Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Áp dụng tập quán trong giải quyết tranh chấp về hôn nhân và gia đình tại tòa án nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.2 MB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN BÉ LÊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 60380102

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tiến
Học viên: Nguyễn Bé Lê
Lớp: Cao học Luật, khóa 2 - Cần Thơ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn tốt nghiệp thạc sĩ “Áp dụng tập quán trong giải
quyết tranh chấp về hơn nhân và gia đình tại Tịa án nhân dân” là kết quả nghiên
cứu ứng dụng của bản thân tôi. Đây là kết quả được thực hiện bởi sự hướng dẫn của
thầy TS. Nguyễn Văn Tiến, Khoa Luật dân sự - Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh. Tơi cam kết đảm bảo tính trung thực, tuân thủ các quy định của Nhà


trường về trích dẫn, chú thích, tài liệu tham khảo. Tôi xin chịu trách nhiệm về luận
văn và lời cam kết này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Bé Lê


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

01

BLDS

Bộ Luật Dân sự

02

BLTTDS

Bộ Luật Tố tụng Dân sự

03

HĐXX


Hội đồng xét xử

04

LHNGĐ

Luật Hơn nhân và gia đình

05

TAND

Tịa án nhân dân

06

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG TẬP QUÁN TRONG GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TỊA ÁN NHÂN DÂN 10
1.1 Áp dụng tập quán để giải quyết tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo
yêu cầu của đương sự .........................................................................................11
1.2. Tòa án áp dụng tập quán để giải quyết tranh chấp về hơn nhân và gia
đình .......................................................................................................................18

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................. 21
CHƯƠNG 2. XÁC ĐỊNH VÀ ÁP DỤNG TẬP QUÁN TRONG GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP VỀ HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN 22
2.1. Xác định tập quán về hơn nhân và gia đình để áp dụng tại Tòa án .......22
2.1.1. Chủ thể xác định tập quán...................................................................... 22
2.1.2. Nội dung của tập quán ........................................................................... 25
2.2. Áp dụng tập quán trong việc giải quyết tranh chấp về hôn nhân và gia
đình tại Tịa án nhân dân ...................................................................................31
2.2.1. Tịa án khơng áp dụng tập qn mặc dù tập qn có tính phổ biện và
tồn tại ở địa phương. ........................................................................................ 31
2.2.2. Cùng một tập quán nhưng các Tòa án khác nhau áp dụng khác nhau. . 33
2.2.3. Về áp dụng tập quán để giải quyết tranh chấp về tài sản khi ly hôn. .... 34
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................. 37
KẾT LUẬN CHUNG ....................................................................................... 38
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi nói đến tập quán, là nói đến một loại quy tắc xử sự trong đời sống, có vai
trị quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi của con người. Trong quá trình tồn tại
và phát triển, để xã hội trật tự, ổn định, đáp ứng yên cầu, ý chí của một nhóm người,
một cộng đồng nhất định, tập quán ra đời nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội đó.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, mỗi dân tộc, mỗi vùng miền lại có những tập
quán khác nhau, tồn tại lâu đời và ít nhiều chi phối đến đời sống của người dân.
Trong chuỗi hệ thống tập quán các vùng miền từ Bắc chí Nam, có thể nói tập
qn tồn tại lâu đời và được xã hội quan tâm nhiều đó là các tập qn về hơn nhân
và gia đình. Trong lĩnh vực này có rất nhiều tập qn tiến bộ, tốt đẹp, đảm bảo

quyền lợi, lợi ích hợp pháp, giúp người dân dễ dàng giải quyết các tranh chấp về
hơn nhân và gia đình. Tuy nhiên, những tập quán lạc hậu làm hạn chế quyền con
người, xâm phạm trực tiếp đến những quyền lợi của công dân vẫn cịn tồn tại.
Hiện nay, Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 đã có hiệu lực thi hành,
nhưng một bộ phận người dân, nhất là người đồng bào dân tộc thiểu số, vẫn còn hạn
chế trong việc tiếp cận và thực hiện các quy định. Nhiều nơi vẫn tiến hành áp dụng
tập quán để giải quyết các tranh chấp về hơn nhân và gia đình, xem đó như là một
quy tắc xử sự bất thành văn được coi trọng và chi phối không nhỏ đến đời sống
người dân.
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 khẳng định: “Nhà nước có chính sách, biện
pháp bảo hộ hơn nhân và gia đình, tạo điều kiện để nam, nữ xác lập hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng; xây dựng gia đình ấm no,
tiến bộ, hạnh phúc và thực hiện đầy đủ chức năng của mình; tăng cường tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình; vận động nhân dân
xóa bỏ phong tục, tập qn lạc hậu về hơn nhân và gia đình, phát huy truyền thống,
phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc”1.
Tuy nhiên, quá trình áp dụng pháp luật HNGĐ để giải quyết các tranh chấp
về hơn nhân và gia đình cịn nhiều bất cập:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật về hôn nhân và gia đình đã có quy định cho
phép các đương sự viện dẫn tập quán để yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nhưng
1

Khoản 1 Điều 4 Luật HNGĐ 2014


2
những quy định này chưa cụ thể, dẫn đến việc Tòa án còn lúng túng khi xác định
các tập quán do đương sự viện dẫn, yêu cầu.
Thứ hai, một số quy định tại Điều 6 Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31
tháng 12 năm 2014, hướng dẫn: “Trong thời hạn ba năm kể từ ngày Nghị định này

có hiệu lực, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xây dựng, trình Hội đồng
nhân dân cùng cấp phê duyệt danh mục các tập qn về hơn nhân và gia đình được
áp dụng tại địa phương”. Tuy nhiên, khi khảo sát trong thực tiễn, các địa phương
vẫn chưa xây dựng được các danh mục tập quán theo quy định của pháp luật. Từ đó,
việc áp dụng tập qn về hơn nhân và gia đình tại TAND khơng thực hiện được do
khơng có cơ sở pháp lý.
Thứ ba, do chưa có sự thống nhất trong việc áp dụng tập qn hơn nhân và
gia đình nên việc TAND các địa phương ngại áp dụng tập quán. Do đó, chưa thực
sự phát huy được quy định tại khoản 2 Điều 4 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Xuất phát từ thực tiễn trên, người viết chọn đề tài: “Áp dụng tập quán trong
giải quyết tranh chấp về hơn nhân và gia đình tại Tịa án nhân dân” để làm đề tài
luận văn cao học Luật chuyên ngành Luật dân sự và Tố tụng dân sự - Định hướng
ứng dụng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua quá trình nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến áp dụng tập quán trong
giải quyết tranh chấp về hơn nhân và gia đình ở Tịa án nhân dân (TAND), người
viết đã được đọc, nghiên cứu một số sách chuyên khảo, luận văn thạc sỹ luật học và
các bài viết trên các tạp chí, trong đó có thể kể đến một số các tài liệu như sau:
Sách, giáo trình

- Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2016), “Giáo trình Luật Hơn
nhân và gia đình”, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam. Cuốn sách phân
tích những khái niệm, nội dung cơ bản về chế định đại diện của cha, mẹ đối
với con (đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền), đang được quy
định trong Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014, nhưng giáo trình lại chưa
phân tích cụ thể về các bất cập đang tồn tại trong chế định này.
- Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học – Những điểm mới của Bộ luật
dân sự năm 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Tp. Hồ Chí Minh.



