Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Luận văn Thạc sĩ Quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa thế giới từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (806.63 KB, 96 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN DUY

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN DUY

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN ANH HÙNG

HÀ NỘI, năm 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn thạc sĩ “Quản lý nhà nước về bảo tồn di
sản văn hóa thế giới từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” là kết quả của quá trình sưu
tầm và nghiên cứu của bản thân dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Anh Hùng người hướng dẫn khoa học. Mọi tài liệu sử dụng đều có nguồn gốc trích dẫn rõ
ràng. Tác giả xin chịu trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu của mình.
Quảng Nam, ngày tháng

năm 2020

Tác giả luận văn

Nguyễn Duy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA ............................................................ 7
1.1. Khái niệm, quan điểm, vai trò của quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa . 7
1.2. Nguyên tắc, nội dung, hình thức, phương pháp của quản lý nhà nước về bảo tồn
di sản văn hóa ............................................................................................................ 12
1.3. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa - cơ sở pháp lý quan
trọng thực thi hiệu quả hoạt động bảo tồn di sản ...................................................... 18
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa ........... 23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC BẢO
TỒN DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI CÓ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
.................................................................................................................................................. .25
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội của tỉnh Quảng Nam và các di sản văn hóa
thế giới ở Quảng Nam ............................................................................................... 25

2.2. Thực trạng thực hiện công tác quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa thế
giới tại tỉnh Quảng Nam ............................................................................................ 32
2.3. Mâu thuẫn, bất cập trong công tác quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa
thế giới ở tỉnh Quảng Nam ........................................................................................ 48
CHƯƠNG 3: MỤC TIÊU, ĐỊNH HƯỚNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI CÓ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH QUẢNG NAM ........................................................................................................... 55
3.1. Mục tiêu quản lý nhà nước về bảo tồn di sản .................................................... 55


3.2. Những định hướng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn
hóa thế giới của Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam ................................................. 57
3.3. Kiến nghị, đề xuất .............................................................................................. 72
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Di sản văn hóa của mỗi dân tộc ngưng đọng những chân giá trị của q trình
sáng tạo văn hóa, là những biểu hiện khách quan của truyền thống lịch sử và đặc thù
dân tộc. Chính vì vậy, các di sản văn hóa không chỉ là những tài sản vô giá của mỗi
quốc gia dân tộc mà còn là tài sản chung của nhân loại.
Trong nền văn hóa Việt Nam, di sản văn hóa thể hiện một vị thế hết sức quan
trọng, qua di sản văn hóa chúng ta có thể nắm bắt, hiểu biết về lịch sử dựng nước,
giữ nước, là nơi lưu giữ những nét độc đáo, những giá trị tinh hoa của dân tộc.
Luật Di sản văn hóa được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, tại kỳ họp thứ 9 khóa X thơng qua ngày 29 tháng 6 năm 2001 đã khẳng định
“Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của các cộng đồng các dân tộc Việt

Nam, là bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trị to lớn trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước của nhân dân ta”
Việc bảo tồn di sản văn hóa là một trong những hoạt động gắn liền việc bảo
vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tạo dựng sự phát triển tương lai của mỗi
dân tộc từ những mối liên kết đặc thù của quá khứ và hiện tại.
Trong tiến trình lịch sử, hoạt động bảo tồn các di sản văn hóa xuất hiện ngay
từ khi con người có ý thức về sáng tạo văn hóa trên cơ sở chinh phục, cải tạo và
khai thác thiên nhiên để phục vụ cho sự phát triển của con người. Và do đó mỗi
quốc gia, mỗi dân tộc đều coi việc bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản như
một trong những trách nhiệm và nghĩa vụ cao cả của mình.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương,
đường lối, chính sách để bảo tồn di sản văn hóa nhằm nâng cao đời sống tinh thần
của nhân dân và góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Luật di sản văn
hóa khẳng định: “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa là nhằm đáp ứng nhu
cầu về văn hóa ngày càng tăng của nhân dân, góp phần xây dựng và phát triển nền

1


văn hóa Việt Nam tiên tiến, dậm đà bản sắc dân tộc và góp phần vào kho tàng di sản
văn hóa thế giới.
Tuy nhiên các di sản văn hóa thường xuyên đứng trước nguy cơ bị hủy hoại
do những tác động của thiên nhiên: Bão lụt, động đất, núi lửa, sự biến đổi về nhiệt
độ, các hành động vô thức và hữu thức của con người, việc mở cửa hội nhập quốc tế
bên cạnh những mặt tích cực cũng có những tác động mạnh mẽ ảnh hưởng đến văn
hóa truyền thống … là những nguy cơ dẫn đến hậu quả khơng lường, đe dọa sự tồn
vong của khơng ít di sản của các quốc gia dân tộc.
Quảng Nam cũng như các địa phương khác cũng không tránh khỏi những tác
động nêu trên.Từ nhiều năm nay, việc bảo tồn các di sản văn hóa ở Việt Nam cũng
như hai di sản thế giới ở tỉnh Quảng Nam là Khu đền tháp Mỹ Sơn, Khu đô thị cổ

