Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

MAI THỊ TUYẾT HẠNH

CĂN CỨ XÁC ĐỊNH TÀI SẢN RIÊNG
CỦA VỢ, CHỒNG THEO PHÁP LUẬT HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

MAI THỊ TUYẾT HẠNH

CĂN CỨ XÁC ĐỊNH TÀI SẢN RIÊNG
CỦA VỢ, CHỒNG THEO PHÁP LUẬT
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ & TỐ TỤNG DÂN SỰ
Mã số: 60.38.01.03

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Ngọc Điện

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2013



LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan danh dự Luận văn này là kết quả của quá trình tổng hợp và
nghiên cứu nghiêm túc của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS. TS. Nguyễn Ngọc Điện. Các bản án, số liệu nêu trong luận văn là trung thực,
chính xác.
Tác giả luận văn

Mai Thị Tuyết Hạnh


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1

Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959

LHNGĐ 1959

2

Luật Hơn nhân và gia đình năm 1986

LHNGĐ 1986

3

Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000

LHNGĐ 2000


4

Bộ luật Dân sự năm 2005

BLDS 2005

5

Bộ luật Dân sự Pháp

BLDS Pháp

6

Bộ luật Dân sự Nhật Bản

7

Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày
03/01/2001 của Chính

BLDS Nhật Bản
Nghị định 70/2001/NĐ-CP

Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000
8

của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân

Nghị quyết 35/2000/QH10


và gia đình

9

Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23
tháng 12 năm 2000 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Luật Hơn nhân và gia
đình năm 2000

10

Nghị quyết số 01/1988/NQ-HĐTP ngày 20
tháng 1 năm 1988 của Hội đồng thẩm phán về
hướng dẫn một số quy định của Luật Hôn nhân
và gia đình năm 1986

11

Hơn nhân và gia đình

12

Nhà xuất bản

Nghị quyết 02/2000/NQHĐTP

Nghị quyết 01/1988/NQHĐTP
HNGĐ

NXB


MỤC LỤC
Mục lục

Trang

LỜI MỞ ĐẦU .......................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ,
CHỒNG THEO PHÁP LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM .....5
1.1. Khái niệm về tài sản, tài sản riêng của vợ, chồng .....................................5
1.1.1. Tài sản ..........................................................................................................5
1.1.2. Chế độ tài sản của vợ chồng ........................................................................7
1.1.3. Tài sản riêng của vợ, chồng ........................................................................ 8
1.2. Khái quát về căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng ........................9
1.2.1. Vai trò, ý nghĩa của căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng ............ 10
1.2.2. Phân biệt căn cứ xác định quyền sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng trong
Luật HNGĐ 2000 và căn cứ xác định quyền sở hữu tài sản trong BLDS 2005..12
1.3. Quy định của pháp luật Việt Nam về căn cứ xác định tài sản riêng của
vợ, chồng từ Tháng Tám 1945 đến nay ........................................................... 19
1.3.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về căn cứ xác định tài sản riêng của
vợ, chồng từ Tháng Tám 1945 đến trước ngày 3.1.1960 .................................... 19
1.3.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về căn cứ xác định tài sản riêng của
vợ, chồng từ ngày 3.1.1960 đến trước ngày 3.1.1987 ........................................ 20
1.3.3. Quy định của pháp luật Việt Nam về căn cứ xác định tài sản riêng của
vợ, chồng từ ngày 3.1.1987 đến trước ngày 1.1.2001 ......................................... 21
1.3.4. Quy định của pháp luật Việt Nam về căn cứ xác định tài sản riêng của
vợ, chồng từ ngày 1.1.2001 đến nay.................................................................... 22
1.4. Quy định của pháp luật một số nƣớc trên thế giới về căn cứ xác định tài

sản riêng của vợ, chồng ..................................................................................... 23
1.4.1. Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng theo BLDS Pháp ................ 24
1.4.2. Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng theo BLDS Nhật Bản ......... 26


CHƢƠNG 2. CĂN CỨ XÁC ĐỊNH TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ, CHỒNG
THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
HIỆN HÀNH ...................................................................................................... 29
2.1. Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng dựa vào thời điểm tạo lập
tài sản .................................................................................................................. 30
2.1.1. Xác định thời kỳ hôn nhân ......................................................................... 30
2.1.2. Xác lập quyền sở hữu tài sản gắn liền với thời kỳ hôn nhân .................... 31
2.2. Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng dựa vào nguồn gốc tài sản
............................................................................................................................. 34
2.2.1. Tài sản do được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân ... 35
2.2.2. Tài sản có được do chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân ................ 36
2.3. Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng dựa vào tính chất phục vụ
của tài sản ........................................................................................................... 41
2.4. Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng dựa vào việc đăng ký tại
cơ quan có thẩm quyền ..................................................................................... 44
CHƢƠNG 3. BẤT CẬP, VƢỚNG MẮC VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ XÁC ĐỊNH TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ, CHỒNG
............................................................................................................................. 47
3.1. Một số bất cập, vƣớng mắc về căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng
trong Luật HNGĐ 2000 .................................................................................... 47
3.1.1. Về xác định thời điểm tạo lập tài sản ....................................................... 48
3.1.2. Về xác định nguồn gốc tài sản................................................................... 51
3.1.3. Về xác định tính chất phục vụ của tài sản ................................................. 56
3.1.4. Về đăng ký quyền sở hữu tài sản ............................................................... 58
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ................................................................. 65

3.2.1. Kiến nghị bổ sung quy định mới ................................................................ 65
3.2.2. Sửa đổi hoàn thiện pháp luật ..................................................................... 70