3

Với tài liệu chuyên khảo trên đây, tác giả đã phân tích, nghiên cứu những điểm
mới của Bộ luật dân sự năm 2015 với mục đích phổ biến các quy định mới,
cung cấp cho người đọc sự nhìn nhận một cách tổng quan và sâu hơn về các
quy định của pháp luật dân sự, đồng thời cũng đưa ra những đánh giá về ưu,
nhược điểm của các quy định mới trong Bộ luật dân sự 2015. Ngồi ra, tác giả
cịn lồng ghép bình luận, phân tích về sự thay đổi giữa Bộ luật dân sự năm
2005 và 2015. Vấn đề liên quan đến việc áp dụng tập quán trong giải quyết vụ
việc hơn nhân và gia đình có được tác giả đề cập đến khi bình luận các bản án
liên quan đến áp dụng tập quán dân sự nói chung. Song, vấn đề liên quan đến
đề tài luận văn chưa thực sự được nghiên cứu và phân tích độc lập.
- Đỗ Văn Đại (2010), Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản
án, Sách chuyên khảo, Nxb Chính trị quốc gia. Đây có thể xem là một cơng trình
khá mới mẻ đề cập đến vấn đề áp dụng tập quán trong xét xử dân sự. Trong đó, tác
giả có đề cập đến vụ án dân sự về tranh chấp điểm đánh bắt hải sản được tòa án áp
dụng tập quán để giải quyết (còn gọi là vụ án “Cây chà 19 tiếng”). Tuy nhiên, nội
dung bình luận chỉ dừng lại việc áp dụng tập quán nói chung về dân sự và tác giả
đồng ý với việc áp dụng tập quán trong vụ án trên. Điều này góp phần quan trọng
trong việc tìm hiểu các cơ sở khoa học liên quan đến đề tài luận văn về việc áp dụng
các tập quán trong giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình.
- Đỗ Văn Đại (2009), Luật thừa kế Việt Nam: Bản án và bình luận bản án,
sách chuyên khảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong quyển sách này, tác giả
nêu ví dụ minh họa là khi có tranh chấp về thời điểm mở thừa kế, Tịa án địa
phương huyện Đơng Anh - Hà Nội căn cứ vào giấy chứng tử lập năm 2004 để xác
định người để lại di sản chết tháng 01/1995. Nhưng tại cấp phúc thẩm, Tịa án có
thẩm quyền đã xem xét bia mộ khi cải táng, khẳng định bia mộ khi cải táng ghi
ngày mất của người để lại di sản là 02/01/1994, cải táng vào tháng 11/1996, và theo
tập quán địa phương, người chết sau 27 tháng mới được cải táng, như vậy giấy
chứng tử ghi thời điểm chết tháng 01/1995 là khơng phù hợp, vì nếu chết vào thời

điểm đó, lúc cải táng là lúc chưa đủ 27 tháng. Như vậy, vấn đề áp dụng tập quán
cũng được tác giả đề cập đến trong nghiên cứu viết sách.
- David J.Bederman (2010), Custom as a Source of Law, Cambridge
University Press, 138. Tập quán là một loại nguồn của pháp luật (Custom as a


4
Source of Law). Cuốn sách được kết cấu làm ba phần. Phần 1, tác giả trình bày
những quan điểm về tập quán pháp từ các góc độ: nhân chủng học, văn hóa, lịch sử,
kinh tế v.v.. Phần 2, của cuốn sách tác giả viết về tập quán trong các hệ thống pháp
luật quốc gia, cụ thể là trong những lĩnh vực pháp luật như: Luật Gia đình, Về tài
sản, Hợp đồng, Luật Hiến pháp, Vi phạm pháp luật v.v.. Phần 3, trình bày về tập
quán trong pháp luật quốc tế, gồm công pháp và tư pháp. Trong phần kết luận của
cuốn sách, tác giả phân tích lý do bằng cách nào và tại sao tập quán có thể tồn tại và
được thừa nhận. Cùng chủ đề này có nhiều cơng trình tương tự, chẳng hạn như cơng
trình: Custom as a Source of International Law của tác giả Michael Akehurst
(Michael Akehurst (1975), Custom as a Source of International Law, Oxford
Journals, Law, British Yearbook of International Law, Volume 47 Issue 1, Pp 1-53)
viết về tập quán như một loại nguồn của luật quốc tế.
- Các cơng trình nghiên cứu, luận văn
+ Tịa án nhân dân tối cao - Báo Công lý (2013), Tài liệu Hội thảo về áp
dụng tập quán trong công tác xét xử. Thông qua Hội thảo, các tham luận đã góp
phần xác định vai trị nguồn bổ trợ của tập quán đối với pháp luật; đồng thời, đánh
giá về thực trạng lý luận, pháp lý và thực trạng áp dụng tập quán trong xét xử ở Việt
Nam hiện nay. Các tham luận cho rằng, ở nước ta, cơ sở pháp lý để cơng nhận và áp
dụng tập qn cịn nhiều hạn chế. Việc áp dụng tập quán trong thực tiễn cịn gặp
nhiều khó khăn bắt nguồn bởi nhiều ngun nhân như: nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Tòa án nói riêng và hệ thống cơ quan tư pháp nói chung chưa tạo điều
kiện rộng rãi cho áp dụng tập quán; những hạn chế về mặt lý luận và nâng cao nhận
thức; cơ sở pháp lý còn bất cập v.v.. Tài liệu Hội thảo này có thể xem là cơng trình

gần với luận văn. Tuy nhiên, các tham luận mới chỉ đề cập đến những vấn đề riêng
biệt. Mặc dù vậy, đây là một cơng trình nghiên cứu có giá trị tham khảo lớn đối với
luận văn, vì đã tập hợp được tiếng nói của các nhà khoa học về việc áp dụng tập
quán ở Việt Nam.
+ Phan Đăng Nhật (2007), "Tòa án phong tục: một kiểu vận dụng luật tục có
hiệu quả", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3. Cơng trình này đề cập đến một
hình thức xét xử khác bên cạnh tòa án của nhà nước, đó là tịa án phong tục. Tác giả
cho rằng hình thức xét xử này mang lại những hiệu quả nhất định cho việc giữ gìn
trật tự xã hội ở những địa phương có nhiều phong tục tập quán.


