Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Chế định người đại diện theo pháp luật trong luật doanh nghiệp 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (27.37 MB, 135 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
-------

LÊ NGUYÊN HUYỀN TRANG

CHẾ ĐỊNH NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP
LUẬT TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP
NĂM 2014
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI

TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2020


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

-------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

CHẾ ĐỊNH NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP
LUẬT TRONG LUẬT DOANH NGHIỆP
NĂM 2014

SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ NGUYÊN HUYỀN TRANG
KHÓA: 41
MSSV:1653801011310
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: THẠC SĨ NGUYỄN TUẤN VŨ


TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Tuấn Vũ, đảm bảo
tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả khóa luận

LÊ NGUYÊN HUYỀN TRANG


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

LDN

Luật Doanh nghiệp


NĐD

Người đại diện

DNTN

Doanh nghiệp tư nhân

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

CTHD

Công ty Hợp danh

CTCP

Công ty Cổ phần

HĐTV

Hội đồng Thành viên

ĐHĐCĐ

Đại hội đồng Cổ đông

HĐQT


Hội đồng Quản trị


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN
THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP.........................................................6
1.1
1.2

Khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ............................... 6
Cơ sở hình thành mối quan hệ đại diện giữa người đại diện theo pháp luật với

doanh nghiệp ..................................................................................................................... 8
1.3 Căn cứ xác lập quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp .............................................................................................................................. 10
1.3.1 Theo Điều lệ công ty .................................................................................10
1.3.2 Theo quy định của pháp luật......................................................................11
1.3.3 Theo chỉ định của Tòa án nhân dân ...........................................................12
1.4

Vai trò của người đại diện theo pháp luật đối với doanh nghiệp ...................... 13

CHƯƠNG 2. XÁC LẬP VÀ CHẤM DỨT TƯ CÁCH NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO
PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP ...................................................................16
2.1

Điều kiện làm người đại diện theo pháp luật ..................................................... 16


2.1.1 Điều kiện theo quy định của pháp luật doanh nghiệp .................................16
2.1.2 Điều kiện theo quy định nội bộ doanh nghiệp ............................................19
2.2
2.3
2.4

Xác lập tư cách và thay đổi người đại diện theo pháp luật ............................... 19
Chấm dứt tư cách người đại diện đại diện theo pháp luật ................................. 22
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ........................................................................... 23

CHƯƠNG 3. THẨM QUYỀN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐẠI DIỆN
THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP.......................................................26
3.1 Thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ................... 26
3.1.1 Đại diện doanh nghiệp trong việc xác lập, thực hiện giao dịch ...............26
3.1.2 Đại diện doanh nghiệp trong việc quản lý nội bộ doanh nghiệp .................28
3.1.3 Đại diện doanh nghiệp trong các quan hệ tố tụng.......................................30
3.1.4 Giới hạn thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật ............................31
3.2
3.3
3.4

Chức danh của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ...................... 34
Trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ................... 36
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật............................................................................ 42

CHƯƠNG 4. QUẢN LÝ VÀ KIỂM SỐT NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP
LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP...............................................................................45
4.1 Cơng cụ để quản lý và kiểm soát người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp .............................................................................................................................. 45
4.2 Vấn đề cư trú của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp .................. 47



4.3

Khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với người đại diện theo pháp luật của doanh

nghiệp .............................................................................................................................. 49
4.4 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật............................................................................. 51
KẾT LUẬN ..............................................................................................................55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Doanh nghiệp là một thực thể pháp lý thực hiện các hoạt động kinh doanh trong

thị trường, nó có khả năng làm phát sinh quyền và nghĩa vụ với nhiều chủ thể khác nhau
như cơ quan nhà nước, các cá nhân, tổ chức khác. Cùng với sự phát triển của nền kinh
tế thị trường, doanh nghiệp ngày càng thể hiện vị trí của mình trong tốc độ phát triển
kinh tế của đất nước. Tuy nhiên doanh nghiệp muốn vận hành và hoạt động tốt đều xuất
phát từ những hoạt động cụ thể của con người. Do đó, vấn đề đại diện ln là một vấn
đề quan trọng được đặt ra trước hết tại các doanh nghiệp. Thực tế, vấn đề về người đại
diện (NĐD) không phải mới được xuất hiện trong những giai đoạn gần đây mà nó đã
được đề cập rất lâu bởi nhiều học giả trên thế giới. Ở Việt Nam, quy định NĐD đã được
đề cập từ khi Bộ luật Dân sự (BLDS) và Luật Doanh nghiệp (LDN) ra đời. Từ nền tảng
pháp luật doanh nghiệp trước đó, LDN 2014 đã có những bước đi thay đổi rõ rệt trong
việc quy định về NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp, đưa ra những quy định pháp lý
cụ thể giúp các chủ thể trong xã hội dễ dàng thực hiện, đảm bảo quyền và lợi ích trong

q trình áp dụng, đáp ứng được phần nào nhu cầu phát triển ở Việt Nam. Bởi lẽ, đối với
mỗi doanh nghiệp, vai trò NĐD theo pháp luật là rất cần thiết để có thể tham gia vào các
quan hệ pháp luật.
Mặc dù quy định NĐD theo pháp luật đã có những bước tư duy đột phá, thế nhưng
hệ thống quan điểm lý luận vẫn chưa được thể hiện rõ ràng và đầy đủ. Qua hơn 5 năm
thực hiện theo LDN 2014, bên cạnh những quy định cụ thể được áp dụng trong hoạt
động doanh nghiệp, tác giả nhận thấy rằng chế định về NĐD theo pháp luật của doanh
nghiệp còn tồn tại khá nhiều bất cập. Sự thiếu vắng về mặt lý luận đã gây ra những khó
khăn khiến các loại hình trong doanh nghiệp lúng túng trong cách tiếp cận và thực hiện.
Nhiều quy định mới được bổ sung rất hữu ích và thiết thực nhưng lại thiếu đi cơ chế thực
hiện, chẳng hạn như vấn đề về quyền và nghĩa vụ của NĐD theo pháp luật của doanh
nghiệp có từ hai NĐD theo pháp luật trở lên, vấn đề khởi kiện NĐD theo pháp luật hay
việc cư trú của NĐD theo pháp luật vẫn còn nhiều tranh cãi.
NĐD theo pháp luật là một chủ thể quan trọng trong mỗi doanh nghiệp nhưng sự
chưa đảm bảo an toàn về hành lang pháp lý trong vấn đề này có thể dẫn đến việc các
doanh nghiệp dễ dàng gặp những rủi ro về mặt pháp lý và kinh tế và sự quản lý của nhà
nước không được hiệu quả. Tác giả cho rằng vấn đề về NĐD theo pháp luật cần phải
được nghiên cứu, bổ sung và hồn chỉnh. Chính vì vậy tác giả chọn đề tài “Chế định
người đại diện theo pháp luật trong Luật Doanh nghiệp 2014” để tiến hành phân tích
chuyên sâu với mong muốn nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống, làm rõ các vấn đề

