Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí trong luật lao động việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (908.2 KB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

ĐỖ THỊ NGỌC BÍCH
Đề tài:

CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI HƯU TRÍ TRONG
LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
KHÓA LUẬN CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHOÁ : 2001 - 2006
GVHD

: Th.S ĐINH THỊ CHIẾN
GIẢNG VIÊN KHOA LUẬT DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH - 2006


LỜI CẢM ƠN

Đ

  

ể có thể hoàn thành khóa luận cử nhân Luật này, bên cạnh
những nổ lực cố gắng của bản thân, tác giả còn nhận được sự

giúp đỡ hết sức quý báu từ phía các Thầy cô và bạn bè. Trước hết, tác giả
xin gửi lời cảm ơn đến tất cảThầy, Cô trường Đại học Luật Thành phố
Hồ Chí Minh – những người đã mang đến những kiến thức hết sức cần


thiết cho mỗi cử nhân Luật trong tương lai, trong đó có tác giả. Tác giả
xin gửi lời cảm ơn và lòng tri ân sâu sắc đến Thạc só Đinh Thị Chiến –
giảng viên Khoa Luật Dân sự, người đã trực tiếp hướng dẫn tác giả hoàn
thành khóa luận này. Với những kiến thức và kinh nghiệm của mình, Cô
đã giúp tác giả vượt qua những khó khăn ban đầu trong việc tiếp cận vấn
đề, lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp. Đó là sự giúp đỡ hết sức
cần thiết và quý báu, mà nếu không có nó, tác giả sẽ khó lòng hoàn
thành khoá luận tốt nghiệp của mình. Cũng xin gửi lời cảm ơn đến tập
thể các nhân viên thư viện Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh và các nhân viên thư viện Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh –
những người đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho tác giả trong việc tìm kiếm
tài liệu tham khảo để bổ sung cho những phần kiến thức còn khiếm
khuyết; từ đó giúp tác giả hoàn thành khoá luận này. Cuối cùng xin gửi
lời cảm ơn chân thành đến những người bạn của tác giả – những người
đã giúp đỡ tác giả rất nhiều trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành
khóa luận. Xin chân thành cảm ơn.


MỤC LỤC
  
Lời nói đầu
Chương 1: Khái quát về chế độ hưu trí
1.1. Khái niệm – Đặc điểm của chế độ hưu trí .................................. Trang 1
1.1.1. Khái niệm của chế độ hưu trí ........................................... Trang 1
1.1.2. Đặc điểm của chế độ hưu trí ............................................ Trang 3
1.2. Ý nghóa của chế độ hưu trí .......................................................... Trang 5
1.3. Chế độ hưu trí của một số nước trên thế giới.............................. Trang 6
1.3.1. Chế độ hưu trí của một số nước trong khu vực Châu Á ... Trang 7
1.3.1.1. Chế độ hưu trí ở Nhật Bản .................................. Trang 7
1.3.1.2. Chế độ hưu trí ở Philippin ................................... Trang 9

1.3.2. Chế độ hưu trí ở một số nước Châu Âu .......................... Trang 10
1.3.2.1. Chế độ hưu trí ở Đức ......................................... Trang 10
1.3.2.2. Chế độ hưu trí ở Anh ......................................... Trang 11
1.4. Chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật Việt Nam ............. Trang 12
1.4.1. Lịch sử phát triển của chế độ hưu trí .............................. Trang 12
1.4.2. Chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật hiện hành .. Trang 16
1.4.2.1. Đối tượng tham gia chế độ hưu trí ..................... Trang 16
1.4.2.2. Các điều kiện hưởng chế độ hưu trí .................. Trang 19


Điều kiện về tuổi đời ............................................ Trang 19



Điều kiện về thời gian đóng BHXH .................... Trang 22

1.4.2.3. Mức đóng và mức trợ cấp Bảo hiểm hưu trí ..... Trang 24


Mức đóng.............................................................. Trang 24



Mức trợ cấp hưu trí ............................................... Trang 24

1.4.2.4. Độ dài thời gian hưởng trợ cấp hưu trí .............. Trang 32

Chương 2: Thực trạng chế độ hưu trí ở nước ta – Một số kiến
nghị hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu trí.
2.1. Thực trạng chế độ hưu trí ở nước ta .......................................... Trang 33



2.1.1. Thực trạng thực hiện chế độ hưu trí ở nước ta ............... Trang 33
2.1.1.1. Thực trạng tham gia Bảo hiểm xã hội hưu trí ........ Trang 33
2.1.1.2. Thực trạng chi trả trợ cấp hưu trí ............................ Trang 39


Số người hưởng trợ cấp hưu trí ngày càng tăng ......... Trang 39



Công tác chi trả trợ cấp hưu trí .................................... Trang40

2.1.2. Thực trạng tài chính của chế độ hưu trí ........................... Trang42
2.1.2.1. Thực trạng thu Bảo hiểm xã hội hưu trí ................. Trang 42
2.1.2.2. Công tác quản lý – bảo toàn và đầu tư tăng trưởng quỹ Bảo
hiểm xã hội ......................................................................... Trang 45
 Công


tác quản lý quỹ Bảo hiểm xã hội ..................... Trang 45

Công tác bảo toàn – đầu tư và tăng trưởng quỹ Bảo hiểm xã hội

........................................................................................ Trang 47
2.1.2.3. Thực trạng quỹ Bảo hiểm xã hội ........................... Trang 49
2.2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về chế
độ hưu trí........................................................................................... Trang 55
2.2.1. Các giải pháp nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ ......... Trang 56
2.2.1.1. Tăng tuổi nghỉ hưu của lao động nữ ....................... Trang 56

2.2.1.2. Giảm tối đa 5 tuổi đời cho một số đối tượng .......... Trang 60
2.2.1.3. Tăng mức đóng ....................................................... Trang 61
2.2.2. Các giải pháp đảm bảo sự công bằng giữa những người
tham gia Bảo hiểm xã hội ........................................................ Trang 62
2.2.2.1. Tính lương bình quân cho người lao động giữa khu
vực Nhà nước và ngoài quốc doanh .................................... Trang 62
2.2.2.2. Những biện pháp xử lý đối với những doanh nghiệp
trốn, nợ Bảo hiểm xã hội .................................................... Trang 63
Kết luận.
Phụ lục.
Danh mục tài liệu tham khảo.


