Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Chế định ngƣời đại diện theo pháp luật trong luật doanh nghiệp 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI

NGƠ THỊ HUỆ MY

CHẾ ĐỊNH NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP 2014
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƢƠNG MẠI

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

CHẾ ĐỊNH NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP 2014

SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGƠ THỊ HUỆ MY

Khóa: 38 MSSV: 1353801011125
GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN: ThS. TỪ THANH THẢO

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, chuyên ngành Luật


thƣơng mại với đề tài “Chế định ngƣời đại diện theo pháp luật trong Luật Doanh
nghiệp 2014”, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến ThS. Từ Thanh Thảo
đã hƣớng dẫn và giúp đỡ tác giả trong thời gian nghiên cứu và hoàn thiện khóa luận
tốt nghiệp. Bên cạnh đó, tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cơ
trƣờng đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh đã truyền dạy nhiều kiến thức bổ ích, định
hƣớng cách học và nghiên cứu các môn học trong suốt bốn năm đại học của tác giả,
đó là nguồn kiến thức quý báu giúp tác giả thực hiện đƣợc khóa luận này. Cuối
cùng, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, đã ln quan tâm,
ủng hộ, khích lệ và động viên để tác giả vƣợt qua những khó khăn và hồn thành
khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật của mình.


LỜI CAM ĐOAN
“Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, đƣợc
thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của ThS. Từ Thanh Thảo, đảm bảo tính
trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi
xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này”.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2017
Tác giả

Ngơ Thị Huệ My


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƢỢC VIẾT TẮT

LDN


Luật Doanh nghiệp

BLDS

Bộ luật dân sự

DNTN

Doanh nghiệp tƣ nhân

CTHD

Công ty hợp danh

CTTNHH

Công ty trách nhiệm hữu hạn

CTCP

Công ty cổ phần


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI ĐẠI DIỆN
THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP .......................................................6
1.1

Lý luận về đại diện ........................................................................................6


1.1.1

Nguồn gốc của quan hệ đại diện .............................................................6

1.1.2

Quan hệ pháp luật đại diện .....................................................................8

1.1.3

Phân loại đại diện ..................................................................................10

1.2

Khái quát về ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ...................12

1.2.1

Khái niệm ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ................12

1.2.2

Đặc điểm ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ..................15

1.2.3 Căn cứ xác lập quyền đại diện của ngƣời đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp .....................................................................................................17
1.3

Vai trò của ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ......................20


KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................22
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 VỀ CHẾ ĐỊNH
NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN ...........23
2.1

Điều kiện trở thành ngƣời đại diện theo pháp luật ......................................23

2.1.1

Không thuộc các trƣờng hợp bị pháp luật cấm làm ngƣời đại diện theo

pháp luật ............................................................................................................23
2.1.2

Điều kiện về cƣ trú................................................................................26

2.1.3

Các điều kiện khác ................................................................................29

2.2

Số lƣợng ngƣời đại diện theo pháp luật .......................................................30

2.3

Chức danh quản lý của ngƣời đại diện theo pháp luật ................................34

2.4


Quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của ngƣời đại diện theo pháp luật ....38

2.4.1

Quyền hạn, nghĩa vụ .............................................................................38

2.4.2

Trách nhiệm của ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ......44

2.5

Thay đổi, chấm dứt tƣ cách đại diện của ngƣời đại diện theo pháp luật .....49

2.5.1

Thay đổi ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ...................49

2.5.2

Chấm dứt tƣ cách đại diện của ngƣời đại diện theo pháp luật..............51


2.6

Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về ngƣời đại diện theo pháp luật của

doanh nghiệp .........................................................................................................52
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................56

KẾT LUẬN ..............................................................................................................57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền kinh tế mở cửa với nhiều cải cách sâu rộng giúp nƣớc ta ngày càng hội
nhập và vƣơn xa ra thế giới. Song song với việc phát triển kinh tế, hệ thống pháp
luật doanh nghiệp đã khơng ngừng hồn thiện, tạo hành lang pháp lý vững chắc
cho các nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc thành lập doanh nghiệp. Trên cơ sở kế
thừa và phát huy những kết quả đã đạt đƣợc của Luật Doanh nghiệp 1999 và
Luật Doanh nghiệp 2005, đồng thời khắc phục những điểm hạn chế, bất cập của
quy định hiện hành và thể chế hóa các vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn, Luật
Doanh nghiệp 2014 đã đƣợc Quốc Hội ban hành vào ngày 26/11/2014 và chính
thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2015. Mục tiêu cao nhất là đƣa doanh nghiệp trở
thành một công cụ kinh doanh rẻ hơn, an toàn hơn và hấp dẫn hơn cho các nhà
đầu tƣ để qua đó tăng cƣờng thu hút và huy động hơn nữa mọi nguồn lực và vốn
đầu tƣ vào doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là bộ phận quan trọng cấu thành nền kinh tế, là một chủ thể
độc lập của quan hệ pháp luật. Tự bản thân doanh nghiệp không thể đứng ra xác
lập và thực hiện các giao dịch mà nó chỉ hành động thơng qua những con ngƣời
cụ thể. Do đó, doanh nghiệp ln cần có ngƣời đại diện theo pháp luật nhân
danh và vì lợi ích của doanh nghiệp xác lập, thực hiện các giao dịch thể hiện mối
quan hệ với các chủ thể trong doanh nghiệp (nhƣ với các thành viên, cổ đông,
ngƣời lao động…) hoặc với các chủ thể khác bên ngoài doanh nghiệp (đối tác,
khách hàng, cơ quan quản lý nhà nƣớc…).
Chế định ngƣời đại diện theo pháp luật là một trong những chế định quan
trọng và có nhiều điểm mới trong Luật doanh nghiệp 2014 mang tính đột phá,

thể hiện tƣ duy rất thoáng về quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy,
nhằm nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống về ngƣời đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp hiện hành, tác giả chọn đề tài “Chế
định ngƣời đại diện theo pháp luật trong Luật Doanh nghiệp 2014” làm khóa
luận tốt nghiệp cử nhân Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài mà tác giả chọn nghiên cứu là một đề tài khơng mới. Tuy nhiên, cho
đến nay vẫn chƣa có một cơng trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn
diện về chế định ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo Luật
Doanh nghiệp (LDN) hiện hành.


