Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Bảo hiểm xã hội tự nguyện việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ


DƢƠNG THỊ THÙY TRANG

BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ


KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN VIỆT NAM
GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN: TS. LÊ THỊ THÚY HƢƠNG
SINH VIÊN THỰC HIỆN: DƢƠNG THỊ THÙY TRANG
LỚP: DÂN SỰ 33B. MSSV: 0855020147
KHÓA: 2008 – 2012

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2012


LỜI CẢM ƠN


Qua luận văn tốt nghiệp này, em xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô khoa luật Dân
sự, Thầy Cơ trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh đã tận tình giảng dạy và truyền đạt cho
tác giả những kiến thức bổ ích trong suốt 4 năm qua.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn và lòng tri ân sâu sắc đến Tiến sĩ Lê Thị Thúy Hương –
giảng viên khoa luật Dân sự, cảm ơn Cô đã trực tiếp hướng dẫn tác giả hồn thành khóa luận
này.
Cũng xin gửi lời cảm ơn đến tập thể các nhân viên thư viện trường Đại học Luật TP.
Hồ Chí Minh, những người đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho tác giả trong việc tìm kiếm tài
liệu tham khảo và viết bài khóa luận.
Xin chân thành cảm ơn.


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


An sinh xã hội

ASXH

Bảo hiểm xã hội

BHXH

Bảo hiểm xã hội bắt buộc

BHXH bắt buộc

Bảo hiểm xã hội tự nguyện

BHXH tự nguyện



MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .......................................................................................................... 1
1.

Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1

2.

Đối tượng nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của đề tài ........ 2

3.

Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 2

4.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ................................................................. 3

5.

Kết cấu của khóa luận .............................................................................................. 3

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ
NGUYỆN .................................................................................................................. 4
1.1.

Khái niệm về bảo hiểm xã hội tự nguyện ......................................................... 4


1.2.

Đặc điểm BHXH tự nguyện ở Việt Nam ........................................................ 10

1.2.1.

Người lao động tham gia BHXH tự nguyện chủ yếu là người có việc làm và thu

nhập không ổn định .................................................................................................... 10
1.2.2.

Người lao động là đối tượng áp dụng của BHXH tự nguyện ..................... 11

1.2.3.

Việc tham gia quan hệ BHXH tự nguyện phụ thuộc ý chí của đối tượng áp dụng
12

1.2.4.

Quỹ BHXH tự nguyện được hình thành chủ yếu từ đóng góp của người tham

gia

12

1.2.5.

BHXH tự nguyện Việt Nam chỉ thực hiện hai chế độ trợ cấp ..................... 14


1.3.

Vai trò của BHXH tự nguyện .......................................................................... 17

1.3.1.

Đối với người lao động ............................................................................... 17

1.3.2.

Đối với Nhà nước ........................................................................................ 17

1.3.3.

Đối với tình hình kinh tế - xã hội ................................................................ 18

1.4.

Các nguyên tắc của BHXH tự nguyện Việt Nam .......................................... 20

1.4.1.

Nguyên tắc tự nguyện .................................................................................. 20

1.4.2.

Nguyên tắc mức đóng phù hợp.................................................................... 21


1.4.3.


Nguyên tắc “đóng – hưởng” có sự tương trợ. ............................................ 22

1.4.4.

Nguyên tắc kết nối thời gian tham gia BHXH ............................................ 24

1.4.5.

Nguyên tắc Nhà nước quản lý Quỹ BHXH tự nguyện ................................. 25

1.4.6.

Nguyên tắc tổ chức thực hiện hiệu quả ....................................................... 25

1.5.

Quá trình hình thành và phát triển của BHXH tự nguyện .......................... 26

CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN Ở
VIỆT NAM – NHỮNG HẠN CHẾ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ....................... 30
2.1.

Thực tiễn thực hiện BHXH tự nguyện ở Việt Nam và những hạn chế........ 30

2.1.1.

Đối tượng áp dụng của BHXH tự nguyện ................................................... 30

2.1.2.


Các chế độ BHXH tự nguyện ...................................................................... 34

2.1.2.1.

Chế độ hưu trí ........................................................................................ 34

2.1.2.2.

Chế độ tử tuất ......................................................................................... 44

2.1.3.

2.1.3.1.

Nguồn hình thành Quỹ BHXH tự nguyện ............................................... 48

2.1.3.2.

Phương thức đóng và mức đóng của người tham gia BHXH tự nguyện 50

2.1.3.3.

Hoạt động sử dụng, đầu tư từ Quỹ BHXH tự nguyện ............................ 52

2.1.4.

Thủ tục thực hiện BHXH tự nguyện ............................................................ 56

2.1.4.1.


Thủ tục tham gia BHXH tự nguyện ........................................................ 56

2.1.4.2.

Thủ tục liên quan đến các chế độ BHXH tự nguyện .............................. 57

2.1.5.

2.2.

Quỹ BHXH tự nguyện.................................................................................. 48

Việc quản lý Nhà nước, khiếu nại, tố cáo về BHXH tự nguyện .................. 58

2.1.5.1.

Quản lý Nhà nước về BHXH tự nguyện ................................................. 58

2.1.5.2.

Khiếu nại, tố cáo về BHXH tự nguyện ................................................... 60

Một số kiến nghị góp phần hồn thiện BHXH tự nguyện ở Việt Nam ........ 64

2.2.1.

Mục tiêu hoàn thiện BHXH tự nguyện ........................................................ 64

2.2.2.


Một số kiến nghị góp phần hồn thiện pháp luật BHXH tự nguyện ở Việt Nam
65


KẾT LUẬN............................................................................................................. 74


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo Tổng cục thống kê Việt Nam, trong Thơng tin thống kê tình hình kinh tế - xã hội
quý I năm 2012 thì lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước là 52,2 triệu người, tăng
827,3 nghìn người so với lực lượng lao động bình quân năm 2011. Lực lượng lao động trong
độ tuổi lao động cả nước là 46,9 triệu người, tăng 403,6 nghìn người so với số bình quân
năm trước1. Như vậy, việc chiếm tỉ lệ cao và ngày càng gia tăng của lực lượng lao động đã
cho thấy Việt Nam đang có lợi thế về nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển kinh tế xã
hội trong giai đoạn tới, như nhiều chuyên gia đánh giá thì chúng ta đang bước vào “thời kỳ
cơ cấu dân số vàng”, nghĩa là số lượng người trong độ tuổi lao động nhiều hơn số lượng
người trong độ tuổi phụ thuộc. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang bước vào thời kỳ già hóa
dân số, với dự báo là tỉ số già hóa sẽ tăng nhanh trong vài thập kỷ tới, đến năm 2049 thì cứ
100 trẻ em thì có 141 người già. Dù là cơ hội cơ cấu dân số vàng hay là tình trạng già hóa
dân số thì cũng là vấn đề chứa đựng nhiều thách thức, như về đào tạo, việc làm, đặc biệt là
thách thức về an sinh xã hội (ASXH). Địi hỏi cần có nhiều giải pháp được thực hiện đồng bộ
để đảm bảo tình hình kinh tế - xã hội được phát triển bền vững. Trong các giải pháp đó thì
bảo hiểm xã hội (BHXH) ln được cân nhắc và hồn thiện, bởi lẽ đây là một giải pháp cơ
bản của hệ thống ASXH.
Đến cuối năm 2011, tổng số đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đạt trên 9,8 triệu
người và gần 90.000 người thuộc diện tự nguyện. Điều này cho thấy, tuy BHXH là một cơng
cụ thực hiện hiệu quả “lưới an tồn xã hội” nhưng đến nay vẫn chưa được triển khai rộng rãi.
Con số gần 10 triệu người tham gia BHXH so với con số hơn 45 triệu người trong độ tuổi lao

động là khá khiêm tốn. Đặc biệt là loại hình BHXH tự nguyện, con số 90.000 người tham gia
loại hình này vừa nêu cho thấy cơ chế thực hiện loại hình này cịn nhiều vấn đề cần xem xét.
BHXH tự nguyện, xét về bản chất thì đây là một cơ chế có ý nghĩa quan trọng nội dung
BHXH, hệ thống ASXH. Đó là “quyền được bảo hiểm” của người lao động. Nếu đặt BHXH
tự nguyện trong mối tương quan với các vấn đề Dân số - Lao động – Phát triển, để đạt được
cơ chế phát triển bền vững thì BHXH tự nguyện là yếu tố giúp hồn thiện hệ thống BHXH
cũng như hệ thống ASXH, do yếu tố bắt buộc trong việc tham gia BHXH chưa bao trùm hết
được các đối tượng cần được tham gia BHXH.