1

LỜI NÓI ĐẦU
  
1. Tính cấp thiết của đề tài
Có thể nói rằng, sau tiền lương hoặc tiền công thì trợ cấp bảo hiểm xã hội
được người lao động rất quan tâm, đặc biệt là vấn đề trợ cấp bảo hiểm xã hội
cho chế độ hưu trí vì nó có ý nghóa thiết thân đối với đời sống của họ khi bị mất
thu nhập do tuổi già không còn khả năng lao động. Chế độ hưu trí là chế độ đã
được nhà nước quan tâm thực hiện nhưng một số các quy định của pháp luật về
chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí trong thời điểm hiện nay vẫn còn bộc lộ nhiều
nhược điểm cả trên bình diện lý luận cũng như thực tiễn, cả trong văn bản pháp
luật cũng như tổ chức thực hiện. Chính vì vậy, những nghiên cứu về chế độ bảo
hiểm hưu trí là rất cấp thiết.
Bảo hiểm hưu trí là một lónh vực rất phức tạp liên quan nhiều đến kinh tế –
xã hội, chính trị của đất nước. Do đó, vấn đề bảo hiểm hưu trí luôn luôn là vấn
đề được quan tâm nhiều nhất khi nói đến Bảo hiểm xã hội của hầu hết các quốc

gia trên thế giới. Bảo hiểm xã hội đã được thực hiện ở nước ta từ những năm 30,
nhưng nó chỉ thực sự trở thành một chính sách xã hội lớn kể từ năm 1962. Từ
thời điểm này trở đi cho đến khi ra đời Bộ Luật Lao động đầu tiên và cho đến
thời điểm hiện nay thì chế độ hưu trí trong hệ thống bảo hiểm xã hội đã và đang
có những bước chuyển tốt nhưng bên cạnh đó, việc thực hiện chế độ này vẫn
còn có nhiều vướng mắc cần khắc phục. Vì thế, trước các yêu cầu cấp thiết của
công tác hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật Bảo hiểm xã hội nói chung
và bảo hiểm hưu trí nói riêng, công tác quản lý bảo hiểm hưu trí…, tác giả đã
chọn đề tài: “Chế độ Bảo hiểm xã hội hưu trí trong Luật Lao động Việt
Nam” để nghiên cứu là viết khoá luận của mình với mong muốn góp phần làm
sáng tỏ về lý luận và thực trạng thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí, từ đó tác giả
sẽ đưa ra những kiến nghị để nhằm hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu trí ở
Việt Nam.
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài


2

 Tìm hiểu nhữnh vấn đề lý luận và pháp lý cơ bản của chế độ Bảo hiểm xã hội
hưu trí.
 Tìm hiểu thực trạng thực hiện chế độ Bảo hiểm hưu trí ở nước ta.
 Tìm ra một số giải pháp hoàn thiện pháo luật về Bảo hiểm hưu trí.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luôn sử dụng phương pháp luận của Chủ nghóa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, ngoài ra còn áp dụng các phương pháp cụ
thể như: phương pháp tiếp cận hệ thống và phương pháp phân tích hệ thống, so
sánh đối chiếu, phân tích thống kê.
Trong quá trình nghiên cứu có sử dụng những số liệu thống kê của Bộ Lao
động Thương Binh Xã Hội, cơ quan Bảo hiểm xã hội của các Tỉnh, Thành phố,
tham khảo nhiều bài viết, tác phẩm của các tác giả trong và ngoài nước, Luật

Bảo hiểm xã hội của nhiều nước trên thế giới.
4. Ý nghóa khoa học và thực tiễn của khóa luận
 Giúp người đọc hiểu rõ về những vấn đề lý luận và những quy định của pháp
luật hiện hành về chế độ hưu trí ở nước ta.
 Tham khảo được các quy định của pháp luật về chế độ hưu trí của một số
nước trên thế giới, để từ đó có những nhận xét một cách tổng thể đối với chế
độ hưu trí của nước ta so với các nước khác và học tập những kinh nghiệm về
pháp luật của nước bạn để hoàn thiện hơn các quy định pháp luật của nước
mình.
 Đề tài giúp người đọc thấy được thực trạng việc thực hiện chế độ hưu trí trong
thời gian qua (kể từ khi ban hành điều lệ Bảo hiểm cho đến nay), bên cạnh đó
đã nêu ra được những mặt tồn tại trong quá trình thực hiện và những hướng
giải quyết cụ thể cho những tồn tại đó.
 Đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chế độ Bảo hiểm xã hội hưu
trí ở nước ta.
5. Kết cấu của khoá luận


3

Khoá luận được kết cấu phù hợp với mục đích, phạm vi và nhiệm vụ của việc
nghiên cứu, cơ cấu của khoá luận bao gồm:
 Lời nói đầu
 Nội dung khoá luận có 2 chương:


Chương 1: Khái quát về chế độ hưu trí.




Chương 2: Thực trạng chế độ hưu trí ở nước ta – Một số kiến nghị
hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu trí.

 Kết luận.


4

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ
1.1. Khái niệm – Đặc điểm của chế độ hưu trí
1.1.1. Khái niệm
Chế độ hưu trí là một trong những chế độ rất quan trọng trong hệ thống bảo
hiểm xã hội. Chính vì thế khi nghiên cứu về khái niệm chế độ hưu trí ta cần hiểu rõ
khái niệm về bảo hiểm xã hội nói chung.
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết cần phải ăn, mặc, ở… Để
có cái ăn, mặc, ở người ta phải lao động làm ra những sản phẩm cần
thiết. Nhưng con người ai cũng có quá trình sinh ra, trưởng thành, già
rồi chết. Khi còn nhỏ phải dựa vào những người đã trưởng thành nuôi
dưỡng, khi trưởng thành thì lại phải lao động để tự nuôi sống mình và
những người phụ thuộc. Trong thực tế, không phải lúc nào con người
cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống
bình thường. Trong cuộc sống, có rất nhiều trường hợp khó khăn, bất lợi
phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập như: bị ốm đau,
tai nạn hoặc khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị
suy giảm…
Khi rơi vào những trường hợp nêu trên, các nhu cầu cần thiết của cuộc sống
không vì thế mà mất đi. Trái lại, có cái còn tăng lên, thậm chí, có thể xuất hiện
thêm những nhu cầu mới như khi ốm đau cần được chữa bệnh… Bởi vậy, muốn tồn
tại, con người và xã hội loài người phải tìm ra cách giải quyết và một trong những

biện pháp hữu hiệu để khắc phục những khó khăn đó là Bảo hiểm xã hội.
“Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho
người lao động khi họ bị mất, giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm , thông qua
việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia
bảo hiểm xã hội, nhằm góp phần bảo đảm an toàn đời sống của người lao động và
gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội”. [6 – Trang 11].


5

Bảo hiểm xã hội gồm rất nhiều chế độ khác nhau. Có những chế độ
được thực hiện trong quá trình lao động nhằm giúp người lao động vượt
qua những khó khăn tức thời trong cuộc sống như: chế độ ốm đau; tai
nạn lao động – bệnh nghề nghiệp; chế độ thai sản; và có những chế độ
được thực hiện sau quá trình lao động nhằm đảm bảo cuộc sống cho
người lao động khi họ hết tuổi lao động, không tham gia lao động nữa
như chế độ hưu trí.
Chế độ hưu trí được quy định trong luật pháp đầu tiên năm 1886 ở nước
Phổ, từ đó đến nay đã có 145 nước có quy định về hưu trí. Tuy chế độ
hưu trí ở mỗi nước có một số quy định khác nhau nhưng về mục đích,
bản chất và những tiêu chuẩn cơ bản để hưởng trợ cấp thì giống nhau.
Theo tổ chức Lao Động Quốc tế (ILO) cũng đã đưa ra khái niệm về chế
độ hưu trí như sau: “Chế độ hưu trí là một dạng trợ cấp trong hệ thống
trợ cấp bảo hiểm xã hội dành cho người tuổi cao không thể tiếp tục làm
việc bình thường được nữa”.
Như vậy, chế độ hưu trí được thực hiện sau quá trình lao động trên cơ sở
đóng góp của người lao động trong suốt quá trình lao động. Trong suốt
thời gian tham gia vào quá trình lao động, người lao động có nhiệm vụ
đóng phí bảo hiểm, khi đến tuổi về hưu (hết tuổi lao động) hoặc không
thể tham gia vào quan hệ lao động nữa và hội đủ những điều kiện do

pháp luật quy định thì mới được nhận trợ cấp hưu trí. Như vậy, khác với
một số chế độ Bảo hiểm xã hội khác như: chế độ ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, khi tham gia chế độ hưu trí người lao
động chắc chắn sẽ được hưởng trợ cấp.
Như vậy, có thể nói: “Chế độ hưu trí là một chế độ bảo hiểm xã hội được
thực hiện sau quá trình lao động, nhằm bù đắp thu nhập cho người lao động khi họ