1


lý luận, phân tích những bất cập thực tiễn từ đó đề ra một số giải pháp giúp hệ thống
pháp luật Việt Nam ngày càng được toàn diện và tương thích với các điều ước quốc tế.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định về NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp là một vấn đề quan trọng. Mặc


dù vấn đề này đã được nghiên cứu ở nhiều cơng trình khác nhau, thế nhưng cho đến nay
chưa có một cơng trình nghiên cứu cụ thể và toàn diện. Phần lớn nghiên cứu được thể
hiện thông qua các bài báo khoa học. Tiêu biểu có thể nói đến đến như:
Bài viết “Học thuyết người đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt
Nam” của Bùi Xuân Hải trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2007. Bài viết đã phân tích
vấn đề học thuyết người đại diện ở phương Tây từ đó đánh giá mối quan hệ giữa các cổ
đơng và người quản lý cơng ty, bình luận những vấn đề thực tiễn trong quản trị doanh
nghiệp và pháp luật doanh nghiệp ở Việt Nam.
Bài viết “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam – Nhìn từ góc
độ luật so sánh” của Ngơ Huy Cương trong Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 04/2009.
Tác giả đã phân tích, bình luận về chế định đại diện, cũng như đánh giá sự hạn chế NĐD
trong BLDS 2005.
Đặc biệt kể từ khi LDN 2014 có hiệu lực pháp luật, đã có khơng ít các bài báo khoa
học nghiên cứu những điểm mới trong chế định NĐD theo pháp luật, đồng thời bình luận
thực trạng và đưa ra những kiến nghị có ích để hồn thiện chế định NĐD theo pháp luật.
Trong đó phải kể đến một số bài viết như:
Bài viết của tác giả Bùi Đức Giang với tựa đề “Hành lang pháp lý mới về người
đại diện theo pháp luật của Luật doanh nghiệp năm 2014” trong Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 6/2015. Bài viết đã chỉ ra những điểm mới trong quy định pháp luật về
NĐD theo pháp luật của LDN 2014, phân tích cụ thể quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm
dân sự của NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp.
Tác giả Ngô Gia Hồng và Nguyễn Thị Thương có bài viết “Người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 dưới góc độ quyền tự do
kinh doanh” trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 07/2016. Bài viết đã khái quát định
nghĩa về NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp, bình luận những điểm mới LDN 2014
và đưa ra những bất cập trong các quy định đó.
Tác giả Nguyễn Tuấn Vũ có bài viết “Một số góp ý nhằm hồn thiện dự thảo luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp về người đại diện
theo pháp luật” trong Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 9/2019. Trong bài viết, tác giả

đã trình bày một số vướng mắc về NĐD theo pháp luật trong LDN 2014. Đồng thời tác
giả đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện trong dự thảo LDN.

2


Các cơng trình nghiên cứu nêu trên được nghiên cứu dưới hình thức bài báo khoa
học. Do đó, các bài viết mang tính nghiên cứu khái quát chung và tổng quan về NĐD
theo pháp luật, chưa đi sâu phân tích vào cụ thể từng khía cạnh của chế định NĐD theo
pháp luật.
Ngồi ra, cịn có một số khóa luận và luận văn nghiên cứu và chế định này, cụ thể
như sau:
Tác giả Lê Việt Phương có luận văn với đề tài “Người đại diện theo pháp luật của
công ty theo pháp luật Việt Nam” năm 2013. Tuy nhiên cơng trình nghiên cứu này được
thực hiện theo LDN 2005 hiện tại đã hết hiệu lực thi hành và chỉ còn giá trị tham khảo.
Tác giả Ngơ Thị Huệ My với khóa luận “Chế định người đại diện theo pháp luật
trong Luật doanh nghiệp 2014” vào năm 2017. Mặc dù tác giả đã nghiên cứu vấn đề này
theo pháp luật hiện hành thế nhưng khóa luận vẫn chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu khái
quát dựa trên những quy định của pháp luật.
Từ những phân tích về tình hình nghiên cứu trên có thể thấy rằng, chế định NĐD
theo pháp luật của doanh nghiệp đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu và không phải
là một vấn đề mới được đặt ra. Thế nhưng các nghiên cứu nêu trên vẫn chưa đi sâu vào
khai thác vấn đề một cách toàn diện. Do đó tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu một cách có
khái qt và tồn diện hơn về vấn đề này trong khóa luận của mình.
Mục đích nghiên cứu đề tài
Thông qua nghiên cứu đề tài “Chế định người đại diện theo pháp luật trong Luật
Doanh nghiệp 2014”, tác giả hướng tới các mục đích nghiên cứu quan trọng sau:
Thứ nhất, khái quát và làm sáng tỏ một cách hệ thống những vấn đề lý luận về
NĐD theo pháp luật trên cơ sở các quan điểm khoa học.
Thứ hai, làm rõ và đánh giá khách quan về các quy định của pháp luật doanh nghiệp

về NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp; đồng thời có liên hệ với pháp luật nước ngoài
3.

để nghiên cứu so sánh và đưa ra những gợi mở cho pháp luật Việt Nam về NĐD theo
pháp luật.
Thứ ba, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của LDN 2014 về NĐD theo pháp
luật của doanh nghiệp.
Thứ tư, đưa ra các gợi mở và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về NĐD theo
pháp luật của doanh nghiệp trên cơ sở lý luận, pháp luật và thực tiễn đã nghiên cứu trong
đề tài.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1 Đối tượng nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Chế định người đại diện theo pháp luật trong
luật doanh nghiệp 2014”. Cụ thể hơn là các vấn đề sau:
3


Thứ nhất, những vấn đề mang tính lý luận quan trọng về NĐD theo pháp luật của
doanh nghiệp.
Thứ hai, thực trạng quy định của LDN 2014 và các văn bản pháp luật liên quan
khác về NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp.
Thứ ba, thực tiễn áp dụng quy định của LDN 2014 về NĐD theo pháp luật của
doanh nghiệp.
Thứ tư, kinh nghiệm pháp luật điều chỉnh về NĐD theo pháp luật của một số quốc
gia trên thế giới.
4.2 Phạm vi nghiên cứu đề tài
Tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận quan trọng về chế định NĐD
theo pháp luật; quy định của LDN 2014, BLDS 2015 và văn bản pháp luật chuyên ngành
về NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp.
Đề tài cũng chú trọng nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định của LDN 2014 về

NĐD theo pháp luật, đặc biệt là các tranh chấp được xét xử tại Tịa án, quy định của Điều
lệ các cơng ty đang hoạt động.
Ngoài ra, tác giả cũng nghiên cứu Luật Công ty của một số quốc gia về NĐD theo
pháp luật như Luật Công ty Vương quốc Anh 2006, Luật Công ty Nhật Bản 2005, Luật
Công ty Úc 2001, Luật Công ty Singapore 2006; để so sánh, liên hệ với LDN 2014, từ
đó phát hiện được những điểm tiến bộ nhằm đưa ra các gợi mở và kiến nghị cho việc
hoàn thiện quy định của LDN.
Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Để hồn thành khóa luận, trong q trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã tiến hành sử
dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau nhưng chủ yếu bao gồm các
phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
Thứ nhất, phương pháp phân tích, đánh giá. Đối với phương pháp này, tác giả sử
5.

dụng xuyên suốt khóa luận và tập trung chủ yếu ở chương 2, chương 3 và chương 4. Tác
giả đã phân tích các quy định của LDN 2014 và một số điều luật trong pháp luật chun
ngành có liên quan nhằm đánh giá tính khoa học, thực tiễn và sự phù hợp của các quy
định hiện hành về chế định NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp.
Thứ hai, phương pháp tổng hợp. Đây cũng là phương pháp tác giả sử dụng xuyên
suốt trong quá trình nghiên cứu và viết khóa luận của mình. Thơng qua phương pháp
này, tác giả làm rõ những vấn đề mang tính chất lý luận đồng thời cũng sử dụng trong
mục đích tổng kết, khái quát hóa vấn đề của từng chương và toàn bộ đề tài nghiên cứu.
Thứ ba, phương pháp so sánh. Tác giả sử dụng phương pháp này nhằm đối chiếu
LDN 2014 so với LDN trước đó và với các quy định pháp luật của một số quốc gia trên
thế giới về khái niệm của NĐD theo pháp luật, thẩm quyền cũng như trách nhiệm của
4


chủ thể này. Qua đó, tác giả đánh giá những vấn đề tương đồng cũng như khác biệt giữa
các hệ thống pháp luật, gợi mở một số tham khảo và kiến nghị để hoàn thiện pháp luật

doanh nghiệp trong nước.
Thứ tư, phương pháp phân tích bản án, vụ việc. Tác giả sử dụng phương pháp này
tại chương 3 của khóa luận, nhằm mục đích thơng qua nghiên cứu các bản án và án lệ
nước ngoài để làm rõ ràng bức tranh tổng quan về thực tiễn, đưa ra một cái nhìn tồn
diện trong nghiên cứu pháp luật về NĐD theo pháp luật.
6.