2

Liên quan đến chế định này phần lớn là những nghiên cứu đƣợc thể hiện
dƣới các bài báo khoa học nhƣ:
- Bùi Xuân Hải (2007), “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp
luật công ty Việt Nam”, Tạp chí khoa học và pháp lý, số 4 (41)/2007;
-

Hà Thị Thanh Bình (2015), “Sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quản lý,
điều hành trong quản trị công ty”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
10(330)/2015;
Đây là những bài viết giàu tính lý luận và thực tiễn đƣợc nghiên cứu dựa

trên pháp luật trong nƣớc và cả pháp luật nƣớc ngoài đã tập trung lý giải nguồn
gốc của quan hệ đại diện và kiến nghị mấy vấn đề cần hoàn thiện trong tƣơng
lai.
Từ khi LDN 2014 ra đời, có rất nhiều bài báo khoa học tập trung phân tích,
bình luận, kiến nghị về những điểm mới của chế định ngƣời đại diện theo pháp

luật nhƣ:
- Bùi Đức Giang (2015), “Hành lang pháp lý mới về ngƣời đại diện theo
pháp luật của Luật Doanh nghiệp 2014”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
-

-

số 6 (326)/2015;
Vũ Thị Lan Anh (2016), “Quy định mới của Luật Doanh nghiệp năm
2014 về ngƣời đại diện theo pháp luật của Doanh nghiệp”, Tạp chí Luật
học, số 4/2016;
Nguyễn Thị Thanh (2016), “Ngƣời đại diện theo pháp luật của Doanh
nghiệp”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chun đề tháng 8/2016;
Ngơ Gia Hồng và Nguyễn Thị Thƣơng (2016), “Ngƣời đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 dƣới góc
độ quyền tự do kinh doanh”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7

(339)/2016;
Tuy nhiên những bài viết trên mới chỉ dừng lại ở việc phân tích những điểm
mới về ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nhƣ khái niệm, số lƣợng
và đƣa ra một số vấn đề cần lƣu ý khi áp dụng các quy định mới này mà khơng
nghiên cứu các khía cạnh khác của chế định ngƣời đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp.
Tác giả Lê Việt Phƣơng trong luận văn thạc sĩ “Người đại diện theo pháp
luật của công ty theo pháp luật Việt Nam” đã nghiên cứu khá đầy đủ và toàn
diện về chế định ngƣời đại diện theo pháp luật. Tuy nhiên, đề tài này giới hạn


3


trong phạm vi những ngƣời đại diện theo pháp luật “của công ty” (chỉ bao gồm
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh) trên cơ sở
pháp luật Việt Nam bao gồm LDN 2005, Bộ luật dân sự (BLDS) 2005 và các
văn bản quy phạm pháp luật liên quan khác. Vì phạm vi nghiên cứu của luận văn
khá rộng nên tác giả chủ yếu chỉ ra vấn đề đó đƣợc quy định ở đâu, bao gồm
những vấn đề trọng tâm nào mà không đi sâu phân tích, lý giải. Hơn nữa, luận
văn khơng có bất kì một vụ việc thực tế hay bản án nào để bình luận, phân tích
thêm nên rất ít giá trị thực tiễn.
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu, trong các tác phẩm của mình có đề cập đến
một số khía cạnh pháp lý liên quan đến ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp nhƣ:
- Lê Đức Nghĩa (2014), “Trách nhiệm “ngƣời quản lý” theo luật cơng ty
Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu và lập pháp, số 04 (260)/2014;
- Phan Thị Phƣơng Hoa (2016), “Hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ của
ngƣời quản lý, điều hành doanh nghiệp”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số
chuyên đề 02/2016;
Tuy nhiên, những bài viết này chỉ đề cập đến một khía cạnh nhỏ của chế định
ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là nghĩa vụ, trách nhiệm của
ngƣời đại diện theo pháp luật.
Trên đây là những nguồn tài liệu tham khảo rất hữu ích để tác giả thực hiện
khóa luận. Tuy nhiên, các nghiên cứu nói trên khơng đi sâu khai thác chế định
ngƣời đại diện theo pháp luật một cách toàn diện. Đặc biệt, kể từ khi LDN 2014
ra đời với nhiều điểm mới tiến bộ thì chƣa có một cơng trình nghiên cứu tồn
diện nào về chế định này. Do đó, tác giả sẽ tiếp nhận những kết quả đã đạt đƣợc
và nghiên cứu thêm những vấn đề cịn thiếu sót để hồn thiện khóa luận của
mình.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Thứ nhất, làm sáng tỏ hơn nữa các vấn đề lý luận về chế định ngƣời đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp.
Thứ hai, làm rõ chế định ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

thông qua các quy định trong LDN 2014 và các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan. Đồng thời vận dụng các quy định của pháp luật nƣớc ngoài và một số bản
án, vụ việc thực tế để làm sáng tỏ.


4

Thứ ba, dựa trên những nghiên cứu có đƣợc để đề xuất một số biện pháp
hoàn thiện pháp luật về chế định ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
nhằm tạo hành lang pháp lý vững chắc cho các nhà đầu tƣ tự tin hơn khi thành
lập doanh nghiệp.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và các quy định
của pháp luật về ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong LDN
2014.
Về phạm vi nghiên cứu, tác giả tập trung nghiên cứu về chế định ngƣời đại
diện theo pháp luật của các loại hình doanh nghiệp: Doanh nghiệp tƣ nhân
(DNTN), cơng ty hợp danh (CTHD), công ty trách nhiệm hữu hạn (CTTNHH),
công ty cổ phần (CTCP) chủ yếu theo các quy định của LDN 2014. Trong giới
hạn về hình thức của đề tài, tác giả không nghiên cứu về ngƣời đại diện theo
pháp luật của các chủ thể kinh doanh không phải là doanh nghiệp.
5. Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Để hoàn thành đƣợc khóa luận, tác giả đã sử dụng kết hợp nhiều phƣơng
pháp xuyên suốt toàn bộ nội dung nhƣ tra cứu, thu thập thơng tin; so sánh; phân
tích; chứng minh; tổng hợp.
- Phƣơng pháp tra cứu, thu thập thông tin: Tác giả sử dụng phƣơng pháp
này để tìm kiếm các nguồn tài liệu nhƣ văn bản quy phạm pháp luật,
sách, tạp chí, luận văn, trang thơng tin điện tử, bản án liên quan đến nội
-


-

-

dung của đề tài.
Phƣơng pháp so sánh: So sánh giữa các quy định của LDN 2005 và LDN
2014; so sánh giữa quy định của pháp luật trong nƣớc và pháp luật nƣớc
ngoài; so sánh ý kiến của các chuyên gia.
Phƣơng pháp phân tích: Dựa trên cơ sở lý luận, các quy định của pháp
luật và thực tiễn để mổ xẻ vấn đề trên nhiều góc độ nhằm làm sáng tỏ nội
dung nghiên cứu.
Phƣơng pháp chứng minh: Sử dụng các thơng tin, dẫn chứng có đƣợc từ
những nguồn tin cậy để làm rõ các lập luận.
Phƣơng pháp tổng hợp: Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để tổng hợp các
tài liệu, kiến thức. Và để kết luận vấn đề sau khi phân tích, chứng minh,
so sánh.

