Khơng có hoạt động sản xuất vật chất thì
khơng thể có các hình thức hoạt động khác. Các hình thức hoạt động khác suy
cho cùng cũng xuất phát từ hoạt động sản xuất vật chất và phục vụ cho hoạt
động sản xuất của con người.
Nói như thế khơng có nghĩa là các hình thức hoạt động chính trị xã hội

và thực nghiệm khoa học là hoàn toàn thụ động, lệ thuộc một chiều vào hoạt
động sản xuất vật chất. Ngược lại, chúng có tác động kìm hãm hoặc thúc đẩy


hoạt động sản xuất phát triển. Chẳng hạn, nếu hoạt động chính trị xã hội mang
tính chất tiến bộ, cách mạng và nếu hoạt động thực nghiệm khoa học mà đúng
đắn sẽ tạo đà cho hoạt động sản xuất phát triển. Cịn nếu hoạt động chính trị xã
hội mà lạc hậu, phản cách mạng và nếu hoạt động thực nghiệm mà sai lầm,
khơng khoa học sẽ kìm hãm sự phát triển của hoạt động sản xuất vật chất.

Chính sự tác động qua lại lẫn nhau của các hình thức hoạt động cơ bản
đó làm cho thực tiễn vận động, phát triển khơng ngừng và ngày càng có vai
trị quan trọng đối với nhận thức.
1.2 Phạm trù lý luận
Lý luận là kinh nghiệm đã được khái quát trong ý thức của con người, là
tồn bộ tri thức về thế giơí khách quan , là hệ thống tương đối độc lập của các
tri thức có tác dụng táI hiện trong logic của các khái niệm cái logic khách
quan của các sự vật. Nói cách khác lý luận là hệ thống những tri thức được
khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những quy luật
của các sự vật hiện tượng.
Khác với các quan điểm duy tâm, tôn giáo Triết học Mác-Lênin khẳng
định lý luận là kết quả của quá trình nhận thức. Quá trình nhận thức đi từ
nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính, từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng.
Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động ) là giai đoạn đầu, trình độ thấp
của q trình nhận thức, nó phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động hiện thực
khách quan vào các giác quan của con người bao gồm 3 hình thức cơ bản:
cảm giác, tri giác và biểu tượng. Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng) là giai
đoạn cao, trình độ cao của q trình nhận thức, nó được hình thành từ những
tài liệu do nhận thức cảm tính đem lại, bao gồm 3 hình thức cơ bản là khái

niệm, phán đoán và suy luận. Như vậy lý luận là kết quả của quá trình phát
triển cao của nhận thức, là trình độ cao của nhận thức.


Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của xã
hội nên bất kỳ một lý luận nào cũng mang tính mục đích và ứng dụngvà nó
mang tính hệ thống cao, tổ chức có khoa học.
II. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn được thể hiện bằng mối quan hệ
giữa nhận thức và thực tiễn. Giữa lý luận và thực tiễn thống nhất biện chứng
với nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ chỗ: chúng đều là hoạt động của con
người, đều nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội để thoả mãn nhu
cầu của con người. Lý luận được hình thành khơng phải ở bên ngồi thực tiễn
mà trong mối liên hệ chặt chẽ với thực tiễn. Hai hoạt động này thống nhất
không tách rời nhau, gắn bó xâm nhập, làm cơ sở, tiền đề cho nhau phát triển.
Giữa thực tiễn và lý luận có mối liên hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại
lẫn nhau, và trong đó thực tiễn giữ vai trị quyết định.
1. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn
Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của thực
tiễn. Thực tiễn là hoạt động cơ bản nhất của con người, quyết định sự tồn tại
và phát triển xã hội. Lý luận khơng có mục đích tự nó mà mục đích cuối cùng
là phục vụ thực tiễn. Sức sống của lý luận chính là ln ln gắn liền với thực
tiễn phục vụ cho yêu cầu của thực tiến.
2. Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn
Lý luận Mác - Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp vô
sản. Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào nó
được hướng dẫn bởi lý luận nào, có khoa học hay không? Sự phát triển của lý
luận là do yêu cầu của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn không tách rời
lý luận, không thể thiếu sự hướng dẫn của lý luận.
Vai trò của lý luận khoa học là ở chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri

thức đúng đắn về các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan,
từ đó mới có cơ sở để định ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn cho hoạt
động thực tiễn.