Hội An đã và đang được coi là những hoạt động khoa học, chân xác, thu hút sự
quan tâm của nhiều cấp, nhiều ngành. Những nguyên tắc về tu sửa, gia cố, phục hồi
di tích được xác định trong các Công ước và Hiến chương quốc tế, những kinh
nghiệm kỹ thuật của các trường phái tu sửa, phục hồi di tích của các nước đã và
đang được vận dụng trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa
thế giới.
Cơng tác bảo tồn các di sản văn hóa thế giới hiện nay là vấn đề cấp bách và
mang tính chiến lược lâu dài địi hỏi thực hiện tốt cơng tác quản lý nhà nước để đảm
bảo theo hướng bền vững. Vì vậy, học viên chọn đề tài “Quản lý nhà nước về bảo
tồn di sản văn hóa thế giới từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận văn thạc
sĩ Luật học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Cơng tác quản lý di sản văn hóa thế giới luôn nhận được sự quan tâm của rất
nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước nghiên cứu ở nhiều góc độ, khía cạnh
khác nhau, cụ thể như sau:
- Sách “Di sản văn hóa trong xã hội Việt Nam đương đại” của Nhà xuất bản
Tri Thức, sách “Quản lý và khai thác di sản văn hóa trong thời ký hội nhập” của
trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh

2


gồm nhiều bài viết của nhiều tác giả từ nhiều góc nhìn khác nhau đặt ra những vấn
đề đối với di sản văn hóa Việt Nam trong xã hội đương đại.
- Sách “Hướng dẫn Thực hiện Công ước Di sản Thế giới 1972” của Ủy ban
liên Chính phủ về bảo tồn di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới tháng 7 năm 2013.
tài liệu cung cấp các kiến thức giúp cơ quan quản lý di sản nhận thức đầy đủ tầm
quan trọng của các di sản trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội của địa phương,
hoạch định chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản.
- Sách “Di sản văn hóa thế giới Mỹ Sơn” song ngữ Anh - Việt do văn phòng

UNESCO tại Hà Nội phối hợp Ban Quản lý Di sản Văn hóa Mỹ Sơn xuất bản năm
2013, nội dung cuốn sách cung cấp về lịch sử hình thành và các giá trị của khu đền
tháp và công tác trùng tu bảo tồn khu di tích cùng những nổ lực bảo tồn, cứu vãn
Khu di tích Mỹ Sơn trước những thách thức hiện nay.
- Sách “Từ nguồn xuống biển, vết tích văn hóa Chămpa xứ Quảng” do Ban
Quản lý Di sản Văn hóa Mỹ Sơn biên soạn năm 2018, nội dung chỉ ra các mối liên
hệ của văn hóa Chămpa trên dải đất miền trung Việt Nam.
- Trung tâm quản lý bảo tồn di tích Hội An biên soạn tập sách “Di sản Văn
hóa Hội An - Nhìn lại một chặng đường” năm 2013 đã khái quát những thuận lợi,
khó khăn , những kết quả trong công tác quản lý, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
Hội An. Tập sách “ Tác động Hội An” do văn phòng UNESCO tại Hà Nội phối
hợp Trung tâm quản lý bảo tồn di tích Hội An xuất bản năm 2013 đã nêu lên những
áp lực và cảnh báo những nguy cơ ảnh hưởng đối với khu di sản.
- Viện sinh thái và Bảo vệ cơng trình chủ trì Hội thảo khoa học “Đa dạng
sinh thái Mỹ Sơn nhằm bảo tồn gắn với phát triển bền vững Khu di tích Mỹ Sơn,
Quảng Nam” năm 2016 đã nghiên cứu bảo tồn đa dạng sinh học, xây dựng bộ tiêu
chí áp dụng trong cơng tác bảo tồn khu di tích.
- Hội thảo quốc tế năm 2010 với chủ đề “Thông điệp từ di sản thế giới ở tỉnh
Quảng Nam - Thực trạng và tương lai” với sự tham gia của các nhà khoa học Nhật
Bản, Việt Nam đã chỉ ra những vấn đề gây ảnh hưởng đến di sản cần được chấn
chỉnh, khắc phục.

3


- Hội nghị đánh giá công tác bảo tồn, phát huy giá trị Đô thị cổ Hội An, khu
đền tháp Mỹ Sơn qua 20 năm được UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới do
Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam chủ trì với sự tham gia tham luận của Đại sứ
quán Nhật Bản, Đại sứ quán Ấn Độ tại Việt Nam, Cục di sản Văn hóa, Cục hợp tác
quốc tế, Văn phòng UNESCO tại Hà Nội đã nêu ra những kết quả đạt được trong

công tác bảo tồn di sản, kết cấu kiến trúc di tích bền vững hơn, cộng đồng tham gia
tốt trong công tác bảo tồn, bảo vệ di sản. Bên cạnh đó cũng đã nêu những bất cập,
nguy cơ đe dọa đến di sản như sự tác động của thiên tai thời tiết, tác động của công
tác phát huy di sản luôn mâu thuẫn đến yếu tố bảo tồn...
- Kỷ yếu hội thảo quốc tế “Vai trò cộng đồng trong bảo tồn, phát huy giá trị
Di sản văn hóa thế giới qua thực tiễn Đơ thị cổ Hội An và Khu Đền tháp Mỹ Sơn”
do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam, Đại diện
UNESCO tại Việt Nam, Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia đồng chủ trì năm 2019
đã nêu lên những tác động của cộng đồng đối với di sản, vai trò của cộng đồng
trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị của di sản.
- Bài viết “Quản lý nhà nước về di sản văn hóa” Cục Di sản văn hóa, Bộ
Văn hóa - Thể thao và Du lịch năm 2019 của TS. Nguyễn Thị Thu Trang đã khái
quát hoạt động quản lý nhà nước về di sản văn hóa, mục tiêu, ý nghĩa của hoạt động
bảo tồn di sản. Bên cạnh đó tác giả nêu ra những điều kiện cần và đủ cho hoạt động
quản lý nhà nước về công tác bảo tồn di sản văn hóa.
- Ấn phẩm “ Thơng tin nghiên cứu bảo tồn Di sản văn hóa Mỹ Sơn” do Ban
Quản lý Di sản Văn hóa Mỹ Sơn phát hành năm 2018 đã tổng kết công tác bảo tồn
di sản, những khó khăn, hạn chế bất cập và định hướng bảo tồn và phát huy giá trị
khu di sản giai đoạn 2020-2025 tầm nhìn đến năm 2030.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận về bảo tồn di sản, phân tích công tác quản lý nhà nước về
bảo tồn di sản văn hóa thế giới từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam, luận văn đưa ra những