6. Bố cục tổng quát của khóa luận


5

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
đƣợc chia thành hai chƣơng:
Chƣơng 1: Khái quát chung về chế định ngƣời đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp
Chƣơng 2: Quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 về chế định ngƣời đại
diện theo pháp luật và hƣớng hoàn thiện



6

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ ĐỊNH NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP
LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Lý luận về đại diện
1.1.1 Nguồn gốc của quan hệ đại diện
Trong đời sống, để thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần, các chủ
thể thƣờng tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự. Tuy nhiên, có những
trƣờng hợp mà ở đó các chủ thể khơng thể tự mình tham gia các giao dịch hay
khơng muốn tự mình tham gia các giao dịch nên cần đến sự trợ giúp của các chủ thể
khác thơng qua hình thức đại diện. Đây là một phƣơng thức cần thiết khơng thể bị
xóa bỏ trong bất kì chế độ phát triển nào dựa trên sự phân công lao động đối với sản
xuất và phân phối hàng hóa và dịch vụ1. Nhờ vào phƣơng thức này, các quan hệ dân
sự và sự phân công lao động tăng cƣờng hơn, các chủ thể cũng thuận tiện hơn trong
việc giao kết các hợp đồng.
Trƣớc công nguyên, luật La Mã không chấp nhận vấn đề đại diện do tính
chất trọng hình thức đối với hợp đồng2. Càng về sau, cùng với sự thay đổi của các
hình thái kinh tế - xã hội thì quan hệ đại diện ngày càng phát triển hơn. Từ giữa thế
kỉ 19, các án lệ của các nƣớc theo truyền thống thông luật (common law) đã khẳng
định rằng, cơng ty chỉ có thể hành động thông qua các Giám đốc (directors) - là
những ngƣời quản lý công ty. Bởi họ cho rằng, công ty là một thực thể pháp lý độc
lập, tự bản thân nó khơng thể hành động mà phải thơng qua con ngƣời cụ thể đại
diện cho công ty xác lập và thực hiện các giao dịch.
Đến thế kỷ 20, các lý thuyết về đại diện xuất hiện trong nhiều nghiên cứu của
các giáo sƣ luật, kinh tế, quản trị ở phƣơng Tây. Theo học thuyết về đại diện, quan
hệ giữa các cổ đông và ngƣời quản lý công ty đƣợc hiểu nhƣ là quan hệ đại diện hay quan hệ ủy thác. Mối quan hệ này đƣợc coi nhƣ là quan hệ hợp đồng mà theo
đó các cổ đơng bổ nhiệm, chỉ định ngƣời khác để thực hiện việc quản lý cơng ty cho
họ mà trong đó bao gồm cả việc trao thẩm quyền để ra quyết định định đoạt tài sản
của công ty3. Và về sau, khi vấn đề tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý


1

Konrad Zweigert and Hein Koetz (1998), An Introduction to Comparative Law, Clarendon Press, p. 431
Ngô Huy Cƣơng (2009), “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam - nhìn từ góc độ Luật so
sánh”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4 (252)/2009, tr. 26
3
Bùi Xuân Hải (2007), “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật cơng ty Việt Nam”, Tạp chí
khoa học và pháp lý, số 4 (41)/2007 tr. 22
2


7

(nắm sở hữu nhƣng không quản lý hoặc nắm quản lý nhƣng khơng sở hữu) xuất
hiện thì cơ chế quản trị công ty đƣợc dùng để giải quyết các vấn đề về đại diện4.
Sau này, vấn đề đại diện đã đƣợc luật hóa để điều chỉnh các quan hệ đại diện
phát sinh trong giao lƣu dân sự. Bộ luật Dân sự và Thƣơng mại Thái Lan định nghĩa
về đại diện “Đại diện là một hợp đồng trong đó một ngƣời gọi là ngƣời thụ ủy đƣợc
quyền hành động cho một ngƣời khác gọi là ngƣời chủ ủy và ngƣời đó chấp thuận
cho làm nhƣ vậy”5. Điều luật này đã xác định đƣợc bản chất hợp đồng của quan hệ
đại diện mà không đề cập tới phạm vi đại diện. Bộ luật dân sự Pháp ra đời năm
1804 - rất lâu trƣớc khi Bộ luật Dân sự và Thƣơng mại Thái Lan ra đời, quy định
“Đại diện là hợp đồng, theo đó, một ngƣời trao cho ngƣời khác quyền thực hiện một
cơng việc nhân danh và vì lợi ích của ngƣời đƣợc đại diện”6 đã đề cập tới việc xác
lập, thực hiện các giao dịch dân sự của ngƣời đại diện là “nhân danh” và “vì lợi ích”
của ngƣời đƣợc đại diện. Quy định này gần giống với quy định của Bộ luật dân sự
Việt Nam về đại diện.
Theo BLDS 2015, “Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung
là ngƣời đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây

gọi chung là ngƣời đƣợc đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”7. Định nghĩa
này có nguồn gốc từ trƣờng phái luật tự nhiên giống với Bộ luật dân sự Pháp8. Điều
này dẫn đến hệ quả một ngƣời dù đƣợc ủy quyền và đã giao kết hợp đồng trong
phạm vi của sự ủy quyền đó, nhƣng khơng hành động bằng tên của ngƣời đƣợc đại
diện thì khơng làm phát sinh hậu quả pháp lý đối với ngƣời đƣợc đại diện. Hơn nữa,
nếu không phải là ngƣời đại diện hợp pháp thì sẽ khơng có quyền xác lập, thực hiện
các giao dịch dân sự nhân danh ngƣời đƣợc đại diện.
Trên nền tảng của tự do ý chí, nhiều luật gia và nhà nghiên cứu đều thừa
nhận rằng một ngƣời có thể tự mình biểu lộ ý chí hoặc có thể thể hiện ý chí thơng
qua một ngƣời khác. Và nếu khơng có luật đại diện thì mọi ngƣời phải tự hành động
cho mình và khơng thể sử dụng đại diện, cịn các cơng ty khơng thể thực hiện đƣợc

4

Hà Thị Thanh Bình (2015), “Sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quản lý, điều hành trong quản trị công ty”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10(330)/2015, tr. 46
5
Điều 797 Bộ luật dân sự và Thƣơng mại Thái Lan có hiệu lực từ ngày 01/01/1925
6
Điều 1984 Bộ luật dân sự Pháp
7
Khoản 1 Điều 134 BLDS 2015
8
Trƣờng phái luật tự nhiên là trƣờng phái mà việc soạn thảo luật lệ dựa trên những quy luật, đạo lý, chuẩn
mực và công lý của tự nhiên. Định nghĩa của BLDS 2015 đƣa ra đã diễn giải đúng bản chất tự nhiên của quan
hệ đại diện phát sinh trong đời sống hàng ngày nên rất gần gũi, dễ hiểu