1

/>
1


Với mong muốn tìm hiểu về pháp luật BHXH tự nguyện hiện nay, qua đó chỉ ra được
những vấn đề cần xem xét, góp thêm ý kiến về việc hồn thiện pháp BHXH tự nguyện để
cuối cùng có cái nhìn tổng quan về chế độ BHXH tự nguyện trong giai đoạn hiện nay cũng
như trong thời gian tới, nên tác giả đã chọn đề tài “Bảo hiểm xã hội tự nguyện Việt Nam”
2. Đối tƣợng nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
-

Các vấn đề về mặt lý luận của BHXH tự nguyện, bao gồm: khái niệm, đặc điểm, vai
trị, ngun tắc, lịch sử hình thành và phát triển của BHXH tự nguyện ở Việt Nam. Qua
đó làm rõ nội hàm khái niệm “BHXH tự nguyện”, hệ thống lại các vấn đề lý luận cơ
bản về BHXH tự nguyện, phân biệt BHXH tự nguyện với các cơ chế khác trong hệ
thống BHXH nói riêng, trong hệ thống ASXH nói chung. Từ đó, phân tích, đánh giá vai
trò của BHXH tự nguyện, cho thấy sự cần thiết phải duy trì, phát triển, hồn thiện đối
với loại hình BHXH này.


-

Các quy định của pháp luật Việt Nam về BHXH tự nguyện.

-

Thực tiễn áp dụng pháp luật BHXH tự nguyện ở Việt Nam và những hạn chế còn tồn
tại.

-

Các đề xuất cần thiết để hoàn thiện BHXH tự nguyện ở Việt Nam

Phạm vi nghiên cứu của đề tài
-

Tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản và các vấn đề pháp lý về chế độ BHXH tự
nguyện.

-

Tìm hiểu thực tiễn áp dụng BHXH tự nguyện hiện nay ở Việt Nam.

-

Đề xuất một số kiến nghị góp phần hồn thiện về BHXH tự nguyện ở Việt Nam.

3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận được nghiên cứu trên cơ sở quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Đồng thời, trong q trình nghiên cứu, khóa luận có sử dụng các bài viết nghiên cứu,
các số liệu thống kê.

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Nghiên cứu đề tài có ý nghĩa khoa học như sau:
-

Hệ thống lại và làm rõ thêm các vấn đề lý luận về chế độ BHXH tự nguyện như: khái
niệm; đặc điểm; vai trò; phạm vi, đối tượng áp dụng; các chế độ của BHXH tự nguyện.
2


-

Làm rõ thêm tầm quan trọng của BHXH tự nguyện. Phân tích được mối quan hệ giữa
BHXH tự nguyện với các nội dung khác trong pháp luật BHXH Việt Nam.

-

Chỉ ra được sự cần thay đổi của pháp luật điều chỉnh BHXH tự nguyện cho phù hợp với
cơ chế kinh tế thị trường, điều kiện xã hội trong thời kỳ đổi mới.

Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
-

Chỉ ra được những hạn chế về BHXH tự nguyện đang tồn tại trong các văn bản

pháp luật và thực tế áp dụng. Từ đó đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện các
quy định pháp luật về BHXH tự nguyện cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng trong

thực tiễn.
5. Kết cấu của khóa luận
Dựa trên đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài, khóa luận sẽ có cơ cấu gồm các nội
dung chính như sau:
-

Lời nói đầu

-

Phần nội dung:
 Chương 1: Một số vấn đề lý luận về BHXH tự nguyện
 Chương 2: Thực tiễn thực hiện BHXH tự nguyện ở Việt Nam – Những hạn chế và
một số kiến nghị

-

Kết luận

3


CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
1.1.

Khái niệm về bảo hiểm xã hội tự nguyện
Để có cái nhìn tồn diện về khái niệm bảo hiểm xã hội tự nguyện (BHXH tự nguyện),

trước hết cần tìm hiểu các khái niệm có liên quan trực tiếp đến nội hàm BHXH tự nguyện, đó
là các khái niệm “an sinh xã hội (ASXH)”, “bảo hiểm xã hội (BHXH)”. Hai khái niệm này

chứa đựng nhiều mối liên hệ với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, về quyền lợi và trách
nhiệm của Nhà nước, của cộng đồng và của từng cá nhân nên hiện nay vẫn có nhiều cách
hiểu khác nhau.
Thuật ngữ ASXH được sử dụng chính thức đầu tiên trong đạo luật ASXH của Hoa Kỳ
ban hành vào năm 1935 (đạo luật ASXH năm 1935). Ở lần sử dụng đầu tiên này, ASXH
được dùng để chỉ hệ thống bảo hiểm hưu trí, tử tuất và tàn tật của Liên bang2. Sau đó, thuật
ngữ ASXH lại được sử dụng trong một đạo luật của New Zealand năm 1938 và trong Hiến
chương Atlantic năm 1941. Trong những năm tiếp theo, thuật ngữ ASXH đã nhanh chóng
được sử dụng rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới, được Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)
dùng trong các công ước quốc tế.
Trong đạo luật ASXH năm 1935 của Hoa Kỳ thì ASXH được hiểu là “sự đảm bảo
nhằm bảo tồn nhân cách cùng những giá trị cá nhân, đồng thời tạo lập cho mỗi con người
một đời sống sung túc và hữu ích để phát triển tài năng đến tột độ”. Trong Hiến chương Đại
Tây Dương, ASXH được hiểu là “sự đảm bảo thực hiện quyền con người trong hịa bình,
được tự do làm ăn, cư trú, di chuyển, phát triển chính kiến trong khn khổ pháp luật; được
bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật; được học tập, làm việc và nghỉ ngơi, có nhà ở; được
chăm sóc y tế và bảo đảm thu nhập để có thể thỏa mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi
bị rủi ro, thai sản, tuổi già”… Hai cách hiểu này được đề cập theo nghĩa rộng, theo đó ASXH
là sự ổn định về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội của đời sống, phát triển vai trò của ASXH
từ chỗ không chỉ là phương tiện bồi thường và khắc phục khó khăn cho con người mà cịn là
sự đầu tư vào yếu tố con người.
Để cụ thể hơn, dễ tiếp cận và hình dung hơn, ASXH cịn được đề cập dưới góc độ hẹp
hơn. Ngay từ khi mới xuất hiện, khái niệm ASXH cũng được phát biểu theo nghĩa hẹp, bằng
cách liệt kê các chế độ cụ thể của hệ thống ASXH. Khái niệm ASXH của Tổ chức Lao động
Quốc tế (ILO) là một sự giải thích cụ thể tiêu biểu, “ASXH là sự bảo vệ của xã hội đối với
các thành viên của mình thơng qua một loại biện pháp cơng cộng, nhằm chống lại khó khăn