4


ý kiến và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn
hóa thế giới ở tỉnh Quảng Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu cơ sở lý luận và pháp luật liên quan đến quản lý nhà nước về
bảo tồn di sản văn hóa.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa
thế giới Khu đền tháp Mỹ Sơn và Đô thị cổ Hội An tỉnh Quảng Nam. Đánh giá ưu
điểm, hạn chế và nguyên nhân ưu điểm, hạn chế trong quản lý nhà nước về bảo tồn
di sản văn hóa thế giới tại tỉnh Quảng Nam.
- Xác định các quan điểm và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa thế giới tại tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình quản lý nhà nước trong cơng tác bảo tồn di sản văn hóa thế giới từ
thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Khơng gian: Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình quản lý nhà nước
trong công tác bảo tồn di sản văn hóa thế giới Đơ thị cổ Hội An và Khu đền tháp
Mỹ Sơn thuộc tỉnh Quảng Nam.
- Thời gian: Từ năm 1999 - năm Đô thị cổ Hội An và Khu đền tháp Mỹ Sơn
được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới - đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Cơ sở lý luận theo phương pháp của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; các quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác bảo tồn di
sản văn hóa. Tham khảo, kế thừa một số cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa
học liên quan đến lĩnh vực này.

5


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu gồm: Thu thập thông tin, phương pháp

thống kê, phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh,
phương pháp xã hội học, phương pháp tổng hợp…từ đó rút ra những kết luận cần
thiết.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Từ kết quả nghiên cứu, đánh giá về ý nghĩa, tầm quan trọng và những đánh
giá về giá trị lịch sử, văn hóa của Đơ thị cổ Hội An và Khu đền tháp Mỹ Sơn thì vấn
đề bảo tồn di sản được đặt ra cùng với những phân tích, luận giải về phương án bảo
tồn trên cơ sở khoa học, luận văn hy vọng sẽ góp phần khơng chỉ làm rõ hơn về giá
trị của hai di sản mà góp phần vào việc tuyên truyền về ý thức trách nhiệm của mọi
người cùng chung tay góp sức trong việc bảo tồn, gìn giữ các di sản văn hóa của
dân tộc và phát huy giá trị khu di sản.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật của quản lý nhà nước về bảo
tồn di sản văn hóa
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về công tác bảo tồn di sản văn hóa
thế giới có trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Mục tiêu, định hướng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về bảo
tồn di sản văn hóa thế giới có trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA
1.1. Khái niệm, quan điểm, vai trò của quản lý nhà nước về bảo tồn di
sản văn hóa
1.1.1. Di sản văn hóa

Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng đã khẳng định nhiệm vụ bảo
tồn di sản văn hóa trong bối cảnh mới ở nước ta. “Di sản văn hóa là tài sản vô giá,
gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những
giá trị văn hóa mới và giao lưu văn hóa.
Theo Điều 1 của Cơng ước Di sản Thế giới
Di sản văn hóa là Các cơng trình kiến trúc, điêu khắc hoặc hội hoạ hoành
tráng, các yếu tố hay kết cấu có tính chất khảo cổ, các văn bản, các hang động và
các nhóm yếu tố có giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, nghệ thuật hay
khoa học; các nhóm cơng trình xây dựng đứng một mình hoặc quần tụ có giá trị
quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, nghệ thuật hay khoa học, do kiến trúc, sự
thống nhất của chúng hoặc sự nhất thể hoá của chúng vào cảnh quan; các cơng trình
của con người hoặc những cơng trình của con người kết hợp với các cơng trình của
tự nhiên, cũng như các khu vực, kể cả các di chỉ khảo cổ học, có giá trị quốc tế đặc
biệt về phương diện lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân chủng học.
Di sản văn hóa là tồn bộ những giá trị vật chất và tinh thần mang giá trị lịch
sử - văn hóa, khoa học, thẩm mỹ do các thế hệ trước sáng tạo và lưu truyền lại cho
các thế hệ sau; là tài sản vô giá không phải hàng hóa để trao đổi, mua bán; nó là
cơng cụ gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, là nền tảng, cơ sở
để sáng tạo những giá trị văn hóa mới và giao lưu văn hóa.
Theo Luật Di sản văn hóa Việt Nam năm 2001:

7


Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trị to lớn trong sự
nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.
Di sản văn hoá bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể,
là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, được
lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam. (Điều 1- Luật Di sản văn hóa)
Di sản văn hóa là di sản của các hiện vật vật lý và các thuộc tính phi vật thể
của một nhóm hay xã hội được kế thừa từ các thế hệ trước, đã duy trì đến hiện nay
và dành cho các thế hệ mai sau. Di sản văn hóa bao gồm tài sản văn hóa, văn hóa
phi vật thể và di sản tự nhiên.
Di sản văn hóa, nói một cách chung nhất là sản phẩm vật chất và tinh thần
(gồm văn hóa vật thể, phi vật thể) do con người hoặc thiên nhiên tạo ra và được sử
dụng, từ đó hình thành các giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, đặc biệt là nó thể hiện
bản sắc của mỗi dân tộc. Các dân tộc Việt Nam đã sáng tạo nên một gia tài những
giá trị văn hóa giàu có và độc đáo. Sự giàu có, độc đáo khơng chỉ thể hiện ở những
đặc trưng văn hóa nói chung mang bản sắc dân tộc Việt Nam, mà nó cịn bộc lộ ở
những nét riêng, rất đặc sắc trong di sản văn hóa mỗi tộc người, mỗi vùng, địa
phương trên đất nước. Chính nhờ có những giá trị văn hóa đã hun đúc, kết tinh
thành bản sắc dân tộc và tạo nên bản lĩnh dân tộc, ngược lại nhờ có bản lĩnh dân tộc
mà giữ được bản sắc dân tộc.
Di sản văn hóa phi vật thể
- Là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu giữ
bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn
và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn
học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống,
nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ
truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức
dân gian khác. (Điều 4.1- Luật Di sản văn hóa).