Bố cục tổng qt của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa luận

được chia thành 04 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp
Chương 2: Xác lập và chấm dứt tư cách người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp
Chương 3: Thẩm quyền và trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp
Chương 4: Quản lý và kiểm soát người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP
LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Chế định NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp là một chế định pháp luật vô cùng
quan trọng, đây không những là tiền đề cho sự vận hành của doanh nghiệp nói riêng mà
cịn là cơ sở xúc tiến hoạt động kinh doanh, sự phát triển kinh tế của một quốc gia nói
chung. Từ điển English Legal Dictionary định nghĩa đại diện (agency) là mối quan hệ

của một người (được gọi là đại diện) thay mặt cho một người khác hoặc cơng ty hoặc
chính phủ được gọi là người được đại diện (Principal). Đại diện được hình thành khi
người sử dụng (người được đại diện) yêu cầu ai đó thực hiện giao hàng hoặc dùng họ để
làm đại diện ký kết hợp đồng1. Định nghĩa này đưa ra rằng NĐD xuất hiện khi họ được
người khác ủy nhiệm cho mình trong việc thay mặt họ để quản lý hay thực hiện một hoạt
động nhất định nào đó. Từ điển pháp luật cũng có định nghĩa NĐD theo pháp luật (Legal
Representative) là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định2. Định nghĩa này đã đưa ra cái nhìn tổng quan chung về NĐD theo pháp luật.
Hệ thống pháp luật công ty của hầu hết các quốc gia trên thế giới nhận thấy được
sự cần thiết của NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp nên đều có những quy định cụ
thể về chủ thể này. Thậm chí các quốc gia theo hệ thống Common Law – là hệ thống
pháp luật với quan điểm lập pháp được hình thành từ tập quán, cũng có khái niệm về
NĐD khá đầy đủ và toàn diện. Tuy nhiên, mỗi quốc gia trên thế giới lại có sự tiếp cận
với những cách thức khác nhau dẫn đến việc đưa ra các định nghĩa về NĐD theo pháp
luật của doanh nghiệp cũng khác biệt. Luật Công ty năm 2006 của Vương Quốc Anh đã
đưa ra định nghĩa về NĐD theo pháp luật là một cá nhân được ủy quyền bởi cơng ty có
quyền thực hiện (thay mặt công ty) các quyền hạn tương tự như cơng ty có thể thực hiện3.
Pháp luật quốc gia này nhận định rằng NĐD theo pháp luật của công ty sẽ được hình
thành trong mối quan hệ ủy quyền từ công ty, thực hiện những hoạt động kinh doanh
nhân danh cơng ty. Luật Cơng ty Nhật Bản 2005 có khái niệm về NĐD theo pháp luật
theo hướng khẳng định quyền của người quản lý trong cơng ty. Theo đó, người quản lý
có quyền thực hiện bất kỳ và tất cả các hành vi tư pháp và phi tư pháp nhân danh công
ty liên quan đến hoạt động kinh doanh của mình4. Pháp luật Úc nhìn nhận NĐD theo
“Khái niệm Agency - Legal Dictionary”, />truy cập ngày 20/02/2020.
2
“Khái niệm “Legal Representative - Legal Dictionary”, .aspx?searched
=legal%20representative&type=1, truy cập ngày 20/02/2020.
3
Điều 323.2 Luật Công ty Vương Quốc Anh 2006, />truy cập ngày 20/02/2020.
4

Điều 11.1 Luật Công ty Nhật Bản 2005, truy
cập ngày 20/02/2020.
1

6


pháp luật của công ty với chức danh “director”, theo đó “director” thay mặt cơng ty thực
hiện quyền hạn của công ty, trừ những quyền hạn mà Luật này hoặc Điều lệ yêu cầu
công ty phải thực hiện trong cuộc họp chung5. Qua đó, NĐD của cơng ty trong hoạt động
kinh doanh và trong mối quan hệ với cơ quan hành chính là director6. Hơn nữa, director
khi sử dụng trong khoa học pháp lý Úc không thể hiểu đơn thuần chỉ là một chức danh
trong doanh nghiệp như Giám đốc/Tổng giám đốc, họ cịn có thể là các chức danh Chủ
tịch, Phó Chủ tịch, Thư ký Hội đồng Quản trị (HĐQT). Tương tự pháp luật Úc, Luật
Công ty Singapore 2006 cũng không sử dụng từ “Legal Representative” để đưa ra định
nghĩa về NĐD theo pháp luật của công ty mà quy định việc kinh doanh của một công ty
sẽ được quản lý bởi, hoặc dưới sự chỉ đạo hoặc giám sát của director. Director có thể
thực hiện tất cả các quyền hạn của một công ty ngoại trừ bất kỳ quyền lực nào mà luật
hoặc hiến pháp của công ty yêu cầu công ty thực hiện trong cuộc họp chung7. Như vậy,
mỗi quốc gia với nhận thức về pháp luật khác nhau, có những định nghĩa về NĐD theo
pháp luật là khác nhau. Nhưng tựu trung lại thì “pháp luật của các nước vẫn có điểm giao
thoa nhau về khái niệm NĐD theo pháp luật, đó là người được doanh nghiệp chỉ định để
thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn nhân danh doanh nghiệp”8.
Có thể thấy, doanh nghiệp là một chủ thể pháp luật, có năng lực để tham gia vào
các quan hệ pháp luật, thế nhưng trong đó, quan hệ kinh doanh thông qua những NĐD
được xem là trước hết và chủ yếu9. Ở Việt Nam, BLDS 2015 và cả LDN 2014 đã đưa ra
khái niệm về NĐD theo pháp luật khá rõ ràng dựa trên vai trò, chức năng của NĐD theo
pháp luật. BLDS 2015 đưa ra khái niệm đại diện là việc cá nhân, pháp nhân nhân danh
và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự10. Quy
định này được cụ thể hóa trong LDN 2014. Theo đó, NĐD theo pháp luật của doanh

nghiệp là cá nhân nhân danh doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ
giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ
khác theo quy định của pháp luật. NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp còn được gọi
là đại diện đương nhiên, tức là được pháp luật công nhận quyền đương nhiên nhân danh
doanh nghiệp trong các hoạt động của doanh nghiệp. So với LDN 2005, LDN 2014 đã
Điều 198A Luật Công ty Úc 2001, truy cập ngày
20/02/2020.
6
Bùi Xuân Hải (2007), “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam”, Tạp chí Khoa
học pháp lý, số 4, tr. 15.
7
Điều 157A Luật Công ty Singapore 2006, truy
cập ngày 20/02/2020.
8
Phan Thành Nhân, Đỗ Thị Nhung (2018), “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp – Thực trạng
pháp luật và hướng hồn thiện”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12, tr.36.
9
Đồng Ngọc Ba (2004), “Quan hệ về doanh nghiệp – Một số vấn đề phương pháp luận”, Tạp chí Luật học, số
2, tr. 13.
10
Khoản 1 Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015.
5

7


có những bước tư duy mới về lập pháp trong quy định về NĐD theo pháp luật. LDN
2005 không quy định cụ thể và riêng biệt về NĐD theo pháp luật trong một điều khoản
mà chủ thể này được quy định ở nhiều điều khoản trong từng loại hình doanh nghiệp,