2

Trần Hồng Hải – Lê Thị Thúy Hương (2011), Pháp luật về ASXH: kinh nghiệm của một số nước đối với Việt Nam, NXB Chính trị

quốc gia – Sự thật, Hà Nội, Tr.12

4


về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết, đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ
cấp cho các gia đình đơng con”. Cho đến nay, đây là khái niệm được nhiều nhà nghiên cứu
đồng thuận, thường được nhắc đến trong các bài viết, các cơng trình nghiên cứu.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “ASXH” là từ mà chúng ta quen gọi theo nghĩa Hán – Việt mà
nếu dịch từ tiếng Anh “social security” hoặc tiếng Đức “soziale Sicherung” có thể hiểu là
“sự bảo vệ của xã hội”, là “sự bảo đảm xã hội” là “sự an toàn của xã hội”. Do đây là đối
tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực nên hiện nay vẫn có nhiều quan điểm về trong việc xác
định thuật ngữ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn thường nhắc đến thuật ngữ “ASXH”. Đây là thuật
ngữ ngày càng xuất hiện nhiều trong các cơng trình nghiên cứu, đặc biệt là trong các văn
kiện của Đảng, ví dụ như trong Văn kiện Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ IX thì thuật ngữ
“ASXH” đã được chính thức đề cập đến: “Khẩn trương mở rộng hệ thống BHXH và ASXH
(...)” . Thậm chí cịn có ý kiến cho rằng Việt Nam nên sớm xây dựng tập văn bản quy phạm
pháp luật dưới tên gọi Luật ASXH. Hệ thống ASXH của Việt Nam mặc dù mang nét đặc
trưng riêng của một nước đang phát triển nhưng đã từng bước hồn thiện và hịa nhập với hệ
thống ASXH của thế giới cả về mặt lý luận và thực tiễn. Hiểu một cách ngắn gọn, khái quát
thì “ASXH là một hệ thống các quy định pháp lý, các biện pháp kinh tế, tổ chức nhằm bù
đắp hoặc hạn chế những hậu quả do sự giảm sút về điều kiện vật chất của công dân, hoặc
trong những trường hợp khác do pháp luật quy định”3. Còn đi sâu hơn có thể nói “ASXH bao
gồm tất cả các quyền lợi của chính sách xã hội nhằm để bảo đảm cho con người trước những
rủi ro về kinh tế và xã hội xuất hiện như: ốm đau, tai nạn thương tật, thu hẹp việc làm, tuổi
già hay thiên tai. Và ngày nay, ASXH đã bao trùm lên tất cả mọi nhóm dân cư. Cụ thể hơn,
ASXH chỉ sự bảo vệ của xã hội cho các thành viên của mình bằng một loạt các biện pháp
công cộng nhằm chống đỡ sự hụt hẫng về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc bị giảm đột ngột
nguồn thu nhập vì ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tàn

tật, tuổi già và chết, kể cả sự bảo vệ chăm sóc y tế và chăm sóc gia đình có con nhỏ hoặc khi
gặp phải thiên tai”4. Cách giải thích này có phần gần tương tự như cách giải thích của Tổ
chức Lao động Quốc tế (ILO).
Hiện nay, hầu hết các quan điểm, các bài nghiên cứu đều cho rằng trong các cấu thành
của ASXH thì BHXH là bộ phận lớn nhất, là trụ cột cơ bản. Trong một chừng mực nào đó,
ASXH theo nghĩa hẹp được hiểu gần như tương đồng với khái niệm BHXH5. ASXH, BHXH
xuất hiện đều do yêu cầu khách quan của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Vào năm 1850,
3

Trần Hoàng Hải – Lê Thị Thúy Hương (2011), tlđd Tr. 7, Tr. 11
Phạm Đình Thành (2012), “BHXH– Trụ cột chính trong hệ thống ASXH quốc gia”, Tạp chí BHXH, kỳ 01 tháng 5/2012
5
Trần Hoàng Hải – Lê Thị Thúy Hương (2011), tlđd Tr. 7, Tr. 18
4

5


chế độ bảo hiểm đầu tiên được thực hiện là chế độ ốm đau, nhằm san sẻ rủi ro giữa những
người lao động khi không may bị ốm đau tạm thời phải nghỉ việc, Kể từ đó xu hướng phát
triển của BHXH được mở rộng dần và ý tưởng bảo vệ người lao động nghèo, thu nhập thấp
cũng được hình thành. Ban đầu, BHXH chỉ là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử
dụng lao động trong việc bảo đảm thu nhập ở một mức nhất định cho người lao động khi họ
không may gặp rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động... Do đây là sự thỏa thuận nên nhiều
tranh chấp thường xảy ra, ảnh hưởng quyền lợi của người lao động. Dần dần, trong nền kinh
tế thị trường xuất hiện bên thứ ba giữ vai trò trung gian giữa người lao động và người sử
dụng lao động, bảo đảm lợi ích của cả hai bên, đó là cơ quan BHXH. Thơng qua cơ quan
này, người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng góp một phần thu nhập của mình
để hình thành một quỹ tiền tệ. Quỹ này được tồn tích và dùng để chi trả cho người lao động
và gia đình họ khi có những sự kiện, những rủi ro được bảo hiểm theo quy định, khơng phụ

thuộc vào ý chí của người sử dụng lao động, đồng thời người lao động cũng không thể lạm
dụng để gây áp lực cho giới chủ. Về sau, trách nhiệm “bảo vệ” trong BHXH dần chuyển
sang người sử dụng lao động và Nhà nước, đặc biệt là Nhà nước với vai trò quản lý, hỗ trợ.
Từ cuối thế kỷ XIX, BHXH đã phát triển mạnh mẽ ở các nước công nghiệp của châu Âu.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, BHXH đã được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới
với nhiều hình thức và mơ hình phong phú, trở thành một hệ thống với nhiều đối tượng tham
gia và nhiều chế độ trợ cấp khác nhau6. Năm 1952, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã
thông qua Công ước 102 về tiêu chuẩn tối thiểu cho các chế độ trợ cấp. Theo đó, BHXH bao
gồm 9 nhánh (tạm gọi là các chế độ). Đó là: (1) chăm sóc y tế; (2) ốm đau; (3) thất nghiệp;
(4) tuổi già; (5) tai nạn lao động; (6) trợ cấp gia đình; (7) thai sản; (8) mất sức lao động; (9)
tử tuất. Đây cũng là các chế độ cơ bản của hệ thống BHXH, những quốc gia phê chuẩn Công
ước này áp dụng các các điều khoản của Công ước vào hệ thống pháp luật của nước mình và
sẽ hình thành một hệ thống tối thiểu các chế độ trên, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội
của mỗi nước. Việt Nam tuy rằng chưa tham gia Công ước này nhưng chúng ta đã xây dựng
các cơ chế BHXH gần như đầy đủ so với Công ước. BHXH là một thành phần của ASXH.
Bởi lẽ ASXH có đối tượng tác động rộng lớn hơn, các trường hợp cần có ASXH cũng đa
dạng hơn, phương thức thực hiện phong phú hơn với nhiều mục đích hơn. BHXH hướng đến
đối tượng là người lao động trong các trường hợp bị ảnh hưởng đến thu nhập do các rủi ro
của đời sống lao động, sản xuất, được thực hiện thông qua các chế độ trợ cấp, nhằm ổn định
cuộc sống của bản thân người lao động và gia đình họ. ASXH thì hướng đến đơng đảo bộ
phận những cư dân yếu thế và một số đối tượng đặc biệt trong xã hội, thông qua việc giúp đỡ
6

Mạc Văn Tiến (2010), “Ngày xuân bàn thêm về vai trò của BHXHtrong hệ thống ASXH”, Tạp chí BHXH, kỳ số 02 tháng 2/2010