5
+ Nguyễn Thị Tĩnh (2006), Mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục Ê-đê (qua
thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh ĐakLak), Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội.Trong Chương 2 của luận văn, tại, tác giả đánh giá thực trạng
mối quan hệ giữa pháp luật và luật tục Ê-đê, trong đó có phần đánh giá thực trạng
mối quan hệ pháp luật và luật tục trong hoạt động áp dụng luật tục. Tác giả cho biết
hoạt động áp dụng luật tục diễn ra trên cả hai góc độ: có sự tham gia của Nhà nước và
khơng có sự tham gia của Nhà nước. Tác giả khẳng định TAND có áp dụng luật tục
Ê-đê trong những trường hợp được pháp luật cho phép để giải quyết các tranh chấp
dân sự, nhưng tác giả khơng cung cấp được một tình huống cụ thể. Tuy nhiên, cơng
trình đã nêu một số trường hợp áp dụng luật tục trong giải quyết các tranh chấp dân
sự được thực hiện bởi các trưởng buôn trong phạm vi pháp luật cho phép.
+ Nguyễn Thị Minh Phương (2007), Áp dụng phong tục, tập qn về hơn
nhân và gia đình đối với đồng bào dân tộc thiểu số theo quy định của pháp luật Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Đây là cơng trình
nghiên cứu chuyên sâu về áp dụng phong tục, tập quán trong một lĩnh vực của quan
hệ dân sự theo nghĩa rộng, đó là lĩnh vực hơn nhân và gia đình. Tác giả đã đánh giá
thực trạng áp dụng phong tục, tập quán trong từng nhóm quan hệ xã hội như kết
hôn, ly hôn, quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và các con, quan hệ pháp luật giữa vợ và

chồng. Có thể xem đây là những nội dung cơ bản có liên quan đến đề tài luận văn.
- Bài báo, tạp chí
+ Bộ Tư pháp (1998), Thơng tin Khoa học pháp lý, số 5. Tập tài liệu này có
những bài viết liên quan như: “Vấn đề phong tục tập quán và việc áp dụng các quy
định của pháp luật đối với quan hệ hơn nhân và gia đình của đồng bào các dân
tộc”, của tác giả Lê Hương Lan, Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế, Bộ Tư pháp; “Việc
áp dụng tập quán trong xét xử các vụ án dân sự, hơn nhân và gia đình ở n Bái”,
của tác giả Hồng Thị Long, Phó Chánh án TAND tỉnh Yên Bái. Đây là những bài
viết cung cấp những luận cứ có giá trị khoa học liên quan đến đề tài luận văn.
+Trên trang có bài viết “Tranh chấp sính lễ
khi hơn ước bị hủy bỏ” của tác giả Đỗ Văn Đại và Lê Thị Diễm Phương. Bài viết đề
cập đến vấn đề áp dụng các tập quán trong giải quyết vụ việc hơn nhân và gia đình
và được minh chứng bằng các bản án tại Tòa án nhân dân Tỉnh Long An và Vĩnh
Long. Điều này góp phần quan trọng cho tác giả có cơ cở khoa học để hoàn thiện đề
tài luận văn.


6
+ Nguyễn Hồng Hải, Một số vấn đề về áp dụng phong tục tập quán trong giải
quyết các tranh chấp về hơn nhân và gia đình (). Trong bài
viết này, tác giả nêu khái niệm phong tục, tập quán trong hơn nhân và gia đình, một
số ngun tắc, điều kiện trong áp dụng tập quán về hôn nhân và gia đình. Các
nguyên tắc và điều kiện áp dụng mà tác giả trình bày phù hợp với quy định của
pháp luật và có ý nghĩa trong việc áp dụng phong tục, tập quán khi giải quyết các
tranh chấp về hôn nhân, gia đình ở Việt Nam hiện nay.
+ Tại trang />ngày 23/09/2014, tác giả Tự Cường có bài “Áp dụng tập qn về hơn nhân gia đình
gặp nhiều vướng mắc. Bài viết là những câu hỏi cho việc áp dụng tập quán trước
“một rừng tập quán” và thẩm quyền xác định tập quán thuộc về đơn vị nào. Tác giả
cũng nêu lên vấn đề hiện nay pháp luật về hôn nhân gia đình đã cho phép áp dụng các
tập quán tốt đẹp nhưng thực tế áp dụng tập quán ở một số địa phương còn chưa hiệu

quả, thiếu sự thống nhất.
+ Tác giả ĐinhThị Tâm – Khoa Luật, Đại học Ngoại thương Hà Nội có bài
viết Tập quán và nguyên tắc áp dụng tập quán theo Bộ luật dân sự 2015
ngày 12/8/2017. Trong bài viết này tác giả
khẳng định tập quán nguồn hỗ trợ, bổ sung cho pháp luật, là tiền đề giúp cho pháp luật
đi vào đời sống xã hội và là nguồn nội dung của pháp luật. Đồng thời, bài viết cũng nêu
lên các nguyên tắc áp dụng tập quán theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015.
+ Trên trang Kinh tế và Pháp luật ngày 15/05/2019 có
bài “Mở” trong áp dụng phong tục, tập quán về hơn nhân và gia đình . Bài viết cho
rằng hiện nay ở nước ta có rất nhiều phong tục, tập quán được người dân các địa
phương duy trì. Các quy định trong Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 đã chính
thức ghi nhận việc áp dụng tập quán nhưng thực tế vẫn cịn khó khăn cho các cơ
quan có liên quan trong giải quyết các vụ việc về HNGĐ và cũng chưa phát huy
được tính chất tốt đẹp của tập quán mà chính Luật đặt ra. Trong bài viết cũng đề cập
đến vấn đề thực tiễn tại một số địa phương như Lai Châu, Cao Bằng, Tuyên Quang,
Thanh Hóa, Quảng Ninh vẫn cịn một số tập qn ở những thơn bản vùng cao, vùng
sâu, vùng xa cịn hiện tượng đặt dâu trước, tục ở rể (mặc dù chúng chỉ mang tính
hình thức); tình trạng tảo hơn và hơn nhân cận huyết; việc đăng ký kết hôn không
do UBND cấp xã thực hiện; cấm kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi từ


7
bốn đời trở lên; bắt buộc người phụ nữ góa chồng hoặc người đàn ơng góa vợ, nếu
kết hơn với người khác thì phải trả lại tiền cưới cho nhà chồng cũ hoặc nhà vợ cũ;
đòi lại của cải, phạt vạ khi vợ, chồng ly hôn…Với những tập quán trên, rất khó có
thể xác định đâu là tập quán cần được kế thừa và phát huy hay tập quán nào cần
được xóa bỏ vì quan niệm của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng, tầng lớp xã hội
khác nhau. Do đó, áp dụng pháp luật vào đời sống cịn gặp khó khăn.
Nhìn chung, các cơng trình trên đây là nguồn tư liệu quý giá để người viết có
thể nghiên cứu luận văn cũng như nhiều người nghiên cứu khác tham khảo. Các cơng

trình nghiên cứu này đã đề cập về tập qn về hơn nhân và gia đình dựa trên thực tiễn
phát sinh trong đời sống nhân dân và nhu cầu cần ghi nhận một số tập quán tốt đẹp
trong luật. Tuy nhiên, có một số cơng trình nghiên cứu đã lâu, đặt trong bối cảnh
chưa ban hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên chưa đáp ứng đòi hỏi của
quy định mới. Kế thừa những giá trị cốt lõi nêu trên, tác giả phát triển đề tài: Áp dụng
tập quán trong giải quyết tranh chấp về hôn nhân và gia đình TAND
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Đề tài nhằm làm rõ việc áp dụng tập qn trong giải quyết tranh chấp hơn
nhân và gia đình tại TAND theo quy định pháp luật hiện hành. Luận văn sẽ tập
trung phân tích các vấn đề phát sinh trong thực tiễn, những vướng mắc, bất cập khi
TAND áp dụng tập quán để giải quyết các tranh chấp về hơn nhân và gia đình.
Đồng thời đề xuất những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật tại
Điều 6 Nghị định 126 hướng dẫn thi hành Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.
- Nghiên cứu các quy định và các văn bản, bản án có liên quan trong việc áp
dụng các tập quán để giải quyết vụ việc hơn nhân và gia đình ở Việt Nam.
- Làm rõ thực trạng áp dụng quy định của pháp luật về áp dụng các tập quán
để giải quyết vụ việc hơn nhân và gia đình ở Việt Nam.
Để thực hiện mục đích đó, nhiệm vụ của đề tài:
- Nghiên cứu, tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống quy định của pháp
luật về áp dụng các tập quán để giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình ở Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật vào áp dụng
các tập quán để giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình ở Việt Nam.
- Kiến nghị hồn thiện pháp luật về việc áp dụng các tập quán để giải quyết
vụ việc hơn nhân và gia đình ở Việt Nam.