8


tất cả các chức năng của mình và phải chấm dứt hoạt động9. Chƣa kể nếu khơng có
chế định đại diện thì những ngƣời khơng có năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự sẽ khơng cịn cơ hội tham gia các giao dịch dân sự.
Nhƣ vậy, vấn đề đại diện đã xuất hiện từ rất sớm, là một quan hệ xã hội đƣợc
thừa nhận rộng rãi và đƣợc pháp luật ghi nhận. Đại diện là chế định có chức năng
trợ giúp xã hội, nhờ có nó mà một ngƣời có thể sử dụng tri thức, khả năng, kinh
nghiệm của ngƣời đại diện để thực hiện hóa ý chí của mình. Hiểu đƣợc nguồn gốc
của nó sẽ dễ dàng hiểu đƣợc những quy định của pháp luật. Hơn nữa, một khi đã
nắm bắt đƣợc những quy định của pháp luật sẽ dễ dàng khai thác, vận dụng để giải
quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến chế định đại diện trên thực tế.
1.1.2 Quan hệ pháp luật đại diện
Đại diện thực chất là một quan hệ pháp luật. Trong quan hệ pháp luật đại
diện, ngƣời đại diện nhân danh ngƣời đƣợc đại diện xác lập, thực hiện các giao dịch
dân sự với ngƣời thứ ba chứ không phải nhân danh họ, với mục đích “vì lợi ích” của
ngƣời đƣợc đại diện chứ khơng hồn tồn vì lợi ích của họ. Điều đó có nghĩa rằng
mặc dù ngƣời đại diện giao dịch trực tiếp với ngƣời thứ ba nhƣng quan hệ dân sự
đƣợc xác lập giữa ngƣời đƣợc đại diện và ngƣời thứ ba. Ngƣời đƣợc đại diện theo
đó sẽ là ngƣời phải tiếp nhận và gánh chịu các hậu quả pháp lý từ quan hệ đại diện
do ngƣời đại diện đã xác lập, thực hiện đúng pháp luật. Khi hiểu rõ đƣợc bản chất
này của quan hệ pháp luật đại diện mới xác định đúng trách nhiệm của các bên. Đặc
biệt, trong doanh nghiệp hay có sự nhầm lẫn giữa trách nhiệm của ngƣời đại diện
theo pháp luật và trách nhiệm của doanh nghiệp, vấn đề này sẽ đƣợc phân tích cụ
thể ở mục 2.4.1.1.
Quan hệ pháp luật đại diện bao gồm các yếu tố: Chủ thể, khách thể và nội
dung đại diện.
1.1.2.1 Chủ thể của quan hệ đại diện
Chủ thể của quan hệ đại diện bao gồm ngƣời đại diện và ngƣời đƣợc đại
diện. Ngƣời đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân, nhƣng ngƣời đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp bắt buộc phải là cá nhân. Ngƣời đại diện là cá nhân phải
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ10. Ngoài việc phải đáp ứng điều kiện về năng lực


9

Robert W. Emerson and John W. Hardwick (1997), Business Law, Barron’ s educational series Inc., p. 247
Ngoại lệ tại khoản 3 Điều 138 BLDS 2015: “Ngƣời từ đủ mƣời lăm tuổi đến chƣa đủ mƣời tám tuổi có thể
là ngƣời đại diện theo ủy quyền, trừ trƣờng hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do ngƣời từ đủ
mƣời tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện”
10


9

hành vi dân sự, ngƣời đại diện còn phải đáp ứng thêm một số điều kiện khác tùy
thuộc vào yêu cầu của công việc đại diện. Chẳng hạn nhƣ ngƣời đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp không đƣợc thuộc các trƣờng hợp pháp luật cấm làm ngƣời
đại diện theo pháp luật, phải có ít nhất một ngƣời cƣ trú tại Việt Nam và phải có
chun mơn và kinh nghiệm nhất định. Việc quy định các điều kiện đối với ngƣời
đại diện nhằm đảm bảo cho việc đại diện đạt hiệu quả cao và diễn ra thuận lợi hơn.
Ngƣời đƣợc đại diện cũng có thể là cá nhân hoặc pháp nhân hoặc tổ chức
khơng có tƣ cách pháp nhân (ví dụ nhƣ doanh nghiệp tƣ nhân). Đối với doanh
nghiệp, mọi hoạt động phải thông qua hành vi của ngƣời đại diện. Sự ra đời và tồn
tại của doanh nghiệp gắn bó mật thiết với sự tồn tại của ngƣời đại diện theo pháp
luật, do vậy, khi doanh nghiệp chấm dứt hoạt động thì tƣ cách đại diện của ngƣời
đại điện cũng chấm dứt theo.
1.1.2.2 Khách thể của quan hệ đại diện
Khách thể của quan hệ đại diện là những lợi ích và các giá trị xã hội mà chủ
thể tham gia quan hệ pháp luật đại diện hƣớng tới trong một động thái tích cực11.
Bản chất của quan hệ đại diện là ngƣời đại diện nhân danh và vì lợi ích của
ngƣời đƣợc đại diện. Nói nhƣ vậy, khơng có nghĩa là ngƣời đại diện khơng mong
muốn một lợi ích nào từ cơng việc đại diện của mình. Mục đích của họ có thể chỉ

đơn thuần là nghĩa vụ bắt buộc phải làm (bị Tịa án chỉ định), hay vì lợi ích vật chất
(đƣợc trả tiền khi thực hiện cơng việc đại diện) hoặc là vì thực hiện các quyền và
nghĩa vụ đƣợc ghi nhận trong hợp đồng lao động, hợp đồng ủy quyền.
Đối với ngƣời đƣợc đại diện, do họ khơng thể hoặc khơng muốn tự mình
thực hiện các giao dịch cho nên họ cần có ngƣời đại diện với mục đích nhân danh
họ và vì lợi ích của họ tham gia các giao dịch. Ngƣời đƣợc đại diện có thể thu lại
đƣợc nhiều lợi ích cá nhân (vật chất, tinh thần hoặc giá trị xã hội) từ việc khơng tự
mình tham gia đƣợc. Hay lợi ích cho pháp nhân nhƣ lợi nhuận, uy tín, thƣơng hiệu
từ ngƣời đại diện mang lại. Đối với doanh nghiệp, ngƣời đại diện theo pháp luật là
điều kiện để doanh nghiệp vận hành và hoạt động bình thƣờng. Khơng những vậy,
điều doanh nghiệp mong muốn nhất là ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp sẽ sử dụng toàn bộ khả năng, kinh nghiệm có đƣợc để thúc đẩy doanh
nghiệp ngày một phát triển hơn.