6


bằng tiền, hiện vật, các dịch vụ hay các loại ưu đãi, nhằm mục đích góp phần đảm bảo cuộc
sống cho con người và đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Đây là cách khái quát giúp nhận diện

và phân biệt cơ bản ASXH với BHXH. Như vậy, về mặt lý luận có thể nói “BHXH là sự tổ
chức bảo đảm bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm
hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động
không được sử dụng, thơng qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng
góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác, nhằm góp phần đảm bảo
an tồn kinh tế cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an tồn xã
hội”7. Cịn dưới góc độ pháp lý, Việt Nam đề cập đến BHXH như là “sự bảo đảm thay thế
hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết,
trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH”8. Nhà nước ban hành các quy định pháp luật về BHXH là
để tạo cơ sở pháp lý thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên, khi mới bắt đầu thực hiện thì hầu hết
các nước, trong đó có Việt Nam đều quy định trước tiên về nghĩa vụ tham gia BHXH. Ban
đầu chỉ điều chỉnh đối với một bộ phận người lao động, thông thường là công chức, viên
chức Nhà nước và những người lao động làm công ăn lương, điều này phụ thuộc vào điều
kiện kinh tế - xã hội, khả năng quản lý, thực hiện của Nhà nước, hình thức BHXH dựa trên
nghĩa vụ tham gia gọi là BHXH bắt buộc. Mở rộng đối tượng tham gia BHXH là một trong
những Khuyến nghị của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) (Khuyến nghị số 67 năm 1944):
“Sự bảo vệ cần phải được mở rộng tới cộng đồng quốc gia. BHXH không chỉ là nguyện vọng
của một tầng lớp xã hội; sự bảo vệ cần phải đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người lao động
nếu họ là công dân của quốc gia như là quyền của con người.”9. Vì vậy, bên cạnh nghĩa vụ
tham gia BHXH, cịn có quyền tham gia BHXH, để đáp ứng quyền tham gia BHXH thì có
hình thức BHXH tự nguyện. BHXH tự nguyện ra đời cũng là một sự tất yếu, đáp ứng yêu
cầu khách quan về thực hiện BHXH.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam đã có sự điều chỉnh về BHXH nói chung, BHXH tự
nguyện nói riêng, được quy định trong Bộ luật Lao động năm 1994 (được sửa đổi, bổ sung
các năm 2002, 2006, 2007), Luật BHXH năm 2006 và trong các văn bản hướng dẫn thi hành
các luật này. Bởi lẽ, quan hệ BHXH, trong đó có nội dung về BHXH tự nguyện, là một trong
những quan hệ xã hội có liên quan trực tiếp với quan hệ lao động. Luật BHXH 2006 đã có sự
kế thừa, phát huy các quan điểm trong Bộ luật Lao động, đóng vai trị là văn bản pháp luật
chuyên ngành có giá trị pháp lý cao nhất trong việc điều chỉnh quan hệ về BHXH. Theo đó,

7

Mạc Tiến Anh (2005), “BHXH– Khái niệm và bản chất”, Tạp chí BHXH, kỳ tháng 5/2005
Khoản 1 Điều 3 Luật BHXH 2006
9
Mạc Văn Tiến (2010), tlđd Tr. 9
8

7


thuật ngữ “BHXH tự nguyện” được các nhà lập pháp giải thích như sau: “BHXH tự nguyện
là loại hình BHXH mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và
phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng BHXH.”10
Trước hết, BHXH tự nguyện là một loại hình BHXH, “các loại hình BHXH bắt buộc
hoặc tự nguyện được áp dụng đối với từng loại đối tượng và từng loại doanh nghiệp để bảo
đảm cho người lao động được hưởng các chế độ BHXH thích hợp”11. Trong Luật BHXH
2006, chỉ có xác định rõ BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện là hai loại hình của BHXH.
Luật này có nêu về bảo hiểm thất nghiệp nhưng khơng xác định đây là một loại hình của
BHXH. Thiết nghĩ, việc phân chia loại hình ở đây dựa trên cơ sở ý thức tham gia của người
lao động. Cịn bảo hiểm thất nghiệp, xét về bản chất thì đây cũng là một loại BHXH bắt buộc
vì tính chất mệnh lệnh buộc phải tham gia khi nằm trong điều kiện được quy định. Thế nên,
trong khuôn khổ bài viết, khi nhắc đến loại hình BHXH là ta đang nói đến BHXH bắt buộc
và BHXH tự nguyện.
Có một điểm cần chú ý, mục đích của BHXH nói chung là nhằm đảm bảo thay thế hoặc
bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập trong các
trường hợp rủi ro. Các trường hợp rủi ro của BHXH tự nguyện đó là về hưu và chết. Cả hai
trường hợp này thì người lao động đều khơng cịn thu nhập từ việc làm, chính xác ở đây là
việc làm đã được dùng để làm căn cứ xác định cho mức đóng BHXH tự nguyện. Thế nên,
mục đích cụ thể của BHXH tự nguyện là nhằm thay thế thu nhập, khơng có sự bảo đảm bù

đắp thu nhập. Vì vậy, có thể nói BHXH tự nguyện là sự đảm bảo thay thế một phần thu nhập
của người lao động khi họ mất thu nhập.
Tiếp đó, BHXH tự nguyện có người tham gia là người lao động, đây là cách gọi chung
cho người tham gia BHXH. Người lao động tham gia BHXH bắt buộc, người lao động tham
gia bảo hiểm thất nghiệp, người lao động tham gia BHXH tự nguyện gọi chung là người lao
động.12 Như vậy, nhắc đến người lao động trong khái niệm BHXH tự nguyện thì ta hiểu đây
chỉ là một nhóm người lao động riêng biệt trong tổng thể những người lao động của xã hội,
khơng phải người lao động nào cũng có thể tham gia BHXH tự nguyện. Nói một cách đơn
giản, thì người lao động tham gia BHXH tự nguyện là những đối tượng khơng có nghĩa vụ
phải tham gia BHXH bắt buộc.
Cuối cùng, các chế độ được hưởng từ BHXH tự nguyện là còn hạn chế khi đối chiếu
theo các chế độ mà Tổ chức Lao động Quốc tế ILO khuyến nghị. Dựa trên 9 chế độ mà ILO
đưa ra, với điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù cùng quan điểm lập pháp của riêng mình thì
10

Khoản 3 Điều 3 Luật BHXH 2006
Khoản 2 Điều 140 Bộ luật lao động 1994 được sửa đổi, bổ sung các năm 2002, 2006, 2007
12
Khoản 6 Điều 2 Luật BHXH 2006
11

8


Việt Nam đã xây dựng hệ thống các chế độ BHXH trong từng loại hình bảo hiểm. Trong đó,
BHXH tự nguyện chỉ có chế độ tử tuất và chế độ hưu trí, so với năm chế độ (ốm đau; thai
sản; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hưu trí; tử tuất) của BHXH bắt buộc là hạn chế hơn,
so với chín chế độ mà ILO đưa ra lại càng hạn chế. Từ hai chế độ của BHXH tự nguyện, ta
cũng xác định các trường hợp được bảo hiểm, đó là khi người lao động đến thời điểm nghỉ
hưu (theo quy định pháp luật) hoặc chết.

Tóm lại, sự giải thích pháp luật đã nêu ở phần trên về BHXH tự nguyện là sự tổng hợp
nhiều phương diện, có hiểu rõ từng phương diện ta mới có cách hiểu chính xác về BHXH tự
nguyện. Theo đó, “BHXH tự nguyện là sự đảm bảo thay thế một phần thu nhập của người
lao động, là người không đủ điều kiện tham gia BHXH bắt buộc , khi họ bị mất thu nhập
do hết tuổi lao động hoặc chết; trên cơ sở người lao động tự nguyện tham gia đóng vào
quỹ BHXH tự nguyện; từ đó người lao động được hưởng chế độ về hưu trí và tử tuất khi
đủ điều kiện theo quy định pháp luật”. Đây là cách giải thích dựa trên phương diện pháp lý,
trong đó nêu khái quát lên được mục đích, chủ thể tham gia, chủ thể được hưởng, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của chủ thể tham gia, các trường hợp bảo hiểm cũng như các chế độ của
BHXH tự nguyện.
Ngồi ra, do tính đa dạng của các mối liên hệ trong quan hệ BHXH tự nguyện nên hiện
nay vẫn còn nhiểu cách hiểu về khái niệm BHXH tự nguyện. Xuất phát từ cách định nghĩa
thuật ngữ BHXH, ta có thể nêu thêm các cách hiểu về BHXH tự nguyện dưới các giác độ
khác nhau như:
Từ phương diện tài chính, có thể thấy BHXH tự nguyện là cách thức chia sẻ rủi ro về
tài chính giữa những người lao động tham gia BHXH tự nguyện theo quy định pháp luật,
trên cơ sở những người tham gia đóng góp vào Quỹ BHXH tự nguyện.
Từ phương diện quản lý Nhà nước, BHXH tự nguyện là một chính sách trong hệ thống
chính sách BHXH, nằm trong chính sách chung về ASXH, nhằm đảm bảo đời sống ổn định
cho người lao động khi họ về hưu và chết, góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
1.2.