8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng của nghiên cứu của luận văn là những quy định của pháp luật Việt

Nam về áp dụng các tập quán để giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi nội dung
Nội dung đề tài tập trung nghiên cứu và làm sáng tỏ về việc áp dụng các tập
quán để giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình tại TAND ở Việt Nam.
+ Phạm vi khơng gian
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của Luật HNGĐ 2014, Bộ
Luật Dân sự, Bộ Luật tố tụng dân sự và các quy định về áp dụng các tập quán để giải
quyết vụ việc hôn nhân và gia đình kể từ khi các văn bản này có hiệu lực cho đến nay.
+ Phạm vi thời gian
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của luật HNGĐ 2014
có hiệu lực pháp luật từ ngày 1.1.2015 về áp dụng các tập quán để giải quyết vụ
việc hơn nhân và gia đình ở Việt Nam. Ngồi Luật HNGĐ 2014, các văn bản
hướng dẫn sau đây cũng được sử dụng để triển khai đề tài: Nghị định
126/2014/NĐ-CP, Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hơn
nhân và gia đình, Thơng tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP,
Hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hơn nhân và gia đình. Các văn bản
này đều được ban hành để hướng dẫn thi hành HNGĐ 2014 nên về thời gian có
hiệu lực là sau ngày 1.1.2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết được các vấn đề đặt ra trong đề tài cần rất nhiều phương pháp
nghiên cứu. Trong quá trình thực hiện, tác giả sẽ sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu để làm rõ nội dung đề tài cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích được sử dụng khi nghiên cứu để phân tích các vấn
đề pháp lý, các quy định pháp luật và nội dung các bản án để làm rõ các vấn đề trình
bày trong luận văn. Đồng thời phương pháp này cịn được sử dụng trong việc phân
tích những khó khăn, vướng mắc của việc áp dụng tập quán để từ đó đưa ra những
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.



9
- Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ việc áp dụng tập quán của Tòa
án nhân dân ở các nơi khác nhau, việc so sánh này thông qua các bản án đã được áp
dụng nhằm làm rõ việc áp dụng tập quán còn chưa thống nhất ở các địa phương.
- Phương pháp liệt kê được sử dụng khi trình bày về kết quả giải quyết các vụ
án hơn nhân và gia đình có áp dụng các tập quán để giải quyết.
- Phương pháp bình luận bản án được sử dụng để phân tích các quyết định của
Tịa án trong xét xử, từ đó rút ra những đánh giá về tính đúng đắn của các phán quyết.
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện
pháp luật về áp dụng tập quán để giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia đình
tại TAND. Ngồi ra, phương pháp tổng hợp cũng xuất hiện trong toàn bộ nội dung
luận văn, đặc biệt phương pháp này được dùng để tổng kết những kiến thức đã được
triển khai trước đó, giúp người đọc thâu tóm được vấn đề đã trình bày.
Mỗi phương pháp nghiên cứu đem lại những hiệu quả nhất định trong việc
thực hiện mục đích, nhiệm vụ của luận văn và thơng qua đó truyền tải được những
nội dung với logic của nó mà tác giả hướng đến.
6. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng các kết quả
nghiên cứu
Đề tài sẽ là một cơng trình có tính thực tiễn trong việc áp dụng tập quán để
giải quyết các tranh chấp về hơn nhân và gia đình tại TAND. Do đó, đề tài sẽ là tài
liệu tham khảo có ý nghĩa quan trọng cho các cơng trình nghiên cứu về áp dụng tập
quán. Kết quả nghiên cứu sẽ quyết nhiều vấn đề pháp lý, vướng mắc đặt ra trong
thực tiễn áp dụng tập quán tại TAND.
Đề tài có giá trị tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu và thi hành pháp luật
tại cơ quan tư pháp.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận cũng như danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn bao gồm 02 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Điều kiện áp dụng tập quán trong giải quyết tranh chấp về
hơn nhân và gia đình tại Tịa án nhân dân.

Chương 2: Xác định và áp dụng tập quán trong giải quyết tranh chấp về
hơn nhân và gia đình tại Tịa án nhân dân.


10
CHƯƠNG 1
ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG TẬP QUÁN TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
VỀ HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH TẠI TỊA ÁN NHÂN DÂN
Việt Nam là một quốc gia có 54 dân tộc với nhiều phong tục, tập quán lâu đời
và khác nhau về ngơn ngữ, lối sống, tơn giáo. Ngồi dân tộc Kinh chiếm đa số, 53
dân tộc còn lại (chiếm khoảng 14%) sinh sống chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa và các
địa bàn rất khó khăn về điều kiện kinh tế - xã hội. Việt Nam còn là một quốc gia
nông nghiệp với hơn 75% dân số sinh sống tại nơng thơn, cịn tồn tại sự chênh lệch
tương đối lớn về trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và giáo dục giữa các
vùng, miền. Đặc biệt, nhiều người dân các vùng nông thôn, miền núi hay vùng đồng
bào các dân tộc khơng những có mức sống thấp, mà trình độ dân trí và điều kiện
tiếp cận kiến thức pháp lý cũng còn rất hạn chế.
Với lý do này, mặc dù các quy định pháp luật ngày càng dần hoàn thiện điều
chỉnh các mối quan hệ trong xã hội trật tự ổn định và phát triển hơn. Tuy nhiên, các
khu vực và một số địa bàn trên lại thường có xu hướng tồn tại và phát triển với
chính văn hóa và tập qn pháp của địa phương mình. Họ xem tập quán là một bộ
phận quan trọng trong vốn văn hố truyền thống, của một nhóm người, cộng đồng
người và chi phối ít nhiều đến cuộc sống của họ.
Trong quá trình quản lý xã hội, Nhà nước đã dùng cơng cụ rất sắc bén để
quản lý đó là ban hành hệ thống các quy định để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Đồng thời Nhà nước luôn tạo mọi điều kiện để người dân thực hiện tốt các quy định
của pháp luật, góp phần làm cho xã hội trật tự, ổn định và phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh các quy định của pháp luật, Nhà nước còn thừa nhận các
quy phạm về tập quán để quản lý xã hội. Vì các quy định pháp luật chỉ điều chỉnh
các mối quan hệ xã hội chung, phổ biến; còn quy phạm trong tập quán điều chỉnh

các mối quan hệ trong một cộng đồng, một nhóm người nhất định. Nếu chỉ áp dụng
pháp luật mà không áp dụng tập quán sẽ khơng đảm bảo tính dân chủ, chưa đáp ứng
được ý chí, nguyện vọng của Nhân dân trong tồn bộ xã hội. Nhà nước Việt Nam
tôn trọng nhiều tập quán tốt đẹp, trong nhiều trường hợp, các tập quán có vai trò
quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp xuất phát từ nội bộ cộng đồng.
Bên cạnh sự tác động qua lại giữa pháp luật và tập quán, lợi ích của việc áp
dụng tập quán để giải quyết tranh chấp về hơn nhân và gia đình được thể hiện ở ba
phương diện.