điều này đã gây ra khơng ít sự khơng rõ ràng khi áp dụng các quy định vào trong thực tế.
Do đó, LDN 2014 đã có bước tiến trong việc đưa ra khái niệm về NĐD theo pháp luật
của doanh nghiệp. Tuy nhiên định nghĩa này có một vấn đề cần phải làm rõ, “trong khoa
học pháp lý và thực tiễn hợp đồng, việc xác lập các giao dịch là hoạt động đương nhiên
và thường trực để doanh nghiệp thực hiện mục tiêu kinh doanh, và người có thẩm quyền
đại diện đương nhiên để xác lập các giao dịch là NĐD theo pháp luật”11. LDN 2014 đã
khơng có sự đồng nhất trong việc đưa ra định nghĩa về NĐD so với BLDS 2015, loại bỏ
đi vai trò xác lập giao dịch của NĐD theo pháp luật. Định nghĩa NĐD theo pháp luật chỉ
nhắc đến việc thực hiện giao dịch nhân danh doanh nghiệp như là một trong những quyền
hạn then chốt của chế định NĐD theo pháp luật12. Mặc dù đã có sự bao quát hơn về việc
quy định NĐD theo pháp luật có các quyền và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp
luật, tuy nhiên vấn đề về xác lập giao dịch trong doanh nghiệp là một hoạt động sống
còn của doanh nghiệp. Trên thực tế, NĐD theo pháp luật thường đóng vai trị quan trọng
trong việc nhân danh doanh nghiệp xác lập các giao dịch dân sự, cịn q trình thực hiện
giao dịch có thể do nhiều chủ thể khác đảm nhiệm13. Có thể thấy đây là vai trị quan trọng
nên khơng thể khơng nhắc tới trong định nghĩa về NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp.
Chế định NĐD theo pháp luật là một chế định pháp lý nòng cốt và cơ bản trong
pháp luật về doanh nghiệp. NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp thay mặt và nhân danh
doanh nghiệp xác lập những mối quan hệ bên ngồi, được doanh nghiệp giao phó trách
nhiệm thực hiện những quyền và nghĩa vụ từ lớn đến nhỏ. Do đó, trong tương lai pháp
luật cần có những điều khoản thay đổi quy định về khái niệm NĐD theo pháp luật của
doanh nghiệp nhằm khơng những có được cách nhìn cụ thể trong thực tiễn mà thúc đẩy
doanh nghiệp có được sự hoạt động hiệu quả hơn.
1.2 Cơ sở hình thành mối quan hệ đại diện giữa người đại diện theo pháp luật với
doanh nghiệp
Trong đời sống, để đạt được mục đích cá nhân, các chủ thể phải tự mình tham gia
vào các giao dịch dân sự. Đây là hoạt động mang tính tất yếu khách quan và được diễn
ra thường xuyên để rồi từ các giao dịch đó, nhu cầu của các chủ thể được đáp ứng cả về
Nguyễn Tuấn Vũ (2019), “Một số góp ý nhằm hồn thiện dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Đầu tư và Luật Doanh nghiệp về người đại diện theo pháp luật”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 9 (2019),

tr.57.
12
Bùi Đức Giang (2015), “Hành lang pháp lý mới về người đại diện theo pháp luật của Luật Doanh nghiệp
2014”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2015, tr.18.
13
Ngơ Gia Hồng, Nguyễn Thị Thương (2016), “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo Luật
Doanh nghiệp năm 2014 dưới góc độ quyền tự do kinh doanh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7/2016,
tr.49.
11

8


vật chất và tinh thần. Tuy nhiên trên thực tế vì nhiều lý do khác nhau mà các chủ thể
khơng thể nào tham gia thực hiện hết mọi hoạt động trong xã hội. Vấn đề đại diện được
đặt ra để nhờ vào sự đại diện, các chủ thể có thể đáp ứng được nhu cầu mà không cần
thiết phải dùng mọi năng lực của mình để thực hiện nó. Quan hệ đại diện là một quan hệ
xã hội giữa NĐD và người được đại diện xuất hiện dưới sự tác động và điều chỉnh của
các quy phạm pháp luật có liên quan và sự kiện pháp lý14. Và phương thức đại diện là
một sự cần thiết không thể bị vô hiệu trong bất kỳ chế độ phát triển nào mà dựa trên sự
phân công lao động đối với sản xuất, phân phối hàng hóa và dịch vụ15. Mặt khác nếu
khơng có quan hệ đại diện thì khơng thể hình thành nên doanh nghiệp. Công ty với tư
cách pháp nhân – một thực thể pháp lý độc lập, tự bản thân khơng thể hành động cho
chính mình mà chỉ có thể hành động thông qua con người cụ thể - những người quản lý
cơng ty16. Do đó, quyền và nghĩa vụ của công ty sẽ phải được thực hiện thông qua hành
vi cụ thể của NĐD theo pháp luật.
Từ lâu các học giả trên thế giới đã nghiên cứu về học thuyết NĐD nhằm lý giải
những mối quan hệ bên trong của doanh nghiệp như mối quan hệ giữa chủ sở hữu với
NĐD theo pháp luật, quyền và nghĩa vụ của NĐD, bản chất NĐD. Nhà kinh tế học Adam
Smith trong cuốn “Wealth of Nation” đã nghiên cứu và cho rằng người quản lý khi quản

lý tài sản của người khác sẽ không đạt được hiệu quả cao như việc quản lý tài sản của
mình. Do đó, họ sẽ khơng trơng chừng nó với cảm giác “lo lắng” tương tự như đó là tài
sản của họ và sẽ ln có một sự tiêu cực hoặc sự thông đồng xuất phát từ lợi ích khác
nhau dẫn đến sự xung đột tổn thất. Các cổ đông không nên quá kỳ vọng về người quản
lý vì người quản lý sẽ ln có xu hướng lợi dụng vị trí của mình để tìm kiếm lợi ích cá
nhân cho chính họ hơn là cho công ty17. Vì vậy ơng đã dự đốn sẽ có sự phân tách quyền
sở hữu và quyền quản lý kiểm soát trong cơng ty. Dựa trên nền tảng lý luận đó, nhiều
học giả đã nghiên cứu và phân tích về vấn đề này. Họ nghiên cứu và đưa ra những giải
thích về mặt lý thuyết cho những thất bại thị trường tiềm ẩn trong khái niệm về doanh
nghiệp, từ đó đưa ra những phương hướng giải quyết cho vấn đề trong các công ty như
việc tạo sự liên kết giữa mục tiêu kinh doanh và khoản chi phí cho việc bồi thường điều
hành18. Đồng thời họ cũng khẳng định nếu khơng có pháp luật quy định về đại diện thì
mọi người phải tự hành động cho mình và khơng thể sử dụng đại diện, các công ty cũng
không thể thực hiện được các vai trị của mình.

Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam (tập 1), Nhà xuất bản Công an Nhân
dân, Hà Nội, trang 157.
15
Konrad Zweigert and Hein Koetz (1998), An Introduction to Comparative Law, Clarendon Press, tr.431.
16
Bùi Xuân Hải, tlđd (6), tr15.
17
Adam Smith (1776), The Weath of Nations, tr.800.
18
Fama, E. F., & Jensen, M. C. (1983), Separation of ownership and control. Journal of Law and Economics,
26(2), tr. 302.
14