Đặc điểm BHXH tự nguyện ở Việt Nam
Là một loại hình của BHXH, nên BHXH tự nguyện vẫn có những đặc điểm chung của

hệ thống BHXH, như13:
Hoạt động dựa trên nguyên tắc cùng chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia.
Quỹ BHXH do những người tham gia đóng góp.
Các chế độ trợ cấp được thực hiện khi đủ điều kiện.
13


Mạc Văn Tiến (2010), “ASXH và Phúc lợi xã hội – Cách tiếp cận lý thuyết và thực tiễn”, Tạp chí BHXH, kỳ số 02 tháng 4/2010

9


Chi phí cho các chế độ trợ cấp được chi trả bởi Quỹ BHXH
Phần tài chính nhàn rỗi của Quỹ BHXH được đầu tư tăng trưởng.
Các chế độ trợ cấp được bảo đảm trên cơ sở đóng góp BHXH.
Các mức đóng góp và mức hưởng tỉ lệ với thu nhập trước khi hưởng.
Tuy nhiên, cũng với tư cách là một loại hình BHXH nên BHXH tự nguyện vẫn có
những đặc điểm riêng biệt giúp nhận diện loại hình BHXH này.
1.2.1. Người lao động tham gia BHXH tự nguyện chủ yếu là người có việc làm và thu
nhập khơng ổn định
“Một hệ thống BHXH muốn hoạt động có hiệu quả thì cần phải quản lý tốt đối tượng
tham gia BHXH”14. Trong khả năng của mình, hệ thống BHXH phải lựa chọn đối tượng bắt
buộc tham gia BHXH, còn các đối tượng khác thì tham gia theo hình thức tự nguyện. Việc
xác định đối tượng nào được tham gia loại hình BHXH nào phụ thuộc vào đặc điểm riêng
của từng loại người lao động, không phải ở đâu cũng đủ điều kiện để đưa người lao động
tham gia mạng lưới BHXH bắt buộc, điều này phụ thuộc vào tính chất cơng việc mà người
lao động tham gia, mức độ quản lý mà Nhà nước kiểm sốt được. “Phạm vi đối tượng có
nghĩa vụ tham gia BHXH được xác định căn cứ vào mục tiêu của xã hội và tác động của hệ
thống chính trị đang thống trị xã hội đó”15. BHXH bắt buộc thực hiện đối với các đối tượng
Nhà nước quản lý được thông qua cơ chế việc làm, hợp đồng, người sử dụng lao động, đăng
kí kinh doanh. Thế nên, người tham gia BHXH tự nguyện là những đối tượng có đặc điểm là
Nhà nước khơng thể quản lý và kiểm soát hồ sơ tham gia BHXH chỉ bằng các yếu tố việc
làm, hợp đồng, người sử dụng lao động…những yếu tố xuất phát từ sự quản lý chủ động của
Nhà nước, bởi tính chất cơng việc của những người lao động này là linh hoạt, không chịu sự
ràng buộc, quản lý chặt chẽ từ Nhà nước, mà chỉ có thể thực hiện thông qua sự chủ động, ý
thức tự nguyện tham gia của các đối tượng này. Đặc trưng của nhóm đối tượng này phần lớn

là “ln khơng ổn định về loại hình và tính chất cơng việc, về chỗ làm việc, về thời gian làm
việc và về thu nhập”16
Để được tham gia loại hình BHXH nào thì trước tiên phải xác định tính chất cơng việc
và thu nhập mà người lao động đang thực hiện. Đồng thời, đặc điểm này cũng giúp phân biệt
người lao động là đối tượng tham gia loại hình BHXH tự nguyện với người lao động là đối
tượng tham gia của loại hình BHXH bắt buộc

14

Mạc Tiến Anh (2007), “Các hoạt động chế tài BHXH”, Tạp chí BHXH, kỳ tháng 10/2007
Phạm Đình Thành (2005), “Về một số khái niệm liên quan đến BHXH”, Tạp chí BHXH, kỳ tháng 4/2005
16
Phạm Đình Thành (2007), “Một số vấn đề về bảo hiểm tự nguyện ở nước ta”, Tạp chí BHXH, kỳ tháng 8/2007
15

10


1.2.2. Người lao động là đối tượng áp dụng của BHXH tự nguyện
Từng loại hình BHXH khác nhau có các đối tượng áp dụng khác nhau. Trong khi
BHXH bắt buộc có đối tượng áp dụng là người lao động và người sử dụng lao động, thì
BHXH tự nguyện chỉ xác định người lao động là đối tượng áp dụng. Mặc dù, người lao động
trong quan hệ BHXH tự nguyện vẫn có sự gắn bó với người sử dụng lao động, ví dụ như
trong trường hợp người lao động có kí hợp đồng lao động, người lao động là cán bộ không
chuyên trách thuộc cơ quan Nhà nước cấp xã… Bởi việc hình thành quan hệ BHXH tự
nguyện chủ yếu là xoay quanh người lao động, không tác động đến quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng lao động. Thu nhập trong người lao động trong BHXH tự nguyện đã bao hàm
các khoản BHXH. Trách nhiệm đối với phần rủi ro trong việc làm của người sử dụng lao
động đã được giải quyết thông qua các khoản tiền lương, tiền công (có giá trị lớn hơn so với
khoản lương trong BHXH bắt buộc). Vậy nên, pháp luật khơng có quy định đối tượng áp

dụng của BHXH tự nguyện là người sử dụng lao động. Nếu người lao động tự tạo việc làm
mà có sử dụng lao động, thì khi tham gia BHXH tự nguyện, họ cũng tham gia với tư cách là
người lao động (của xã hội), họ không tham gia với tư cách là người sử dụng lao động vì
thực chất khi họ tham gia là bảo hiểm cho quá trình lao động của chính họ chứ khơng phải
cho người lao động nào khác.
Đây là đặc điểm nhận diện loại hình BHXH tự nguyện, bởi trong loại hình BHXH bắt
buộc và chế độ bảo hiểm thất nghiệp thì bên cạnh người lao động, người sử dụng lao động
cũng được quy định là đối tượng áp dụng17, còn BHXH tự nguyện thì chỉ có đối tượng áp
dụng là người lao động khi họ đủ điều kiện áp dụng của loại hình BHXH này18.
1.2.3. Việc tham gia quan hệ BHXH tự nguyện phụ thuộc ý chí của đối tượng áp dụng
Đây là đặc điểm quan trọng nhất, quyết định sự tồn tại của loại hình BHXH tự nguyện.
BHXH bắt buộc gắn liền với ý chí áp đặt của Nhà nước, thơng qua việc “phải tham gia”19
của người lao động và người sử dụng lao động khi họ rơi vào các trường hợp được pháp luật
quy định. “BHXH bắt buộc chỉ là đặc trưng BHXH nghĩa vụ hay được gọi là BHXH theo
luật pháp mà tính chất của nó là bắt buộc”20. Ngược lại, ý chí áp đặt của Nhà nước lại khơng
thể thực hiện được trong BHXH tự nguyện. Nhà nước không thể dùng quyền lực của mình
để bắt buộc người lao động tham gia loại hình BHXH tự nguyện. Số lượng người tham gia
BHXH bắt buộc có thể tỉ lệ thuận với số lượng người lao động là đối tượng áp dụng theo
điều kiện quy định của pháp luật. Nhưng trong BHXH tự nguyện, số lượng người tham gia
17

Khoản 2, khoản 4 Điều 2 Luật BHXH 2006
Khoản 5 Điều 2 Luật BHXH 2006
19
Khoản 2 Điều 3, nt.
20
Phạm Đình Thành (2005), tlđd Tr. 13
18