11
Thứ nhất, tập quán có khả năng thay thế sự điều chỉnh của pháp luật trong
một số quan hệ xã hội nhất định, mang tính linh hoạt và thích ứng cao. Chẳng hạn,
trong điều kiện trình độ phát triển của các cộng đồng cịn khác nhau thì các quy
phạm pháp luật ở trình độ khái qt cao khó xâm nhập vào một số lĩnh vực cụ thể
của đời sống cộng đồng. Ví dụ như các quy định về chia thừa kế theo pháp luật
cũng khó áp dụng đối với một bộ phận dân cư2. Vì vậy, tập quán ở các trường hợp
này có ý nghĩa quan trọng để thay thế pháp luật.
Thứ hai, tập qn pháp có vai trị bổ sung cho pháp luật trong những điều
kiện nhất định. Vì trong thực tiễn luôn tồn tại những vấn đề cụ thể mà pháp luật
chưa quy định hoặc quy định chưa đầy đủ. Trong những trường hợp đó, tập quán
với vai trò như một cơ sở pháp lý thuyết phục cho các phán quyết của Tòa án để
giải quyết các tranh chấp.
Thứ ba, áp dụng tập quán pháp phù hợp góp phần làm cho pháp luật được
thực hiện một cách tự giác. Vì trong một số trường hợp, người dân dùng chính
những xử sự trong tập quán để giải quyết các tranh chấp. Ví dụ: ly hơn theo tập
qn người Mơng là không cần giải quyết tại TAND.
Từ những vấn đề nêu trên việc nghiên cứu hoạt động áp dụng tập quán để
giải quyết tranh chấp về hôn nhân và gia đình tại Tịa án nhân dân là cần thiết và có
ý nghĩa.

1.1. Áp dụng tập quán để giải quyết tranh chấp về hơn nhân và gia đình
theo u cầu của đương sự
Hơn nhân và gia đình là một trong những lĩnh vực quan trọng trong đời sống
dân cư, được Nhà nước ban hành hệ thống các quy định để điều chỉnh các mối quan
hệ trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, khơng phải lúc nào các quy định pháp luật cũng
có thể điều chỉnh tất cả các mối quan hệ xã hội, tranh chấp xảy ra trong thực tiễn.
Do đó, sẽ có tranh chấp xảy ra nhưng khơng có quy phạm pháp luật điều chỉnh thì
Nhà nước cho phép áp dụng tập quán.
Việc áp dụng tập quán để giải quyết các tranh chấp về hơn nhân và gia đình
quy định tại khoản 1 Điều 45 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015. Theo đó, khi u cầu Tịa
án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền viện dẫn tập quán để yêu cầu Tòa án
Một bộ phận người dân ở huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau không chia tài sản cho con gái khi đi lấy
chồng. Ruộng đất khi bố mẹ chết chỉ để lại cho con trai.
2


12
xem xét áp dụng. Trường hợp các đương sự viện dẫn các tập qn khác nhau thì tập
qn có giá trị áp dụng là tập quán được thừa nhận tại nơi phát sinh vụ việc dân sự.
Theo khoản 1, Điều 5 của Bộ Luật Dân sự 2015: Tập quán là quy tắc xử sự
có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan
hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài,
được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân
cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự. Trường hợp các bên khơng có thoả thuận và
pháp luật khơng quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng
không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3
của Bộ luật này.
Theo Điều 2 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2014 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hơn nhân và
Gia đình quy định về nguyên tắc áp dụng tập quán: Tập quán được áp dụng phải là

quy tắc xử sự phù hợp với quy định tại Khoản 4 Điều 3 của Luật Hơn nhân và gia
đình. Việc áp dụng tập qn phải tuân theo các điều kiện được quy định tại Điều 7
của Luật Hơn nhân và gia đình là Tơn trọng sự thỏa thuận của các bên về tập quán
được áp dụng3.
Với quy định trên, các đương sự được viện dẫn tập quán và quyền được thỏa
thuận lựa chọn tập quán để yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết các tranh chấp về hơn
nhân và gia đình. Do đó, khi Tòa án giải quyết các vụ tranh chấp về hơn nhân và gia
đình khơng chỉ căn cứ vào quy định pháp luật mà còn áp dụng tập quán do đương
sự viện dẫn hoặc thỏa thuận. Nếu sau khi xem xét, các tập quán không trái với các
quy định pháp luật, đạo đức xã hội, được cộng đồng dân cư thừa nhận và tồn tại ở
địa phương thì TAND sẽ áp dung để giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực hơn nhân
và gia đình. Đây là quy định phù hợp với thực tiễn quản lý xã hội.
Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành, vấn đề pháp lý đặt ra, theo yêu cầu của
đương sự về áp dụng tập quán để giải quyết tranh chấp hơn nhân và gia đình có thể
có các trường hợp như sau:
Một, hai bên đương sự cùng viện dẫn tập quán yêu cầu Tòa án làm căn cứ
giải quyết tranh chấp về hôn nhân và gia đình nhưng các tập quán trái ngược nhau.
Điều 2 Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật Hơn nhân và Gia đình
3


13
Hai, một bên đương sự viện dẫn tập quán yêu cầu Tòa án làm căn cứ giải
quyết tranh chấp về hơn nhân và gia đình nhưng bên kia khơng chấp nhận; mặc dù
tập qn có tồn tại, khơng trái với quy định pháp luật, đạo đức xã hội.
Ba, chỉ một bên đương sự viện dẫn tập quán yêu cầu Tòa án làm căn cứ giải
quyết tranh chấp về hôn nhân và gia đình và bên cịn lại khơng có ý kiến.
Từ các trường hợp nêu trên, vấn đề đặt ra là Tòa án sẽ chọn tập quán nào để
giải quyết các tranh chấp.