Quan hệ lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ đó có thể
là thống nhất hoặc mâu thuẫn đối lập.
3. Lý luận và thực tiễn là thống nhất
Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần
tiến bộ và còn giữ sứ mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì
chúng sẽ tăng cường lẫn nhau và phát huy vai trị của nhau. Sự thống nhất đó
là một trong những nguyên lý căn bản của triết học Mác- Lênin.
4.

Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản

của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Lý luận là kim chỉ nam cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực
tiễn. Lý luận xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu đi sát thực
tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực
tiễn bởi vì chỉ có thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý để kiểm nghiệm lại lý
luận đúng hay sai. Nếu lý luận xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh
chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu. Tuy nhiên tự bản thân lý luận
luôn luôn phải đổi mới để theo kịp sự phát triển của thực tiễn để khỏi phải lạc
hậu, lỗi thời và phải làm vai trò hướng dẫn chỉ đạo và thúc đẩy hoạt động thực
tiễn bởi vì chỉ có một lý luận khoa học, cách mạng thì hoạt động thực tiễn
mới đạt hiệu quả cao được. Lý luận có vai trị rất lớn đối với thực tiễn, tác
động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động
của con người.
Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc, động lực của lý luận. Bởi vì nó là nền

tảng, là điểm xuất phát, là nơi diễn ra hoạt động lý luận. Mặt khác hoạt động
thực tiễn thúc đẩy cho hoạt động lý luận con người và thơng qua nó con người
phát triển bản chất, năng lực trí tuệ của mình. Thực tiễn cịn là mục đích của
nhận thức, của lý luận bởi vì hoạt động lý luận khơng phải chỉ để lý luận mà
là cải tạo tự nhiên, xã hội nhằm phục vụ cho nhu cầu con người. Thực tiễn
phải được chỉ đạo, hướng dẫn bởi lý luận, khoa học, cách mạng. Nếu thực tiễn
khơng có lý luận dẫn đường thì thực tiễn sẽ trở nên mù quáng. Còn nếu thực


tiễn được chỉ đạo bởi lý luận sai lầm và phản cách mạng thì hậu quả sẽ khó
lường.
5.

Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn góp phần thúc đẩy sự phát

triển của trình độ nhận thức:
Trình độ nhận thức ngày càng nâng cao thông qua sự phát triển và bổ
sung của tri thức kinh nghiệm và trình độ lý luận. Tri thức kinh nghiệm và
trình độ lý luận là 2 yếu tố quan trọng đối với sự phát triển của trình độ nhận
thức của con người. Trong đó tri thức kinh nghiệm đại diện cho thực tiễn cịn
trình độ lý luận đại diện cho lý luận. Tri thức kinh nghiệm được thu thập từ
quan sát và thí nghiệm. Bao gồm tri thức kinh nghiệm thông thường thu được
từ quan sát hằng ngày trong cuộc sống và lao động sản xuất và tri thức kinh
nghiệm khoa học thu nhận được từ những thí nghiệm khoa học. Khơng nên
coi thường kinh nghiệm, song cũng không nên cường điệu, không nên dừng
lại ở kinh nghiệm mà cần nâng cao lên trình độ lý luận.
Trình độ lý luận là tri thức khái quát từ tri thức kinh nghiệm. Lý luận
không tự phát mà có được trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm và từ những lý luận
cơ sở. Tri thức lý luận mang tính trừu tượng và khái quát. Nhận thức sâu sắc
về bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng. Lý luận tác động lại thực tiễn và

thành định hướng cho các hành động thực tiễn nhưng có hạn chế như do gián
tiếp và trừu tương nên có khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo tưởng,
giáo điều.Coi trọng lý luận, khơng nên cường độ hóa lý luận và coi thường
thực tiễn, tách lý luận khỏi thực tiễn.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được thể hiện qua con đường
biện chứng của sự nhận thức Nhận thức của con người diễn ra trên cơ sở thực
tiễn và không ngừng vận động, phát triển. Sự vận động và phát triển của nhận
thức diễn ra một cách biện chứng.Từ trực quan sinh động đến tư duy trìu
tượng và từ tư duy trìu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của
sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan. Trực quan sinh