8


Di sản văn hóa vật thể
Theo Điều 4.2 - Luật Di sản văn hóa thì di sản văn hóa vật thể là sản phẩm
vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh

lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
- Bảo tồn là bảo vệ và gìn giữ sự tồn tại của sự vật, hiện tượng theo dạng
thức vốn có của nó.
- Bảo tồn di sản văn hóa là những hoạt động nhằm đảm bảo sự tồn tại lâu dài,
ổn định của di sản văn hóa để sử dụng và phát huy giá trị của di sản văn hóa đó.
1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa
Quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa có thể hiểu là quản lý hoạt động
bảo tồn di sản văn hóa, trước hết, để giữ gìn lâu dài các giá trị văn hóa tiêu biểu
của đất nước trong các di sản văn hóa với tư cách là kinh nghiệm sống, bài học lịch
sử có ích cho xã hội. Bên cạnh đó, quản lý hoạt động bảo tồn di sản văn hóa cịn
phục vụ mục tiêu giáo dục, hình thành các nhân cách văn hóa và xây dựng mơi
trường xã hội lành mạnh, nguồn thơng tin khoa học chân thực, có khả năng cung
cấp tri thức, hiểu biết, là những nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững. Tuy
nhiên, quản lý nhà nước về văn hóa phải căn bản dựa trên mục tiêu phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn xã hội - một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về xã
hội hóa các hoạt động văn hóa nói chung và hoạt động bảo tồn di sản văn hóa nói
riêng [2]
1.1.3. Quan điểm của quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa
Quan điểm cơ bản chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa Việt
Nam đã được xác định rõ trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng đó
là “Di sản văn hóa là tài sản vơ giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc
dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị văn hóa mới và giao lưu văn hóa. Hết sức
coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, văn hóa
cách mạng bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”.
Qua đó ta thấy, 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo phát triển văn hóa của Việt Nam
là tương đối thống nhất với các quan điểm về chính sách văn hóa mà nhiều quốc gia

9



khác cũng đang theo đuổi. Đó là: gắn văn hóa với hệ tư tưởng - chính trị; văn hóa
thể hiện đặc trưng dân tộc; sản phẩm văn hóa là một loại hàng hóa.
Có thể hiểu, văn hóa ln gắn bó máu thịt với dân tộc và tư tưởng, chính trị,
đồng thời cịn được nhìn nhận là loại hàng hóa đặc biệt bởi vậy các quốc gia luôn
hướng hoạt động văn hóa vào 3 mục tiêu lớn là: bảo vệ di sản và khuyến khích hoạt
động sáng tạo; đảm bảo sự tiếp cận bình đẳng của tất cả mọi người đối với văn hóa;
tạo cơ hội cho tất cả mọi người tham gia vào sáng tạo, phổ biến và hưởng thụ văn
hóa.
Về bảo tồn di sản văn hóa đã được các nhà khoa học ở Việt Nam và trên thế
giới nghiên cứu theo nhiều hướng tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, các nhà khoa học
đều cho rằng tùy thuộc vào từng loại hình di sản mà đưa ra các quan điểm bảo tồn
khác nhau để vừa giữ được những giá trị nguyên gốc nhưng vẫn phát huy được giá
trị của nó trong xã hội đương đại.
1.1.3.1. Quan điểm bảo tồn nguyên trạng
Đây là quan điểm đã phát triển từ những năm 1850 trên thế giới và thịnh
hành trong một thời gian khá dài, gần giống như đóng vai trị chủ đạo đối với cách
thức quản lý di sản văn hóa ở nhiều quốc gia.
Những người theo quan điểm bảo tồn nguyên trạng cho rằng cần phải giữ
nguyên trạng những di sản này để khi có điều kiện, những thế hệ tiếp nối có thể xử
lý, giải mã và tìm cách kế thừa, phát huy di sản một cách trung thành nhất. Trên
thực tế quan điểm bảo tồn nguyên trạng được khá nhiều học giả ủng hộ, đặc biệt là
các nhà bảo tàng học. Tuy nhiên, thực tế là di sản văn hóa phi vật thể vốn tồn tại và
phát triển theo dòng thời gian lịch sử, tất yếu sẽ phát sinh những yếu tố mới, những
thay đổi cho phù hợp với thời đại và sẽ đến lúc rất khó xác định được đâu là yếu tố
nguyên gốc, đâu là yếu tố phát sinh trong quá trình phát triển.
1.1.3.2. Quan điểm bảo tồn trên cơ sở kế thừa
Quan điểm này dường như là một xu thế khá phổ biến trong giới học thuật
hiện nay khi bàn đến vấn để bảo tồn và phát huy di sản. Dựa trên cơ sở lý thuyết
cho rằng mỗi di sản chỉ có thể thực hiện nhiệm vụ lịch sử của mình ở một thời gian