6

bị mất thu nhập do tuổi già không thể tiếp tục làm việc bình thường được nữa trên
cơ sở những đóng góp của họ vào quỹ Bảo hiểm xã hội trong quá trình lao động”.
1.1.2. Đặc điểm của chế độ hưu trí
Từ khái niệm đã nêu trên, ta có thể đưa ra được một số đặc điểm về chế độ
hưu trí như sau:
 Thứ nhất: bảo hiểm hưu trí là một chế độ Bảo hiểm xã hội được thực hiện
sau quá trình lao động. Trong các chế độ của Bảo hiểm xã hội thì chỉ có chế độ
hưu trí và tử tuất là được thực hiện sau quá trình lao động. Nhưng giữa 2 chế độ
này vẫn có sự khác nhau cơ bản, đó là: chế độ tử tuất thì sẽ do thân nhân người
lao động hưởng còn chế độ hưu trí là do chính người lao động hưởng. Mục đích
của chế độ hưu trí là nhằm ổn định thu nhập cho người lao động khi họ không còn
khả năng lao động do tuổi già. Người lao động chỉ được nhận trợ cấp hưu trí khi
đã hết tuổi lao động, không còn tham gia vào quan hệ lao động nữa, nói cách
khác Bảo hiểm hưu trí chỉ được thực hiện đối với người lao động sau quá trình lao
động.
 Thứ hai: chế độ hưu trí được thực hiện theo nguyên tắc “lấy số đông bù số ít
– lấy của số đông những người đang tham gia bảo hiểm xã hội bù cho những
người đã đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí”. Nguyên tắc “lấy số đông bù số ít”
là nguyên tắc của Bảo hiểm nói chung, nhưng trong chế độ hưu trí thì nguyên tắc
này cũng rất quan trọng. Chế độ hưu trí là một chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc

vì nó là một trong những chế độ quan trọng nằm trong hệ thống Bảo hiểm xã hội
của nước ta hiện nay, như vậy, khi người lao động tham gia Bảo hiểm xã hội thì
đương nhiên chế độ hưu trí cũng là một trong những chế độ mà người lao động sẽ
phải tham gia và chắc chắn được hưởng. Tuy nhiên, trong số đông lao động tham
gia ấy thì chỉ những người lao động đã hết tuổi lao động, có đủ các điều kiện cần
thiết thì mới được trả trợ cấp Bảo hiểm xã hội. Những người lao động chưa đủ
điều kiện để hưởng chế độ hưu trí thì phần đóng góp của họ là để cho người khác
được hưởng nhưng không vì thế mà họ bị thiệt thòi. Một lúc nào đó, khi hết độ
tuổi lao động, chắc chắn họ cũng sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí. Khi đó, trợ cấp
mà họ được hưởng cũng là do nhiều người khác đang tham gia Bảo hiểm xã hội
đóng góp.


7

 Thứ ba, mức hưởng bảo hiểm hưu trí phụ thuộc vào thời gian và mứ c đóng
Bảo hiểm xã hội của người lao động. Đây là một đặc điểm đặc thù của chế độ
hưu trí so với các chế độ khác ví dụ như: chế độ tai nạn lao động – bệnh nghề
nghiệp thì mức trợ cấp phụ thuộc vào mức độ suy giảm khả năng lao động và căn
cứ vào tiền lương tối thiểu chứ không phụ thuộc vào thời gian và mức đóng Bảo
hiểm xã hội; hoặc đối với chế độ thai sản thì mức trợ cấp không phụ thuộc vào
thời gian đóng Bảo hiểm xã hội. Nếu một lao động nữ khi mới vào làm việc mà
mang thai thì họ vẫn được nhận trợ cấp Bảo hiểm xã hội không phụ thuộc vào
việc họ đã đóng Bảo hiểm xã hội bao lâu. Đặc điểm này còn thể hiện nguyên tắc
phân phối theo lao động của Bảo hiểm xã hội trong chế độ hưu trí. Vì thời gian
đóng Bảo hiểm xã hội càng dài, mức lương làm căn cứ đóng Bảo hiểm xã hội
càng cao thì khoản đóng góp của người lao động vào quỹ Bảo hiểm xã hội càng
nhiều, do vậy, họ sẽ được hưởng mức trợ cấp hưu trí càng cao. Có thể nói theo
một cách đơn giản hơn, đó là: người lao động khi đến tuổi về hưu sẽ nhận được
một khoản trợ cấp, khoản trợ cấp này sẽ tương ứng với khoảng thời gian và mức

đóng mà người lao động đã đóng góp khi còn trong quá trình lao động. Điều này
cũng đã góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội.
 Thứ tư, thời gian hưởng bảo hiểm hưu trí không phụ thuộc vào thời gian
đóng bảo hiểm xã hội mà phụ thuộc vào tuổi thọ của người lao động. Đối với chế
độ trợ cấp ốm đau thì thời gian đóng bảo hiểm xã hội sẽ là cơ sở để quy định về
thời gian tối đa cho người lao động được hưởng trợ cấp ốm đau. Riêng chế độ hưu
trí thì khoảng thời gian mà người lao động được hưởng trợ cấp hưu trí chỉ phụ
thuộc vào tuổi đời của họ. Nếu người lao động có tuổi thọ cao thì thời gian hưởng
chế độ hưu trí sẽ dài và ngược lại nếu người lao động có tuổi thọ thấp thì thời
gian hưởng chế độ hưu trí sẽ ngắn. Nói cách khác, trợ cấp hưu trí là khoản trợ cấp
mà người lao động sẽ nhận được trong suốt khoảng thời gian từ lúc người lao
động thực hiện xong quá trình lao động cho đến khi người lao động chết. Do vậy,
tuổi thọ của con người là một trong những căn cứ để quy định tuổi nghỉ hưu.
1.2. Ý nghóa của chế độ hưu trí
Chế độ hưu trí trong hệ thống bảo hiểm xã hội đã và đang đóng một vai trò
không thể thiếu với bất kỳ một quốc gia nào muốn có nền kinh tế ổn định và phát


8

triển. Chế độ Bảo hiểm hưu trí ý nghóa rất quan trọng đối với cả người lao động và
người sử dụng lao động.
 Đối với người lao động: chế độ hưu trí có ý nghóa rất quan trọng giúp ổn
định cuộc sống cho người lao động khi họ về già không còn khả năng lao
động. Chế độ hưu trí còn góp phần kích thích, khuyến khích người lao động
hăng hái lao động sản xuất vì khác với một số chế độ bảo hiểm khác, khi
tham gia chế độ Bảo hiểm xã hội hưu trí thì chắc chắn người lao động sẽ
được hưởng trợ cấp. Bảo hiểm hưu trí là một chỗ dựa quan trọng cho người
lao động khi họ về già không còn thu nhập như trong khoảng thời gian còn
khỏe mạnh, làm việc bình thường.