KẾT LUẬN ........................................................................................................ 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Gia đình là nền tảng vững chắc của xã hội, gia đình tốt thì xã hội tốt, xã
hội tốt tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện. Khi cuộc sống gia đình
ấm no, hạnh phúc, xã hội sẽ ngày càng phát triển và văn minh. Thế nhưng, để
xây dựng và duy trì được một gia đình ấm no, hạnh phúc là một việc rất khó
khăn. Bởi vì, ngồi sự ổn định về mặt tình cảm gia đình thì vấn đề tài sản là yếu
tố có tác động khơng nhỏ trong việc duy trì hạnh phúc gia đình.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập với
kinh tế thế giới, gia đình ngày càng phát huy hơn nữa chức năng kinh tế của
mình, thơng qua việc tích cực tham gia vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh
phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của cá nhân và gia đình. Đồng thời, cịn góp phần
làm giàu cho xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, khi cuộc
sống gia đình được đảm bảo về mặt vật chất, thì nhu cầu tiêu dùng và quyền sở
hữu cá nhân của mỗi thành viên được đặt ra. Đó cũng là nguyên nhân làm cho
quan hệ về tài sản giữa vợ và chồng ngày càng trở nên phức tạp. Vấn đề tài sản
chung, tài sản riêng cần được quy định một cách cụ thể hơn trong pháp luật và
thi hành pháp luật.
Thực tiễn xét xử liên quan đến việc xác định tài sản chung, tài sản riêng

của vợ, chồng ngày càng phổ biến với quy mô và tính chất phức tạp. Rất nhiều
vụ án phải giải quyết qua nhiều cấp xét xử với nhiều thủ tục tố tụng. Đó là
nguyên nhân dẫn đến nhiều vụ việc quyền lợi của công dân không được bảo
đảm, tranh chấp về tài sản giữa vợ, chồng ngày càng gay gắt. Trong các nguyên
nhân dẫn đến tình trạng trên, chủ yếu do pháp luật chưa quy định hoặc có quy
định nhưng chưa đầy đủ, cụ thể về vấn đề này, vì vậy địi hỏi cần phải có sửa
đổi, bổ sung cho phù hợp.
Việc nghiên cứu, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về chế độ
tài sản của vợ chồng trong đó có căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng là
cần thiết, đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta thực hiện chiến
lược cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền. Đó cũng là lý do tác


2

giả chọn đề tài: “Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng theo pháp luật
hôn nhân và gia đình Việt Nam” để làm đề tài luận văn Cao học Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề tài sản riêng của vợ, chồng là một trong những nội dung quan
trọng của chế độ tài sản của vợ chồng. Đây là đề tài được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm và tiếp cận ở các góc độ khác nhau. Các cơng trình bao gồm:
- Lê Vĩnh Châu (2001), Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt
Nam hiện hành, Luận văn Thạc sĩ Luật, Trường Đại học Luật TPHCM;
- Nguyễn Thị Mến (2006), Nguyên tắc xác định tài sản chung, tài sản
riêng của vợ chồng trong các vụ án ly hơn, Khóa luận Cử nhân Luật, Trường Đại
học Luật TPHCM;
- Nguyễn Hữu Lê Anh (2012), Chế độ tài sản của vợ chồng: Thực trạng
và giải pháp hồn thiện, Khóa luận Cử nhân Luật, Trường Đại học Luật
TPHCM;
- Nguyễn Tiến Phát (2012), Tài sản riêng của vợ, chồng: Chế độ pháp lý

và thực tiễn giải quyết tranh chấp, Khóa luận Cử nhân Luật, Trường Đại học
Luật TPHCM;
- Nguyễn Hồng Hải (1998), “Vấn đề thừa nhận chế độ tài sản ước định
trong Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam”, Tạp chí Luật học, (6), tr. 10-12;
- Ngơ Thị Hường (2008), “Đăng ký quyền sở hữu tài sản và việc xác định
tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng”, Tạp chí Luật học, (10), tr. 22-28;
- Nguyễn Văn Cừ (2003), “Thời kỳ hôn nhân, căn cứ xác lập tài sản chung
của vợ chồng”, Tạp chí Tịa án nhân dân, (11), tr. 14-17;
- Đoàn Thị Phương Diệp (2008), “Ngun tắc suy đốn tài sản chung
trong luật Hơn nhân gia đình Việt Nam và luật Dân sự Pháp”, Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, (18), tr. 47-49;
- Bùi Minh Hồng (2009), “Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng
trong pháp luật Cộng hòa Pháp và pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Luật học, (11),
tr. 18-25 … và các cơng trình khác;
Các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập về chế độ tài sản của vợ chồng
dựa trên nền tảng luật thực định và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện. Đây là


3

tài liệu rất bổ ích cho tác giả trong việc hồn thành luận văn của mình. Tuy
nhiên, những cơng trình này nghiên cứu đã lâu, hoặc chỉ nghiên cứu chuyên sâu
về chế độ tài sản của vợ chồng mà chưa đề cập cơ sở pháp lý để xác định tài sản
riêng của vợ, chồng, chưa nghiên cứu về căn cứ xác định tài sản riêng của vợ,
chồng.
Vì vậy, cho phép tác giả có cơ sở khẳng định tính cấp thiết của vấn đề này
trong đề tài Luận văn của mình, đặt trong bối cảnh Luật Hơn nhân và gia đình
năm 2000 (Luật HNGĐ 2000) đang được sửa đổi, bổ sung.
3. Mục đích nghiên cứu và đối tƣợng nghiên cứu của đề tài
 Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận về tài sản riêng của vợ, chồng,
luận văn phân tích các căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định
của Luật Hơn nhân và gia đình hiện hành; đồng thời chỉ ra những hạn chế, bất
cập trong quy định của pháp luật khi áp dụng trên thực tế. Trên cơ sở đó, luận
văn đề xuất các kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật về quy định này trong Luật
Hôn nhân và gia đình (HNGĐ) sửa đổi, bổ sung.
 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng
pháp luật về tài sản riêng của vợ, chồng trong pháp luật HNGĐ Việt Nam, cụ thể
là căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng theo Luật HNGĐ hiện hành.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu và phƣơng pháp nghiên cứu
 Với mục đích nghiên cứu trên, đề tài sẽ tập trung làm sáng tỏ cơ sở lý
luận, thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến
căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng. Từ đó, đề xuất các kiến nghị hồn
thiện pháp luật về căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng trong Luật HNGĐ
hiện hành.
 Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sẽ sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu chế độ tài
sản, tài sản riêng của vợ, chồng qua các thời kỳ;