11



lại phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người lao động khi họ đủ điều kiện tham gia BHXH tự
nguyện, không phải mọi người lao động là đối tượng áp dụng của BHXH tự nguyện thì họ sẽ
tham gia BHXH tự nguyện, quyết định có tham gia hay khơng của họ được tôn trọng. Trong
việc xác lập quan hệ BHXH tự nguyện, đặc điểm người lao động đáp ứng điều kiện về đối
tượng áp dụng là điều kiện cần, cịn điều kiện đủ chính là yếu tố tự nguyện.
Nếu yếu tố bắt buộc là sự bảo đảm cho việc duy trì lâu dài, ổn định thì yếu tố tự nguyện
là sự mở rộng, nâng cao tầm ảnh hưởng của chính sách BHXH, đây cũng là cơ sở để phân
biệt và gọi tên hai loại hình BHXH. BHXH dựa trên quyền được bảo hiểm đóng vai trị to
lớn hơn so với khởi đầu của việc tham gia BHXH nghĩa vụ21 . Cả hai yếu tố này là sự kết
hợp, bổ sung cho nhau, cùng nhau làm hồn thiện chính sách BHXH.
1.2.4. Quỹ BHXH tự nguyện được hình thành chủ yếu từ đóng góp của người tham gia
Hiện nay, các nhà nghiên cứu đã có nhiều cách phát biểu về khái niệm Quỹ BHXH, hầu
hết đều dựa trên việc nêu lên bản chất, nguồn hình thành mục đích và cách sử dụng. Nói một
cách khái quát, “quỹ BHXH là một quỹ tài chính, được hình thành, tồn tích và phát triển theo
thời gian, nhằm mục đích chi cho các hoạt động BHXH, bao gồm chi trả các trợ cấp BHXH,
chi phí cho hoạt động quản lý của hệ thống BHXH”22. Còn cụ thể hơn, “quỹ BHXH là tập
hợp những đóng góp bằng tiền của những người tham gia BHXH (có thể bao gồm người lao
động, người sử dụng lao động và Nhà nước trong một số trường hợp) và các nguồn thu hợp
pháp khác, hình thành một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho những người được BHXH và
gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc bị mất
việc làm và chi phí cho các hoạt động nghiệp vụ BHXH”23.
Quỹ BHXH được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, tùy thuộc vào mục đích xây
dựng hệ thống BHXH của mỗi nước. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã nêu ra hai phương
thức tạo nguồn Quỹ BHXH, trong Công ước 102 về các tiêu chuẩn tối thiểu về BHXH đã
quy định “Các chi phí cho các trợ cấp BHXH và các chi phí về quản lý của hệ thống BHXH
phải được tài trợ từ Quỹ BHXH bằng cách đóng góp BHXH hoặc bằng thuế hoặc bằng cách
kết hợp từ cả hai cách đó, theo những thể thức để giảm bớt tình trạng khó khăn cho người
thiêu thốn phương tiện sinh sống có lưu ý đến tình hình kinh tế từng nước thành viên và

những nhóm người được bảo vệ”. Như vậy, nhìn chung có hai cách tạo nguồn BHXH là
khơng phải đóng góp (Nhà nước tài trợ cho Quỹ BHXH thơng qua thuế) và đóng góp (Quỹ
BHXH được hình thành chủ yếu do các bên tham gia BHXH đóng góp nên, bao gồm: người
21

Phạm Đình Thành, nt.
Mạc Văn Tiến (2012), “Quỹ và hoạt động đầu tư Quỹ BHXH”, Tạp chí BHXH, kỳ 01 tháng 3/2012
23
Mạc Tiến Anh (2006), “Một số vấn đề về Quỹ BHXH”, Tạp chí BHXH, kỳ tháng 2/2006
22

12


lao động, người sử dụng lao động, và Nhà nước trong một số trường hợp24). Hiện nay, phần
lớn các nước có nền kinh tế thị trường thì đều chọn phương thức người lao động và người sử
dụng lao động đóng góp vào Quỹ BHXH, có sự hỗ trợ của Nhà nước. Người lao động – đóng
góp nhằm thể hiện trách nhiệm trước những rủi ro từ quan hệ lao động của bản thân, cũng
như thể hiện sự gắn bó về quyền và nghĩa vụ đối với BHXH; người sử dụng lao động – sự
đóng góp là sự lường trước thiệt hại từ rủi ro đối với quá trình sản xuất kinh doanh của chính
mình, cũng là cách khắc phục thiệt hại của rủi ro nếu người lao động gặp phải, đồng thời góp
phần làm hài hịa mối quan hệ với người lao động; Nhà nước – sự hỗ trợ này thể hiện vai trò
của Nhà nước trong việc quản lý kinh tế - xã hội, thực hiện chính sách ASXH, làm điều hòa
quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động, và cũng góp phần thể hiện
vai trò quản lý, bảo hộ của Nhà nước. Cơ chế ba bên này được thể hiện đầy đủ trong loại
hình BHXH bắt buộc. Tuy nhiên, đối với BHXH tự nguyện thì việc đóng góp vào Quỹ
BHXH lại thiếu mất vai trò của người sử dụng lao động, do BHXH tự nguyện là “quyền
được bảo hiểm”, là sự tham gia chủ động nên khi tham gia, người lao động có trách nhiệm
đóng góp. Mặt khác, khi người lao động tự tạo việc làm, thì khơng có sự xuất hiện của chủ
thể sử dụng lao động. Còn khi người lao động làm việc trong mối quan hệ có người sử dụng

lao động, thì trong phần tiền cơng, tiền lương đã có cả chi phí về BHXH nếu người lao động
là đối tượng của BHXH tự nguyện. Tóm lại, so với nguồn hình thành Quỹ BHXH bắt buộc
thì Quỹ BHXH tự nguyện chỉ có người lao động là đóng góp chính, Nhà nước hỗ trợ. Đây
cũng là đặc điểm để phân biệt với các loại Quỹ BHXH khác.
1.2.5. BHXH tự nguyện Việt Nam chỉ thực hiện hai chế độ trợ cấp
Trợ cấp BHXH là “những khoản tiền mà người tham gia BHXH có thể nhận được từ cơ
quan BHXH(bên nhận BHXH) khi có những sự kiện được bảo hiểm xảy ra. Các trợ cấp
BHXH gắn với các chế độ BHXH”25 Trong pháp luật Việt Nam thì BHXH tự nguyện chỉ có
hai chế độ, đó là chế độ hưu trí và tử tuất26. Trong khi đó, BHXH bắt buộc có năm chế độ, đó
là: ốm đau; thai sản; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hưu trí; tử tuất27. Bảo hiểm thất
nghiệp thì có ba chế độ là trợ cấp thất nghiệp; hỗ trợ học nghề; hỗ trợ tìm việc làm28. Như
vậy, nếu dựa trên nội dung chế độ BHXH thì BHXH tự nguyện chỉ gắn liền với hai chế độ
hưu trí và tử tuất, đây là điểm phân biệt với loại hình BHXH bắt buộc, cũng như để phân biệt
với nội dung của bảo hiểm thất nghiệp.
24

Mạc Văn Tiến, tlđd Tr. 16
Vũ Quang Thọ (2012), “Các bộ phận của ASXH”, Tạp chí BHXH, kỳ 01 tháng 3/2012
26
Khoản 2 Điều 4 Luật BHXH 2006
27
Khoản 1 Điều 4, nt.
28
Khoản 3 Điều 4, nt.
25