11

Lê Vƣơng Long (2006), Những vấn đề lý luận về quan hệ pháp luật, Nhà xuất bản Tƣ pháp, tr. 92


10

1.1.2.3 Nội dung của quan hệ đại diện
Nội dung của quan hệ đại diện là quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia
trong những hành vi thực tế sử dụng các quyền và nghĩa vụ đó12. Quyền và nghĩa vụ
của ngƣời đƣợc đại diện phát sinh trên cơ sở hành vi đại diện của ngƣời đại diện. Để
các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do ngƣời đại diện xác lập trở thành
quyền và nghĩa vụ của ngƣời đƣợc đại diện thì ngƣời xác lập giao dịch đó phải có
quyền đại diện và phải thực hiện mọi hành động trong phạm vi đại diện.
Đối với những giao dịch dân sự do ngƣời khơng có quyền đại diện xác lập,
thực hiện hoặc xác lập, thực hiện vƣợt quá phạm vi đại diện thì khơng làm phát sinh

quyền, nghĩa vụ của ngƣời đƣợc đại diện13. Do đó, ngƣời đại diện sẽ chịu trách
nhiệm về phần giao dịch vƣợt quá phạm vi đại diện hoặc khơng có phạm vi đại
diện. Ngồi ra, ngƣời đại diện cũng phải chịu trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại và
các trách nhiệm hành chính, dân sự, hình sự khác đối với những hành vi vi phạm
gây ra thiệt hại cho ngƣời đƣợc đại diện.
1.1.3 Phân loại đại diện
Căn cứ vào nguồn gốc hình thành, đại diện đƣợc chia thành hai loại: Đại diện
theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền.
1.1.3.1 Đại diện theo pháp luật
BLDS 2015 không đƣa ra định nghĩa nhƣ thế nào là đại diện theo pháp
14
luật mà theo hƣớng liệt kê các trƣờng hợp đại diện theo pháp luật của cá nhân tại
Điều 136 và đại diện theo pháp luật của pháp nhân tại Điều 137. Tuy nhiên, dựa vào
căn cứ xác lập quyền đại diện có thể hiểu đại diện theo pháp luật là đại diện mà theo
quyết định của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, theo Điều lệ của pháp nhân hoặc
theo quy định của pháp luật yêu cầu phải có ngƣời đại diện. Ở đây, BLDS 2015 bổ
sung một trƣờng hợp mới của ngƣời đại diện theo pháp luật của pháp nhân là
“Ngƣời do Tòa án chỉ định trong q trình tố tụng tại Tịa án”. Điều này cho thấy
thẩm quyền của Tòa án đƣợc tăng cƣờng trong q trình giải quyết các tranh chấp
về đại diện nói chung và đại diện theo pháp luật của pháp nhân nói riêng15. Đồng

12

Trƣờng đại học Luật Hà Nội (1997), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Nhà xuất bản CAND, tr.
437
13
Khoản 1 Điều 142, khoản 1 Điều 143 BLDS 2015
14
BLDS 2005 định nghĩa rất rõ tại Điều 140
15

Đỗ Văn Đại (2016), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015, Nhà xuất bản
Hồng Đức, tr. 179


11

nghĩa với việc chỉ định của Tòa án cũng là một căn cứ làm phát sinh quyền đại diện
của ngƣời đại diện theo pháp luật của pháp nhân.
Theo đó, ngƣời đại diện theo pháp luật chỉ đƣợc xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự trong phạm vi đại diện căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nƣớc có thẩm
quyền, Điều lệ của pháp nhân, quy định khác của pháp luật. Trƣờng hợp không xác
định đƣợc cụ thể phạm vi đại diện theo các căn cứ đó thì ngƣời đại diện theo pháp
luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của ngƣời đƣợc đại
diện, nghĩa là ngƣời đại diện theo pháp luật đƣợc thực hiện mọi giao dịch miễn sao
chứng minh đƣợc những giao dịch đó là vì lợi ích của ngƣời đƣợc đại diện, trừ
trƣờng hợp pháp luật có quy định khác16.
BLDS 2015 đã mở rộng quyền cho ngƣời đƣợc đại diện và ngƣời đại diện
khi quy định một pháp nhân có thể có nhiều ngƣời đại diện theo pháp luật17, theo đó
Điều lệ của pháp nhân sẽ quy định cụ thể về số lƣợng, chức danh quản lý, quyền và
nghĩa vụ của ngƣời đại diện theo pháp luật của pháp nhân; BLDS 2015 cũng đã quy
định rằng một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân
khác nhau nhƣng không đƣợc nhân danh ngƣời đƣợc đại diện để xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là ngƣời đại
diện của ngƣời đó, trừ trƣờng hợp pháp luật có quy định khác18. Đây là những quy
định mới hết sức tiến bộ, xuất phát từ thực tiễn hoạt động của các pháp nhân, góp
phần đảm bảo quyền tự do kinh doanh cho các doanh nghiệp.
1.1.3.2 Đại diện theo ủy quyền
Tƣơng tự cách hiểu về đại diện theo pháp luật, đại diện theo ủy quyền là việc
một ngƣời trở thành ngƣời đại diện theo sự ủy quyền giữa ngƣời đƣợc đại diện và
ngƣời đại diện. Khác với đại diện theo pháp luật, đại diện theo ủy quyền là trƣờng

hợp một ngƣời có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nhƣng khơng sử dụng năng lực
đó mà ủy quyền cho ngƣời khác nhân danh mình xác lập, thực hiện một hoặc nhiều
giao dịch dân sự. Yêu cầu ủy quyền đƣợc thể hiện bằng các hình thức ủy quyền
nhƣ: Hợp đồng ủy quyền, giấy ủy quyền, ủy quyền bằng miệng (những giao dịch
dân sự có giá trị nhỏ, tính chất khơng phức tạp thì khơng cần thiết lập thành văn
bản).

16

Khoản 2 Điều 141 BLDS 2015
Khoản 2 Điều 137 BLDS 2015
18
Khoản 3 Điều 141 BLDS 2015
17