động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, được
hình thành trong quá trình thực tiễn.
Giai đoạn này được hình thành thơng qua các hình thức cơ bản nối tiếp
nhau: cảm giác, tri giác, biểu tượng...Tư duy trì tượng (hay nhận thức lý tính)
là giai đoạn cao của quá trình nhận thức dựa trên cơ sở những tài liệu do giai
đoạn trực quan sinh động mang lại.
Nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư duy trìu tượng chưa
phải là chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn. Nhận thức
phải trở về với thực tiễn vì:
+

Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó phải

trở về chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.
+

Đến giai đoạn tư duy trìu tượng vẫn có khả năng phản ánh sai lạc hiện


thực. Vì vậy, nhận thức phải quay trở về thực tiễn để kiểm tra kết quả nhận
thức, phân biệt đâu là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai lầm.
+

Thực tiễn ln ln vận động, phát triển. Vì vậy nhận thức phải trở về

với thực tiễn để trên cơ sở thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận
thức.
Từ trực quan sinh động dến tư duy trìu tượng, và từ tư duy trìu tượng
đến thực tiễn là một vịng khâu của q trình nhận thức. Nó cứ lặp đi lặp lại
làm cho nhận thức của con người phát triển không ngừng, ngày càng phản
ánh sâu sắc bản chất, quy luật của thế giới khách quan.
III. Một số căn bệnh cần nên tránh trong nhận thức
1. Căn bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ trì trệ
Bệnh chủ quan duy ý chí là căn bệnh có khuynh hướng tuyệt đối hóa vai
trị của nhân tố chủ quan, cường điệu tính sáng tạo của ý thức, của ý chí, xa
rời hiện thực khách quan, bất chấp quy luật khách quan, lấy nhiệt tình cách
mạng thay thế cho sự yếu kém về tri thức khoa học. Đây là lối suy nghĩ và
hành động đơn giản, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan; thể hiện rõ
trong khi định ra những chủ trương, chính sách và lựa chọn phương pháp tổ


chức họat động thực tiễn theo hướng áp đặt, rơi vào ảo tưởng, chủ quan. Ví
dụ như : mục tiêu đặt ra q cao, biện pháp khơng có tính khả thi .v.v. Ngịai
ra bệnh chủ quan duy ý chí cịn do nguồn gốc lịch sử, xã hội, giai cấp, tâm lý
của người sản xuất nhỏ chi phối. Cơ chế quan liêu bao cấp cũng tạo điều kiện
cho sự ra đời của căn bệnh này.
Bệnh bảo thủ, trì trệ là tuyệt đối một nhận thức nào đó về sự vật có được
trong hòan cảnh lịch sử phát triển nhất định của nó và xem đó là nhận thức
duy nhất đúng về tịan bộ sự vật trong q trình phát triển tiếp theo của nó.

Hay nói cách khác, bệnh bảo thủ, trì trệ là khuynh hướng cường điệu vai trò
quyết định của vật chất, sùng bái sức mạnh của quy luật, hạ thấp vai trò của
nhân tố chủ quan – khuynh hướng đó sẽ dẫn đến bảo thủ, trì trệ, ngại gian
khổ, bó tay khuất phục trước khó khăn, trước hịan cảnh khách quan. Biểu
hiện của “bệnh” này là tình trạng ỷ lại, dựa dẫm, chờ đợi, ngại đổi mới, thậm
chí cản trở cái mới, bằng lòng thỏa mãn với cái đã có – là bạn đồng hành với
chủ nghĩa quan liêu, độc đóan và hậu quả tất yếu là làm cản trở, thậm chí cịn
kéo lùi sự phát triển.
Hai căn bệnh này xuất phát từ khuynh hướng sai lầm, cực đoan trong
việc nhận thức mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Chúng ta đã biết theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, giữa vật chất và ý
thức có mối quan hệ biện chứng, thể hiện qua vai trò quyết định của vật chất
đối với ý thức và tính độc lập tương đối, sự tác động trở lại của ý thức đối với
vật chất. Vật chất là cơ sở, cội nguồn sản sinh ra ý thức. Vật chất là cái có
trước, nó sinh ra ý thức, quyết định nội dung và xu hướng phát triển của ý
thức. Khơng có vật chất thì khơng thể có ý thức bởi vì nguồn gốc của ý thức
chính là vật. Tuy nhiên, mặc dù do vật chất sinh ra và quy định nhưng ý thức
lại có tính độc lập tương đối. Sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự
phản ánh sáng tạo chủ động chứ khơng thụ động máy móc ngun si, vì vậy
nó có tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Tuy vậy, sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với mức độ