9



Như vậy, về bản chất NĐD nếu không phải là chủ sở hữu của doanh nghiệp, họ
không thể hành động như chủ sở hữu. Thế nhưng vai trò của NĐD theo pháp luật của
doanh nghiệp lại không thể thiếu và mối quan hệ giữa hai chủ thể này cần phải được rõ
ràng. Sự phát triển về pháp luật của doanh nghiệp cùng với sự phân tách về quyền sở
hữu, quản lý và hoạt động kiểm soát trong doanh nghiệp đã làm tiền đề cho việc hình
thành mối quan hệ giữa NĐD theo pháp luật với doanh nghiệp. Doanh nghiệp có sự phụ
thuộc rất lớn vào NĐD theo pháp luật vì nó khơng thể tác động trực tiếp đến thế giới vật
chất. Doanh nghiệp “ủy thác” cho NĐD theo pháp luật có khả năng thực hiện hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời kèm với những quyền hạn đó, NĐD theo pháp
luật cũng có nghĩa vụ và trách nhiệm tương ứng.
1.3 Căn cứ xác lập quyền đại diện của người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp
Quyền đại diện theo pháp luật của NĐD theo pháp luật có thể được xác lập theo
những căn cứ quan trọng sau:
1.3.1 Theo Điều lệ công ty
LDN 2014 đã áp dụng nguyên tắc tôn trọng sự tự do kinh doanh của các doanh
nghiệp, theo đó các doanh nghiệp được quyền chủ động trong việc xác lập NĐD pháp
luật. Tuy nhiên để có thể cơng nhận một cá nhân nào đó là NĐD theo pháp luật của
doanh nghiệp thì phải được ghi nhận trong Điều lệ công ty một cách rõ ràng, cần phải
xác định ai là NĐD theo pháp luật của công ty, điều kiện để được trở thành NĐD theo
pháp luật, thẩm quyền, nghĩa vụ của NĐD theo pháp luật có giới hạn như thế nào và
trách nhiệm của họ trong quá trình thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Đây khơng
chỉ là quyền, mà cịn là nghĩa vụ của bất kì một cơng ty nào. Bởi lẽ nó là minh chứng rõ
nét cho sự tồn tại của NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp, NĐD theo pháp luật dễ
dàng xác định quyền và nghĩa vụ của mình và là cơ sở để bên thứ ba có thể xác định
được thẩm quyền của NĐD theo pháp luật.
Một sự thay đổi lớn trong LDN 2014 đó là doanh nghiệp được quyền có nhiều hơn
một NĐD theo pháp luật. Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) và cơng ty cổ phần
(CTCP) có thể có nhiều hơn một NĐD theo pháp luật. “Điều lệ công ty quy định cụ thể

số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp”19. LDN 2014 đã tạo nên một sự khác biệt so với phiên bản LDN trước
đó. Sở dĩ pháp luật cho phép doanh nghiệp được tự do trong việc quy định về số lượng
NĐD xuất phát từ thực tiễn áp dụng quy định LDN 2005, khi NĐD theo pháp luật kiêm
là người điều hành, quản trị doanh nghiệp, nắm toàn bộ quyền lực trong tay dễ dẫn đến
việc vừa đá bóng vừa thổi cịi. Hơn nữa, việc để cho doanh nghiệp được quyết định số
19

Khoản 2 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014.

10


lượng NĐD theo pháp luật là một lối thoát cho những doanh nghiệp lớn, khi mơ hình
cơng ty phức tạp, số lượng dự án kinh doanh cũng như người lao động lớn, một NĐD
theo pháp luật không thể đảm đương hết mọi công việc. LDN 2014 đã san sẻ bớt quyền
hạn và trách nhiệm của một NĐD, đảm bảo NĐD có thể thực hiện tốt nhất quyền và
nghĩa vụ của mình mà khơng ơm đồm q nhiều trách nhiệm. Ngồi ra, quy định như
vậy giúp hoạt động phân quyền của doanh nghiệp được diễn ra suôn sẻ, không tập trung
mọi quyền và nghĩa vụ của NĐD theo pháp luật cho một người, giúp doanh nghiệp có
thể linh hoạt trong những vấn đề cần NĐD theo pháp luật mà họ lại không cư trú trong
nước, hoặc trong trường hợp NĐD theo pháp luật bị tạm giam, kết án tù, trốn khỏi nơi
cư trú, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
1.3.2 Theo quy định của pháp luật
Mặc dù pháp luật doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp được quyền tự do kinh
doanh, tự do lựa chọn loại hình, cơ cấu tổ chức trong doanh nghiệp của mình. Tuy nhiên
có những loại hình doanh nghiệp đặc thù, pháp luật phải có quy định cụ thể về NĐD để
tránh tình trạng lạm dụng quyền lực hoặc trốn tránh trách nhiệm khi nảy sinh các vấn đề
tranh chấp liên quan đến NĐD theo pháp luật.
Đối với loại hình doanh nghiệp tư nhân (DNTN), LDN 2014 quy định bắt buộc

chủ DNTN là NĐD theo pháp luật. Chủ DNTN có thể thuê Giám đốc, Tổng giám đốc
hoặc các chức danh phù hợp với nhu cầu kinh doanh, tuy nhiên chủ DNTN vẫn phải chịu
trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh. Sở dĩ LDN 2014 có sự quy định rõ ràng như
vậy bởi lẽ doanh nghiệp tư nhân mang bản chất pháp lý là thương nhân thể nhân, việc
quản trị doanh nghiệp tư nhân hồn tồn phụ thuộc vào ý chí của chủ doanh nghiệp tư
nhân20.
Đối với công ty hợp danh (CTHD), LDN cũng quy định tất cả các thành viên hợp
danh có quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh hằng
ngày của công ty. Đối với những hạn chế của thành viên hợp danh trong thực hiện công
việc kinh doanh hằng ngày của công ty thì có hiệu lực đối với nội bộ của cơng ty và chỉ
có hiệu lực đối với bên thứ ba khi người đó được biết về hạn chế đó21. Sở dĩ, mơ hình
CTHD mang bản chất của một liên kết hợp danh giữa các chủ sở hữu chung của công ty
thơng qua hành vi góp vốn cùng nhau kinh doanh. Đồng thời CTHD cũng hoạt động dựa
trên yếu tố nhân thân của thành viên hợp danh khi mà hoạt động kinh doanh của công ty
thông qua hành vi trực tiếp kinh doanh của từng thành viên hợp danh với tư cách là NĐD

Ngơ Huy Cương (2010), “Vài bình luận về pháp luật doanh nghiệp tư nhân”, Tạp chí Khoa Học đại học
Quốc gia Hà Nội, Luật học, số 26, tr. 29.
21
Khoản 1 Điều 179 Luật Doanh nghiệp 2014.
20

11


theo pháp luật của cơng ty22. Do đó, tất cả những thành viên hợp danh của công ty hợp
danh không được quyền từ bỏ tư cách là NĐD theo pháp luật của mình trong cơng ty.
Đối với CTCP thì LDN 2014 cho phép doanh nghiệp được tự do quy định về NĐD
theo pháp luật. LDN 2014 giới hạn chức danh NĐD theo pháp luật là khi doanh nghiệp
chỉ có một NĐD theo pháp luật phải là Chủ tịch HĐQT hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám

đốc. Nếu Điều lệ khơng có quy định khác thì Chủ tịch HĐQT là NĐD theo pháp luật của
công ty. Luật quy định như vậy là một điều dễ hiểu, bởi lẽ đối với loại hình CTCP – một
loại hình doanh nghiệp với mơ hình quản trị khá phức tạp, số cổ đông lại không hạn chế,
NĐD theo pháp luật của công ty nhất định phải là một người có chức danh quản lý để dễ
dàng điều hành các hoạt động của doanh nghiệp chứ không được chỉ định một người nào
khác. Trường hợp CTCP có hơn một NĐD theo pháp luật thì Chủ tịch HĐQT và Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc đương nhiên là NĐD theo pháp luật của cơng ty. Ngồi hai
chức danh đó, cơng ty có thể có thêm những NĐD theo pháp luật khác và phải được ghi
nhận trong Điều lệ công ty.
Đối với công ty TNHH một thành viên, trong trường hợp Điều lệ cơng ty khơng
quy định thì Chủ tịch Hội đồng thành viên (HĐTV) hoặc Chủ tịch công ty là NĐD theo
pháp luật của công ty. Đối với công ty TNHH hai thành viên trở lên, LDN 2014 lại không
quy định trong trường hợp Điều lệ công ty không có quy định thì chủ thể nào là NĐD
theo pháp luật của cơng ty. Xét rằng, đối với loại hình doanh nghiệp này, Chủ tịch HĐTV
là người có nhiều quyền và nghĩa vụ trong HĐTV như giám sát công việc, nghị quyết
của HĐTV và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là những người quản lý, điều hành hoạt
động kinh doanh hằng ngày của cơng ty. Do đó, LDN cũng nên bổ sung hai chức danh
trên khi quy định cụ thể về NĐD theo pháp luật của công ty TNHH hai thành viên khi
trong trường hợp Điều lệ công ty không có quy định.
1.3.3 Theo chỉ định của Tịa án nhân dân
LDN đã quy định bổ sung thêm một chủ thể được quyền xác lập tư cách NĐD theo
pháp luật đó là Tòa án – chủ thể mang quyền lực nhà nước. “Trong một số trường hợp
đặc biệt, Tịa án có thẩm quyền có quyền chỉ định người đại diện theo pháp luật trong
q trình tố tụng tại Tịa án”23. Đây là quy định cần thiết và quan trọng, xuất phát từ việc
ngoài theo quy định pháp luật, chủ thể xác lập NĐD theo pháp luật có thể là doanh nghiệp
- chủ thể mang tính xã hội. Khi xảy ra mâu thuẫn và tranh chấp đều cần có một cơ quan
đứng ra giải quyết dựa trên mặt khách quan của thực tế mà khơng phải dựa vào ý chí chủ
quan của bất kì cá thể nào khác. Do đó, Tịa án sẽ có quyền chỉ định NĐD theo pháp luật
trong hai trường hợp cụ thể: (i) Nếu họ cũng là đương sự trong cùng một vụ việc với
Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh (Tái bản lần 1,