10


và không gian nhất định. Quan điểm này cho rằng di sản ấy cần phải được phát huy
giá trị phù hợp với xã hội hiện nay, đồng thời phải loại bỏ những gì khơng phù hợp
với thời đại, khơng cịn thích hợp với xã hội mới. Do vậy bảo tồn kế thừa không
phải là cố gắng dập khuôn nguyên gốc, khư khư giữ nguyên như cũ, bất di bất dịch,
mà là bảo tồn vừa có sự kế thừa vừa có sự bổ sung những yếu tố mới, làm cho nó
tương thích và có sức sống trong hồn cảnh mới.
1.1.3.3. Quan điểm bảo tồn phát triển
Những người theo quan điểm này không bận tâm tới việc tranh cãi nên bảo
tồn y nguyên như thế nào, nên kế thừa cái gì từ quá khứ, mà đặt trọng tâm vào việc
làm thế nào để di sản sống và phát huy được tác dụng trong bối cảnh đương đại.
Nếu như quan điểm truyền thống cho rằng độ chân thực (hay tính xác thực) của di
sản là cốt lõi của di sản và phải làm thế nào đề đảm bảo kế thừa được sự chân thực
đó, thì quan điểm bảo tồn phát triển lại đánh giá thấp vai trị của tính chân thực này.
Người ta cho rằng chân thực hay không không phải là một giá trị khách quan, mà nó
được đo bằng trải nghiệm. Theo quan điểm này, đối với việc bảo tồn di sản khơng
có mục đích nào được coi là duy nhất, là tốt thượng, là hoàn toàn đúng trong mọi
trường hợp.
1.1.4. Vai trò của quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa
Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch khẳng định quản lý
bảo tồn di sản văn hóa là thiết lập mối quan hệ gắn bó giữa cơ quan quản lý nhà
nước về văn hóa và cộng đồng dân cư địa phương nơi có di sản cần được bảo vệ,
phát huy. Quản lý nhà nước về di sản văn hóa được thể hiện ở các dạng hoạt động
chủ yếu sau [9]:
- Ban hành một cơ chế, chính sách phù hợp cùng một hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật hồn chỉnh có tác động nâng cao hiệu quả công tác quản lý di sản
văn hóa, tạo động lực cho các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa.
- Xây dựng và củng cố hệ thống quản lý và khoa học đủ mạnh, có khả năng

triển khai trong đời sống xã hội các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
về lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa.

11


- Đào tạo nguồn nhân lực (nhân lực quản lý, cán bộ khoa học - kỹ thuật) có
chất lượng, hoạt động chuyên nghiệp trong lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa.
- Truyền thơng giáo dục di sản văn hóa nhằm từng bước thay đổi và nâng cao
nhận thức của cộng đồng về vai trị của di sản văn hóa trong đời sống xã hội, xác
định rõ trách nhiệm xã hội của các cá nhân, tổ chức trong việc tham gia các hoạt
động bảo tồn di sản văn hóa.
- Tăng cường đầu tư ngân sách nhà nước cho hoạt động bảo tồn di sản văn
hóa, nhất là tập trung đầu tư cho việc bảo vệ và phát huy các di sản đã được ghi
danh ở tầm quốc tế và quốc gia cũng như những di sản có nguy cơ xuống cấp và
mai một.
1.2. Nguyên tắc, nội dung, hình thức, phương pháp của quản lý nhà
nước về bảo tồn di sản văn hóa
Để xây dựng nền văn hóa Việt Nam mang đầy đủ các đặc trưng: dân tộc,
khoa học và đại chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln đề cao chủ trương kế thừa
truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc đi đôi với việc học tập và tiếp thu có chọn
lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Người chỉ rõ, trong xây dựng nền văn hóa mới
“khơng phải cái gì cũ cũng bỏ hết, khơng phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà
xấu thì phải bỏ; cái gì cũ mà khơng xấu nhưng phiền phức phải sửa đổi cho hợp lý;
cái gì cũ mà tốt phải phát triển thêm cho phù hợp. Cái gì mới mà hay thì ta phải
làm”. Những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hố là kim chỉ nam
cho chúng ta trong việc xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, trên cơ sở đó có thể hội nhập và giao lưu với các nền văn hoá khác trên thế giới,
cùng nhau phát triển.
1.2.1. Nguyên tắc quản lý nhà nước về di sản văn hóa

Để bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, Bộ
Văn hóa thể thao và du lịch đã có quy hoạch tổng thể bảo tồn và phát huy giá trị các
di sản văn hóa đến năm 2020 tại Quyết định số 1706/QĐ-BVHTT, nguyên tắc đó cụ
thể như sau:

12


- Bảo đảm tính xác thực (tính nguyên gốc) về kiểu dáng và thiết kế, vật liệu
và chất liệu, chức năng và tác dụng, truyền thống và kỹ thuật, địa điểm và cảnh
quan, tinh thần và tình cảm. Các phương pháp gia cố, tái định vị, dùng công nghệ
cao cũng không được tách rời nguyên tắc nguyên gốc.
- Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa khơng có nghĩa là “đóng khung trong di
sản”, mà phải biết chọn lọc những nhân tố tích cực, yếu tố hợp lý làm cơ sở, tiền đề
cho sự phát triển của cái đã có, cho sự ra đời của cái mới, cái tiến bộ.
- Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phải gắn với sự phát triển bền vững
hướng tới việc xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
- Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phải gắn với q trình đổi mới, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của cộng đồng.
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa
Văn hóa nói chung, di sản văn hóa nói riêng được khẳng định là bộ phận hữu
cơ trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Kinh tế và văn hóa là những yếu tố có
mối liên hệ mật thiết, phụ thuộc và tác động tương hỗ, bổ sung lẫn nhau. Hơn nữa
trong cấu trúc nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc bảo tồn
di sản văn hóa phải đặt ra nhiệm vụ phục vụ nhu cầu phát triển bằng cách tác động
tới việc giáo dục, bồi dưỡng nhân cách con người và đào tạo nguồn nhân lực có chất
lượng cho phát triển. Do đó bảo tồn di sản văn hóa phải vì mục tiêu phát triển và
gắn với phát triển kinh tế xã hội.
Di sản văn hóa cần được bảo vệ và phát huy giá trị với tư cách là một bộ
phận cấu thành môi trường sống của nhân loại, trong đó lãnh thổ quốc gia, khơng