 Đối với người sử dụng lao động: từ việc người lao động yên tâm sản xuất,
gắn bó với công việc, với nơi làm việc, tập trung hết năng lực và trí lực cho
công việc thì năng suất lao động sẽ tăng cao, làm lợi cho doanh nghiệp hay
cho chính người sử dụng lao động.
 Đối với xã hội:
 Bảo hiểm hưu trí là một công cụ hỗ trợ cho điều kiện sống của người
lao động trong hoàn cảnh già yếu không còn thu nhập hoặc thu nhập
không còn như trước. Nếu như mọi người khi về già đều có khoản thu
nhập như vậy sẽ góp phần ổn định đời sống xã hội nói chung. Đời sống
xã hội có ổn định thì kinh tế đất nước mới có thể phát triển.
 Quỹ hưu trí chiếm một phần rất lớn trong quỹ bảo hiển xã hội nói
chung, nó vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là
điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ
thống bảo hiểm xã hội tồn tại và phát triển.
 Bảo hiểm hưu trí góp phần phân phối lại thu nhập vì những người sử
dụng lao động cũng bắt buộc phải đóng góp vào quỹ Bảo hiểm xã hội.
Phần đóng góp này không trực tiếp phục vụ cho người sử dụng lao
động mà dành cho người lao động do mình sử dụng, thể hiện nghóa vụ
và trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với những rủi ro của
người lao động.


9

 Bảo hiểm hưu trí là một yếu tố quan trọng của tiết kiệm nội bộ có thể
góp phần mở rộng đầu tư vì nó được thực hiện trên nguyên tắc “lấy số
đông bù số ít”. Nước ta là nước có dân số trẻ, do vậy tỷ lệ người tham
gia bảo hiểm xã hội bắt buộc hay bảo hiểm hưu trí sẽ có sự chênh lệch,
nghóa là số người đóng bảo hiểm hưu trí sẽ tương đối nhiều hơn số
người hưởng chế độ này. Trong điều kiện nước ta hiện nay, ý nghóa này

còn có phần bị hạn chế, do ngân sách nhà nước phải tiếp tục bao cấp,
trợ cấp hưu trí cho một số lượng công nhân viên chức và só quan lực
lượng vũ trang từ thời kỳ kế hoạch hóa tập trung bao cấp chuyển sang.
Tuy nhiên, do thu hút được nhiều lao động trẻ, việc chi những khoản
trợ cấp dài hạn (như hưu trí, tử tuất) không lớn nên quỹ bảo hiểm sẽ là
một nguồn tiết kiệm quan trọng để hình thành vốn và đầu tư phát
triển.
1.3.

Chế độ hưu trí của một số nước trên thế giới

Chế độ hưu trí là một chế độ rất quan trọng trong hệ thống bảo hiểm xã hội,
do vậy, hệ thống bảo hiểm xã hội của bất kỳ một quốc gia nào cũng đều có quy
định về chế độ hưu trí. Chúng ta tham khảo chế độ hưu trí của một số nước để thấy
được kinh nghiệm xây dựng và thực hiện chế độ hưu trí của họ.
1.3.1. Chế độ hưu trí của một số nước trong khu vực Châu Á
1.3.1.1. Chế độ hưu trí ở Nhật Bản
Nhật Bản là nước có hệ thống bảo hiểm xã hội tương đối phát triển bao gồm
các chế độ: Chế độ chăm sóc y tế, chế độ bảo hiểm việc làm, chế độ bồi thường tai
nạn lao động và chế độ hưu trí. Vì phạm vi bài viết này đang nghiên cứu về chế độ
hưu trí nên trong phần này cũng sẽ là những nét sơ lược về chế độ hưu trí ở Nhật
Bản. Chế độ hưu trí ở Nhật Bản bao gồm hai hình thức:


Thứ nhất là, chế độ hưu trí phổ thông được áp dụng cho mọi công dân
nhằm đảm bảo một cuộc sống tối thiểu cho người dân khi hết tuổi lao động
(bảo hiểm hưu trí bắt buộc).


10




Thứ hai, công dân Nhật còn được hưởng các chế độ hưu trí từ Quỹ Bảo
hiểm hưu trí của người lao động hoặc Hiệp hội tương trợ lẫn nhau trên cơ sở
đóng góp của họ vào các quỹ này (bảo hiểm hưu trí tự nguyện).
Theo dự báo, quỹ Bảo hiểm xã hội ở Nhật Bản đang có nguy cơ thâm hụt do

tuổi thọ của người dân tăng. Theo số liệu thống kê năm 2003, ở Nhật Bản tuổi thọ
bình quân của nam là 78,4, nữ là 85,3 và tỷ lệ người già trong xã hội vẫn đang tiếp
tục tăng. [Xem thêm phần Phụ lục I] [68 – Trang 39-40].
Cũng theo số liệu dự báo, đến giữa thế kỷ 21, một phần ba dân số Nhật Bản
sẽ từ 65 tuổi trở lên do tuổi thọ dân số ngày càng tăng (dự kiến năm 2025 thời gian
nhận lương hưu bình quân sau tuổi 65 của nam là 19 năm, nữ là 25 năm) và tỷ suất
sinh ngày càng giảm. Còn theo số liệu thống kê, tỷ suất sinh năm 2003 của Nhật
Bản là 1,29, thấp hơn rất nhiều so với tiêu chuẩn (2,08) để duy trì số dân hiện có
trong tương lai.
Số liệu dự báo thống kê cũng cho thấy, đến năm 2025 ở Nhật Bản cứ 2
người làm việc phải nuôi 1 người già, điều này có nghóa là gánh nặng xã hội đang
ngày càng tăng đối với thế hệ trẻ. Chính vì thế, để đảm bảo cân bằng và ổn định
tài chính của hệ thống bảo hiểm xã hội trong tương lai, giảm bới gánh nặng tài
chính đối với các thế hệ trẻ sau này, Chính phủ Nhật Bản dự kiến thực hiện một số
biện pháp cải cách, riêng đối với chế độ hưu trí thì từ tháng 2/2004, Chính phủ đã
thông qua việc xem xét lại chính sách hưu trí với mục đích xây dựng một hệ thống
hưu trí bền vững về tài chính và linh hoạt đáp ứng được những thay đổi của nền
kinh tế – xã hội với những nội dung chính như sau:


Tăng tỷ lệ đóng góp của Nhà nước cho hệ thống lương hưu cơ bản từ 1/3
lên 1/2 bắt đầu từ năm 2004 đến năm 2009.




Tăng mức đóng góp của người lao động vào quỹ bảo hiểm xã hội, cụ thể
là:
 Đối với hệ thống lương hưu cơ bản: Nâng mức đóng từ 13.300
yên/tháng hiện nay lên 16.900 yên/tháng vào năm 2017 (mỗi năm mức
đóng hàng tháng tăng 280 yên).