có sửa đổi và bổ sung), Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội Luật Gia Việt Nam, tr. 120.
23
Khoản 7 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014.
22

12


người được đại diện mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích
hợp pháp của người được đại diện; (ii) Nếu họ đang là NĐD theo pháp luật trong tố tụng
dân sự cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập
với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ việc24.
Ngoài ra, trong thủ tục phá sản, sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh
nghiệp có thể sẽ có một số hành vi như cất giấu, tẩu tán, tặng cho tài sản; thanh toán
khoản nợ khơng có bảo đảm, từ bỏ quyền địi nợ; hoặc chuyển khoản nợ khơng có bảo
đảm thành nợ có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần bằng tài sản của doanh nghiệp. Khi
đó, Thẩm phán dựa trên các hành vi này của doanh nghiệp và xét thấy NĐD theo pháp
luật của doanh nghiệp khơng có khả năng điều hành, sẽ ra quyết định thay đổi NĐD theo
pháp luật của doanh nghiệp đó theo đề nghị của Hội nghị chủ nợ hoặc Quản tài viên,
doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản25.
Pháp luật trao cho Tòa án quyền được chỉ định NĐD theo pháp luật khơng những
giúp cho q trình tố tụng dân sự được diễn ra suôn sẻ, mà cịn giúp tránh xảy ra những
xung đột lợi ích giữa NĐD theo pháp luật với doanh nghiệp, bảo vệ lợi ích của doanh
nghiệp và của các bên khi tham gia tố tụng.
1.4 Vai trò của người đại diện theo pháp luật đối với doanh nghiệp
NĐD theo pháp luật là một chủ thể nòng cốt trong doanh nghiệp và là một công
cụ đắc lực trong việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt, doanh
nghiệp trong một xã hội hiện đại khơng thể khơng có sự tồn tại của NĐD theo pháp luật.
Một doanh nghiệp nếu khơng có NĐD theo pháp luật hoặc chỉ cần khuyết NĐD theo
pháp luật trong một thời gian ngắn thì đều có thể dẫn đến nguy cơ đình trệ các hoạt động

kinh doanh, lâu dần sẽ dễ dẫn đến bế tắc và có thể sẽ phải chấm dứt hoạt động. Tựu trung
lại, NĐD theo pháp luật có một số vai trị chính như sau:
Thứ nhất, Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là chủ thể gắn liền
với sự ra đời, tồn tại và chấm dứt của doanh nghiệp
LDN 2014 đã quy định cụ thể rằng ngay từ khi thành lập và đăng ký doanh nghiệp,
doanh nghiệp phải đăng ký chức danh NĐD theo pháp luật. Doanh nghiệp phải thực hiện
việc đăng ký doanh nghiệp theo quy trình và thủ tục tại Thông tư 20/2015/TT-BKHĐT
ngày 01/12/2015 hướng dẫn về đăng ký doanh nghiệp, được sửa đổi, bổ sung tại Thông
tư 02/2019/TT-BKHĐT ngày 08/01/2019. Thành phần hồ sơ đăng ký doanh nghiệp phải
có thông tin và chữ ký về NĐD theo pháp luật. Phòng Đăng ký kinh doanh sẽ cấp Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được
hồ sơ hợp lệ từ doanh nghiệp. Thông tin NĐD theo pháp luật sẽ được thể hiện cụ thể trên

24
25

Khoản 1 Điều 87 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.
Khoản 2 Điều 47 Luật Phá sản 2014.

13


Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo khoản 3 Điều 29 LDN 2014. Trong quá
trình hoạt động, doanh nghiệp muốn hoạt động bình thường thì phải ln có ít nhất một
NĐD theo pháp luật điều hành, nhân danh công ty để thực hiện các quyền và nghĩa vụ.
Khi doanh nghiệp chấm dứt hoạt động thông qua thủ tục giải thể hoặc phá sản thì tư cách
NĐD theo pháp luật cũng sẽ chấm dứt theo.
Thứ hai, vai trò của người đại diện theo pháp luật trong mối quan hệ nội bộ bên
trong doanh nghiệp
NĐD theo pháp luật là chủ thể gắn liền với chủ sở hữu, doanh nghiệp, đóng vai trị

là người thụ ủy, có quyền và nghĩa vụ của người thụ ủy. NĐD theo pháp luật sẽ thay mặt
chủ sở hữu thực hiện việc quản lý công ty cho họ mà trong đó bao gồm cả thẩm quyền
ra những quyết định nhất định để hành động cho và vì lợi ích của cơng ty cũng như định
đoạt tài sản cơng ty26. Từ ý chí của doanh nghiệp, NĐD theo pháp luật làm cụ thể hóa
thành những chiến lược rõ ràng, đưa vào thực hiện trong hoạt động hằng ngày. Hơn nữa,
NĐD theo pháp luật cịn giữ một vị trí quan trọng trong hoạt động quản trị doanh nghiệp,
giám sát, kiểm soát hành vi của các chức danh quản lý khác, các cổ đông hoặc thành viên
trong công ty. NĐD theo pháp luật cũng là chủ thể có mối quan hệ mật thiết với người
lao động trong doanh nghiệp. Thực tế, người có quyền quản lý đối với người lao động
có thể khơng phải là NĐD theo pháp luật. Tuy nhiên người lao động cần phải biết NĐD
theo pháp luật của doanh nghiệp là ai để từ đó có thể bảo vệ được quyền và lợi ích của
chính mình nếu có tranh chấp xảy ra. Chính vì vậy, trong tổ chức quản lý doanh nghiệp,
LDN thường xác định chức danh quản lý nào là NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp.
Chẳng hạn, trong CTCP, trường hợp có một NĐD theo pháp luật, thì chức danh Chủ tịch
HĐQT hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là NĐD theo pháp luật. Trường hợp có hơn
một NĐD theo pháp luật thì Chủ tịch HĐQT và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc đương
nhiên là NĐD theo pháp luật27. Đối với công ty TNHH một thành viên, nếu Điều lệ cơng
ty khơng quy định thì Chủ tịch HĐTV hoặc Chủ tịch công ty là NĐD theo pháp luật của
công ty28.
Thứ ba, người đại diện theo pháp luật nhân danh doanh nghiệp thực hiện các
công việc đối với mối quan hệ bên ngoài
Trong phạm vi quyền và nghĩa vụ được pháp luật và Điều lệ cho phép, NĐD theo
pháp luật nhân danh doanh nghiệp xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với các mối quan
hệ bên ngồi. Tác giả Nguyễn Ngọc Bích từng nhận định rằng “Công ty là một thực thể
pháp lý, chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, có khả năng chịu trách nhiệm và nghĩa
vụ như con người tự nhiên. Tuy nhiên, khi nhìn vào cơng ty thì người khác khơng thấy
Bùi Xuân Hải, tlđd (6), tr. 14.
Khoản 2 Điều 134 Luật Doanh nghiệp 2014.
28
Khoản 2 Điều 78 Luật Doanh nghiệp 2014.