nhất định, nó khơng thể sinh ra hay tiêu diệt các quy luật vận động của vật
chất.
Từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chúng ta rút ra được
nguyên tắc khách quan. Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và
hành động phải xuất phát từ chính bản thân sự vật với những thuộc tính,
những mối liên hệ vốn có của nó, những quy luật khách quan, phải có thái độ
tơn trọng sự thật, khơng được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách,

khơng được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược, sách lược cách
mạng. Việc thực hiện nguyên tắc khách quan khơng có nghĩa là quan điểm
khách quan xem nhẹ, tính năng động, sáng tạo của ý thức mà nó cịn địi hỏi
phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan. Bởi
vì q trình đạt tới tính khách quan địi hỏi chủ thể phải phát huy tính năng
động, sáng tạo trong việc tìm ra những biện pháp, những con đường để từng
bước thâm nhập sâu vào bản chất của sự vật, trên cơ sở đó thực hiện việc biến
đổi từ cái “vật tự nó” thành cái phục vụ cho nhu cầu lợi ích của con người
Vì vậy trong thực tế nhận thức và hoạt động của con người, việc tuyệt
đối hóa một trong hai mặt của vật chất và ý thức đã dẫn tới bệnh chủ quan
duy ý chí và bệnh bảo thủ trì trệ.
Trước thời kỳ đổi mới Đảng ta đã mắc bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh
bảo thủ trì trệ trong việc xác định mục tiêu và hướng đi về xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế. Đảng ta đã nóng vội muốn
xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, chỉ còn lại hai thành phần là : kinh
tế quốc doanh và tập thể; hay có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công
nghiệp nặng mà không chú ý đến phát triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp
trong khi nước ta là một nước nông nghiệp, tất cả những điều kiện vật chất
khách quan đều thuận lợi để phát triển nơng nghiệp; Đồng thời đã duy trì quá
lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, cơ chế xin – cho, có
nhiều chủ trương sai lầm trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương; công
tác tư tưởng và tổ chức cán bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiệm trọng. Từ đó


đã kìm hãm sự phát triển kinh tế – xã hội, làm cho nhân dân bị nghèo nàn, đất
nước lạc hậu, hạn chế việc phát huy các nguồn lực, chậm khai thác tiềm năng
xây dựng đất nước.
Để khắc phục hai căn bệnh nêu trên, cần thực hiện những biện pháp là :
-


Phải tiến hành đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để trên tất cả các lĩnh

vực của đời sống xã hội, đổi mới từ quan niệm, tư duy lý luận đến đổi mới cơ
chế chính sách, tổ chức cán bộ, phong cách và lề lối làm việc. Thực hiện đổi
mới với những hình thức, bước đi, cách làm phù hợp, trong đó lấy đổi mới
kinh tế làm trọng tâm mà trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, nâng cao năng
lực nhận thức và vận dụng quy luật, trình độ chun mơn nghiệp vụ của Đảng
viên.
-