13


Để xây dựng chế độ của BHXH thì bước đầu dựa vào: nhu cầu của từng quốc gia trong

việc xây dựng các chế độ cần thiết nhằm đảm bảo cuộc sống của người lao động; cơ sở kinh
tế - xã hội để thực hiện các chế độ BHXH; khả năng tài chính và khả năng quản lý mà Nhà
nước có thể đáp ứng 29. Theo đó, người tham gia BHXH tự nguyện chủ yếu hướng đến các
khoản trợ cấp mang tính lâu dài. Tâm lý chung của người lao động Việt Nam là khơng mong
muốn mình trở thành gánh nặng cho người thân khi họ về già và khi họ mất đi. Cho đến hiện
tại, việc làm trong khu vực hành chính, sự nghiệp của Nhà nước vẫn thu hút người lao động
cũng bởi một phần lý do là số tiền trợ cấp khi về hưu. Các khoản trợ cấp hưu trí và tử tuất
ngồi giá trị kinh tế thì quan trọng hơn còn là giá trị tinh thần. Mặt khác, các nhu cầu về thu
nhập trong các trường hợp ốm đau, thai sản, thất nghiệp là các nhu cầu phát sinh trong thời
gian ngắn, bản thân người lao động có thể đáp ứng được, do tính chất việc làm cũng như do
điều kiện xã hội đối với những đối tượng riêng biệt này. Như vậy, BHXH tự nguyện bước
đầu đưa ra hai chế độ hưu trí và tử tuất là phù hợp, đáp ứng được nhu cầu thiết yếu nhất của
người lao động thuộc chính sách BHXH tự nguyện. Đồng thời, cũng đã đáp ứng yêu cầu của
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), trong Công ước 102 về tiêu chuẩn tối thiểu cho các chế độ
trợ cấp thì một nước được gọi là có hệ thống BHXH khi tối thiểu có một trong các chế độ cơ
bản (trợ cấp thất nghiệp; hưu trí; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; trợ cấp tàn tật (mất sức
lao động); tử tuất) và ít nhất 2 trong số 8 chế độ cịn lại30. Chỉ xét riêng BHXH tự nguyện, thì
Việt Nam đã thực hiện được yêu cầu mà Công ước 102 đặt ra, cùng với 2 chế độ đã nêu
(BHXH tự nguyện cịn thực hiện việc chăm sóc y tế đối với người hưởng chế độ hưu trí hàng
tháng).
Theo kinh nghiệm của các nước thực hiện BHXH thì qua thời gian, các chế độ bảo
hiểm sẽ dần dần được mở rộng, đáp ứng ngày càng nhiều các nhu cầu của người lao động.
Năm 2008, Việt Nam bước đầu việc thực hiện loại hình BHXH tự nguyện, do đó việc chỉ
đưa ra hai chế độ bảo hiểm (hưu trí và tử tuất) là phù hợp với khả năng thực hiện, quản lý
của Nhà nước lúc bấy giờ. Trong tương lai, việc có mở rộng hay không các chế độ của
BHXH tự nguyện phụ thuộc vào sự mở rộng và nâng cao của các cơ sở xây dụng chế độ
BHXH đã nêu.
Tóm lại, do ảnh hưởng sâu xa từ bản chất của đối tượng áp dụng trong BHXH tự
nguyện, cộng với các yếu tố tác động nên sự hình thành các chế độ BHXH mà trong pháp
luật Việt Nam, BHXH tự nguyện chỉ thực hiện hai chế độ bảo hiểm là hưu trí và tử tuất.


29
30

Mạc Tiến Anh (2005), “Về hệ thống trợ cấp xã hội”, Tạp chí BHXH, kỳ tháng 11/2005
Nguyễn Viết Vượng (Chủ biên) (2006), Giáo trình Kinh tế bảo hiểm, NXB Lao động, Hà Nội, Tr. 88

14


Ngồi các đặc điểm cơ bản trên thì BHXH tự nguyện cịn có một số đặc điểm khác có
thể nêu như31:
BHXH tự nguyện khơng có trợ cấp tuất hàng tháng.
Người tham gia BHXH tự nguyện không được nghỉ hưu trước tuổi quy định.
Người tham gia BHXH tự nguyện phải có thời gian đóng góp ít nhất 5 năm mới được
hưởng trợ cấp mai táng.
BHXH tự nguyện khơng có sự bảo đảm cân bằng với mức lương tối thiểu nếu mức
lương hưu thấp hơn mức lương tối thiểu.
 Phân biệt BHXH tự nguyện với một số chính sách ASXH khác
Nhìn chung, dựa vào đặc điểm cơ bản như đã phân tích, ta có thể phân biệt BHXH tự
nguyện với loại hình BHXH bắt buộc. Ngồi ra, ta cịn có thể phân biệt BHXH tự nguyện
với các nhánh của hệ thống ASXH như sau:
Với Bảo hiểm y tế: Tuy rằng, BHXH tự nguyện và bảo hiểm y tế đều có chung nguyên
tắc “có đóng có hưởng” và “tương trợ”, hoạt động khơng vì mục đích lợi nhuận, cùng được
quản lý bởi tổ chức BHXH32. Thế nhưng giữa hai chính sách trên vẫn có những điểm khác
biệt. Trong khi BHXH tự nguyện là một loại hình của chính sách BHXH, thì bảo hiểm y tế là
một trong những chính sáh cơ bản của ASXH ở Việt Nam. Ở một số nước trên thế giới, bảo
hiểm y tế là một nội dung của BHXH, tuy nhiên pháp luật Việt Nam lại không quy định như
vậy. Về bản chất, BHXH tự nguyện là sự bù đắp thu nhập (là vật chất bằng tiền) cho một bộ
phận người lao động đặc thù trong trường hợp họ bị mất thu nhập, còn bảo hiểm y tế lại

hướng đến hướng đến việc cung cấp các chế độ cung cấp sức khỏe (là thuốc men và các chi
phí khám chữa bệnh). Về đối tượng áp dụng, BHXH tự nguyện hướng đến một bộ phận
người lao động trong xã hội, còn bảo hiểm y tế lại tác động đến nhiều đối tượng hơn, khơng
chỉ người lao động mà cịn có các đối tượng khác như sinh viên, học sinh, người có cơng với
cách mạng… Giữa BHXH tự nguyện và bảo hiểm y tế có các sự khác nhau như vậy, thế
nhưng hai chính sách này lại có sự hỗ trợ lẫn nhau. Khi người lao động được hưởng chế độ
hưu trí thì họ cũng nhận được sự chăm sóc sức khỏe từ bảo hiểm y tế. Sự kết hợp và sự
tương đồng về vai trò xã hội giữa hai chế độ đã góp phần làm hồn thiện các nội dung của
ASXH.
Với Cứu trợ xã hội (Bảo trợ xã hội) và với Ưu đãi xã hội: Với vai trò là các nhánh
chính của chính sách ASXH nên cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội vẫn có điểm tương tự
BHXH tự nguyện về ý nghĩa xã hội, đó là cùng hướng đến việc đáp ứng nhu cầu của người
31

32

Phạm Đình Thành (2007), tlđd Tr. 14
Trần Hoàng Hải - Lê Thị Thúy Hương (2011), tlđd Tr.7 , Tr. 314

15


dân về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần, bảo đảm xã hội phát triển ổn định. Còn sự khác
biệt trước hết là về đối tượng áp dụng của từng loại chế độ, cứu trợ xã hội hướng đến những
người gặp rủi ro trong cuộc sống như bị thiên tai, người bị ảnh hưởng chất độc trong chiến
tranh, người tàn tật hoặc người già không nơi nương tựa, trẻ em có hồn cảnh đặc biệt khó
khăn và những trường hợp rủi ro khác33; còn ưu đãi xã hội lại có đối tượng áp dụng là những
người có cơng với cách mạng34; trong khi đó đối tượng áp dụng của BHXH tự nguyện lại có
sự khác biệt như đã phân tích. Đơi khi, có sự trùng lắp giữa những đối tượng trên do cùng
đáp ứng nhiều điều kiện. Tiếp đó là về nguồn tài chính thực hiện, tuy rằng cả ba chính sách

này đều có một phần nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước, tuy nhiên trong BHXH tự nguyện
thì bên cạnh ngân sách Nhà nước cịn có sự đóng góp quan trọng từ người tham gia (đây là
điểm khác biệt quan trọng) và từ các nguồn tài chính khác; cịn trong cứu trợ xã hội, ngồi
ngân sách Nhà nước thì cịn có sự đóng góp từ nhân dân, xã hội; đối với ưu đãi xã hội thì
ngồi nguồn chính từ ngân sách ra, cịn có từ sự đóng góp từ các cơ quan, tổ chức, nhân dân.
1.3.