26
27

14


ai cả mà chỉ thấy toàn là nhà xưởng, cán bộ, công nhân, vậy làm sao ràng buộc công ty
vào hành động của nó, làm sao giao dịch được với công ty, gửi thư công ty”29. Doanh
nghiệp không phải là con người, nó đơn giản chỉ là một thực thể được nhiều người biết
nhưng khơng thể nhìn thấy được. Do đó, các bên thứ ba cần biết được NĐD của doanh
nghiệp là ai trong việc đứng ra đàm phán, ký kết các giao dịch. Trường hợp nếu NĐD
theo pháp luật khơng có khả năng hồn thành nhiệm vụ hoặc khơng thể thực hiện quyền
và nghĩa vụ của mình, họ có thể ủy quyền cho người khác thực hiện, tuy nhiên NĐD
theo pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm về những phạm vi mà mình đã ủy quyền.
Ngồi ra, NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp còn thay mặt doanh nghiệp trong
việc thực hiện những thủ tục với cơ quan nhà nước. Những cơng việc đó có thể là thực
hiện thủ tục về đăng ký doanh nghiệp, đăng ký thay đổi thơng tin doanh nghiệp, đóng
thuế, nộp phạt.
Như vậy có thể thấy, NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp đóng một vai trò chủ
chốt và quan trọng trong doanh nghiệp. Hơn hết, một doanh nghiệp muốn phát triển
nhanh chóng, ổn định thì phải phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của NĐD theo pháp luật.
Do đó, pháp luật cũng cần phải được hoàn thiện hơn nữa về chế định của NĐD theo pháp
luật nhằm giúp hoạt động doanh nghiệp được diễn ra suôn sẻ hơn trong thực tế.
KẾT LUẬN CHƯƠNG
Ở chương 1 của khóa luận này, tác giả đã đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản về
NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp, cụ thể bao gồm các vấn đề:
Thứ nhất, tác giả đưa ra khái niệm về NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp ở
LDN 2014. Bên cạnh đó đưa ra sự đối chiếu với định nghĩa về NĐD theo pháp luật của
doanh nghiệp ở một số quốc gia trên thế giới, đánh giá toàn diện về mặt lý luận và thực
tiễn của pháp luật Việt Nam trong tư duy về NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp.

Thứ hai, tác giả trình bày khái quát về cơ sở hình thành nên mối quan hệ của NĐD
theo pháp luật và doanh nghiệp.
Thứ ba, tác giả phân tích cụ thể những căn cứ để xác lập tư cách NĐD theo pháp
luật của doanh nghiệp. Để một chủ thể có thể là NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp,
chủ thể đó cần được xác lập bởi pháp luật, Điều lệ công ty hoặc sẽ do Tòa án chỉ định.
Phần cuối, tác giả phân tích những vai trị căn bản và quan trọng nhất của NĐD
theo pháp luật trong hoạt động kinh doanh để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển.

29

Nguyễn Ngọc Bích (2006), “Người đại diện pháp lý cơng ty”, Thời báo kinh tế Sài gòn, số 32/2006, tr. 19.

15


CHƯƠNG 2
XÁC LẬP VÀ CHẤM DỨT TƯ CÁCH NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
CỦA DOANH NGHIỆP
2.1 Điều kiện làm người đại diện theo pháp luật
Trong doanh nghiệp, mọi hành động của NĐD theo pháp luật nhân danh doanh
nghiệp đều phát sinh quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp. Nếu NĐD theo pháp luật
hành động khơng khơn khéo sẽ có rất nhiều mối đe dọa cả về mặt pháp lý và hiệu quả
kinh doanh tác động tới doanh nghiệp. Do đó, để trở thành NĐD theo pháp luật của
doanh nghiệp, một chủ thể cần phải đáp ứng những điều kiện sau:
2.1.1 Điều kiện theo quy định của pháp luật doanh nghiệp
Thứ nhất, NĐD theo pháp luật là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
Theo khoản 1 Điều 137 BLDS 2015, NĐD theo pháp luật bao gồm người được
pháp nhân chỉ định theo Điều lệ, theo quy định của pháp luật hoặc do Tòa án chỉ định.
Đồng thời, khoản 1 Điều 13 LDN 2014 cũng có quy định NĐD theo pháp luật của doanh
nghiệp phải là cá nhân. Do đó, đại diện một doanh nghiệp thực hiện các hoạt động nhân

danh doanh nghiệp phải là một NĐD theo pháp luật hoặc NĐD được ủy quyền cụ thể.
BLDS 2015 và LDN 2014 đều không quy định rõ về độ tuổi được làm NĐD trong
doanh nghiệp. Theo khoản 18 Điều 4 LDN 2014 quy định người quản lý là những người
quản lý công ty và người quản lý DNTN, bao gồm chủ DNTN, thành viên hợp danh,
Chủ tịch HĐTV, thành viên HĐTV, Chủ tịch công ty, Chủ tịch HĐQT, thành viên
HĐQT, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm
quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ cơng ty.
Có thể thấy, thơng thường trong mỗi loại hình doanh nghiệp, NĐD theo pháp luật luôn
là những người nắm chức danh quản lý. Đối với cơng ty TNHH, NĐD theo pháp luật có
thể là Chủ tịch HĐTV hoặc Chủ tịch công ty. Đối với CTCP, NĐD theo pháp luật có thể
nắm chức danh quản lý là Chủ tịch HĐQT hoặc Tổng giám đốc hoặc Giám đốc. Hơn
nữa, theo điểm đ khoản 2 Điều 18 LDN 2014, cấm cá nhân là người chưa thành niên,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự thành lập
và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam. Trong khi đó theo BLDS 2015 thì người chưa
thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi30. Do đó, có thể hiểu rằng NĐD theo pháp
luật phải là cá nhân trên 18 tuổi.
Về năng lực hành vi dân sự, “năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của
cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự”31. Một cá
nhân được xem là NĐD theo pháp luật phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,

30
31

Khoản 1 Điều 21 Bộ luật Dân sự 2015.
Điều 19 Bộ luật Dân sự 2015.

16


có khả năng tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự một cách độc lập, tự nguyện và

phải chịu trách nhiệm với toàn bộ hành vi do bản thân thực hiện. Một người bị mất năng
lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự không thể là NĐD theo pháp
luật của doanh nghiệp. LDN 2014 đã đưa ra khá nhiều quy định về tiêu chuẩn đối với
các chức danh quản lý của doanh nghiệp. Giám đốc, Tổng giám đốc, Chủ tịch HĐTV,
các thành viên HĐQT và thành viên hợp danh trong CTHD phải đáp ứng năng lực hành
vi dân sự đầy đủ. Điều này giúp hình thành nên một mối quan hệ khăng khít và ràng
buộc giữa NĐD theo pháp luật với doanh nghiệp. NĐD theo pháp luật có trách nhiệm
đối với những hành vi của mình nhân danh doanh nghiệp, đồng thời doanh nghiệp cũng
phải có trách nhiệm nắm rõ năng lực hành vi dân sự của NĐD theo pháp luật – là một
người chủ chốt và kiểm soát các hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp. Do đó, có
thể khẳng định rằng, một chủ thể muốn trở thành NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp
thì phải là cá nhân từ 18 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, có khả năng
bằng hành vi của mình tự xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Vấn đề này, pháp
luật công ty của nhiều quốc gia trên thế giới cũng có quy định tương tự như pháp luật
Việt Nam. Chẳng hạn, Luật Công ty Singapore 2006 cũng quy định tương tự rằng khơng
ai khác ngồi một người tự nhiên đã đủ 18 tuổi và người có đủ năng lực pháp lý sẽ là
Giám đốc của một công ty32. Pháp Luật Công ty TNHH Đức quy định Cơng ty TNHH
hơn 2000 lao động phải có ít nhất hai NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp và bắt buộc
NĐD theo pháp luật phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có thể là cơng dân Đức
hoặc là người nước ngoài. Nếu cá nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì khơng được
làm NĐD trong thời hạn 5 năm kể từ ngày hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự33.
Xét về bản chất, việc quản lý doanh nghiệp là quyền và nghĩa vụ của NĐD theo
pháp luật, đồng thời để có thể nhận thức được hành vi của mình và thực hiện nó một
cách có trách nhiệm, đạt hiệu quả theo đúng vị trí của mình thì cần phải là người có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ, có thể chịu trách nhiệm dân sự, hình sự trong q trình thực
hiện cơng việc đại diện của mình, khơng thể là người chưa thành niên – người chưa đủ
khả năng về nhận thức, trình độ, năng lực và kinh nghiệm hoặc người bị mất hoặc bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự quản lý.
Thứ hai, người đại diện theo pháp luật không thuộc trường hợp bị cấm quản lý
doanh nghiệp