Tăng cường phát huy dân chủ, phát huy tiềm năng cán bộ KHKT, đội

ngũ cán bộ quản lý.
-

Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, tổng kết cái mới, không ngừng

bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh lý luận.
- Phải đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện
mới.
2. Căn bệnh phiến diện
Bệnh phiến diện là “bệnh” khi xem xét sự vật hiện tượng chỉ nhìn thấy
những sự vật cá biệt mà khơng nhìn thấy mối quan hệ qua lại giữa những sự
vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại mà khơng nhìn thấy sự phát sinh và tiêu vong
của sự vật ấy, nhìn trạng thái tĩnh mà quên mất sự vận động của sự vật. “nhìn
thấy cây mà khơng thấy rừng”. Có khi cũng chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối
liên hệ nhưng dàn trải đều, đánh giá ngang nhau ở vị trí, vai trị của các mối
liên hệ, khơng biết so sánh, phân tích để làm nối bật cái cơ bản nhất, cái quan
trọng nhất đang chi phối sự tồn tại, vận động, chuyển hóa và phát triển của
SVHT.



Căn bệnh này xuất phát từ việc không nhận thức và vận dụng đúng
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong hai nguyên lý cơ bản của
phép biện chứng duy vật, trong đó mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để
chỉ sự liên quan tác động, ràng buộc, quy định và chuyển hóa lẫn nhau giữa
các mặt, các yếu tố trong một sự vật, hiện tượng (SVHT) hoặc giữa các
SVHT với nhau. Mọi SVHT trong thế giới khách quan đều tồn tại trong
những mối liên hệ tác động lẫn nhau, sự vật này thay đổi kéo theo sự vật kia
thay đổi và khơng có một SVHT nào tồn tại một cách cơ lập, tách rời, do đó
mối liên hệ giữa các SVHT mang tính phổ biến. Mối liên hệ này cịn mang
tính khách quan do đây là cái vốn có từ bên trong SVHT chứ không phải do
áp đặt từ bên ngồi, nó bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của thế giới vật
chất của thế giới, từ sự tồn tại và phát triển của chính SVHT. Các SVHT trong
thế giới vật chất rất đa dạng nên mối liên hệ giữa chúng cũng đa dạng.
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, chúng ta rút ra ý nghĩa phương pháp
luận là trong nhận thức và hoạt động thực tiễn địi hỏi chủ thể phải có quan điểm
tồn diện và quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm toàn diện đòi hỏi khi xem xét,
đánh giá sự vật hiện tượng, ta phải đặt chúng vào mối quan hệ với các SVHT
khác, xem xét các SVHT trong mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố
các thuộc tính khác nhau của chính bản thân SVHT và giữa SVHT đó với những
SVHT khác (kể cả trực tiếp, gián tiếp). Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi khi xem
xét mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra hoặc khi đánh giá một SVHT, để nhìn thấy
được bản chất của sự vật hiện tượng chúng ta gắn nó với khơng gian và thời gian
cụ thể, với những điều kiện, những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự tồn tại của sự
vật, khơng được đánh giá chung.

Vì vậy việc khơng nhận thức và vận dụng đúng nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến, về quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể, tách rời các mặt

khi xem xét một vấn đề, hoặc xem xét không gắn với những hoàn cảnh lịch sử
cụ thể dẫn tới căn bệnh phiến diện.