4

- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi nghiên cứu các vấn
đề liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng, tài sản riêng của vợ, chồng và khái
quát những nội dung cơ bản của từng vấn đề được nghiên cứu trong luận văn;
- Phương pháp so sánh được thực hiện nhằm tìm hiểu quy định của pháp
luật về HNGĐ hiện hành và pháp luật của một số nước trên thế giới quy định về

căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng.
- Phương pháp liệt kê được thực hiện trong quá trình thu thập các bản án,
số liệu cụ thể từ thực tiễn hoạt động xét xử của Ngành Tòa án khi giải quyết
tranh chấp về quan hệ HNGĐ liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng, tài sản
riêng của vợ, chồng.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Thông qua việc nghiên cứu về “Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ,
chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam”, tác giả mong muốn
đóng góp một phần cơng sức vào việc nghiên cứu về chế độ tài sản của vợ
chồng, tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; đặc biệt là về căn cứ xác định
tài sản riêng của vợ, chồng trong Luật HNGĐ Việt Nam hiện hành.
Đề tài có thể làm nguồn tài liệu tham khảo về căn cứ xác định tài sản
riêng của vợ, chồng trong pháp luật HNGĐ Việt Nam. Cơng trình cũng là bản
kiến nghị trong việc hồn thiện pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng nói
chung và căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng nói riêng.
6. Bố cục của Luận văn
Luận văn được thiết kế gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần
kết luận.
Trong đó Phần nội dung gồm ba chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về tài sản riêng của vợ, chồng theo pháp
luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam.
Chương 2. Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành.
Chương 3. Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về căn cứ
xác định tài sản riêng của vợ, chồng.


5

CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÀI SẢN RIÊNG CỦA VỢ, CHỒNG
THEO PHÁP LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
Chế độ sở hữu tài sản của vợ chồng là một trong những quy định quan
trọng của pháp luật HNGĐ Việt Nam. Quy định này không chỉ nhằm đáp ứng
những nhu cầu vật chất, mà còn cả về mặt tinh thần đối với vợ, chồng. Chế độ tài
sản của vợ chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng. Tài sản chung của vợ
chồng là yếu tố cơ bản giúp vợ chồng duy trì cuộc sống hàng ngày của gia đình,
xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Tài sản riêng của vợ, chồng có tính chất
đặc thù, đảm bảo quyền bình đẳng, quyền độc lập, quyền tự do cá nhân của mỗi
bên vợ, chồng trong khn khổ vì hạnh phúc, sự ổn định, êm ấm, hòa thuận của
gia đình.
Pháp luật HNGĐ Việt Nam đã kế thừa và phát triển các quy định về chế
độ tài sản của vợ chồng nói chung và chế định tài sản riêng của vợ, chồng nói
riêng qua các thời kỳ là một quá trình tất yếu và mang tính lịch sử.
1.1. Khái niệm về tài sản, tài sản riêng của vợ chồng

1.1.1. Tài sản
Tài sản là một khái niệm có phạm trù rộng, được định nghĩa theo nhiều
hướng khác nhau:
Theo cách hiểu thông thường “tài sản dùng để nói chung về tiền bạc, của
cải” ; hoặc “tài sản là của cải vật chất dành cho sản xuất hoặc tiêu dùng”2; hoặc
“tài sản là của cải, vật chất hoặc tinh thần có giá trị đối với chủ sở hữu”3; hoặc
“tài sản là các vật có giá trị bằng tiền và đối tượng của quyền tài sản và các lợi
ích vật chất khác, bao gồm vật có thực, vật đang tồn tại và sẽ có hoa lợi, lợi tức,
vật sẽ được chế tạo theo mẫu như đã thỏa thuận giữa các bên, tiền và các giấy tờ
trị giá được bằng tiền và quyền tài sản”4.
1

1


Bửu Kế (1999), Từ điển Hán Việt từ nguyên, Nhà xuất bản (NXB) Thuận Hóa, tr. 1656.
Nguyễn Văn Xơ (2008), Từ điển Tiếng việt, NXB Thanh Niên, tr. 631.
3
Viện ngôn ngữ học (2002), Từ điển Tiếng việt phổ thông, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 811.
4
Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB Tư pháp, tr. 685.
2


6

Theo quy định pháp luật: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các
quyền tài sản”5. Vật: Phải là vật có thực, đáp ứng được nhu cầu của con người,
phải nằm trong sự chiếm hữu của con người, có đặc trưng giá trị và trở thành đối
tượng của giao lưu dân sự. Vật bao gồm động sản và bất động sản (Điều 174 Bộ
luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2005)); hoa lợi, lợi tức (Điều 175 BLDS 2005);
vật chính và vật phụ (Điều 176 BLDS 2005); vật chia được và vật không chia
được (Điều 177 BLDS 2005); vật tiêu hao và vật không tiêu hao (Điều 178
BLDS 2005); vật cùng loại và vật đặc định (Điều 179 BLDS 2005); vật đồng bộ
(Điều 180 BLDS 2005).
Tiền: Theo kinh tế chính trị là vật trung gian dùng để trao đổi, mua bán
hàng hóa, bản thân tiền khơng có giá trị tài sản nhưng khi dùng trên thị trường
với vai trị trung gian tiền lại là tài sản.
Giấy tờ có giá: Gồm: Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ
chuyển nhượng khác được quy định tại Điều 1 của Luật Các công cụ chuyển
nhượng năm 2005; Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu cơng ty, kỳ phiếu, cổ phiếu
được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005;
Tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và công cụ khác làm phát sinh nghĩa vụ
trả nợ được quy định tại điểm 16 Điều 3 của Luật Quản lý nợ công năm 2009;
Các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần,

chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm
chứng khốn hoặc chỉ số chứng khốn; Hợp đồng góp vốn đầu tư; Các loại
chứng khốn khác do Bộ Tài chính quy định được quy định tại khoản 1 Điều 6
của Luật Chứng khoán năm 2006 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm
2010); Trái phiếu doanh nghiệp được quy định tại Điều 2 của Nghị định số
52/2006/NĐ-CP ngày 19/5/2006 của Chính phủ về “Phát hành trái phiếu doanh
nghiệp…”6.
Quyền tài sản: Theo quy định tại Điều 181 BLDS 2005, quyền tài sản
được hiểu là quyền giá trị được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao lưu
dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ.