gian sinh tồn, hệ thống đô thị và các địa điểm cư dân là những đại diện điển hình
nhất. Di sản văn hóa cịn được coi trọng và tơn vinh vì đó là loại tài sản quý giá
không thể thay thế, không thể tái sinh, nhưng lại rất dễ bị biến dạng và tổn thương
trước tác động của các nhân tố tự nhiên và cách hành xử thiếu văn hóa do chính con
người gây ra.
Theo Luật Di sản văn hóa số 28/2001/QH10, Luật sửa đổi bổ sung một số
điều của Luật Di sản văn hóa số 32/2009/QH1, Quy hoạch đầu tư tổng thể bảo tồn,

13


tôn tạo và phát huy giá trị Di sản văn hóa thế giới Đơ thị cổ Hội An gắn liền với
phát triển thành phố Hội An và du lịch giai đoạn 2012-2025 đã được Thủ tướng
chính phủ phê duyệt tại Quyết định 78/QĐ-TTg ngày 12/01/2012. Quy hoạch bảo
tồn và phát huy giá trị Khu di tích Mỹ Sơn giai đoạn 2008-2020 được Thủ tướng
chính phủ phê duyệt tại Quyết định 1915/QĐ-TTg ngày 30/2/2008. Quyết định số
28/2010/QĐ-UBND ngày 26/11/2010 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Nam ban
hành quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị các di sản và danh thắng trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam, quản lý nhà nước về bảo tồn di sản van hóa thế giới gồm
những nội dung sau:
Căn cứ điều kiện và giá trị di tích trên địa bàn và trên cơ sở đề nghị của Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, UBND tỉnh phân cấp cho các đơn vị, địa phương trực
tiếp quản lý và chịu trách nhiệm về bảo vệ và khai thác di tích trên địa bàn theo
đúng luật định.
UBND huyện, thành phố; UBND xã, phường, thị trấn là cấp quản lý trực tiếp
di tích có trách nhiệm thành lập và quy định nội quy, quy chế hoạt động của Ban
quản lý, Tổ quản lý di tích.
UBND huyện, thành phố xây dựng kế hoạch ngắn hạn, dài hạn về bảo vệ,
phát huy giá trị di tích trong phạm vi quản lý.
Xây dựng quy hoạch tổng thể, đề án về quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di

tích, ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về công tác quản lý, bảo vệ, phát huy giá
trị di tích; phối hợp với các địa phương tổ chức triển khai thực hiện các văn bản quy
phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn của Nhà nước về bảo vệ, phát huy giá trị di
tích.
Tổ chức các hình thức thơng tin, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin
đại chúng và hoạt động truyền thông trực tiếp ở cơ sở để hướng dẫn,vận động các
tầng lớp nhân dân tham gia bảo vệ, phát huy giá trị di tích.
Tổ chức thực hiện việc kiểm kê di tích trình UBND tỉnh phê duyệt, cơng bố,
tổ chức rà sốt, trình UBND tỉnh xem xét quyết định đưa ra khỏi danh mục kiểm kê
di tích đối với các di tích khơng đủ tiêu chuẩn xếp hạng di tích.
14


Các di tích đã được xếp hạng nhưng chưa có điều kiện phát huy giá trị phải
được bảo vệ nguyên trạng. Khi có dấu hiệu xuống cấp hoặc bị xâm hại, UBND xã,
phường, thị trấn quản lý trực tiếp phải có phương án bảo vệ kịp thời và báo cáo cơ
quan chức năng cùng phối hợp bảo vệ, tu bổ.
Các tổ chức, cá nhân khi phát hiện di tích có dấu hiệu xuống cấp phải báo
cáo ngay cho chính quyền địa phương, cơ quan chức năng đóng trên địa bàn biết để
có biện pháp xử lý.
Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu hoặc được giao quản lý di tích (sau đây gọi
chung là chủ di tích) có trách nhiệm đăng ký với cơ quan có thẩm quyền các cổ vật,
di vật gắn với quá trình hình thành và phát triển di tích.
Các di tích có tổ chức lễ hội và các dịch vụ liên quan đến di tích phải tuân
thủ theo Luật Di sản văn hóa, Quy chế tổ chức lễ hội của Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch và các quy định hiện hành của Nhà nước.
Việc tổ chức các lễ hội ở các di tích phải phù hợp với tính chất, đặc điểm lịch
sử của di tích, phù hợp với thuần phong mỹ tục và tình hình kinh tế - xã hội của địa
phương. Nội dung hoạt động lễ hội và các dịch vụ liên quan đến di tích phải được
đăng ký với cơ quan trực tiếp quản lý di tích.