Trước thời kỳ đổi mới ( Đại hội 6 ), Đảng ta đã mắc phải “bệnh” phiến
diện, một chiều trong việc xây dựng phương thức sản xuất XHCN : chỉ tập
trung xây dựng QHSX mà khơng thấy được vai trị của LLSX (tức là chưa
vận dụng đúng quy luật QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ của
LLSX), chỉ thấy một mặt của PTSX là QHSX, dẫn đến xây dựng một QHSX
tiên tiến vượt xa với tính chất và trình độ của LLSX đưa đến khơng phát triển
được nền kinh tế đất nước. Hoặc là khi xây dựng QHSX chỉ chú ý đến quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không chú ý đến mối quan hệ giữa nó với
việc tổ chức quản lý sản xuất và phân phối sản phảm dẫn đến quốc hữu hóa
TLSXC, phát triển kinh tế quốc doanh và tập thể (2 thành phần kinh tế chủ
yếu lúc bấy giờ với 2 hình thức sở hữu là : là sở hữu nhà nước và sở hữu tập
thể) đưa đến nền sản xuất bị đình trệ, nền kinh tế chậm phát triển.
Để khắc phục bệnh phiến diện một chiều, chúng ta cần phải có quan
điểm tồn diện, quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét nghiên cứu SNHT, phải
biết kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách có dàn đều” và “chính sách có trọng
điểm” trong phát triển kinh tế. Đổi mới phải thực hiện toàn diện, đồng bộ triệt
để với những bước đi, hình thức, cách làm phù hợp. Trong mỗi bước đi của
cơng cuộc đổi mới đó phải xác định đúng khâu then chốt để tập trung sức giải
quyết, làm cơ sở đổi mới các khâu khác, các lực lượng khác, như lấy đổi mới
kinh tế làm trọng tâm thúc đẩy mạnh mẽ các lĩnh vực khác.
3. Căn bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa.
Bệnh giáo điều là căn bệnh mà khuynh hướng tuyệt đối hóa lý luận, coi
thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận
chỉ dừng lại ở những ngun lý chung trừu tượng, khơng chú ý đến những
hồn chỉnh lịch sử cụ thể của sự vận dụng lý luận. Bệnh giáo điều thuộc lòng
lý luận, cho rằng áp dụng lý luận áp dụng vào đâu cũng được không xem xét

điều kiện cụ thể của mình. Ví dụ như theo Mác thì phải xóa bỏ tư hữu dẫn đến
việc ta tiến hành cải tạo XHCN xóa tất cả các thành phần kinh tế nhằm mục
đích chỉ cịn 2 thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể mà không thấy được


rằng "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ", sự
có mặt của nhiều thành phần kinh tế với các mối quan hệ tác động qua lại của
nó sẽ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế trong giai đoạn này.
Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa là căn bệnh áp dụng nguyên si rập khn
mơ hình của nước khác, của địa phương khác vào nước mình, địa phương
mình mà khơng sáng tạo lại. Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa có khuynh hướng
tuyệt đối hóa vai trò của tri thức kinh nghiệm, coi thường lý luận, đề cao thực
tiễn, hạ thấp lý luận, ngại học tập lý luận.
Một trong những nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh
giáo điều xuất phát từ khuynh hướng nhận thức sai lệch về mối quan hệ giữa
lý luận và thực tiển.
Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại
với nhau. Trong mối quan hệ đó, thực tiễn có vai trị quyết định, vì thực tiễn
là hoạt động vật chất, cịn lý luận là sản phẩm của hoạt động tinh thần. Vai trò
quyết định của thực tiễn đối với lý luận thể hiện ở chổ : chính thực tiễn là cơ
sở, là động lực, là mục đích, là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức và lý luận; nó
cung cấp chất liệu phong phú sinh động để hình thành lý luận và thông qua
hoạt động thực tiễn, lý luận mới được vật chất hóa, hiện thực hóa, mới có sức
mạnh cải tạo hiện thực. Lý luận mặc dù được hình thành từ thực tiễn nhưng
nó có vai trị tác động trở lại đối với thực tiễn. Sự tác động của lý luận thể
hiện qua vai trò xác định mục tiêu, khuynh hướng cho hoạt động thực tiễn (lý
luận là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn), vai trò điều chỉnh hoạt động
thực tiễn, làm cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn.
Từ mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, ta rút ra được quan
điểm thực tiễn. Quan điểm thực tiễn đòi hỏi khi xem xét sự vật hiện tượng phải

gắn với thực tiễn, phải theo sát sự phát triển của thực tiễn để điều chỉnh nhận
thức cho sự phù hợp với sự phát triển của thực tiễn, hiệu quả của thực tiễn để
kiểm tra những kết luận của nhận thức, kiểm tra những luận điểm của lý luận.
Quan điểm thực tiễn cũng đòi hỏi những khái niệm của chúng ta về sự