11

 Đối với hệ thống lương hưu của người lao động: Nâng mức đóng từ
13.58%/tháng hiện nay lên 18.3%/tháng vào năm 2017 (mỗi năm mức
đóng hàng tháng tăng 0,354%).


Giảm tỷ lệ hưởng trợ cấp: Mức hưởng trợ cấp đối với người lao động tham
gia bảo hiểm xã hội sẽ giảm dần từ 59,3% hiện nay xuống còn 50,2% vào
năm 2023 trở đi.
Như vậy, chế độ hưu trí ở Nhật Bản được phân thành hai hình thức rõ rệt: bắt

buộc và tự nguyện. Ở Việt Nam cũng đã có quy định về Bảo hiểm xã hội tự
nguyện nhưng chưa được thực hiện trên thực tế, người lao động chỉ thực hiện Bảo
hiểm xã hội theo chế độ bắt buộc. Vấn đề tài chính trong Bảo hiểm xã hội ở Nhật
cũng đã và đang gặp phải những khó khăn vì dân số Nhật có xu hướng già đi quá
nhanh. Đây là một đặc điểm không thuận lợi khi thực hiện chế độ hưu trí cho bất
kỳ một quốc gia nào. Nhật Bản cũng đang triển khai một số biện pháp để đối phó
với nguy cơ thân hụt quỹ, do vậy, Việt Nam cũng cần phải tham khảo.
1.3.1.2. Chế độ hưu trí của Philippin

Ở Philippin có 2 hệ thống bảo hiểm xã hội chính. Một, tạm dịch là bảo hiểm
xã hội của công chức viết tắt là GSIS (Government Service Insurance System). Hai
là, cơ quan bảo hiểm xã hội của những người làm việc trong khu vực kinh tế tư
nhân viết tắt là SSS (Social Security System). Theo quy định của luật pháp
Philippin, tất cả những người làm việc trong các tổ chức đơn vị, cơ quan của chính
phủ, trường công lập, doanh nghiệp trong khu vực nhà nước đều phải bắt buộc tham
gia bảo hiểm xã hội, số lao động làm việc trong khu vực này khoảng 1.382.000
người và do Quỹ của GSIS quản lý. Đối với những người làm việc ở khu vực tư
nhân cũng phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc (nếu có thu nhập hoặc lương lớn
hơn hoặc bằng 1.000 Pêsô tương đương gần 400 ngàn đồng Việt Nam). Như vậy, có
thể nói số lượng tham gia bảo hiểm xã hội ở Philippin là rất lớn, theo một vài số
liệu thống kê cho thấy thì số lao động có bảo hiểm xã hội ở Philippin là 26 triệu
580 ngàn người trên tổng số 32 triệu lao động, tương đương khoảng 83%. Tuổi lao
động ở Philippin khá dài. 65 là tuổi nghỉ hưu cho cả nam và nữ. Chỉ có thợ mỏ là
nghỉ hưu ở tuổi 55. Tuy nhiên Luật cũng quy định người lao động có thể về hưu ở


12

tuổi 60 nếu: đã đóng bảo hiểm xã hội 15 năm (khu vực Nhà nước) hoặc 10 năm
(khu vực tư nhân). Đối với khu vực Nhà nước, sau khi đủ tiêu chuẩn nghỉ hưu,
người lao động có thể hưởng theo 2 phương án: một là, nhận 1 lần giá trị bằng 60
tháng lương cơ bản. Sau 5 năm, nếu vẫn còn sống thì nhận lương hưu hàng tháng.
Có tới 80% số người theo cách này. Hai là, nhận 1 lần giá trị bằng 18 tháng lương
cơ bản và nhận lương hưu hàng tháng ngay. Có 20% số người theo cách này.
Như vậy, điểm khác biệt lớn nhất giữa Bảo hiểm xã hội ở Philippin và
Việt Nam đó là: ở Philippin có 2 hệ thống Bảo hiểm xã hội: một dành
cho công chức Nhà nước; một dành cho người làm việc trong khu vực
kinh tế tư nhân. Ở Việt Nam thì bảo hiểm hưu trí cho cán bộ công chức
cũng được áp dụng cho người lao động làm công ăn lương trong khu vực

quốc doanh và tư nhân. Số lượng người tham gia Bảo hiểm xã hội ở
Philippin là rất cao so với Việt Nam. Ở Philippin chiếm khoảng 83%
dân số, ở Việt Nam thì chỉ có 11% dân số là tham gia Bảo hiểm xã hội.
Đây là một vấn đề mà hiện nay Việt Nam cũng đã và đang xem xét
khắc phục vì việc tham gia Bảo hiểm xã hội không chỉ có lợi cho người
lao động mà còn mang lại một lợi ích đáng kể cho nước nhà. Độ tuổi
nghỉ hưu của người lao động ở Philippin cao hơn so với Việt Nam 5 tuổi
(Philippin 65 tuổi; Việt Nam 60 tuổi). Độ tuổi này ở Philippin được áp
dụng cho cả 2 giới; ở Việt Nam thì lao động nữ lại được giảm xuống 5
năm. Thiết nghó Việt Nam nên áp dụng kinh nghiệm của Philippin để
giảm nguy cơ thâm hụt quỹ Bảo hiểm hưu trí. [49 – Trang 28 + 29].
1.3.2. Chế độ hưu trí ở một số nước Châu Âu
1.3.2.1.

Chế độ hưu trí ở Đức

 Ở Đức áp dụng hai hình thức bảo hiểm hưu trí:
 Bảo hiểm hưu trí bắt buộc: áp dụng cho tất cả những người thực hiện hoạt
động được trả công hoặc những người đang học nghề (những người này có


13

thể tham gia hệ thống bảo hiểm phòng xa tuổi già tư nhân. Hệ thống này
bắt đầu được thực hiện từ ngày 01/01/2002).
 Bảo hiểm hưu trí tự nguyện: áp dụng cho những người thực hiện một hoạt
động độc lập có thể đề nghị được tham gia chế độ bảo hiểm tuổi già theo
pháp luật với điều kiện đã làm việc đó không ít hơn 5 năm. Trong trường
hợp này, họ hưởng cùng chế độ như người làm công ăn lương. Theo cách
thức chung, tất cả những người trên 16 tuổi thường trú ở Đức và không

thuộc bảo hiểm bắt buộc có thể được bảo hiểm tự nguyện.
 Độ tuổi về hưu ở Đức được quy định như sau: Tuổi về hưu bình thường là 65
tuổi đối với nam, 60 tuổi đối với nữ (sẽ là 65 tuổi từ năm 2005). Đối với công
chức, từ năm 1997 đã tăng từ 62 tuổi lên 63 tuổi, một số có thể về hưu từ năm
61 tuổi.
 Mức hưởng trợ cấp hưu trí ở Đức:
 Trung bình, số tiền trợ cấp hưu trí theo chế độ bảo hiểm hưu trí theo pháp
luật lên đến 78% của lương cuối cùng.
 Đối với người không có một hoạt động nghề nghiệp nào và đã nuôi 2 con,
được trợ cấp hưu trí lên đến 75% lương trung bình của toàn bộ những người
được bảo hiểm.
Có thể nói, bảo hiểm hưu trí ở Đức có rất nhiều điểm khác so với Việt Nam
nhưng nhìn chung thì những điểm khác đó đều xuất phát từ việc Đức là một nước
có nền kinh tế phát triển hơn Việt Nam rất nhiều nên Đức có rất nhiều ưu đãi cho
người dân trong việc thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí (ví dụ như: mức hưởng 78%
hoặc người không làm việc mà đã nuôi 2 con cũng được hưởng trợ cấp hưu trí). Một
khi Việt Nam có được sự phát triển về kinh tế xã hội như các nước khác thì lúc này
Chính phủ Việt Nam cũng sẽ dành cho người dân nhiều ưu đãi hơn so với hiện nay.
[7 – Trang 333].
1.3.2.2.