Tất cả các hình thức hoạt động khai thác, sử dụng di tích như: biểu diễn nghệ
thuật, cắm trại, dịch vụ du lịch... phải thực hiện theo hướng dẫn của Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch và cấp chính quyền quản lý trực tiếp di tích.
Thẩm quyền xếp hạng đối với di tích quốc gia và cấp tỉnh được áp dụng theo
quy định tại Điều 29, 30, 31 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn
hóa năm 2009.
Trong thời gian 3 tháng kể từ ngày cấp có thẩm quyền ký quyết định xếp
hạng di tích, kiểm kê di tích; cấp quản lý trực tiếp di tích phải tiến hành quy hoạch,
cắm mốc lộ giới các khu vực bảo vệ di tích.
Việc quản lý các nguồn thu từ tham quan di tích do cơ quan, đơn vị trực tiếp
quản lý di tích thực hiện theo đúng quy định của Nhà nước.

15


Các nguồn thu từ di tích do tổ chức, cá nhân đóng góp phải được sử dụng
vào việc bảo vệ, tu bổ và phát huy giá trị di tích.
Việc quản lý, sử dụng các nguồn thu từ di tích phải được công khai, minh
bạch và do Ban quản lý, Tổ quản lý di tích thực hiện; chịu sự giám sát, kiểm tra của
chính quyền cấp quản lý trực tiếp di tích.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các cơ quan chun mơn trực thuộc và
Phịng Văn hóa Thơng tin các huyện, thành phố chịu trách nhiệm tổ chức các hình
thức đào tạo và hướng dẫn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ cơ sở và đội ngũ bảo vệ
trực tiếp tại các di tích.
Các tổ chức, cá nhân là cơng dân Việt Nam có nhu cầu tiến hành các hoạt
động nghiên cứu khoa học tại di tích phải được sự đồng ý bằng văn bản của Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch.
Các tổ chức, cá nhân là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài hoặc tổ chức hợp tác khoa học đa quốc gia có nhu cầu nghiên cứu khoa học
tại các di tích trên địa bàn tỉnh phải đăng ký với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch

trình UBND tỉnh có ý kiến đồng ý bằng văn bản.
Bảo tồn, tu bổ và phục hồi di tích trên địa bàn tỉnh Quảng Nam được áp
dụng theo Quyết định số 05/QĐ-BVHTT ngày 06/02/2003 của Bộ trưởng Bộ Văn
hóa Thơng tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) về việc ban hành Quy chế
Bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích lịch sử- văn hóa, danh lam thắng cảnh và Quyết
định số 13/2004/QĐ-BVHTT ngày 01/4/2004 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thơng tin
(nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) về việc Ban hành định mức dự toán bảo
quản, tu bổ và phục hồi di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh.
Tổ chức đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ cho đội
ngũ cán bộ, công chức và những người làm công tác bảo vệ và phát huy giá trị di
tích.
Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về di tích; giải quyết tranh chấp,
khiếu nại, tố cáo, xử lý các vi phạm pháp luật về di tích.

16


Đề xuất, trình UBND tỉnh về cơng tác thi đua, khen thưởng trong việc bảo vệ
và phát huy giá trị di tích.
Hướng dẫn cơng tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch trong lĩnh vực quản lý, tu
bổ và phát huy giá trị di tích.
1.2.3. Hình thức quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa
Văn kiện Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ XII năm 2016 nhấn mạnh: “Huy
động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống dân tộc; khích lệ sáng tác giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, làm giàu văn hóa dân tộc. Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa
bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội” [2, tr. 129].
Như vậy, đường lối của Đảng đã thể hiện rất rõ vị trí, vai trị của việc bảo
tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, phát huy vai trị của du lịch văn hóa hướng tới
sự phát triển bền vững đất nước và các địa phương. Trong đó, thể hiện rõ:

- Các di sản văn hóa và các di tích văn hóa - lịch sử, các lễ hội, các đối tượng
văn hóa gắn với dân tộc học, các đối tượng văn hóa, thể thao và hoạt động nhận
thức khác là những tài sản vô giá trong kho tàng di sản lâu đời của dân tộc, nếu
được quy hoạch, đầu tư và khai thác hợp lý sẽ là những tài nguyên du lịch có giá trị.
- Các cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch, các bộ ngành liên quan, Uỷ ban
nhân dân các địa phương cần có biện pháp bảo vệ, tôn tạo, khai thác sử dụng hợp lý
tài nguyên du lịch văn hóa để phát triển du lịch bền vững.
- Bảo vệ di sản về mặt pháp lý và khoa học (nghiên cứu, xây dựng hồ sơ
khoa học trình cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xếp hạng di tích hoặc đưa vào
các danh mục di sản quốc gia và quốc tế) [36]
- Bảo vệ di sản về mặt khoa học - kỹ thuật (bảo quản, tu bổ, gia cường - đối
với di tích và kiểm kê, tư liệu hóa, phục dựng - đối với di sản phi vật thể, kéo dài
tuổi thọ và củng cố sức sống của di sản).
- Phát huy giá trị di sản gắn với phát triển bền vững về kinh tế, xã hội (trao
truyền, trình diễn, giới thiệu, quảng bá,...).