5

Điều 163 BLDS 2005.
Mục 1 Cơng văn số 141/TANDTC-KHXX ngày 21/9/2011 của Tòa án nhân dân tối cao Về thẩm quyền giải
quyết các yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản.
6


7

Với các khái niệm trên, tài sản không chỉ giới hạn là những vật có thể
cầm, nắm được đang tồn tại trong hiện hữu hoặc có thể hình thành trong tương
lai, mà còn mở rộng đến những yếu tố khác gắn với giá trị hiện hữu. Dưới góc độ
khoa học pháp lý, một vật chỉ được coi là khách thể của quyền sở hữu khi thỏa
mãn ba điều kiện: Vật đó phải là một bộ phận của thế giới vật chất, có thể là
dạng tồn tại hiện hữu hoặc hình thành trong tương lai; Vật đó phải mang lại lợi
ích cho con người; Con người có thể chiếm hữu được, tức là có thể nắm giữ và
quản lý được tài sản7.
1.1.2. Chế độ tài sản của vợ chồng

Chế độ tài sản của vợ chồng tồn tại phù hợp với nhu cầu phát triển của xã
hội, đảm bảo cho sự ổn định, bền vững trong cuộc sống gia đình. Đồng thời, qua
đó sẽ xác định rõ quyền sở hữu tài sản, trách nhiệm và nghĩa vụ của vợ chồng
đối với cuộc sống gia đình. Tuy nhiên hiện nay, liên quan đến vấn đề này, đang
tồn tại nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau:
Quan điểm thứ nhất: Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy
định của pháp luật về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, phương thức tác động,
cách thức xác lập quan hệ tài sản để xác định sở hữu chung, sở hữu riêng của vợ,
chồng trong mối quan hệ vợ chồng với nhau và với người thứ ba8.
Quan điểm này xác định chế độ tài sản của vợ chồng gồm tài sản chung
của vợ chồng, tài sản riêng của vợ, chồng; Xác định được phương thức tác động
và cách thức xác lập để xác định quyền sở hữu đối với tài sản chung, riêng giữa
vợ, chồng và người thứ ba.
Quan điểm thứ hai: Chế độ tài sản của vợ chồng gồm sở hữu của vợ
chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất và sở hữu của vợ, chồng đối
với tài sản riêng9.
Khác với quan điểm thứ nhất, quan điểm này chỉ xác định tài sản của vợ
chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng, mà không ghi nhận nghĩa vụ tài
sản của vợ chồng trên thực tế và trong mối quan hệ với người thứ ba.
7

Nguyễn Xuân Quang – Lê Nết – Hồ Thị Bích Hằng (2007), Luật Dân sự Việt Nam, NXB Đại học quốc gia,
tr. 111.
8
Lê Vĩnh Châu (2001), Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam, Luận
văn Thạc sĩ Luật, tr. 2.
9
Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật HNGĐ Việt Nam, NXB Cơng an nhân dân, tr. 158.



8

Quan điểm thứ ba: Luật về quan hệ tài sản giữa vợ chồng là tập hợp các
quy tắc về thành phần cấu tạo của các khối tài sản mà vợ, chồng hoặc cả hai có
quyền sở hữu; về các quyền của vợ chồng đối với các khối tài sản đó và về
những nghĩa vụ tài sản đối với người thứ ba mà vợ hoặc chồng hoặc cả hai có
trách nhiệm thực hiện10.
Có nhiều điểm tiến bộ hơn so với hai quan điểm trên, quan điểm này đã
chỉ ra khối tài sản của vợ chồng gồm ba khối nhỏ. Một khối tài sản chung của vợ
chồng và hai khối tài sản riêng của hai người. Mỗi khối tài sản được cấu thành từ
phần tài sản có và tài sản nợ. Tuy nhiên, quan điểm này vẫn chưa nêu lên được
phần trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi loại tài sản đối với các thành viên trong
gia đình.
Như vậy, hiện nay đang tồn tại nhiều quan điểm khoa học pháp lý về khái
niệm chế độ tài sản của vợ chồng. Mỗi quan điểm có một cách tiếp cận ở góc độ
khác nhau, nhưng tựu chung lại, các quan điểm đều khẳng định: Chế độ tài sản
của vợ chồng bao gồm tài sản chung của vợ chồng và tài sản riêng của mỗi bên
vợ, chồng.
Từ những quan điểm trên, theo tác giả “Chế độ tài sản của vợ chồng gồm
tài sản chung của vợ chồng và tài sản riêng của mỗi người, trong đó bao gồm cả
quyền và nghĩa vụ gắn liền với mỗi loại tài sản theo quy định đối với vợ, chồng,
thành viên trong gia đình và với người thứ ba”.
Bởi vì, chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp tài sản chung của vợ
chồng được tạo lập trong quan hệ hôn nhân và tài sản riêng của mỗi bên vợ,
chồng có trước và trong quan hệ hơn nhân. Theo đó, quyền lợi và nghĩa vụ của
vợ, chồng sẽ gắn liền với mỗi loại tài sản của họ. Họ phải có trách nhiệm duy trì
và quản lý khối tài sản chung, riêng tạo lập được cho phù hợp đối với bản thân,
gia đình và người thứ ba khi tham gia giao dịch.
1.1.3. Tài sản riêng của vợ, chồng
Theo Điều 32 Luật HNGĐ 2000: “Vợ chồng có quyền có tài sản riêng.

Tài sản riêng của vợ chồng gồm tài sản của mỗi người có trước khi kết hơn; tài
sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hơn nhân; tài sản chia
10

Nguyễn Ngọc Điện (2004), Bình luận khoa học Luật HNGĐ, Tập II, NXB Trẻ, tr. 10.


9

riêng cho vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này;
đồ dùng, tư trang cá nhân”. Quyền sở hữu tài sản riêng của vợ, chồng mang tính
tồn diện, khơng ai có quyền xâm phạm, khơng bị giới hạn về số lượng, tính chất
và gắn liền với nhân thân, nhu cầu của mỗi bên vợ, chồng. Tài sản riêng của vợ,
chồng mang tính chất cơ bản của sở hữu tư nhân11.
Đây là quy định mới trên cơ sở kế thừa có bổ sung Luật HNGĐ 1986.
Việc Luật HNGĐ 2000 thừa nhận vợ, chồng có tài sản riêng là phù hợp với các
quy định của Hiến pháp năm 1992, BLDS 2005 về quyền sở hữu đối với tài sản
riêng của công dân. Đồng thời quy định này bảo đảm cho các bên vợ, chồng thực
hiện các quyền và nghĩa vụ tài sản của mình một cách độc lập, không phụ thuộc
vào chồng hoặc vợ như đầu tư kinh doanh riêng, trả nợ riêng…; góp phần ngăn
chặn các trường hợp kết hơn khơng lành mạnh, vì mục đích kinh tế.
Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc sở hữu tư nhân không bị hạn chế về số
lượng, giá trị. Vợ, chồng có quyền sở hữu tồn diện và riêng biệt đối với tài sản
riêng của mình. Việc lựa chọn cách thức quản lý cũng như quyết định việc sử
dụng, định đoạt tài sản riêng hoàn toàn dựa trên nhu cầu, lợi ích, ý chí của mỗi
bên vợ, chồng, không chịu bất kỳ sự chi phối nào từ các thành viên khác trong
gia đình. Tuy nhiên, khác với quyền sở hữu tuyệt đối của cá nhân đối với những
tài sản hợp pháp của mình, quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng có
thể bị hạn chế trong một số trường hợp nhất định theo quy định của pháp luật.
1.2. Khái quát về căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng


Theo quy luật thông thường, để phân biệt một vật này với một vật kia, loại
hình này với loại hình khác,… tất cả đều phải dựa vào những tiêu chí, tiêu chuẩn
hoặc căn cứ để phân định, hoặc đơn giản nhất là dựa vào màu sắc, tính chất của
vật, loại,… qua đó mới có cơ sở xác định để đưa ra nhận định chính xác.
Chẳng hạn như trong BLDS 2005, để có thể phân biệt được tài sản này
thuộc loại tài sản nào, vật chính hay vật phụ, vật đặc định hay vật cùng loại, vật
tiêu hao hay khơng tiêu hao,…thì trong quy định của mỗi điều luật đều đưa ra
khái niệm cụ thể để nhận diện. Hoặc trong Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa
đổi, bổ sung năm 2009, để phân biệt được tội phạm này với tội phạm kia, các
11

Điều 211 BLDS năm 2005.


10

nhà làm luật phải dựa vào cấu thành tội phạm và tính chất, mục đích của từng
hành vi phạm tội để xác định. Từ đó, đưa ra khái niệm của từng loại tội, thông
qua những quy định cụ thể trong từng điều luật.
Đối với lĩnh vực HNGĐ, Luật HNGĐ 2000 không quy định hoặc đưa ra
nhận định như thế nào là căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ,
chồng, mà chỉ quy định mang tính chất liệt kê những căn cứ cụ thể vào trong luật
để xác định đâu là tài sản chung, tài sản riêng. Cụ thể: Theo quy định tại Điều 32
các căn cứ để xác định tài sản riêng của vợ, chồng, bao gồm: Tài sản mà mỗi
người có trước khi kết hơn; Tài sản được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời
kỳ hôn nhân; Tài sản được chia riêng cho vợ, chồng trong trường hợp chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân; Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng được
chia; Đồ dùng, tư trang cá nhân. Hoặc theo Điều 27 các căn cứ để xác định tài
sản chung của vợ chồng bao gồm: Tài sản do vợ, chồng tạo ra; Thu nhập do lao

động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân; Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc
được tặng cho chung; Những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản
chung.
Theo đó, có thể hiểu rằng, căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng là
những tiêu chí để phân loại, xác định một tài sản thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc
chồng. Điều này có nghĩa, khi dựa vào những căn cứ đó, người ta có thể nhận
diện được đó là tài sản thuộc sở hữu riêng của một bên vợ, chồng.
Như vậy có thể thấy rằng, tùy thuộc vào ý chí của các nhà lập pháp trong
từng thời kỳ lịch sử, từng lĩnh vực điều chỉnh, sẽ đưa ra những quy định làm căn
cứ, cơ sở phân định đối với từng nội dung cụ thể.
1.2.1. Vai trò, ý nghĩa của căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng
Pháp luật HNGĐ điều chỉnh hai nhóm quan hệ xã hội trong quan hệ hôn
nhân là quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản của vợ chồng. Trong đó, quan hệ
tài sản giữa vợ chồng là quan hệ phức tạp và thường xuyên dẫn đến những tranh
chấp kéo dài khi có xung đột, mâu thuẫn. Chính vì vậy, việc xác định tài sản là
chung hay riêng của vợ, chồng trong thực tiễn xét xử không phải đơn giản. Vì lẽ
đó, căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng có ý nghĩa vơ cùng quan trọng


11

đối với mỗi bên vợ, chồng, cũng như đối với cơ quan có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp về tài sản của vợ chồng trong các vụ án HNGĐ.
Thứ nhất, căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng là cơ sở phân định
các loại tài sản của vợ chồng. Khi pháp luật có quy định cụ thể, rõ ràng về căn cứ
xác định tài sản riêng sẽ giúp cho vợ, chồng có cơ sở xác định được tài sản mà
mình đang có, nhận biết được quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với khối tài
sản này và sử dụng chúng một cách hợp lý. Đồng thời, khi tham gia vào các giao
dịch dân sự giúp cho vợ, chồng đánh giá được mức độ rủi ro khi họ tiến hành

hoạt động mua bán, tặng cho, cầm cố tài sản. Qua đó, góp phần điều tiết, ổn định
quan hệ tài sản trong giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại; bảo vệ quyền lợi của
người thứ ba có quan hệ tài sản với vợ, chồng.
Thứ hai, căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng là cơ sở khẳng định
quyền tự do của con người về tài sản. Hơn nhân xuất phát từ tình cảm u
thương, gắn bó giữa nam và nữ, nhằm tạo lập và xây dựng một gia đình ấm no,
hạnh phúc. Việc quy định rõ căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng sẽ là cơ
sở để xác định quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản riêng, tạo sự bình
đẳng trong quan hệ tài sản. Đồng thời với quy định này sẽ ngăn chặn được việc
kết hơn vì mục đích kinh tế, trục lợi, từ đó sẽ giảm thiệt hại cho cá nhân vợ hoặc
chồng và góp phần xây dựng xã hội ngày càng tiến bộ, văn minh.
Thứ ba, căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng là cơ sở góp phần
nâng cao trách nhiệm của mỗi bên vợ, chồng đối với gia đình, cũng như chính
bản thân mỗi người có tài sản. Thơng qua những quy định của pháp luật, mỗi cá
nhân vợ, chồng sẽ biết cách điều chỉnh hành vi về những việc nên làm và không
nên làm trong quan hệ về tài sản chung, tài sản riêng. Từ đó, vợ và chồng sẽ
nhận thấy được trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ gìn giữ và phát huy các
loại tài sản trong thời kỳ hôn nhân. Đây cũng là cơ sở để vợ, chồng có sự cân
nhắc khi quyết định đem tài sản chung, tài sản riêng vào việc thực hiện các quan
hệ dân sự khác.
Thứ tư, căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng là cơ sở giúp cho việc
thực hiện quyền bình đẳng về tài sản giữa vợ chồng. Khi căn cứ xác định tài sản
chung, tài sản riêng của vợ, chồng được quy định rõ ràng và cụ thể thì quyền và
lợi ích về tài sản của các bên sẽ được bảo vệ, địa vị pháp lý vững chắc về sự


12

ngang nhau trong quyền và nghĩa vụ cũng được tạo ra, từ đó sự bình đẳng tất yếu
được thực thi.