vật phải được hình thành, bổ sung và phát triển bằng con đường thực tiễn,
trên cơ sở thực tiễn chứ không phải bằng con đường suy diễn thuần túy,
không phải bằng con đường tự biện. Do thực tiễn luôn vận động và phát triển
nên phải thường xuyên tổng kết quá trình vận dụng lý luận vào thực tiễn, xem
nó thừa thiếu nhằm bổ sung phát triển nó cho phù hợp.
Vì vậy việc vi phạm sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn dẫn tới căn
bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều.
Trước thời kỳ đổi mới ( Đại hội 6 ), căn “bệnh” giáo điều biểu hiện ở
nước ta là qua việc xóa bỏ chế độ tư hữu, tiến hành cải tạo XHCN; xóa tất cả
các thành phần kinh tế, chỉ còn kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Điều
này do áp dụng lý luận vào đâu cũng được mà không xem xét điều kiện thực
tiễn, điều kiện cơ sở vật chất khách quan của đất nước.
Còn đối với căn bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa biểu hiện ở việc bắt chước
một cách rập khuôn theo mô hình XHCN ở Liên Xơ ( cũ ) : Liên Xơ có bao
nhiêu bộ ta cũng có bấy nhiêu bộ, Liên Xơ phát triển cơng nghiệp nặng thì ta
cũng phát triển công nghiệp nặng mà không xem xét đến điều kiện cụ thể của
Việt Nam, đồng thời không chú ý đến phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ trong khi nước ta là một nước nông nghiệp với tất cả những điều kiện vật
chất khách quan đều thuận lợi để phát triển nông nghiệp.
Để khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, bệnh giáo điều chúng ta cần
phải nâng cao trình độ lý luận; Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý
luận, thảo luận dân chủ, sớm làm rõ và kết luận những vấn đề mới, bức xúc nảy
sinh từ thực tiễn; từng bước cụ thể hóa, bổ sung phát triển đường lối, chính sách
của Đảng, đấu tranh với khuynh hướng, tư tưởng sai ; đổi mới và nâng cao chất

lượng công tác nghiên cứu lý luận, công tác giảng dạy và học tập lý luận; mở
rộng dân chủ và giữ vững định hướng chính trị trong họat động lý luận; đổi mới
công tác lý luận của Đảng viên trên nền tảng Chủ Nghĩa Marx – Lénin và tư
tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác lý luận, Đảng định hướng cho công tác lý luận.


PHẦN II: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Trên cơ sở lý luận, thực tiễn - lịch sử những thập niên đầu của thế kỷ XX
và quá trình vận động, phát triển của cách mạng Việt Nam trong 90 năm qua
(1930-2020), trong đó có 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới và hội nhập
quốc tế, khẳng định con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và của nhân dân Việt Nam.
Với cách mạng Việt Nam, ngay từ đầu, CNXH không chỉ là mục tiêu lựa
chọn mà đã thực sự là động lực thúc đẩy lịch sử phát triển: “Đi lên chủ nghĩa
xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch
sử”. Qua các giai đoạn cách mạng khác nhau, khuynh hướng chính trị bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, tiến lên CNXH ở nước ta đã trở thành một sức mạnh
vật chất to lớn, ăn sâu bám rễ trong lòng xã hội Việt Nam.
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt, là đường lối chiến lược nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam
được khẳng định rõ trong Cương lĩnh đầu tiên năm 1930, các văn kiện của
Đảng và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ
sung, phát triển năm 2011). Đây vừa là bài học lớn, xuyên suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng trong 90 năm qua, vừa là cội nguồn dẫn đến mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và cơng

cuộc xây dựng CNXH, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước.
Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH dưới sự lãnh đạo của Đảng
chính là động lực to lớn động viên, tập hợp, huy động sức mạnh tinh thần, vật
chất của toàn dân vượt qua những thử thách cam go của lịch sử. Thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ chính là thắng lợi của