17


1.2.4. Phương pháp quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa
Quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa là pháp luật và các văn bản quy
phạm pháp luật khác làm cơ sở pháp lý. Như vậy, quản lý nhà nước về bảo tồn di
sản văn hóa là sử dụng hệ thống pháp luật và các văn bản có tính phap quy để làm
cơng cụ quản ly chứ khơng phải bằng ý chí của nhà quản lý.
Phương pháp quản lý nhà nước về bảo tồn di sản văn hóa được thực hiện
bằng các mệnh lệnh hành chính thơng qua các biện pháp do pháp luật quy định như:
ban hành văn bản quy phạm pháp luật, ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp
luật, thực hiện các hoạt động khác mang tính pháp lý.
Như vậy, phương pháp quản lý về bảo tồn di sản văn hóa là tổng thể những
cách thức mà chủ thể quản lý sử dụng để tác động có định hướng vào đối tượng

quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã định.
1.3. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa - cơ sở
pháp lý quan trọng thực thi hiệu quả hoạt động bảo tồn di sản
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa của nước Cộng hịa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam được hình thành và tiếp nối trên một chặng đường lịch
sử từ ngày thành lập nước tới nay. Chúng ta đều biết, chỉ chưa đầy 3 tháng sau khi
đất nước giành được độc lập, ngày 23 tháng 11 năm 1945, Chủ tịch Chính phủ Lâm
thời Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65/SL, trong đó nêu rõ: ”việc bảo tồn cổ tích là
việc rất cần trong cơng cuộc kiến thiết nước Việt Nam”. Đây là Sắc lệnh đầu tiên
của Nhà nước ta về việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Sắc lệnh số 65/SL khẳng
định vai trị quan trọng của di sản văn hóa với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước, về tính kế thừa trong phát triển văn hóa, về trách nhiệm của Nhà nước, xã hội
và mỗi công dân trong việc bảo vệ di sản văn hóa...[38]
Năm 1957, khi đất nước mới bước ra từ cuộc kháng chiến chống thực dân
pháp, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 519/TTg ngày 29 tháng 10 năm 1957
quy định thể lệ về bảo tồn cổ tích, trong đó, tại Điều 1 đã khẳng định: “Tất cả những
bất động sản và động sản có một giá trị lịch sử, hay nghệ thuật (kể cả bất động sản
và động sản còn nằm ở dưới đất hay dưới nước và những danh lam thắng cảnh

18


(danh thắng) ở trên lãnh thổ nước Việt Nam bất cứ thuộc quyền sở hữu của Nhà
nước, một đơn vị hành chính, một cơ quan, một đồn thể, hoặc một tư nhân, từ nay
đều đặt dưới chế độ bảo vệ của Nhà nước quy định trong Nghị định này”.
Tiếp đến, ngày 04 tháng 4 năm 1984, Hội đồng nhà nước Cộng hòa xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh số 14 LCT/HĐNN về bảo vệ và sử
dụng di tích lịch sử, văn hóa và danh lam, thắng cảnh, trong đó chỉ rõ căn cứ ban
hành Pháp lệnh: “Di tích lịch sử, văn hóa và danh lam, thắng cảnh là tài sản vô giá
trong kho tàng di sản lâu đời của dân tộc Việt Nam”.

Bước sang thế kỷ 21, trước những yêu cầu đổi mới của đất nước, trong bối
cảnh hội nhập kinh tế và văn hóa, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013 đã khẳng định tại khoản 1 Điều 60: “Nhà nước, xã hội chăm lo xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại” và khoản 1 Điều 63: “Nhà nước có chính sách bảo vệ
môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên;
bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với
biến đổi khí hậu”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
VIII) ngày 16 tháng 7 năm 1998 đã xác định phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và
phát triển văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó có nhiệm vụ bảo tồn
và phát huy các di sản văn hóa, coi di sản vǎn hóa là tài sản vơ giá, gắn kết cộng
đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và
giao lưu vǎn hóa. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) cũng xác định một trong
những nhiệm vụ cụ thể thời gian tới là “Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
(Nghị quyết số 33-NQ/TW) ngày 09 tháng 6 năm 2014 về xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước được
ban hành với mục tiêu: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển
toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân
chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã

19


hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
Năm 2001, Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa X đã thơng qua Luật di sản văn hóa,
đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình xây dựng và hồn thiện pháp luật về

di sản văn hóa; hai loại hình di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể đều
trở thành đối tượng điều chỉnh của luật pháp. Tiếp theo, năm 2009, Kỳ họp thứ 5
Quốc hội khóa XII đã thơng qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản
văn hóa, nhằm giải quyết một số hạn chế, bất cập trước đó, tạo hành lang pháp lý
thuận lợi để đẩy mạnh sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, bảo đảm
giải quyết hài hịa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển trong thời kỳ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ đó tới nay, nhiều văn bản hướng dẫn thi hành Luật di sản văn hóa đã
được Chính phủ ban hành nhằm cụ thể hóa những vấn đề cịn vướng mắc đáp ứng
yêu cầu của thực tiễn phát triển các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa. Trong lĩnh vực di sản văn hóa đã có 01 Luật, 01 Luật sửa đổi, bổ sung; 08
Nghị định của Chính phủ và 01 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch đã ban hành 16 Thông tư, 04 Quyết định ban hành quy chế, quy
định, định mức theo thẩm quyền.
Nhiều địa phương trên cả nước đã ban hành Quy chế quản lý, bảo vệ và phát
huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn (Hà Nội,
Lạng Sơn, Yên Bái, Bắc Kạn, Hưng Yên, Hà Tĩnh, Sơn La, Kiên Giang, Đà Nẵng,
Gia Lai, Kon Tum, Cao Bằng, Quảng Nam, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cà Mau, Đồng
Tháp…); ban hành Kế hoạch quản lý, Quy chế bảo vệ của từng khu di sản thế giới
(Vịnh Hạ Long, Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Quần thể danh thắng Tràng
An, Quần thể di tích Cố đơ Huế, Khu Di tích Mỹ Sơn, Khu Phố cổ Hội An, Khu
Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội, Thành Nhà Hồ...).
Có thể nói, hệ thống pháp luật về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa cơ
bản định hình, ngày càng hồn thiện và chặt chẽ hơn tạo nên khuôn khổ pháp lý

20


×