12

Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác đại diện
cho mình xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự. Ngƣời đại diện chỉ đƣợc thực hiện
các hành vi pháp lý trong khuôn khổ nội dung ủy quyền đã thỏa thuận với ngƣời
đƣợc đại diện. Ngƣời đại diện theo ủy quyền phải trực tiếp thực hiện các giao dịch
dân sự theo nội dung đã thỏa thuận. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp, ngƣời đại
diện theo ủy quyền có thể ủy quyền lại cho một ngƣời khác thực hiện thay thẩm
quyền đại diện của mình19.
Điểm khác biệt lớn giữa đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền là
căn cứ xác lập quyền đại diện và phạm vi đại diện. Đại diện theo pháp luật là trƣờng
hợp pháp luật yêu cầu phải có ngƣời đại diện, ngƣời đại diện theo pháp luật sẽ thực
hiện tất cả các quyền hạn, nghĩa vụ trong phạm vi các quy định của pháp luật, Điều
lệ và quyết định của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền cho phép. Trong khi đó, đại

diện theo ủy quyền là hình thức đại diện phụ thuộc vào sự ủy quyền của ngƣời đƣợc
đại diện, và ngƣời đại diện chỉ đƣợc thực hiện các quyền hạn và nghĩa vụ trong
phạm vi đƣợc ủy quyền mà thôi.
Đối với doanh nghiệp, bắt buộc phải có ngƣời đại diện theo pháp luật vì
khơng có ngƣời đại diện theo pháp luật, doanh nghiệp không thể tự vận hành và
hoạt động đƣợc. Trái lại, trong doanh nghiệp khơng bắt buộc phải có ngƣời đại diện
theo ủy quyền, ngƣời đại diện theo ủy quyền trong doanh nghiệp cũng giống nhƣ
ngƣời đại diện theo ủy quyền trong các quan hệ pháp luật dân sự khác, chỉ thực hiện
các cơng việc dựa trên sự ủy quyền, nếu khơng có sự ủy quyền thì khơng phát sinh
quan hệ đại diện.
1.2 Khái quát về ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Doanh nghiệp có thể có tƣ cách pháp nhân (CTHD, CTTNHH, CTCP) hoặc
khơng có tƣ cách pháp nhân (DNTN). Là một thực thể pháp lý độc lập, tự bản thân
doanh nghiệp không thể xác lập, thực hiện các giao dịch mà phải thông qua những
con ngƣời cụ thể - những ngƣời đại diện theo pháp luật20. Khi thực hiện chức năng
đại diện, ngƣời đại diện phải nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp thực hiện
giao dịch với chủ thể khác, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cho doanh nghiệp.
1.2.1 Khái niệm ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Dƣới góc độ là một thuật ngữ pháp lý, từ điển Black’s Law định nghĩa
ngƣời đại diện theo pháp luật là “Tên đƣợc đƣa ra để mô tả ngƣời thực hiện,
19
20

Khoản 1 Điều 564 BLDS 2015
Bùi Xuân Hải, tlđd (3), tr. 21


13

ngƣời quản lý hoặc ngƣời trông coi công việc của ngƣời khác”21. Dựa vào sự

giải thích này, ngƣời đại diện theo pháp luật là một tên gọi chỉ những ngƣời
thực hiện, quản lý hoặc trông coi công việc của ngƣời khác. Sự giải thích này
vẫn cịn khá mập mờ và nhiều cách hiểu.
Khái niệm ngƣời đại diện theo pháp luật đƣợc quy định khá khác nhau trong
hệ thống pháp luật các nƣớc trên thế giới. Luật Doanh nghiệp Úc quy định “Đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân do doanh nghiệp chỉ định để thực
hiện tất cả hoặc bất kì quyền hạn nào mà doanh nghiệp có thể thực hiện”22. Theo
pháp luật của Anh, ngƣời đại diện theo pháp luật của công ty là “Một thành viên cá
nhân đƣợc ủy quyền bởi cơng ty có quyền thực hiện các quyền hạn tƣơng tự cơng ty
có thể thực hiện”23. Luật Công ty của Nhật Bản tiếp cận ngƣời đại diện theo pháp
luật thông qua chức năng của ngƣời quản lý “Ngƣời quản lý có quyền thực hiện bất
kỳ và tất cả các hành vi pháp lý và phi tƣ pháp nhân danh Công ty liên quan đến
hoạt động kinh doanh của mình”24. Riêng Luật Cơng ty trách nhiệm hữu hạn của
Đức không đƣa ra một khái niệm nào rõ ràng mà đi vào khẳng định “Công ty sẽ do
các Giám đốc làm đại diện. Nếu một công ty khơng có Giám đốc, cơng ty sẽ đƣợc
đại diện bởi các cổ đơng bất cứ khi nào có tun bố ý định hoặc các tài liệu đƣợc
cung cấp trên đó”25. Hiểu một cách đơn giản là quyền và nghĩa vụ của ngƣời đại
diện theo pháp luật trong các công ty trách nhiệm hữu hạn ở Đức đƣợc thể hiện
thông qua quyền và nghĩa vụ của Giám đốc và các cổ đơng (nếu cơng ty khơng có
Giám đốc).
Thơng qua việc tìm hiểu pháp luật một số quốc gia trên thế giới, có thể kết
luận rằng thuật ngữ ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp mang những
nội dung khác nhau tùy vào pháp luật của từng quốc gia, nhƣng nhìn chung, luật
pháp các nƣớc vẫn quy định nội dung cơ bản trong khái niệm về ngƣời đại diện theo
pháp luật là ngƣời đƣợc doanh nghiệp chỉ định để thực hiện các nhiệm vụ, quyền
hạn nhân danh doanh nghiệp.
21

Khái niệm “Legal Representative”, Black's Law Dictionary, truy cập ngày 18/5/2017
22

Điều 250D Luật Doanh nghiệp Úc 2001,
truy cập ngày 18/5/2017
23
Điều 323.2 Luật Công ty Anh 2006, truy cập
ngày 19/5/2017
24
Điều 11.1 Luật Công ty Nhật Bản 2005,
truy cập ngày 19/5/2017
25
Điều 35.2 Luật Công ty trách nhiệm hữu hạn Đức 2016,
truy cập ngày 21/5/2017


14

Ở Việt Nam, LDN 2005 không đƣa ra khái niệm ngƣời đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp và cũng khơng có các điều khoản riêng quy định về ngƣời đại
diện theo pháp luật mà các quy định xác định ngƣời đại diện theo pháp luật nằm rải
rác ở các điều khoản về cơ cấu tổ chức, quản lý của từng loại hình doanh nghiệp
nhƣ CTTNHH (khoản 5 Điều 67, khoản 1 Điều 74), CTCP (khoản 1 Điều 116),
CTHD (khoản 1 Điều 137), DNTN (khoản 4 Điều 143). Tuy nhiên, LDN 2014 đã
thể hiện bƣớc tiến mới khi dành một điều khoản riêng, thống nhất quy định về
ngƣời đại diện theo pháp luật. Theo đó, khoản 1 Điều 13 quy định: “Ngƣời đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các
quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh
nghiệp với tƣ cách nguyên đơn, bị đơn, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trƣớc Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp
luật”.
Với khái niệm này, ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là những
“cá nhân” nhân danh doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ rất rộng nhƣ