Vai trò của BHXH tự nguyện

1.3.1. Đối với người lao động
BHXH tự nguyện giúp ổn định thu nhập và cuộc sống cho người lao động và gia đình
họ. Bằng việc thực hiện chế độ hưu trí và tử tuất, BHXH tự nguyện là sự đảm bảo của xã hội,
Nhà nước và của chính bản thân người lao động đối với cuộc sống có những rủi ro tất nhiên
như tuổi già và chết. Từ đó, bản thân người lao động cũng như gia đình họ khắc phục được
những tổn thất do rủi ro mang lại, tiếp tục cuộc sống bình thường, ổn định. Đây chính là vai
trị lớn nhất của BHXH tự nguyện đối với người lao động, vì bản thân mỗi người lao động
ln mong muốn có cuộc sống được ổn định khi về hưu cũng như khi mất đi.
BHXH tự nguyện tạo tâm lý an tâm, tin tưởng trong quá trình lao động. Khi tham gia
BHXH tự nguyện, người lao động biết rằng những rủi ro như tuổi già và chết sẽ được hạn
chế, khắc phục thông qua các chế độ trợ cấp. Từ đó họ có tâm lý ổn định, phấn khởi, an tâm
tập trung vào quá trình lao động, sản xuất.
1.3.2. Đối với Nhà nước
Các quy định pháp luật về BHXH tự nguyện là cơ sở pháp lý để thực hiện loại hình
BHXH này trên thực tế. Bằng việc xây dựng các quy phạm pháp luật về BHXH tự nguyện
thì Nhà nước đã tạo cơ sở pháp lý để người lao động không đủ điều kiện tham gia BHXH bắt

33
34

Trần Hoàng Hải - Lê Thị Thúy Hương (2011), tlđd Tr. 7, Tr. 315

Trần Hoàng Hải - Lê Thị Thúy Hương (2011), tlđd Tr. 7, Tr. 316

16


buộc cũng có thể được hưởng các chế độ BHXH. Đưa chủ trương triển khai BHXH đến mọi
người lao động của Nhà nước vào thực tế.
BHXH tự nguyện là sự bổ sung, góp phần làm hồn thiện chính sách BHXH nói riêng,
chính sách ASXH nói chung. Khi quy định đối tượng tham gia BHXH tự nguyện là người
lao động không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, Nhà nước đã mở rộng tầm bao
phủ của chính sách BHXH, tiến tới mục tiêu thực hiện BHXH cho mọi người lao động. “Sự
linh hoạt của chế độ BHXH tự nguyện trong điều kiện nền kinh tế cịn nhiều biến chuyển và
tình trạng không ổn định việc làm một cách thường xuyên chính là giải pháp ổn định quyền
lợi BHXH cho người lao động”35
BHXH tự nguyện góp phần củng cố mối quan hệ giữa người lao động với Nhà nước.
Nhà nước là chủ thể vừa tham gia hỗ trợ, điều hành hoạt động của Quỹ BHXH tự nguyện,
vừa là chủ thể thực hiện các chế độ BHXH tự nguyện cho người thụ hưởng, là chủ thể bảo
đảm cho BHXH tự nguyện trên thực tế được hoạt động thống nhất, hiệu quả… qua đó thể
hiện trách nhiệm, sự quan tâm của Nhà nước đối với người lao động. Ngược lại, khi người
lao động tham gia BHXH tự nguyện, bản thân họ cũng có tâm lý an tồn do có sự đảm bảo,
từ đó tập trung phát huy sức lao động làm xã hội phát triển, Nhà nước ổn định. Như vậy,
thông qua BHXH tự nguyện, cả Nhà nước và người lao động đều có trách nhiệm và lợi ích
gắn bó với nhau, tạo nên mối quan hệ lâu dài, bền vững, ổn định.
BHXH tự nguyện thể hiện mục tiêu, lý tưởng, bản chất tốt đẹp của chế độ chính trị, xã
hội mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang phấn đấu, đó là xây dựng đất nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thể hiện thơng qua các vai
trị của BHXH tự nguyện trên nhiều phương diện. Đồng thời, BHXH tự nguyện còn góp
phần thể hiện tính nhân văn, ưu việt của xã hội ta. Do các đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước ta đều xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của
nhân dân để phục vụ nhân dân, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cách mạng,

mà BHXH tự nguyện là một trong các chính sách quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu
này.
1.3.3. Đối với tình hình kinh tế - xã hội
BHXH tự nguyện góp phần đảm bảo, duy trì và phát triển nguồn lao động cho nền sản
xuất xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. “BHXH được hiểu như là một chính sách xã hội
nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi thu nhập của họ bị giảm hay mất. Thơng qua
đó bảo vệ và phát triển lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao
35

Phạm Đình Thành (2006), “Dự thảo Luật BHXHđi dần tới hồn thiện”, Tạp chí BHXH, kỳ tháng 4/2006

17


động ổn định trật tự xã hội”36. Thực vậy, sự ổn định, phát triển của nền kinh tế - xã hội phần
lớn được tạo lập dựa trên sức lao động, mỗi khi có rủi ro xảy ra là mang đến sự tổn thất,
không chỉ đối với người lao động mà cịn đối với tồn xã hội, bởi rủi ro xảy ra không chỉ đơn
lẻ đối với một người lao động, tổng hợp những tổn thất mà rủi ro mang lại cũng là sự tổn thất
đối với nền kinh tế - xã hội. Do đó, khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động tham gia
BHXH tự nguyện thì đã có Quỹ BHXH tự nguyện kịp thời hỗ trợ (đối với loại rủi ro là nghỉ
hưu và chết), tạo điều kiện cho người lao động và gia đình họ nhanh chóng ổn định cuộc
sống. Tổng hợp những sự ổn định đó là góp phần đảm bảo cho xã hội cũng được ổn định, tạo
điều kiện phát triển kinh tế. Mặt khác, BHXH tự nguyện cho phép người lao động một mặt
có thể tự do di chuyển, lựa chọn nơi làm việc thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, phù
hợp với khả năng và nguyện vọng cá nhân, một mặt vẫn bảo đảm duy trì ổn định các chế độ
BHXH cho bản thân, đây là một trong những nhân tố quan trọng để thúc đẩy sự phát triển
của thị trường lao động, phát huy và sử dụng triệt để năng lực lao động của từng người lao
động, tạo ra nhiều hơn các giá trị cho xã hội. Thêm vào đó, thơng qua các hoạt động đầu tư
từ Quỹ BHXH tự nguyện cũng đã góp phần tạo điều kiện phát triển kinh tế qua việc cung cấp
một lượng tài chính nhất định cho nền kinh tế.

BHXH tự nguyện bảo đảm về sự bình đẳng về vị thế xã hội của người lao động trong
các thành phần kinh tế khác nhau, từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển. BHXH tự nguyện hoạt
động dựa trên nguyên tắc cơ bản “đóng – hưởng” đã tạo ra sự bình đẳng giữa những người
lao động về chính sách BHXH. Người lao động, khơng phân biệt thành phần kinh tế, không
phân biệt nghề nghiệp, chỉ cần có việc làm hợp pháp đều là bộ phận lao động, thành quả lao
động họ làm ra cũng là bộ phận cấu thành nên tổng sản phẩm xã hội. Thế nên, mọi người lao
động đều phải được bảo đảm bình đẳng trước những chính sách xã hội, trong đó có chính
sách BHXH. BHXH tự nguyện đã xóa bỏ quan niệm trước đây cho rằng chỉ có làm việc
trong khu vực Nhà nước mới được hưởng chính sách BHXH. BHXH tự nguyện đã khuyến
khích người lao động, đặc biệt là những người lao động tự do, tự giác thực hiện quyền lợi
BHXH, từ đó tạo sự an tâm, tin tưởng vào lao động, sản xuất, kinh doanh…thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
BHXH tự nguyện thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng, thể
hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp. Khi tham gia, người lao động có việc làm sẽ đóng góp một
phần thu nhập vào Quỹ BHXH tự nguyện, vừa để hình thành trợ cấp BHXH cho bản thân
sau này, vừa giúp đỡ những người lao động khác đang gặp khó khăn thơng qua nguyên tắc
tương trợ. Mặt khác, việc phân phối lại thu nhập cũng góp phần thực hiện các mục tiêu xã
36

Mạc Tiến Anh (2005), tlđd Tr. 10

18


×