Ví dụ: Bản án số 75/2018/DS-ST ngày 05 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân
dân huyện Cờ Đỏ thành phố Cần Thơ4 về “Tranh chấp đòi lại tài sản tặng cho”.
Theo bản án này, nguyên đơn là Bà Cao Thị Bạch H (nhà trai, mẹ của chú
rể); Bị đơn là Bà Hà Thị S (nhà gái, mẹ của cô dâu) và Chị Lương Thị Thiên T (cô
dâu, bị đơn). Bà H đã kiện đòi lại số tiền tổng cộng là 70.000.000 đồng với lý do chị
T đã khơng làm trịn bổn phận con dâu. Trong đó, 50.000.000 đồng là tiền tổ chức
lễ cưới và 20.000.000 đồng là tiền mà Bà H đã đưa cho con trai là Anh Lê Văn X
(chú rể) để lo cho một số việc như: chụp hình, trang điểm cơ dâu, quay phim.
Theo là chị Lương Thị Thiên T: chị hồn tồn khơng biết việc Bà Cao Thị
Bạch H đưa cho Anh Lê Văn X số tiền 20.000.000 đồng để anh X đi chụp hình,
quay phim, trang điểm cơ dâu, mua mâm bàn cưới, vì khi tổ chức lễ cưới, việc quay
phim, chụp ảnh của bên nào thì bên đó tự lo. Đối với trang điểm cơ dâu thì chị tự
trả, anh X khơng có trả. Cịn mua mâm bàn thì anh X có mua, nhưng đó là lễ
nhà trai tự đem qua theo phong tục thì buộc phải vậy. Cho nên, chị không đồng ý
trả cho Bà H số tiền 20.000.000 đồng theo yêu cầu khởi kiện của Bà H.
Theo Tòa án: “việc nhà trai giao tiền cho nhà gái chuẩn bị tiệc cưới là hoàn
toàn tự nguyện, điều này phù hợp với truyền thống, phong tục, tập quán của nhà
nước về cưới hỏi. Pháp luật không quy định nhà trai phải đưa tiền cho nhà gái khi
tổ chức lễ cưới, nên việc bà H giao tiền cho bà S để lo lễ cưới cho các con là do các
bên tự thỏa thuận”. Trên thực tế, nhà gái đã tổ chức tiệc đón tiếp nhà trai khi rước
dâu và lễ cưới cũng đã tổ chức xong, bà S cũng đã dùng tiền để chuẩn bị cho việc
này. Còn đối với số tiền 20.000.000 đồng là chi phí bỏ ra vì mục đích phục vụ
chuyện hôn nhân của hai anh chị. Với nhận định trên, Tịa án đã khơng chấp nhận
u cầu khởi kiện của bà H.
4

Nội dung Bản án tại phụ lục 01 của luận văn


14

Qua thực tiễn áp dụng, tác giả nhận thấy đối với bản án này, Tòa án đã áp
dụng tập quán theo yêu cầu của đương sự Lương Thị Thiên T để giải quyết tranh
chấp đòi lại tài sản tặng cho trong việc tổ chức lễ cưới. Tòa án nhận định việc nhà
trai giao tiền cho nhà gái chuẩn bị tiệc cưới là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với
truyền thống, phong tục, tập quán, thực tiễn giải quyết tranh chấp trên. Đối với các
địa phương như Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Vĩnh Long, thành phố Hồ Chí Minh,
việc nhà trai đưa tiền sang giúp nhà gái để tổ chức lễ cưới, gọi là “nạp tài”5. Đây là
một trong những tập quán không thể thiếu khi tổ chức lễ cưới, là nghĩa vụ của nhà
trai góp cơng trả ơn ni dưỡng, sinh thành của ba, me cô dâu.
Theo phong tục cưới hỏi của người Việt Nam, khi tổ chức đám cưới, nhà trai
phải mang sính lễ, vàng, tiền nạp tài sang cho nhà gái. Đó là sự tự nguyện của nhà
trai, nhà gái khơng ép buộc. Theo pháp luật thì đó là hợp đồng tặng cho tự nguyện.
Vì thế, khi hạnh phúc của đôi trẻ không trọn vẹn, mối quan hệ giữa hai bên thông
gia bất đồng, nhà trai đi kiện địi sính lễ nhưng thường rất khó khăn và bị Tịa án
bác đơn6.
Xét ở góc độ thực tế, phán quyết của Tòa án về đòi tiền nạp tài là phù hợp và
đảm bảo các điều kiện theo quy định của pháp luật vì các lý do sau:
Một, việc người phụ nữ bị hủy hôn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín, danh dự
nhân phẩm của mình, cuộc sống hơn nhân sau này ít nhiều sẽ bị ảnh hưởng. Trong
khi số tiền nhà trai đưa cho nhà gái không chỉ để phục vụ riêng cơ dâu mà cịn phục
vụ cho việc tổ chức lễ cưới. Do đó TAND áp dụng tập quán không chấp nhận đơn
khởi kiện là hợp lý.
Hai, so với công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ cơ dâu, tổn thất về uy tín, danh
dự mà cơ dâu phải gánh chịu sau khi bị hủy hôn là rất lớn.
Ba, đây là tập quán được tồn tại phổ biến, lâu đời ở nhiều địa phương; đồng
thời không trái với đạo đức xã hội, pháp luật nên Tòa án xem xét làm căn cứ giải
quyết tranh chấp là phù hợp.
Như vậy, việc TAND huyện Cờ Đỏ thành phố Cần Thơ quyết định không
chấp nhận khởi kiện của Bà Cao Thị Bạch H là đúng với ý chí của đương sự.
5


gi/#:~:text=C%C3%B3%20th%E1%BB%83%20l%C3%A0%20t%E1%
BB%AB%205,v%C3%A0%20c%C3%B4%20d%C3%A2u%20ch%C3%BA%20r%E1%BB%83.
6
(Phụ lục 04)


15
Trong vụ án trên, theo tác giả, mặc dù Tòa án không viện dẫn được cụ thể
nguồn của tập quán, nhưng nhận định việc nhà trai giao tiền cho nhà gái chuẩn bị
tiệc cưới là hoàn toàn tự nguyện, điều này phù hợp với truyền thống, phong tục, tập
quán ở địa phương nên được chấp nhận. Trước đây, theo Điều 100, Điều 101, Điều
102 Chương thứ nhất, sự đính hơn quy định tại Sắc luật số 028 TT/SLU, Bộ Dân
luật ngày 20 tháng chạp năm 1972 của Tổng thống Việt Nam Cộng hịa ban hành7.
Hiện nay, Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 khơng có quy định về đính hơn.
Đính hơn chỉ là tập qn để hai bên nam nữ cũng như nhà trai và nhà gái có sự giao
ước với nhau, tạo niềm tin để tiến tới hôn nhân. Việc tổ chức lễ đính hơn khơng
đồng nghĩa với việc làm phát sinh quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng.
Qua thực tiễn áp dụng tập quán để giải quyết tranh chấp về hơn nhân và gia
đình theo u cầu của đương sự, tác giả nhận thấy có những bất cập như sau:
Thứ nhất, pháp luật chưa có quy định danh mục tập qn về hơn nhân và gia
đình để Tòa án áp dụng.
Theo phụ lục Danh mục tập quán lạc hậu về hơn nhân và gia đình cần
vận động xóa bỏ hoặc cấm áp dụng, ban hành kèm theo Nghị định số
126/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 31 tháng 12 năm 2014 quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Hơn nhân và Gia đình thì tập quán được
chia thành hai loại:
Các tập quán lạc hậu về hơn nhân và gia đình cần vận động xóa bỏ bao gồm:
Kết hôn trước tuổi quy định của Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000 (tảo hơn).
Việc đăng ký kết hôn không do Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện. Cưỡng ép kết

hôn do xem "lá số" và do mê tín, dị đoan; khơng kết hơn giữa người thuộc dân tộc
này với người thuộc dân tộc khác và giữa những người khác tôn giáo.
Các tập quán lạc hậu về hơn nhân và gia đình cấm áp dụng: Chế hộ hôn
nhân đa thê. Kết hôn giữa những người có cùng dịng máu về trực hệ, giữa những
Chương thứ nhất, Sự đính hơn: Điều thứ 100 - Con trai chưa đủ 17, con gái chưa đủ 15 tuổi, không thể
đính hơn.
Sự đính hơn chỉ có giá trị khi nào đã được làm một cách trọng thể với sự ưng thuận của hai ngừơi đính
hơn và, nếu đương sự cịn vị thành niên, của ông bà, cha mẹ hay giám hộ, và sau khi nhà gái đã nhận lễ vật
của nhà trai.
Điều thứ 101 - Mỗi bên đều có thể từ hơn nhưng sẽ phải bồi thường nếu khơng có lý do chính đáng.
Trong mọi trường hợp lễ vật có thể hoàn lại, trừ vật tiêu thụ.
Điều thứ 102 - Những tố quyền liên quan đến sự đính hơn sẽ tiêu diệt sau thời hạn một năm kể từ ngày
bãi hôn.
7