Chế độ hưu trí ở Anh

 Chế độ hưu trí ở Anh là một chế độ bắt buộc, theo đó, người về hưu sẽ nhận
được 1 khoản trợ cấp bổ sung bắt buộc.


14

 Tuổi nghỉ hưu là 65 tuổi đối với nam và 60 tuổi đối với nữ. Thời gian làm việc

đầy đủ là 44 năm làm việc đối với nam và 39 năm đối với nữ. Từ năm 2010,
tuổi nghỉ hưu của nữ sẽ được nâng lên mỗi năm 6 tháng tuổi cho đến 65 tuổi
vào năm 2020.
 Trợ cấp hưu trí ở Anh chia làm 2 loại: trợ cấp cơ bản và trợ cấp bổ sung.
 Trợ cấp cơ bản: là một khoản tiền được trợ cấp theo tuần. Khoản tiền này
sẽ được tăng lên nếu như một cặp vợ chồng mà chỉ một trong hai người
làm việc và trợ cấp cũng được tăng thêm khi có con phải nuôi dưỡng.
 Trợ cấp bổ sung: Người cao tuổi trên 80 tuổi được nhận một khoản trợ cấp
bổ sung. Gồm 3 loại:
 Trợ cấp công: trợ cấp này được Bảo hiểm quốc gia chi trả và bằng
khoảng 20% lương trung bình.
 Trợ cấp tư: trợ cấp do người sử dụng lao động đóng góp và có thể đạt
đến tối đa hai phần ba của lương cuối cùng cho 40 năm làm việc cho
cùng một người sử dụng lao động.
 Trợ cấp dưới dạng kế hoạch hưu trí cá nhân được cơ quan quản lý tài
chính chấp nhận.
Chế độ hưu trí ở Anh có sự khác biệt rất lớn so với các nước khác trên thế
giới: khoản trợ cấp hưu trí mà họ nhận được hoàn toàn độc lập với lương. Sỡ dó ở
Anh quy định như vậy vì số người làm việc sau tuổi quy định được nghỉ hưu chiếm
một tỷ lệ rất lớn. Tuổi nghỉ hưu ở Anh đã cao hơn so với nước ta (mỗi giới hơn 5
tuổi), tuy nhiên, vẫn còn đang có xu hướng tăng thêm đối với lao động nữ cho
ngang bằng nam.
Có thể nói chế độ hưu trí ở một số nước đều có những điểm khác biệt ở quy
định của pháp luật ví dụ như về độ tuổi [Xem phụ lục 2], mức trợ cấp… nhưng nhìn
chung tất cả đều hoạt động vì một mục đích chung là bảo đảm mức sống cơ bản cho
người dân khi họ không còn khả năng làm việc như trước nữa. [7 – Trang 361 +
362].
1.4.

Chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật Việt Nam


1.4.1. Lịch sử phát triển của chế độ hưu trí


15

Chế độ hưu trí là một trong các chế độ có rất sớm trong hệ thống Bảo hiểm
xã hội. Chính vì thế lịch sử phát triển của chế độ hưu trí cũng gắn liền với lịch sử
Bảo hiểm xã hội nói chung. Trước khi khái niệm về Bảo hiểm xã hội ra đời thì ở
nhà nước phong kiến của ta đã có rất nhiều các chính sách gần với bảo hiểm xã hội
ví dụ như là cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội bằng các việc cứu đói, chẩn bần ở các địa
phương bị thiên tai, mất mùa, bệnh dịch hoặc những lúc Thái tử lên ngôi vua,
Hoàng hậu sinh con trai, Vua chỉ định ngôi Thái tử… Trong đó có chính sách giống
chế độ hưu trí là chính sách lương bổng khi người đó còn làm việc cho Triều đình
hoặc khi không còn làm việc nữa.
Chính sách Bảo hiểm xã hội chính thức được thực hiện ở nước ta từ thời
Pháp thuộc. Để mua chuộc một số người Việt làm tay sai, song song với chính sách
khai thác thuộc địa, người Pháp cũng bắt đầu thực hiện chính sách hưu bổng cho
một số người làm việc cho họ hoặc người Việt nhập quốc tịch Pháp nhưng số lượng
thì còn rất ít, mới chỉ khoảng 1000 người.
Ở miền nam Việt Nam, sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, Ngụy quyền cũng
lập “Quỹ Văn Giai” để trợ cấp cho công chức, công nhân làm việc trong công sở
hoặc cơ sở dịch vụ của chính quyền và “Quỹ Võ Giai” để trợ cấp cho binh lính, só
quan quân đội, cảnh sát. Ở cấp tỉnh có “quỹ hưu bổng” trực thuộc Bộ Nội Vụ Ngụy
quyền. Các quỹ này dùng để trả tiền thâm niên ngoài lương khi đang còn làm việc,
chi phí chữa bệnh của các công chức ở bệnh viện công, trợ cấp nghỉ việc, hưu trí…
Nguồn tài chính của các quỹ này do Mỹ viện trợ, đó như là một phần trong toàn bộ
viện trợ cho bộ máy Ngụy quyền miền Nam hoạt động chống lại phong trào giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta.
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời trong phong trào đấu tranh dành độc lập,

với lập trường của giai cấp công nhân, song song với nhiệm vụ lãnh đạo đấu tranh
giải phóng đất nước, Đảng ta rất quan tâm chăm lo đời sống của người lao động.
Do đó, sau Cách Mạng Tháng 8 năm 1945, Đảng đã trình Quốc hội Hiến pháp năm
1946, và trong Điều 14 đã khẳng định: “những người già cả, tàn tật không làm việc
được thì được giúp đỡ”. Ngày 12/03/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh (có
giá trị như luật) số 29/SL về các chế độ đối với công nhân làm việc tại các xưởng
kỹ nghệ, hầm mỏ… Tiếp đó, Hồ Chủ tịch ký ban hành Sắc lệnh số 76/SL ngày