trí tuệ, văn hố và bản lĩnh Việt Nam, của khát vọng và ý chí độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước đi lên CNXH.
Công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế do Đảng Cộng sản Việt
Nam khởi xướng và lãnh đạo chính là sự tiếp tục con đường cách mạng đã lựa
chọn, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, vận dụng sáng tạo và
phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều
kiện cụ thể của Việt Nam. Đường lối đổi mới do Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI hoạch định, được bổ sung, phát triển qua các kỳ Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, X, XI và XII chính là sự nhận thức đúng đắn
hơn, khoa học hơn các quan điểm, nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam.
Qua mỗi bước ngoặt, mỗi chặng đường cách mạng, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước
Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”, thể hiện rõ ràng và dứt khốt mục tiêu con
đường cách mạng Việt Nam được nêu trong Cương lĩnh đầu tiên. Cùng với
tiến trình đổi mới và chủ động hội nhập quốc tế (1986-2020), nhận thức của
Đảng Cộng sản Việt Nam về CNXH và con đường đi lên CNXH ngày càng
sáng tỏ, hoàn thiện hơn về mục tiêu và mơ hình xây dựng CNXH; về các
chặng đường, bước đi của thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam. Sự
nghiệp đổi mới đất nước càng đi vào chiều sâu càng đòi hỏi Đảng ta phải nắm
vững và quán triệt mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; giải đáp
những vấn đề mới, phức tạp do thực tiễn đặt ra, tiếp tục làm sáng tỏ hơn con
đường đi lên CNXH ở Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa, chủ động hội

nhập quốc tế và phát triển bền vững. Trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với đặc điểm
của đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn “đặt lợi ích quốc gia - dân tộc


lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa”.
Quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện sự nghiệp đổi
mới, hội nhập quốc tế cũng chính là quá trình kiên quyết đấu tranh chống lại
những biểu hiện cơ hội, xét lại, xa rời những vấn đề có tính nguyên tắc; kiên
quyết và triệt để đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái phủ nhận con
đường đi lên CNXH ở Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH. Dân tộc Việt Nam quyết không chấp nhận con đường nào khác ngoài
con đường đi lên CNXH, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”. Thực tiễn vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam
từ năm 1930 đến nay với những thắng lợi trong chiến tranh giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước, trong xây dựng CNXH, hội nhập quốc tế và đổi mới
đất nước đã chứng minh tính đúng đắn, cách mạng, khoa học và sáng tạo của
sự lựa chọn con đường cách mạng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
KẾT LUẬN
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đứng trước vô vàn những cơ hội cũng
như thách thức bởi vì cơng cuộc đổi mới kinh tế, địi hỏi cơng nghiệp hố,
hiện đại hố phải đồng bộ và đáp ứng được nhu cầu của thời đại. Tuy nhiên,
với con đường đi đúng đắn và sự lựa chọn quyết đoán của Đảng và Nhà nước,
chúng ta sẽ gặt hái được rất nhiều thành tựu mới. Nhà nước sử dụng các địn
bẩy kinh tế trong kế hoạch hố trực tiếp và kế hoach hóa gián tiếp để đảm bảo
thực hiện những phương hướng, mục tiêu của kế hoạch kinh tế quốc dân.

Trước thực tế của quá trình phát triển kinh tế Việt Nam từ sau cách mạng
Tháng Tám, một lần nữa ta lại càng cần khẳng định vai trị khơng thể thiếu
được của quá trình lý luận nhận thức và các chính sách, chủ trương xuất phát
từ thực tiễn chi phối nền kinh tế. Khi đi đúng vào tiến trình lịch sử của nhân
loại, tất yếu chúng ta sẽ không bị lạc hậu, tụt lùi mà ngày càng có vị thế, phát


triển mạnh mẽ hơn. Hy vọng chỉ một thời gian không lâu nữa nền kinh tế Việt
Nam sẽ phát triển vượt bậc, phát triển có cơ sở vững chắc, đứng vào vị trí
những nước có nền kinh tế tăng trưởng mạnh trên thế giới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình triết học Mác - Lênin ( Dành cho HV Cao học và NCS

khơng thuộc ngành triết)

5.

2.

C.Mác - F.Engghen - tuyển tập

3.

Hồ Chí Minh - tuyển tập

4.


V.I.Lênin-toàn tập

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức VI của Đảng cộng sản

Việt Nam.
6.

Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 BCH TW Đảng Cộng

Sản Việt Nam Khóa XI
7.

Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 BCH TW Đảng Cộng

Sản Việt Nam khóa XI



×