thực hiện các giao dịch, đại diện trong quan hệ tố tụng và thực hiện các quyền và
nghĩa vụ khác. Với phạm vi rộng về đại diện nhƣ vậy, quy định về doanh nghiệp có
thể có nhiều ngƣời đại diện theo pháp luật sẽ tạo điều kiện pháp lý tốt hơn cho
doanh nghiệp khi tham gia các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, khái niệm này chỉ
đề cập đến việc “thực hiện” các giao dịch mà không đề cập tới chức năng xác lập
giao dịch - là quyền hạn then chốt của ngƣời đại diện, mặc dù có quy định mở là
ngƣời đại diện đƣợc “thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp
luật” tức là đƣợc quyền xác lập các giao dịch, song việc không quy định cụ thể
quyền hạn này trong một bản luật chuyên ngành là một hạn chế26. Theo khoản 1
Điều 134 BLDS 2015 ngƣời đại diện là ngƣời nhân danh và vì lợi ích của ngƣời
đƣợc đại diện xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, vì vậy, rõ ràng vai trò “xác lập”
giao dịch dân sự là không thể thiếu trong việc xác định ai là ngƣời đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp.
Mặc dù còn một vài điểm thiếu sót, song, việc quy định minh thị khái niệm
ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong một điều luật cụ thể giúp cho
ngƣời đọc dễ tìm hiểu, dễ nắm bắt và dễ áp dụng, đƣợc xem là một điểm mới quan
trọng của LDN 2014.
26

Bùi Đức Giang (2015), “Hành lang pháp lý mới về ngƣời đại diện theo pháp luật của Luật Doanh nghiệp
2014”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6 (326)/2015, tr. 18


15

1.2.2 Đặc điểm ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Trên cơ sở khái niệm và các điều luật liên quan về ngƣời đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp, có thể nhận thấy một số đặc điểm cơ bản về ngƣời đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp nhƣ sau:
1.2.2.1 Ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là ngƣời quản lý doanh

nghiệp
Đặc điểm này không đƣợc thể hiện trong khái niệm ở khoản 1 Điều 13, tuy
nhiên thông qua các quy định rải rác trong LDN 2014 có thể thấy đƣợc đặc điểm
này. Đối với DNTN, chủ DNTN là ngƣời đại diện theo pháp luật (khoản 3 Điều
185). Thành viên hợp danh là ngƣời đại diện theo pháp luật của CTHD (khoản 1
Điều 179). Còn đối với CTTNHH và CTCP, có thể có một hoặc nhiều ngƣời đại
diện theo pháp luật tùy vào nhu cầu của công ty và những ngƣời đại diện theo pháp
luật của họ phải có những chức danh quản lý cụ thể đƣợc quy định trong Điều lệ.
Những chức danh quản lý này có thể là Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch
công ty, Giám đốc/Tổng giám đốc hay Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc các chức
danh quản lý khác do Điều lệ quy định nhƣ Giám đốc nhân sự, trƣởng phòng kinh
doanh…
Những ngƣời đại diện theo pháp luật kể trên là những ngƣời quản lý doanh
nghiệp đƣợc liệt kê ở khoản 18 Điều 4 của LDN 2014. Khác với khoản 13 Điều 4
của LDN 2005, LDN 2014 đã nhấn mạnh hơn nữa đặc điểm ngƣời đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp là ngƣời quản lý doanh nghiệp khi khẳng định các chức
danh đó phải “có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch của công ty theo
quy định tại Điều lệ công ty” là ngƣời quản lý cơng ty. Các chức danh quản lý phải
có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch theo quy định tại Điều lệ thì mới
đƣợc xem là ngƣời quản lý doanh nghiệp. Vơ hình trung, quy định này đã thể hiện
rằng ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là ngƣời quản lý doanh nghiệp.
Quy định nhƣ vậy là khá chặt chẽ, tạo cho việc quản trị doanh nghiệp đƣợc thống
nhất. Bởi, trao cho một ngƣời có quyền nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp
thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà không cho họ nắm quyền quản lý thì họ khơng
thể chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó đƣợc. Thêm vào đó, ngƣời đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải là ngƣời quản lý để tối đa hóa những
quyền và nghĩa vụ mà pháp luật trao cho họ.
Ngƣời đại diện theo pháp luật là ngƣời quản lý doanh nghiệp nhƣng ngƣời
quản lý doanh nghiệp chƣa chắc là ngƣời đại diện theo pháp luật. Ví dụ nhƣ trong



16

trƣờng hợp Điều lệ của CTCP A quy định Chủ tịch Hội đồng quản trị là ngƣời đại
diện theo pháp luật của công ty. Giám đốc của CTCP A này cũng là ngƣời quản lý
CTCP A nhƣng không phải là ngƣời đại diện theo pháp luật của CTCP A vì Điều lệ
không quy định.
Cần phân biệt rằng ngƣời quản lý doanh nghiệp khác với nhân viên quản lý
doanh nghiệp, đây là hai thuật ngữ có bản chất hồn tồn khác nhau. Nhân viên
quản lý đƣợc hiểu là những ngƣời đứng đầu bộ phận tiêu thụ doanh thu (chẳng hạn
nhƣ kế toán, dịch vụ khách hàng, nhân sự) phục vụ những ngƣời quản lý doanh
nghiệp. Họ có năng lực tƣ vấn hoặc hỗ trợ bằng cách cung cấp cho ngƣời quản lý
thông tin và đƣa ra những lời tƣ vấn. Những ngƣời nhân viên quản lý doanh nghiệp
này thƣờng không đƣợc phép đƣa ra những quyết định27.
1.2.2.2 Ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân
Ngƣời đại diện theo pháp luật phải là một cá nhân cụ thể. Yêu cầu về “cá
nhân” ngƣời đại diện đƣợc nêu rõ tại khoản 1 Điều 13 của LDN 2014. Hầu hết pháp
luật các nƣớc cũng quy định ngƣời đại diện theo pháp luật phải là cá nhân28. Việc
quy định nhƣ vậy cũng là điều dễ hiểu, bởi doanh nghiệp là một thực thể pháp lý, là
phƣơng tiện để các tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Doanh nghiệp khơng thể tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ, không thể trực
tiếp tham gia các quan hệ cụ thể mà phải thông qua những cá nhân con ngƣời cụ thể
là những ngƣời đại diện theo pháp luật.
Trƣờng hợp ngƣời đại diện theo pháp luật vi phạm các nghĩa vụ theo quy
định thì phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với những thiệt hại gây ra cho doanh
nghiệp.
1.2.2.3 Ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là ngƣời lao động đặc
biệt
Sở dĩ nói ngƣời đại diện theo pháp luật là ngƣời lao động “đặc biệt” vì họ
khơng phải là một ngƣời lao động bình thƣờng nhƣ những ngƣời lao động khác.