16

20/05/1950 về “Quy chế công chức”. Trong Sắc lệnh này, tại mục III: Quyền lợi,
đã có quy định tại Điều 3 như sau: “Công chức có quyền hưởng lương, các thứ phụ
cấp và hưu bổng”.
Giai đoạn 1960-1975, Chính phủ ban hành nhiều văn bản hoàn thiện hệ
thống các chế độ bảo hiểm xã hội phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghóa xã hội ở
miền Bắc, đấu tranh giải phóng ở miền Nam, thống nhất đất nước ví dụ như Nghị
định của Hội đồng Chính phủ số 218-CP ngày 27/12/1961 ban hành Điều lệ tạm
thời về các chế độ Bảo hiểm xã hội đối với công nhân, viên chức nhà nước. Ngay
sau khi thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và suốt trong thời kỳ kháng
chiến, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về mọi mặt, Chính phủ đã luôn luôn chăm lo
cải thiện đời sống của người dân lao động. Đối với công nhân, viên chức Nhà nước,
đi đôi với việc cải tiến chế độ tiền lương, Chính phủ đã ban hành các chế độ trợ
cấp mà thực chất là chế độ Bảo hiểm xã hội, như: chế độ trợ cấp khi ốm đau, sinh
đẻ, tai nạn lao động, trợ cấp khi về hưu, trợ cấp khi chết… Các chế độ có tính chất
Bảo hiểm xã hội này tuy mới chỉ là bước đầu nhưng đã có tác dụng rõ rệt, đã giải
quyết được một phần những khó khăn trong sinh hoạt của công nhân, viên chức
Nhà nước, làm cho anh chị em phấn khởi đẩy mạnh sản xuất và công tác. Điều 32
Hiến pháp năm 1959 đã ghi rõ quyền của người lao động được giúp đỡ về vật chất
khi già yếu, bệnh tật, hoặc mất sức lao động. Điều lệ tạm thời này về các chế độ

Bảo hiểm xã hội đối với công nhân, viên chức Nhà nước là bước đầu thực hiện
điều nói trên của Hiến pháp. Điều lệ tạm thời này về các chế độ Bảo hiểm xã hội
được xây dựng phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, chính trị và xã hội lúc đó, không
những có tác dụng động viên công nhân, viên chức và nhân dân lao động ở miền
Bắc phấn khởi, nổ lực sản xuất và công tác, đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ
nghóa xã hội, mà còn làm cho công nhân, viên chức và nhân dân lao động ở miền
Nam thấy rõ tính chất hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghóa ở miền Bắc, do đó càng
tăng thêm tin tưởng, tăng cường đoàn kết và đấu tranh đòi quyền sinh sống hàng
ngày, đồng thời kiên quyết đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Theo Nghị
định 218 thì chế độ trợ cấp hưu trí được quy định ở Tiết 5 từ Điều 42 đến Điều 54,
trong đó cũng đã nêu rõ những điều kiện để hưởng chế độ hưu trí cho công nhân,
viên chức Nhà nước, ví dụ: Nam đủ 60 tuổi, thời gian công tác nói chung 25 năm,


17

thời gian công tác liên tục 5 năm; nữ đủ 55 tuổi, thời gian công tác nói chung 20
năm, thời gian công tác liên tục 5 năm. (Điều 42). Có nhiều điều luật quy định
khác so với hiện nay, ví dụ ở Điều 47: “Công nhân viên chức Nhà nước có công
lao, có thành tích lớn, anh hùng lao động, anh hùng quân đội chuyển ngành, ngoài
trợ cấp được hưởng, hàng tháng còn được thêm một khoản trợ cấp ưu đãi từ 5% đến
15% lương chính do Bộ Nội vụ và Bộ Lao động quyết định.”. Tuy nhiên, việc quy
định như vậy cũng là phù hợp với tình hình đất nước lúc đó.
Tiếp theo sau đó là Hiến pháp 1992, rồi đến Bộ luật Lao động 1994 thì vấn
đề Bảo hiểm xã hội đã ngày càng được nhà nước quan tâm như một chính sách
không thể thiếu cho sự phát triển và ổn định của xã hội. Chế độ hưu trí trong hệ
thống bảo hiểm xã hội đã được hình thành từ rất lâu và dần được hoàn thiện thông
qua các quy định của pháp luật trong từng thời kỳ.
Ở các giai đoạn từ 08/1945 đến 1960 thì các chế độ trong hệ thống bảo hiểm
xã hội cũng được quy định nhưng với mức trợ cấp thấp, mức tính bình quân không

có tính chất lâu dài, trợ cấp hưu trí, mất sức lẫn lộn với tiền lương rất khó hạch
toán. Lúc này Bảo hiểm xã hội vẫn chưa có quỹ riêng, 100% vẫn là Ngân sách nhà
nước.
Giai đoạn từ 1961 đến 1985 đã quy định thành 6 chế độ bảo hiểm xã hội cơ
bản và chế độ hưu trí - tử tuất là một trong những chế độ đó.
Từ khi Bộ Luật Lao động ra đời và tiếp theo đó là Điều lệ Bảo hiểm xã hội
được ban hành kèm theo NĐ 12/CP ngày 25/06/1995 thì các quy định về chế độ
bảo hiểm xã hội nói chung và chế độ hưu trí nói riêng đã tương đối hoàn thiện.
Cho đến nay, đã mười năm thực hiện Nghị định 12/CP thì sự nghiệp bảo
hiểm xã hội đã có những bước tiến, mang lại nhiều hiệu quả về chính trị, kinh tế,
xã hội, góp phần quan trọng trong việc ổn định đời sống người lao động. Sự nghiệp
bảo hiểm xã hội đã phát triển nhanh, mạnh về số lượng, nghiệp vụ và tổ chức, tạo
tiền đề tốt cho những bước phát triển mới trong tương lai.
Như vậy chế độ hưu trí đã được thực hiện từ cuối năm 1945, sau khi nhà
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được thành lập. Đánh giá tổng quát thì đó là
một chế độ đáng tin cậy cho cán bộ, công chức, quân nhân và người lao động. Tính
đến nay đã có hơn hai triệu người đã và đang được hưởng chế độ hưu trí. Những


18

quy định về hưu trí đã trở thành một quyền lợi đương nhiên của tất cả những người
được nhà nước tuyển dụng và đặc biệt nhờ có chế độ trợ cấp mà đời sống vật chất
và tinh thần của những người về hưu được bảo đảm ổn định, góp phần tăng cường
hạnh phúc gia đình và an toàn xã hội.
1.4.2. Chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật hiện hành
1.4.2.1. Đối tượng tham gia chế độ hưu trí
Chế độ hưu trí là một trong những chế độ Bảo hiểm xã hội bắt buộc , đối tượng
tham gia bảo hiểm hưu trí cũng chính là đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội nói
chung.

Điều 3 - NĐ01/2003/CP ngày 09/01/2003 đãû quy định đối tượng áp dụng Bảo
hiểm xã hội bắt buộc bao gồm:
1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng
trở lên và hợp đồng lao động không xác định thời hạn trong các doanh
nghiệp, cơ quan, tổ chức sau:
a) Doanh nghiệp thành lập hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước;
b) Doanh nghiệp thành lập hoạt động theo Luật Doanh nghiệp;
c) Doanh nghiệp thành lập hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam;
d) Doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội;
đ) Hộ sản xuất, kinh doanh cá thể, tổ hợp tác;
e) Các cơ quan hành chính, sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ
chức xã hội khác, lực lượng vũ trang;
g) Cơ sở bán công, dân lập, tư nhân thuộc các nghành văn hóa, y tế, giáo
dục, đào tạo, khoa học, thể dục thể thao và các nghành sự nghiệp khác;
h) Trạm y tế xã, phường, thị trấn;
i) Cơ quan tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tai Việt Nam, trừ trường
hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghóa Việt Nam tham gia kí
kết có quy định khác;
k) Các tổ chức khác có sử dụng lao ñoäng.