Thứ năm, căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng là cơ sở để giải
quyết tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng. Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng
để Tịa án có thể giải quyết các vụ án HNGĐ có tranh chấp về tài sản giữa vợ và
chồng, giúp cho việc giải quyết được nhanh chóng, thuận lợi hơn, nhằm đảm bảo
sự hợp tình, hợp lý khi giải quyết tranh chấp, đảm bảo yếu tố tình cảm của đôi
bên.
1.2.2. Phân biệt căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng trong Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 với tài sản riêng của cá nhân trong Bộ luật Dân
sự năm 2005
Cá nhân có quyền sở hữu tài sản riêng của mình. Điều này đã được ghi
nhận tại Điều 58 Hiến pháp 1992: “Cơng dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp
pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản
khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác…”. Về mặt
nguyên tắc vợ, chồng đều là cá nhân, là cơng dân. Do đó, vợ và chồng có quyền
sở hữu tài sản riêng của mình với tư cách là một cá nhân.
Tuy nhiên, tài sản của cá nhân được điều chỉnh chủ yếu bởi BLDS 2005,
còn tài sản riêng của vợ, chồng được điều chỉnh chủ yếu bởi Luật HNGĐ 2000.
Vì vậy, xuất phát từ đặc thù của hai loại tài sản này có tính chất khác nhau, được
điều chỉnh trong hai mối quan hệ khác nhau, nên căn cứ xác định tài sản riêng
của vợ, chồng trong luật HNGĐ 2000 và tài sản riêng của cá nhân trong BLDS
2005 có những điểm khác biệt.
1.2.2.1. Căn cứ xác lập
Căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản của cá nhân theo quy định của BLDS
2005 tại Điều 170 bao gồm từ các nguồn: Do lao động, hoạt động sản xuất kinh
doanh hợp pháp; được chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo quyết
định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; thu hoa lợi, lợi tức; tạo thành vật
mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến; được thừa kế tài sản; chiếm hữu trong các
điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô chủ, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị
che giấu, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên;



13

chiếm hữu tài sản khơng có căn cứ pháp lý nhưng ngay tình, liên tục, cơng khai
phù hợp với thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều 247 và các trường hợp khác do
pháp luật quy định. Như vậy, BLDS 2005 đã quy định theo hướng liệt kê chi tiết
các căn cứ để xác lập quyền sở hữu cá nhân. Quy định này tương đối đầy đủ, cụ
thể, rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi khi áp dụng trên thực tế.
Căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản được quy định tại Điều 32 Luật
HNGĐ 2000 bao gồm: Tài sản có trước khi kết hơn; tài sản được thừa kế riêng,
được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản chia riêng cho vợ chồng theo
quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá
nhân. Quy định trong Luật HNGĐ 2000 không phải là liệt kê từng trường hợp cụ
thể, chi tiết, mà ở đây chỉ liệt kê mang tính chất chung, gắn liền với những căn
cứ xác định cụ thể như: Dựa vào thời gian tạo lập, nguồn gốc tạo lập, tính chất
phục vụ của tài sản,…
Như vậy, có thể thấy rằng Luật HNGĐ 2000 và BLDS 2005 đều quy định
về căn cứ xác lập tài sản riêng của cá nhân theo cách thức là liệt kê. Đây là
những quy định cụ thể, rõ ràng, tạo ra sự thuận lợi trong việc áp dụng pháp luật.
Tuy nhiên, với tư cách là đạo luật gốc nên BLDS 2005 có phạm vi quy định về
quyền sở hữu tài sản của cá nhân rộng hơn, khơng bị giới hạn bởi những tính
chất riêng biệt như trong Luật HNGĐ 2000. Vì vậy, quyền sở hữu tài sản riêng
của vợ, chồng khi thiết lập trong quan hệ hơn nhân, ngồi những quy định được
điều chỉnh trong BLDS 2005, còn chịu sự điều chỉnh của Luật HNGĐ 2000.
1.2.2.2. Chế độ pháp lý
 Đối với quyền chiếm hữu tài sản
Điều 182 BLDS 2005 quy định: “Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ,
quản lý tài sản”. Theo đó, trừ một số trường hợp đặc biệt như quyền chiếm hữu
của người phát hiện tài sản bị đánh rơi, bị bỏ qn, bị chơn giấu, bị chìm đắm...
thì việc thực hiện quyền chiếm hữu chỉ có thể được thực hiện bởi chủ sở hữu

hoặc người được ủy quyền, người được giao quản lý tài sản. Xét về mặt ưng
thuận của chủ sở hữu, người không phải là chủ sở hữu chỉ có quyền chiếm hữu
tài sản đó khi được chủ sở hữu ủy quyền hoặc giao quản lý tài sản. Với tư cách là
chủ sở hữu khối tài sản riêng, cá nhân được quyền thực hiện mọi hành vi theo ý