16
người có liên quan dịng họ trong phạm vi ba đời. Tục cướp vợ để cưỡng ép người
phụ nữ làm vợ... Bắt buộc người phụ nữ góa chồng hoặc người đàn ơng gố vợ, nếu
kết hơn với người khác, thì phải trả lại tiền cưới cho nhà chồng cũ hoặc nhà vợ cũ.
Đòi lại của cải, phạt vạ khi vợ, chồng ly hơn.
Tuy nhiên, đây chỉ là một số ít các tập quán được quy định trong Nghị định
số 126/2014/NĐ-CP, trong khi đó, tập qn về việc tặng cho sính lễ không nằm
trong phụ lục các tập quán mà pháp luật quy định.
Thứ hai, về thỏa thuận áp dụng tập quán của các đương sự.
Theo quy định tại Điều 7, Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014: “Trong
trường hợp pháp luật khơng quy định và các bên khơng có thỏa thuận thì tập quán
tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không trái với nguyên tắc quy định tại
Điều 2 và không vi phạm điều cấm của Luật này được áp dụng; Chính phủ quy định
chi tiết khoản 1 Điều này”. Hướng dẫn thi hành khoản 2 Điều 7 Luật Hơn nhân và

Gia đình năm 2014, tại Điều 3 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP quy định về thỏa
thuận về áp dụng tập quán như sau: Quy định các bên khơng có thỏa thuận tại
Khoản 1 Điều 7 của Luật Hơn nhân và gia đình được hiểu là các bên khơng có thỏa
thuận về áp dụng tập qn và cũng khơng có thỏa thuận khác về vụ, việc cần được
giải quyết. Trường hợp các bên có thỏa thuận về tập quán được áp dụng thì giải
quyết theo thỏa thuận đó; nếu các bên khơng có thỏa thuận thì giải quyết theo quy
định tại Điều 4 của Nghị định này.
Theo quy định trên, khi Tòa án giải quyết các vụ tranh chấp về hơn nhân và
gia đình, đương sự có quyền thỏa thuận việc áp dụng tập quán. Tuy nhiên, nếu việc
thỏa thuận về tập quán giữa các bên không thành thì áp dụng tập quán nào?
Thứ ba, trách nhiệm về xây dựng danh mục tập quán được áp dụng tại các
địa phương. Theo Điều 6 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP, trong thời hạn ba năm kể
từ ngày Nghị định này có hiệu lực, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương có trách nhiệm xây dựng, trình Hội đồng nhân dân cùng cấp phê duyệt
danh mục các tập qn về hơn nhân và gia đình được áp dụng tại địa phương. Căn
cứ vào thực tiễn áp dụng tập qn về hơn nhân và gia đình tại địa phương, Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp sửa đổi, bổ sung danh mục tập
quán đã ban hành. Tuy Nghị định số 126/2014/NĐ-CP đã quy định như trên, song
cho đến nay, việc xây dựng tập quán để Tịa án giải quyết tranh chấp về hơn nhân


17
và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 45 Bộ Luật Tố tụng dân sự 2015 là
khơng có8.
Thực tiễn này buộc Tòa án phải áp dụng khoản 2 Điều 45 Bộ Luật Tố tụng dân
sự 2015 để giải quyết các tranh chấp về hơn nhân và gia đình. Theo đó, Tịa án áp
dụng tương tự pháp luật để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên khơng
có thỏa thuận, pháp luật khơng có quy định và khơng có tập qn được áp dụng theo
quy định tại Điều 5 của Bộ luật dân sự và khoản 1 Điều này. Khi áp dụng tương tự
pháp luật, Tòa án phải xác định rõ tính chất pháp lý của vụ việc dân sự, xác định rõ

ràng trong hệ thống pháp luật hiện hành khơng có quy phạm pháp luật nào điều chỉnh
quan hệ đó và xác định quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự.
Thứ tư, việc quy định trách nhiệm xây dựng các danh mục tập quán thuộc về
thẩm quyền Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là chưa phù
hợp vì các lý do sau:
Một, UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cơ quan hành
pháp, việc xây dựng danh mục tập quán làm căn cứ áp dụng theo tác giả nên là công
việc của cơ quan lập pháp.
Hai, Thẩm phán tại các Tòa án khi ban hành Bản án thông thường sẽ căn cứ
vào các quy định cụ thể tại các khoản, Điều, Luật, Nghị quyết chứ không căn cứ vào
Quyết định của UBND hoặc Quyết định của HĐND cấp tỉnh.
Ba, khi giao trách nhiệm xây dựng các danh mục tập quán thuộc về thẩm
quyền Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì cơ chế thực hiện
như thế nào, bộ phận nào tham mưu ban hành chưa quy định cụ thể. Theo tác giả,
đó cũng chính là một trong những lý do mà cho đến nay, khơng có địa phương nào
tiến hành xây dựng danh mục tập quán theo quy định tại Điều 6 Nghị định số
126/2014/NĐ-CP.
Kiến nghị:
Từ những bất cập trên, tác giả kiến nghị như sau:
Một, khi các bên đương sự cùng viện dẫn tập quán, nhưng các tập quán trái
ngược nhau hoặc một bên đương sự viện dẫn tập quán nhưng bên kia không chấp
Theo Báo cáo 195/BC-BTP ngày 22/6/2015 của Bộ Tư Pháp về dự kiến bước đầu tiếp thu, giải trình ý kiến
thẩm tra của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội thảo luận ở Tổ về dự án
BLDS (sửa đổi) đã được chỉnh lý trên cơ sở tiếp thu ý kiến của nhân dân.
8


18
nhận hoặc chỉ một bên đương sự viện dẫn tập qn và bên cịn lại khơng có ý kiến
thì Tịa án có thẩm quyền xem xét các tập quán phù hợp để làm căn cứ áp dụng.