Ngồi việc lao động trí óc theo năng lực và chun mơn của mình, họ cịn đóng vai
trị là ngƣời quản lý, ngƣời nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp xác lập, thực
hiện các giao dịch. Hơn nữa, số lƣợng ngƣời đại diện theo pháp luật trong doanh

27

Khái niệm “Staff manager”, Business Dictionary, truy cập ngày 21/5/2017
28
Luật Doanh nghiệp Úc 2001 (22), Luật Công ty Anh 2006 (23), Luật Công ty Nhật Bản 2005 (24), Luật
Công ty trách nhiệm hữu hạn Đức (25) trình bày ở tiểu mục 1.2.1


17

nghiệp chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong một số lƣợng lớn ngƣời lao động. Họ đƣợc
xem là nguồn nhân lực có năng lực và độ hiếm cao trong bảng phân vùng chất
lƣợng ngƣời lao động.
Ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp còn đặc biệt ở chỗ họ phải
đáp ứng nhiều điều kiện và tiêu chuẩn để trở thành ngƣời đại diện theo pháp luật
hợp pháp của doanh nghiệp. Họ đƣợc trao nhiều quyền và nghĩa vụ hơn những
ngƣời lao động bình thƣờng khác, và dĩ nhiên, họ cũng phải chịu nhiều trách nhiệm
hơn. Đặc biệt, doanh nghiệp khơng thể khơng có ngƣời đại diện theo pháp luật, và
phải đảm bảo rằng có ít nhất một ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp cƣ
trú tại Việt Nam.
1.2.3 Căn cứ xác lập quyền đại diện của ngƣời đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp
Trong nghiên cứu của mình, tác giả Vũ Thị Lan Anh đã xác định có ba căn
cứ pháp lý xác lập quyền đại diện của ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp đó là theo Điều lệ doanh nghiệp, theo quy định của pháp luật và theo quyết
định của Tòa án29. Còn trong cuốn sách “Pháp lý về Doanh nghiệp” mới xuất bản

của mình, luật sƣ Trƣơng Nhật Quang đã xác định chỉ có hai căn cứ là theo quy
định của pháp luật và theo Điều lệ để xác lập quyền đại diện của ngƣời đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp30. Tác giả đồng ý với quan điểm của tác giả Vũ Thị Lan
Anh vì quan điểm này phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 137 BLDS 2015 và
khoản 1 Điều 13 LDN 2014. Theo đó, quyền đại diện của ngƣời đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp đƣợc xác lập dựa trên ba căn cứ sau:
1.2.3.1 Theo quy định của pháp luật
Đối với hai loại hình doanh nghiệp là DNTN và CTHD, ngƣời đại diện theo
pháp luật đã đƣợc quy định rõ trong luật doanh nghiệp, không một ai có quyền
quyết định ngƣời đại diện theo pháp luật khác với quy định của pháp luật. Vì vậy,
đối với hai loại hình doanh nghiệp này, chủ sở hữu của doanh nghiệp bị hạn chế
quyền lựa chọn và quyết định ai là ngƣời đại diện theo pháp luật của mình. Mặc dù
chủ DNTN có thể thuê Giám đốc điều hành, quản lý hoạt động kinh doanh cho
doanh nghiệp của mình nhƣng không thể trao quyền cho Giám đốc làm ngƣời đại
diện theo pháp luật đƣợc. Hay một trong số các thành viên hợp danh của CTHD
29

Vũ Thị Lan Anh (2016), “Quy định mới của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về ngƣời đại diện theo pháp
luật của Doanh nghiệp”, Tạp chí Luật học, số 4/2016, tr. 6 - 8
30
Trƣơng Nhật Quang (2016), Pháp luật về doanh nghiệp, Nhà xuất bản Dân trí, tr. 187


18

khơng muốn làm ngƣời đại diện theo pháp luật thì cũng khơng thể thực hiện. Họ chỉ
có quyền hạn chế quyền đại diện mà khơng có quyền từ bỏ quyền đại diện31.
Đối với CTTNHH, CTCP, Điều lệ của công ty sẽ quy định về số lƣợng, chức
danh, quyền và nghĩa vụ của ngƣời đại diện theo pháp luật32. Trong trƣờng hợp
Điều lệ công ty không quy định, pháp luật cũng đã lƣờng trƣớc bằng cách quy định

những ngƣời đại diện theo pháp luật đƣơng nhiên của doanh nghiệp tại khoản 2
Điều 78 và khoản 2 Điều 134 LDN 2014. Chẳng hạn đối với CTTNHH một thành
viên, trƣờng hợp Điều lệ cơng ty khơng quy định thì Chủ tịch Hội đồng thành viên
hoặc Chủ tịch công ty là ngƣời đại diện theo pháp luật của công ty hay đối với
CTCP, trƣờng hợp chỉ có một ngƣời đại diện theo pháp luật thì Chủ tịch Hội đồng
quản trị hoặc Giám đốc/Tổng giám đốc là ngƣời đại diện theo pháp luật của công ty.
Những quy định của pháp luật trên là căn cứ quan trọng để xác lập quyền đại diện
cho ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
1.2.3.2 Theo Điều lệ của công ty
Căn cứ này chỉ đặt ra đối với ngƣời đại diện theo pháp luật của CTHD,
CTTNHH, CTCP, không đặt ra đối với DNTN vì DNTN khơng có bản Điều lệ.
BLDS 2015 đã có quy định thống nhất với LDN 2014 khi bổ sung căn cứ xác lập
quyền đại diện là “theo Điều lệ của pháp nhân” tại Điều 135. Thực ra việc bổ sung
căn cứ xác định phạm vi đại diện nhƣ vừa nêu có thể gây khó khăn trong quá trình
vận dụng vì “Điều lệ của pháp nhân cho dù đƣợc công bố vẫn chỉ là quy định nội bộ
để ràng buộc những ngƣời của pháp nhân, khơng thể là cơ sở để ràng buộc ngƣời
ngồi”33. Do đó, rất khó để bên thứ ba dùng Điều lệ làm cơ sở xác định quyền hạn
và nghĩa vụ của ngƣời đại diện theo pháp luật khi tham gia giao dịch.
Đối với CTHD, Điều lệ công ty không phải là căn cứ xác lập quyền đại diện
của ngƣời đại diện theo pháp luật. Điều lệ cơng ty chỉ đóng vai trị là nơi ghi nhận
các thơng tin cơ bản nhƣ họ tên, địa chỉ, quốc tịch và các đặc điểm cơ bản khác của
các thành viên hợp danh, đồng thời xác lập phạm vi các quyền và nghĩa vụ. Trƣờng
hợp thành viên hợp danh bị hạn chế quyền đại diện thì hạn chế đó sẽ đƣợc ghi vào
Điều lệ.

31

Khoản 1 Điều 179 LDN 2014
Khoản 2 Điều 13 LDN 2014
33

Đỗ Văn Đại và Lê Thị Hồng Vân (2015), “Hoàn thiện quy định về đại diện trong Dự thảo Bộ luật dân sự
sửa đổi”, Tạp chí Kiểm sát, số 22/2015, tr. 43
32


×