14

chí của mình để nắm giữ, quản lý tài sản của mình phù hợp với quy định pháp
luật.
Điều 75 BLDS 2005 cũng có quy định trường hợp quản lý tài sản của
người vắng mặt tại nơi cư trú. Theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên
quan, Tịa án sẽ giao tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú cho vợ hoặc chồng
người vắng mặt tại nơi cư trú dựa trên nguyên tắc “tài sản do vợ hoặc chồng
đang quản lý thì vợ hoặc chồng tiếp tục quản lý; nếu vợ hoặc chồng chết hoặc
mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì con đã
thành niên hoặc cha, mẹ của người vắng mặt quản lý”.
Về vấn đề này, tại khoản 2 Điều 33 Luật HNGĐ 2000 có điểm khác biệt
khi quy định: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lý tài
sản riêng và cũng khơng ủy quyền cho người khác quản lý thì bên kia có quyền
quản lý tài sản đó”. Điều này có nghĩa, một bên vợ hoặc chồng chỉ có quyền
quản lý tài sản khi thỏa mãn hai điều kiện:
Một là, “vợ hoặc chồng khơng thể tự mình quản lý tài sản riêng của
mình”. Đây có thể là trường hợp người vợ hoặc người chồng đi vắng, công tác xa
nhà hoặc bệnh tật và các sự kiện có tính chất tương tự làm cho vợ hoặc chồng
khơng thể tự mình quản lý tài sản được. Tuy nhiên, điều kiện này không bao
gồm trường hợp người vợ hoặc chồng đó mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự. Bởi vì, đây là những trường hợp có điều kiện
và bản chất khác với trường hợp quản lý tài sản thông thường (Trường hợp một
bên vợ hoặc chồng bị mất năng lực hành vi dân sự thì người cịn lại sẽ là quản lý

tài sản của người đó với tư cách là người giám hộ12. Hoặc trường hợp một bên vợ
hoặc chồng bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người cịn lại sẽ là quản lý tài
sản của người đó với tư cách là người đại diện theo pháp luật13).
Hai là, “vợ hoặc chồng không ủy quyền cho người khác quản lý” tài sản
đó. Tức là, khi người vợ hoặc chồng khơng thể tự mình quản lý tài sản riêng của
mình và cũng chưa có ủy quyền cho một người khác quản lý thì người vợ, chồng
cịn lại mới có quyền quản lý tài sản đó. Cịn ngược lại, khi người vợ hoặc chồng
khơng thể tự mình quản lý tài sản riêng của mình, nhưng đã có ủy quyền quản lý
12
13

Khoản 1 Điều 62 BLDS 2005.
Điều 141 BLDS 2005.


15

tài sản của họ cho người khác thì người vợ, chồng cịn lại sẽ khơng có quyền
quản lý đối với tài sản riêng của người kia.
Việc quy định vợ, chồng được quyền quản lý tài sản riêng của người còn
lại cả trong trường hợp khơng có ủy quyền như trong Luật HNGĐ 2000 có ý
nghĩa quan trọng, nhất là đối với người phụ nữ. Bởi thực tế có nhiều trường hợp
khi người chồng đi làm ăn xa, hoặc vắng mặt tại nơi cư trú mà không ủy quyền
quản lý tài sản riêng của mình cho ai, trong khi đó gia đình bên chồng vì muốn
mưu cầu lợi ích cá nhân đã địi quản lý tài sản riêng của chồng. Chính vì thế
trong nhiều trường hợp sẽ gây thiệt hại cho người vợ trong gia đình.
 Đối với quyền sử dụng
Điều 192 BLDS 2005 quy định: “Quyền sử dụng là quyền khai thác công
dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản”. Khi thực hiện quyền sử dụng tài sản
thuộc sở hữu của mình, chủ sở hữu được khai thác cơng dụng, hưởng hoa lợi, lợi

tức từ tài sản theo ý chí của mình nếu khơng gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng
đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người
khác. Trong trường hợp này vợ hoặc chồng dù không là chủ sở hữu của khối tài
sản riêng cũng có quyền sử dụng đối với khối tài sản đó, từ khai thác cơng dụng
cho đến hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản đó theo ý chí của mình mà khơng phụ
thuộc vào ý chí người cịn lại.
Xuất phát từ mục đích bảo vệ các thành viên khác trong gia đình, sự bền
vững trong quan hệ hôn nhân, pháp luật HNGĐ khi quy định về quyền sử dụng
tài sản riêng, còn đặt ra một số hạn chế đối với vợ, chồng trong việc thực hiện
quyền sử dụng tài sản riêng của mình. Đó là, “Tài sản riêng của vợ, chồng cũng
được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản
chung không đủ để đáp ứng..”14. Về nguyên tắc, các nhu cầu thiết yếu của gia
đình thuộc phần nghĩa vụ chung và sẽ được đáp ứng bằng khối tài sản chung của
vợ chồng. Tuy nhiên, trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu
cầu thiết yếu của gia đình thì “tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng”.
Quy định này mang tính tùy nghi, khơng mang tính chất bắt buộc. Bởi vì, việc

14

Khoản 4 Điều 33 Luật HNGĐ 2000


16

vợ, chồng có muốn đưa tài sản riêng của mình vào sử dụng chung hay khơng là
tùy thuộc vào tình cảm, cách sống… giữa vợ và chồng.
Theo đó, trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc
chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hơn, nhà ở đó vẫn thuộc sở hữu riêng
của chủ sở hữu nhà, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận và bên chưa có chỗ ở
được lưu cư trong thời hạn sáu tháng để tìm chỗ ở khác15. Đây là quyền lưu cư

của vợ, chồng khi ly hôn. Theo quy định này, dưới góc độ thực hiện quyền sử
dụng tài sản của chủ sở hữu, quyền sử dụng của vợ, chồng có nhà ở thuộc sở hữu
riêng mà đã đưa vào sử dụng chung sẽ bị hạn chế trong thời gian nhất định xét
dưới góc độ tình cảm. Tuy nhiên, đây là một quy định phù hợp với truyền thống,
đạo lý của người Việt Nam, thể hiện nghĩa vợ chồng giúp đỡ nhau khi gặp khó
khăn cho dù họ đã ly hôn.
 Đối với quyền định đoạt
Điều 195 BLDS 2005 quy định: “Quyền định đoạt là quyền chuyển giao
quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó”. Chủ sở hữu có quyền định
đoạt đối với tài sản của mình thơng qua quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản
và quyền từ bỏ quyền sở hữu. Chủ sở hữu có thể thực hiện quyền chuyển giao
của mình thơng qua các giao dịch dân sự như bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để
thừa kế tài sản cho người khác. Hoặc chủ sở hữu cũng có thể từ bỏ quyền sở hữu
của mình đối với tài sản bằng cách tuyên bố công khai hoặc thực hiện hành vi
chứng tỏ việc mình từ bỏ quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản đó.
Ngồi việc có đầy đủ những quyền trong quyền định đoạt theo BLDS
2005 vợ, chồng cịn có quyền nhập hoặc khơng nhập tài sản riêng vào khối tài
sản chung. Theo Luật HNGĐ 2000, nếu vợ, chồng nhập tài sản riêng vào tài sản
chung thì tài sản riêng đó sẽ chuyển từ sở hữu cá nhân sang sở hữu chung hợp
nhất của vợ, chồng. Việc nhập tài sản riêng vào tài sản chung đòi hỏi phải có sự
tự nguyện của vợ, chồng có tài sản riêng. Trường hợp khi chứng minh được có
yếu tố ép buộc, đe dọa, cưỡng ép, lừa đảo, nhầm lẫn… và các hành vi có tính
chất tương tự thể hiện việc nhập tài sản riêng khơng có đầy đủ sự tự nguyện của
vợ, chồng thì “giao dịch” nhập tài sản riêng vào tài sản chung sẽ bị vô hiệu theo
15