Theo LDN 2014 các cá nhân không được quyền thành lập doanh nghiệp và quản
lý doanh nghiệp đó là “cán bộ, cơng chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán
bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên
Khoản 2 Điều 145 Luật Công ty Singapore 2006.
Điều 6 Luật Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đức 1892, sửa đổi bổ sung 2008, manbusiness
law.de/legislation/, truy cập ngày 20/02/2020.
32
33

17


chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan
chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ những
người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của nhà nước tại
doanh nghiệp”34. Đồng thời các đối tượng trên còn được quy định cụ thể trong từng pháp
luật tương ứng, chẳng hạn như Luật Viên chức 2010, Luật Phòng chống tham nhũng
2018. Có thể thấy, pháp luật Việt Nam quy định như vậy là hợp lý, sở dĩ các chủ thể này
đang làm việc và hoạt động trong cơ quan nhà nước, là những người nắm rõ hoạt động
của Nhà nước, do đó khơng được quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp nhằm tránh
tình trạng lạm dụng chức vụ để phát triển cho doanh nghiệp riêng của chính mình.
Hơn nữa một số đối tượng như “cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh
nghiệp nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần
vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác”35 cũng bị cấm thành lập doanh nghiệp và
quản lý doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp có vốn điều lệ từ nguồn
vốn đầu tư của Nhà nước, cán bộ quản lý cấp cao chỉ được quyền tập trung cho hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước, không được thành lập doanh nghiệp để tránh sự thừa
cơ trục lợi từ doanh nghiệp nhà nước cho doanh nghiệp của mình.
Ngồi ra “người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc
bị mất năng lực hành vi dân sự; người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành

hình phạt tù, quyết định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục
bắt buộc hoặc đang bị cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công
việc nhất định, liên quan đến kinh doanh theo quyết định của Tòa án; các trường hợp
khác theo quy định của pháp luật về phá sản, phòng, chống tham nhũng”36 cũng khơng
có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam.
Từ những phân tích trên có thể thấy rõ, pháp luật không quy định cụ thể các chủ
thể trên không được làm NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp mà quy định rằng cấm
không được thành lập doanh nghiệp và quản lý doanh nghiệp. Thực chất, quyền hạn và
nghĩa vụ NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp là quản lý doanh nghiệp. Do đó, có thể
suy luận rằng những chủ thể trên cũng đồng thời không được làm NĐD theo pháp luật
của doanh nghiệp.
Bên cạnh những ngành nghề kinh doanh truyền thống địi hỏi NĐD theo pháp luật
phải có những điều kiện cơ bản tối thiểu thì đối với một số lĩnh vực kinh doanh đặc thù,
pháp luật chuyên ngành khơng những địi hỏi NĐD theo pháp luật phải đáp ứng những
điều kiện cơ bản theo LDN 2014 mà còn phải đáp ứng điều kiện về bằng cấp, chứng chỉ
ngành nghề, trình độ chun mơn kỹ thuật. Khơng thể để một người không biết rõ về
Điểm b, c khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp 2014.
Điểm d khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp 2014.
36
Điểm đ, e khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp 2014.
34

35

18


lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp mà trở thành NĐD theo pháp luật quản lý, điều
hành hoạt động của doanh nghiệp được. Một số văn bản pháp luật chuyên ngành có
những yêu cầu cụ thể đối với NĐD theo pháp luật như trong lĩnh vực kinh doanh kiểm

toán độc lập, NĐD theo pháp luật phải là kiểm toán viên hành nghề37. Trong lĩnh vực
công chứng, NĐD theo pháp luật của Phịng cơng chứng phải là Trưởng phịng và là
cơng chứng viên, do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức38.
2.1.2 Điều kiện theo quy định nội bộ doanh nghiệp
Ngoài quy định những điều kiện nền tảng cần phải có đối với NĐD theo pháp luật,
LDN 2014 đã trao quyền tự chủ trong doanh nghiệp khi không đề cập đến quy định cụ
thể về các điều kiện chun mơn, trình độ kỹ thuật của NĐD theo pháp luật. Do đó, các
điều kiện cụ thể về trình độ chun mơn, kinh nghiệm của NĐD theo pháp luật sẽ được
quy định trong nội bộ doanh nghiệp. Theo “nguyên tắc quản trị công ty tốt”, trên thực tế
không thể hoàn toàn chấp nhận việc bất cứ ai cũng có thể trở thành NĐD theo pháp luật.
Điều này hàm chứa rất nhiều sự nguy hiểm và tính rủi ro cao khi NĐD theo pháp luật
hành động trong sự thiếu hiểu biết và cẩu thả39. LDN 2014 không đưa ra cơ chế cụ thể
cho việc xác định hoặc đánh giá mức độ về trình độ chun mơn của NĐD theo pháp
luật. Doanh nghiệp có thể tự mình định mức trình độ, kinh nghiệm cần phải có của một
cá nhân để có thể trở thành NĐD theo pháp luật. Điều này tạo điều kiện cho doanh nghiệp
được tự do lựa chọn NĐD theo pháp luật phù hợp với hoạt động kinh doanh của mình,
đồng thời khơng bị pháp luật áp đặt quá nhiều điều kiện đáp ứng, gây khó khăn khi bổ
nhiệm hoặc bầu một người làm NĐD theo pháp luật. Tuy nhiên trên thực tế, khi LDN
không đưa ra các tiêu chí về điều kiện và tiêu chuẩn của NĐD theo pháp luật, doanh
nghiệp sẽ khơng dễ để có thể định hình và chi tiết hóa được các tiêu chuẩn và điều kiện
cụ thể vào quy định nội bộ. Điều này khiến cho việc một cá nhân có thể trở thành NĐD
theo pháp luật một cách dễ dàng, doanh nghiệp, chủ sở hữu có thể tin tưởng, trao quyền
ủy thác sai đối tượng là NĐD theo pháp luật, đồng thời tăng mức độ rủi ro cho doanh
nghiệp và có thể phải gánh chịu những hậu quả không lường trước được do sự thiếu trách
nhiệm hoặc thiếu kinh nghiệm quản lý từ NĐD theo pháp luật.
2.2 Xác lập tư cách và thay đổi người đại diện theo pháp luật
Việc xác lập tư cách của NĐD theo pháp luật của doanh nghiệp sẽ dựa trên Điều
lệ công ty, theo quy định pháp luật hoặc do Tòa án chỉ định. Như đã phân tích tại Mục


Điều 21 Luật Kiểm tốn độc lập 2011.
Khoản 2 Điều 22 Luật Công chứng 2014.
39
Patrick Gallagher and Nonna Martinov-Bennie (2015), “Who should be a director?”, https://www.
cpaaustralia.com.au/~/media/corporate/allfiles/document/professional-resources/sustainability/who-shouldbe-a-director.pdf?la=en, truy cập ngày 20/02/2020.
37
38

19


×