19

2. Cán bộ, công chức, viên chức theo pháp lệnh cán bộ công chức
3. Người lao động, xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao
động từ đủ 3 tháng trở lên trong các hợp tác xã thành lập, hoạt động theo
Luật Hợp tác xã.
4. Người lao động làm việc tại các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức quy định tại

khoản 1, khoản 3 và khoản 6 Điều này, làm việc theo hợp đồng lao động có
thời hạn dưới 3 tháng, khi hết hạn hợp đồng lao động mà người lao động tiếp
tục làm việc hoặc giao kết hợp đồng lao động mới đối với doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân đó thì phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.
5. Người lao động quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và khoản 6 Điều này đi họ c,
thực tập, công tác, điều dưỡng trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương
hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc.
6. Người lao động làm việc và hưởng tiền lương, tiền công theo hợp đồng lao
động từ đủ 3 tháng trở lên trong các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp,
ngư nghiệp, diêm nghiệp (trừ trường hợp giao khoán đất).
Như vậy, so với Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 thì theo quy định tại Nghị
định số 01/CP ngày 09/01/2003 sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ Bảo hiểm
xã hội ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995, thì đối tượng tham
gia bảo hiểm xã hội đã được mở rộng hơn. Ví dụ tại Khoản 1-Điều 1-Nghị định
01/CP bảo hiểm xã hội bắt buộc đã được áp dụng đối với người lao động làm việc
theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên và hợp đồng lao động
không xác định thời hạn trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức. Như vậy việc ấn
định số lượng lao động trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh đã được bãi bỏ. Quy định pháp luật mới đã không còn khống chế về
mặt số lượng lao động nữa và điều này cho thấy các đối tượng tham gia hay đối
tượng áp dụng các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc sẽ ngày một tăng lên. Ngoài
ra, các đối tượng được áp dụng bảo hiểm xã hội còn được mở rộng thêm đối với
các cán bộ, công chức, viên chức theo pháp lệnh cán bộ công chức (Khoản 2 - Điều
1 - Nghị định 01/2003/CP); người lao động, xã viên làm việc và hưởng tiền công
theo hợp đồng lao động từ đủ ba tháng trở lên trong các hợp tác xã thành lập và
hoạt động theo Luật Hợp tác xã (Khoản3 - Điều 1 - Nghị định 01/2003/CP) và


20


người lao động làm việc và hưởng tiền lương, tiền công theo hợp đồng lao động từ
đủ ba tháng trở lên trong các doanh nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,
diêm nghiệp (trừ trường hợp giao khoán đất có quy định riêng).
Có thể nói, việc mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc cũng
sẽ làm cho đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội hưu trí tăng, không chỉ có vậy, nếu
như số người tham gia bảo hiểm hưu trí tăng lên thì nguồn quỹ cho chế độ này sẽ
ngày một lớn, bên cạnh đó việc chi trả chế độ hưu luôn dựa trên nguyên tắc “lấy
số đông bù số ít”, vì thế đây sẽ là một nguồn tích lũy đáng kể cho các hoạt động
khác của Bảo hiểm xã hội.
1.4.2.2. Các điều kiện hưởng chế độ hưu trí
Để ràng buộc giữa trách nhiệm, nghóa vụ và quyền lợi của người tham gia
bảo hiểm xã hội và để hạn chế sự lạm dụng về bảo hiểm xã hội thì ở mỗi chế độ
bảo hiểm xã hội đều có quy định các điều kiện hưởng rất chặt chẽ. Đối với chế độ
hưu trí cũng vậy, điều kiện để hưởng chế độ hưu trí bao gồm hai nội dung chủ yếu
là tuổi đời và thời gian đóng bảo hiểm xã hội.
Muốn xây dựng một mức tuổi và thời gian đóng phù hợp thì các quy định
phải đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm xã hội và phải dựa trên một
hệ thống các cơ sở: cơ sở sinh học của người lao động; điều kiện lao động và môi
trường lao động; điều kiện kinh tế-xã hội và quan hệ tài chính bảo hiểm xã hội…
. Điều kiện về tuổi đời (tuổi nghỉ hưu)
Tuổi nghỉ hưu là thời điểm mà về mặt sinh học người lao động bị suy giảm
khả năng lao động thể hiện ở các mặt như chức năng vận động, phản ứng thần
kinh giảm… dẫn đến tình trạng không thể tiếp tục làm việc bình thường được
nữa. Sự suy giảm về khả năng lao động này xảy ra khi con người đạt đến một
độ tuổi nhất định, khi mà sức khỏe về thể chất và tinh thần không cho phép họ
tiếp tục lao động bình thường được nữa.
 Cơ sở quy định tuổi nghỉ höu:


21


 Cơ sở sinh học: Cơ sở sinh học để quy định tuổi nghỉ hưu dựa vào các yếu tố
sau:
 Khả năng lao động của con người: Con người từ lúc sinh ra cho đến lúc
chết chỉ có một khoảng thời gian nhất định là có khả năng lao động. Và
chỉ trong khoảng thời gian đó con người mới được đánh giá là có khả
năng lao động hoàn chỉnh. Do vậy, việc xây dựng tuổi nghỉ hưu cũng
phải dựa trên khoảng thời gian lao động trung bình của một người. Đây
cũng là một yếu tố xuất phát từ chính bản thân người lao động. Mỗi
người sẽ có một khả năng lao động riêng, không ai là giống ai, tuy nhiên
cần phải có một mức chuẩn để có thể dựa vào đó xây dựng một mức tuổi
nghỉ hưu phù hợp. Ngoài ra, khả năng lao động của nữ và của nam là
không giống nhau, vì thế việc quy định độ tuổi nghỉ hưu khác nhau của
hai giới cũng cần phải được xây dựng dựa vào khả năng lao động.
 Điều kiện làm việc: Điều kiện làm việc là một yếu tố ảnh hưởng đến sức
khỏe và sự suy giảm khả năng lao động của người lao động, do vậy, tuổi
nghỉ hưu còn được xây dựng dựa trên điều kiện làm việc của người lao
động. Lao động trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm sẽ làm
suy giảm khả năng lao động nhanh hơn, do vậy, tuổi nghỉ hưu trong
những trường hợp này cũng cần phải được quy định thấp hơn. Nói một
cách đơn giản đây chính là điều kiện lao động và cũng là một yếu tố liên
quan đến “tuổi thọ lao động” của người lao động. Ở cùng một độ tuổi
sinh học nhưng người lao động này với điều kiện lao động như vậy là đã
đủ già phải nghỉ việc nhưng cũng người lao động đó trong một điều kiện
làm việc khác thì vẫn được coi là trẻ, vẫn có thể tiếp tục công việc. Vì
thế khi xây dựng độ tuổi nghỉ hưu thì cần phải chú ý đến điều kiện làm
việc của lao động trong xã hội.
 Tuổi thọ: Tuổi thọ là một yếu tố rất quan trọng để quy định tuổi nghỉ hưu
vì tuổi thọ cũng phản ánh sức khỏe của con người và ảnh hưởng đến thời
gian hưởng chế độ hưu trí. Sức khỏe con người tốt hơn dẫn đến việc tăng

tuổi thọ và việc tăng tuổi thọ này sẽ làm cho thời gian hưởng trợ cấp trí
dài hơn. Nếu như việc xây dựng mức tuổi nghỉ hưu không dựa trên tuổi


×