Điều 30 Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 03/1/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật HNGĐ
(Nghị định 70/2001/NĐ-CP).



17

quy định tại các Điều 131, 132, 133 BLDS 2005. Bên cạnh đó, pháp luật cũng
quy định việc nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản khác có giá
trị lớn thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng vào tài sản chung của vợ
chồng phải được lập thành văn bản (giấy ưng thuận, giấy cam đoan, văn bản thỏa
thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung…), có chữ ký của cả vợ và chồng. Các
văn bản này có thể được cơng chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật
tùy thuộc vào ý chí của vợ chồng, pháp luật khơng bắt buộc16. Việc pháp luật
quy định những điều kiện ràng buộc khi thực hiện việc nhập tài sản nhằm đảm
bảo cơ sở giải quyết khi có tranh chấp tài sản và cũng tránh hiện tượng vợ, chồng
có tài sản riêng thay đổi ý chí khi có mâu thuẫn.
Bên cạnh việc quy định cho vợ, chồng có quyền định đoạt tài sản riêng,
Luật HNGĐ cũng đặt ra những hạn chế đối với quyền này vì những lợi ích phù
hợp khác như:
Thứ nhất, để bảo vệ quyền lợi cho bên thứ ba (khi đã thực hiện giao dịch
với vợ hoặc chồng), luật quy định “việc nhập tài sản riêng của một bên vào khối
tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ riêng của
bên đó về tài sản thì vơ hiệu”17. Hoặc “trong trường hợp xác lập giao dịch giả
tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vơ hiệu”18.
Thứ hai, để bảo vệ quyền lợi của các thành viên trong gia đình đối với
trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà
hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc
định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thỏa thuận của cả vợ và chồng. Với quy
định này, quyền định đoạt của chủ sở hữu là vợ, chồng đối với tài sản riêng của
mình khơng cịn được tồn quyền định đoạt theo ý chí của mình, mà pháp luật
quy định việc định đoạt này “phải được sự thỏa thuận của cả vợ chồng”. Điều
này có nghĩa, nếu vợ chồng tự ý xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch
dân sự liên quan đến việc định đoạt tài sản mà không được sự thỏa thuận của cả
vợ và chồng và không tuân thủ về mặt hình thức theo luật định thì bên vợ, bên

chồng cịn lại có quyền u cầu Tịa án tun bố giao dịch đó vơ hiệu19.
16

Khoản 1 Điều 13 Nghị định 70/2001/NĐ-CP.
Khoản 2 Điều 13 Nghị định 70/2001/NĐ-CP.
18
Điều 129 BLDS 2005.
19
Điều 134 BLDS 2005.
17


18

Về hình thức “thỏa thuận của cả vợ chồng”, luật quy định phải lập thành
văn bản có chữ ký của vợ, chồng hoặc phải có cơng chứng, chứng thực...20.
Trường hợp pháp luật khơng có quy định phải tn theo hình thức nhất định thì
việc xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch đó cũng phải có sự thỏa
thuận bằng văn bản của vợ và chồng.
Điều này có nghĩa, về nguyên tắc vợ, chồng có tài sản riêng có tồn quyền
định đoạt mà khơng chịu sự chi phối của người khác. Tuy nhiên, ngoài việc đảm
bảo quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của cá nhân vợ, chồng với tư cách là
chủ sở hữu đối với tài sản riêng của mình, pháp luật cịn bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của các thành viên khác trong gia đình. Do đó, trong một số trường
hợp dù là chủ sở hữu tài sản, nhưng họ lại khơng có tồn quyền chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản riêng của mình, và vợ hoặc chồng của họ lại có thể chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt một phần của tài sản đó.
1.2.2.3. Nghĩa vụ về tài sản
BLDS 2005 chỉ quy định những nguyên tắc chung tại Phần ba về nghĩa vụ
dân sự và hợp đồng dân sự để điều chỉnh vấn đề nghĩa vụ về tài sản. Theo đó,

nghĩa vụ về tài sản gắn liền với những giao dịch dân sự cụ thể và trong từng
trường hợp cụ thể, tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên khi tham gia giao
dịch và ký kết hợp đồng.
Khoản 3 Điều 33 Luật HNGĐ 2000 quy định “Nghĩa vụ riêng về tài sản
của mỗi người được thanh tốn từ tài sản riêng của người đó”. Trong sự đối
chiếu với nghĩa vụ chung của vợ chồng tại Điều 25 và Điều 28 Luật HNGĐ
2000 và quy định về các nguồn tài sản riêng của vợ, chồng thì nghĩa vụ tài sản
riêng của vợ, chồng sẽ bao gồm: Những nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng có trước
khi kết hơn, hoặc tuy được hình thành trong thời kỳ hơn nhân nhưng khơng xuất
phát từ mục đích để phục vụ nhu cầu chung của gia đình mà xuất phát từ việc để
đáp ứng nhu cầu riêng, hoặc để thực hiện nghĩa vụ riêng của vợ, chồng.
Với những quy định trên, nếu vợ, chồng có khoản nợ riêng thì phải lấy tài
sản riêng của mình ra để thanh tốn nghĩa vụ riêng; vợ, chồng chỉ được dùng tài
sản chung để thanh tốn nghĩa vụ riêng nếu được bên cịn lại đồng ý. Nếu không
20

Điều 4 Nghị định 70/2001/NĐ-CP.


×