Hai, trong trường hợp đương sự không viện dẫn tập quán, nhưng tại địa
phương có những tập quán tốt đẹp có lợi cho đương sự thì Tịa án có trách nhiệm
hướng dẫn để đương sự hiểu rõ về việc áp dụng tập quán và có thể thỏa thuận u
cầu Tịa án áp dụng.
1.2. Tịa án áp dụng tập quán để giải quyết tranh chấp về hơn nhân và
gia đình
Theo Khoản 1, Điều 14, Hiến pháp năm 2013: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và
pháp luật”9. Theo khoản 1, Điều 45, Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015, Tòa án áp dụng
tập quán khi: các bên khơng có thỏa thuận và pháp luật không quy định. Tập quán
không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3
của Bộ luật dân sự. Tịa án có trách nhiệm xác định giá trị áp dụng của tập quán bảo
đảm đúng quy định tại Điều 5 của Bộ luật dân sự.
Theo quy định trên, Tòa án áp dụng tập quán trong giải quyết tranh chấp về
hôn nhân và gia đình khi:
Thứ nhất, đương sự viện dẫn và yêu cầu Tòa án xem xét áp dụng tập quán tồn
tại lâu đời ở địa phương và được cộng đồng thừa nhận, không trái với đạo đức xã
hội và quy định pháp luật.
Thứ hai, các bên đương sự thỏa thuận, lựa chọn tập quán và yêu cầu Tòa án
xem xét áp dụng.
Thứ ba, các tập quán tốt đẹp được quy định tại trong các văn bản pháp luật
Thứ tư, đương sự khơng đề xuất tập qn để áp dụng.
Thứ năm, Tịa án kết hợp áp dụng tập quán và các quy định pháp luật đồng
thời để giải quyết tranh chấp của các đương sự.
Ví dụ: Bản án số 42/2010/DS-ST ngày 15 tháng 6 năm 2010 của Tòa án nhân
dân huyện Châu Thành tỉnh Long An10.

9


Khoản 1, Điều 14, Hiến pháp năm 2013
Nội dung Bản án tại phụ lục 02 của luận văn.

10


19
Ơng Thát và bà Thoa đã tổ chức lễ đính hôn vào ngày 25 tháng 9 (Âm lịch)
năm 2009. Tại lễ đình hơn, gia đình ơng Thát đã trao cho bà Thoa các tài sản: một
dây chuyền 05 chỉ vàng 24K, một vòng đeo tay (lắc) 05 chỉ vàng 24K, một đôi bông
tai 01 chỉ vàng 24K và 2.000.000 đồng, tiền “nạp tài”, đồng thời, ấn định ngày tổ
chức lễ cưới cho ông Thát và bà Thoa, ngày 25 và 26 tháng 01 (Âm lịch) năm 2010.
Sau đó hai bên phát sinh mâu thuẩn nên hôn lễ không diễn ra như kế hoạch. Ơng
Thát đã khởi kiện địi lại số tài sản đã cho bà Thoa.
Tòa án nhân dân huyện Châu Thành tỉnh Long An đã viện dẫn tập quán:
“Theo tập quán địa phương, hoa tai và tiền cho cô dâu may trang phục cưới là
bắt buộc nên bà Thoa được quyền giữ lại và không chấp nhận một phần khởi
kiện của đương sự. Các tài sản khác mà bà Thoa đang quản lý là một dây chuyền
05 chỉ vàng 24K, một vòng đeo tay (lắc) 05 chỉ vàng 24K, bà Thoa phải hồn trả
lại cho ơng Thát”. Bà Thoa phải trả lại số tài sản đã nhận của ông Thát theo tính
chất Hợp đồng tặng cho có điều kiện. Như vậy, Tòa án đã giải quyết tranh chấp cho
các đương sự bằng việc kết hợp tập quán và quy định pháp luật trong cùng một bản
án. Điều này là cần thiết vì đảm bảo uy tín, danh dự cho bà Thoa.
Tuy nhiên, trong bản án này, có ba vấn đề đặt ra:
Một là, việc viện dẫn tập quán trong bản án chưa cụ thể. Tòa án nhận định
đây là tập qn của địa phương nhưng khơng có cơ sở để thừa nhận đây là tập quán,
nên việc viện dẫn chưa thực sự thuyết phục.
Hai là, trong vụ án này cơ dâu phải trả lại rất nhiều sính lễ cho ông Thát,
trong khi bên muốn hủy việc kết hôn là do nhà trai. Lý do khơng kết hơn là vì
những tin nhắn không rõ ràng mà ông Thát “nghi ngờ bà Thoa có quan hệ khơng

trong sáng với người khác” là lý do chủ quan không thuyết phục.
Ba là, trong hệ thống pháp luật cũng khơng có quy định cụ thể sính lễ là tài
sản tặng cho có điều kiện, nên Tịa án u cầu nhà gái trả lại sính lễ cho nhà trai là
không công bằng.
Trong vụ án trên, theo tác giả, Tịa án nên chia đơi số tài sản đã tặng cho nhà
gái. Việc hủy kết hôn với lý do do ông Thát đưa ra là chưa thật sự phù hợp.
Qua thực tiễn áp dụng tập quán để giải quyết tranh chấp về hơn nhân và gia
đình, tác giả nhận thấy có những bất cập như sau:


20
Thứ nhất, pháp luật chưa quy định việc Tòa án đồng thời kết hợp các quy
định của pháp luật với tập quán về HNGD để giải quyết để giải quyết tranh chấp về
hơn nhân và gia đình. Quy định này là cần thiết để đảm bảo quyền lợi cho các
đương sự. Vì trên thực tế có rất nhiều bản án đã được TAND các địa phương vừa
kết hợp các quy định của pháp luật vừa xem xét tập quán để giải quyết các tranh
chấp về hơn nhân và gia đình.
Ví dụ: Ngày 24-10-2017, TAND TP Cần Thơ đưa ra xét xử phúc thẩm vụ
tranh chấp ly hôn giữa nguyên đơn là anh NAD và bị đơn là chị LKP11. Ngày 14-52020, TAND TP Cần Thơ xử phúc thẩm vụ kiện ly hôn, tranh chấp tài sản chung
giữa nguyên đơn là chị NKN và bị đơn là anh ĐVĐ12.
Thứ hai, chưa có danh mục tập qn về hơn nhân và gia đình để Tịa án viện
dẫn khi giải quyết tranh chấp về HNGĐ. Trong các bản án Tòa án chỉ nêu chung là
“theo tập quán của địa phương”. Viện dẫn này là chưa thực sự thuyết phục.
Ví dụ: Bản án Dân sự sơ thẩm số 13/2018/DS-ST ngày 24 tháng 5 năm 2018
của TAND huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp13. Bản án số 42/2010/DS-ST ngày 15
tháng 6 năm 2010 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành tỉnh Long An14.
Thứ ba, hiện nay trong BLDS, BLTTDS năm 2015 và Luật HNGĐ năm 2014
chưa quy định cụ thể về hình thức áp dụng tập quán trong giải quyết tranh chấp về
HNGĐ. Do đó, các giá trị của các tập quán tốt đẹp chưa được áp dụng.
Kiến nghị:

Một, Tòa án nhân dân tối cao cần ban hành Nghị quyết hướng dẫn áp dụng
khoản 1 điều 45 BLTTDS theo hướng như sau: Khi giải quyết tranh chấp về hơn
nhân và gia đình, Tịa án có quyền viện dẫn tập quán về hôn nhân và gia đình kết
hợp với việc áp dụng quy định của pháp luật liên quan nhằm giải quyết các tranh
chấp về hôn nhân và gia đình.
Hai, Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp
cần ban hành Thông tư liên tịch quy định danh mục tập qn trong lĩnh vực hơn
nhân và gia đình để Tòa án áp dụng trong việc giải quyết tranh chấp về hơn nhân
và gia đình.
(Phụ lục 5)
(Phụ lục 6)
13
Phụ lục 03 của luận văn
14
Nội dung Bản án tại phụ lục 02 của luận văn.
11
12


×