Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Chế độ lao động và sử dụng kết quả lao động của phạm nhân theo luật thi hành án hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (899.74 KB, 55 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TRẦN THANH THANH HỒNG

CHẾ ĐỘ LAO ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG KẾT QUẢ LAO ĐỘNG
CỦA PHẠM NHÂN THEO LUẬT THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH - THÁNG 11 - NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

CHẾ ĐỘ LAO ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG KẾT QUẢ LAO ĐỘNG
CỦA PHẠM NHÂN THEO LUẬT THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ HUỲNH TẤN DUY
Học viên: TRẦN THANH THANH HOÀNG
Lớp Cao học Luật Khóa 3 – Tiền Giang

TP. HỒ CHÍ MINH - THÁNG 11 – NĂM 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng các số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn thạc sĩ
Luật học “Chế độ lao động và sử dụng kết quả lao động của phạm nhân theo
Luật Thi hành án hình sự Việt Nam” là hồn tồn trung thực và khơng trùng lặp
với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Các thơng tin trong luận văn được trích dẫn
từ những nguồn tài liệu tham khảo đã được chú thích đầy đủ. Luận văn này là cơng
trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê Huỳnh
Tấn Duy. Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả

Trần Thanh Thanh Hoàng


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. CHẾ ĐỘ LAO ĐỘNG CỦA PHẠM NHÂN ...................................6
1.1. Quy định của pháp luật thi hành án hình sự về chế độ lao động của phạm
nhân ............................................................................................................................6
1.2. Thực tiễn thực hiện chế độ lao động của phạm nhân, những hạn chế và
nguyên nhân .............................................................................................................14
1.2.1. Thực tiễn thực hiện chế độ lao động của phạm nhân................................14
1.2.2. Những hạn chế trong việc thực hiện chế độ lao động của phạm nhân .....18
1.2.3. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong việc thực hiện chế độ lao động
của phạm nhân.....................................................................................................19
1.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện đúng quy định về
chế độ lao động của phạm nhân .............................................................................20
1.3.1. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật thi hành án hình sự về chế độ lao
động của phạm nhân............................................................................................21
1.3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện đúng quy định về chế độ lao động của phạm

nhân .....................................................................................................................22
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................24
CHƢƠNG 2. SỬ DỤNG KẾT QUẢ LAO ĐỘNG CỦA PHẠM NHÂN ...........25
2.1. Quy định của pháp luật thi hành án hình sự về sử dụng kết quả lao động
của phạm nhân ........................................................................................................25
2.2. Thực tiễn sử dụng kết quả lao động của phạm nhân, những hạn chế và
nguyên nhân .............................................................................................................37
2.2.1. Thực tiễn sử dụng kết quả lao động của phạm nhân .................................37
2.2.2. Những hạn chế trong sử dụng kết quả lao động của phạm nhân ..............42
2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong sử dụng kết quả lao động của
phạm nhân ...........................................................................................................43
2.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện đúng quy định về sử
dụng kết quả lao động của phạm nhân .................................................................44
2.3.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về sử dụng kết quả lao động của phạm
nhân .....................................................................................................................45
2.3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện đúng quy định pháp luật về sử dụng kết quả
lao động của phạm nhân .....................................................................................45


KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................47
KẾT LUẬN ..............................................................................................................48
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chế độ lao động và sử dụng kết quả lao động của phạm nhân được quy định
tại Điều 29 và Điều 30 của Luật Thi hành án hình sự, được Quốc hội khóa XII nước

Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 17/6/2010. Qua hơn 8 năm
triển khai thực hiện đã đạt được những kết quả tích cực, thể hiện chủ trương, đường
lối, chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với phạm nhân, đồng thời
nhằm tạo điều kiện thuận lợi để họ tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong
án phạt tù, trở thành những cơng dân có ích cho xã hội. Theo thống kê của Cục
Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp, hiện nay có khoảng 150.000 phạm
nhân đang chấp hành án phạt tù ở 53 trại giam và trại tạm giam trong cả nước.
Trong quá trình chấp hành án, nhìn chung phạm nhân đều được lực lượng cảnh sát
thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp tạo điều kiện, đảm bảo cho việc thực hiện chế
độ lao động và sử dụng kết quả lao động của họ được thực hiện theo đúng các quy
định của pháp luật. Nhiều phạm nhân trong quá trình lao động cải tạo đã phát huy
tốt trình độ chun mơn, kỹ thuật, tay nghề lao động, có những đóng góp tích cực
trong việc phát triển kinh tế của trại được biểu dương, khen thưởng, giảm án. Nhiều
phạm nhân khi mãn hạn tù về nơi cư trú đã có việc làm ổn định thật sự trở thành
cơng dân có ích cho gia đình và xã hội, trong số đó có nhiều người trở nên khá giả,
thậm chí giàu có nhờ ý chí được tơi luyện và những kiến thức, tay nghề và kinh
nghiệm tích lũy được trong q trình lao động cải tạo cộng với số tiền được hỗ trợ
để tái hòa nhập cộng đồng sau khi mãn hạn tù.
Song, bên cạnh những ưu điểm mang lại, quá trình thực hiện chế độ lao động
và sử dụng kết quả lao động của phạm nhân ở một số trại giam, trại tạm giam cũng
cịn bộc lộ một số vấn đề khó khăn, bất cập, hạn chế liên quan đến các quy định và
thực tiễn áp dụng pháp luật như: độ tuổi, sức khỏe, giới tính, vấn đề làm thêm giờ,
việc bồi dưỡng bằng tiền, hiện vật khi làm thêm giờ, việc miễn hoặc giảm thời gian
lao động đối với phạm nhân khi bị bệnh hoặc có nhược điểm về thể chất, việc khấu
trừ các chi phí phát sinh trong q trình lao động và đóng góp vào các quỹ theo quy
định khi sử dụng kết quả lao động của phạm nhân… Bên cạnh những phạm nhân
có ý thức chấp hành tốt các quy định của pháp luật, vẫn còn nhiều phạm nhân chưa
thông hiểu các quy định của pháp luật, nội qui, qui chế nơi giam giữ, chưa nhận
thức đúng đắn về vai trị, ý nghĩa của lao động trong q trình chấp hành án, từ đó



2

thể hiện sự chay lười, chống đối, bất hợp tác, thậm chí vi phạm pháp luật, kỷ luật
trong q trình thực hiện các quy định liên quan đến chế độ lao động. Về phía lực
lượng cảnh sát thi hành án hình sự, bên cạnh số đơng là tốt vẫn cịn khơng ít trường
hợp thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, cậy thế, dựa quyền, lợi dụng
chức vụ, quyền hạn được giao hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm, hạn chế về trình độ
chun mơn, khơng nắm vững các quy định của pháp luật dẫn đến cố ý hoặc vô ý vi
phạm pháp luật, kỷ luật của ngành khi thực hiện các quy định về chế độ lao động và
sử dụng kết quả lao động đối với phạm nhân…
Những hạn chế, bất cập nêu trên ngoài nguyên nhân do những sơ hở, thiếu
sót trong q trình xây dựng luật, cịn do nguyên nhân từ phía chủ thể áp dụng và
thực hiện chưa chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật (kể cả phạm nhân và
người thực thi pháp luật như đã nêu trên). Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân
đó cần phải được nghiêm túc nghiên cứu, đánh giá và phân tích mổ xẻ để tìm ra
những giải pháp khắc phục nhằm đưa việc thực hiện chế độ lao động và sử dụng kết
quả lao động của phạm nhân ngày càng hiệu quả hơn, hoàn thiện hơn đúng theo tinh
thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 và nhất là trong bối cảnh Quốc hội khóa XIV đã và
đang chuẩn bị tiếp tục họp để thông qua dự thảo Luật Thi hành án hình sự sửa đổi.
Chính từ những lý do nêu trên, học viên quyết định chọn đề tài: “Chế độ lao động
và sử dụng kết quả lao động của phạm nhân theo Luật Thi hành án hình sự Việt
Nam” làm luận văn thạc sỹ học. Thơng qua cơng trình nghiên cứu này bản thân
mong muốn đưa ra sự nhìn nhận khách quan, tồn diện về những khó khăn, vướng
mắc, bất cập về cơ chế pháp luật, cũng như trong thực tiễn áp dụng các quy định
của Luật thi hành án hình sự năm 2010 và các văn bản pháp luật hướng dẫn có liên
quan đối với việc thực hiện chế độ lao động và sử dụng kết quả lao động của phạm
nhân. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần hồn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua tìm hiểu, học viên được biết hiện nay chưa có nhiều các luận án tiến sĩ,
luận văn thạc sĩ, các cơng trình khoa học nghiên cứu liên quan đến đề tài này. Tuy
nhiên, cũng có một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu, cụ thể là các luận án tiến sĩ,
luận văn thạc sĩ, tài liệu từ các cuộc hội thảo khoa học, một số bài viết trên các báo,
tạp chí, trên mạng internet liên quan đến việc thực hiện chế độ lao động và sử dụng
kết quả lao động của phạm nhân... điển hình như:


3

- Chu Văn Đức (2002), Sự thích ứng tâm lý của phạm nhân với chế độ sinh
hoạt và chế độ lao động trong trại giam, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà
Nội;
- Ngô Văn Trù (2015), Giáo dục pháp luật cho phạm nhân ở các trại giam,
Luận án tiến sĩ, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh;
- Nguyễn Hữu Toàn (2013), Tự ý thức về hành vi phạm tội và hành vi chấp
hành hình phạt tù của phạm nhân, Luận án Tiến sĩ, Học viện khoa học xã hội;
- Nguyễn Văn Sơn (2010), Thi hành án phạt tù tại Trại tạm giam Cơng an
tỉnh Bình Dương, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân;
- Nguyễn Viết Giang (2014), Kiểm sát việc quản lý và giáo dục người chấp
hành án phạt tù trong các trại giam của Bộ Công an, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh;
- Nguyễn Duy Minh (2008), Công tác tổ chức cho phạm nhân lao động, sản
xuất trong nhà xưởng tại trại giam Ngọc Lý, Luận văn Thạc sĩ;
- Phạm Đức Chấn (1999), Tổ chức lao động sản xuất và dạy nghề cho phạm
nhân ở các trại giam thuộc lực lượng công an quản lý, Cục V26, Đề tài cấp Bộ;
- Tài liệu tập huấn chuyên sâu Luật Thi hành án hình sự của Cục pháp chế và
cải cách hành chính, tư pháp Bộ Cơng an;
- Võ Thị Kim Oanh, “Góp ý Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của

Luật Thi hành án hình sự về chuẩn bị tái hịa nhập cộng đồng”, Hội thảo quốc tế:
“Góp ý Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án hình sự”,
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tháng 6/2018;
- Hồng Đức Mạnh, “Góp ý Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Thi hành án hình sự về quản lý, giam giữ phạm nhân”, Hội thảo quốc tế: “Góp
ý Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án hình sự”, Trường
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tháng 6/2018;
- Vũ Hồng Kiên, “Góp ý Dự thảo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Thi hành án hình sự về chế độ học tập, học nghề của phạm nhân”, Hội thảo quốc tế:
“Góp ý Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án hình sự”,
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tháng 6/2018;...
Qua nghiên cứu các cơng trình, bài viết trên, học viên nhận thấy đa phần các
tác giả chỉ dừng lại ở việc phân tích những khó khăn, vướng mắc và đề xuất một số
giải pháp ở từng lĩnh vực riêng lẻ và nghiêng nhiều về định hướng nghiên cứu lý
luận mà chưa nghiên cứu một cách có hệ thống và chuyên sâu theo định hướng ứng


4

dụng thực tiễn về việc thực hiện chế độ lao động và sử dụng kết quả lao động của
phạm nhân theo Luật thi hành án hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng
những kết quả nghiên cứu của các cơng trình, bài viết nêu trên là nguồn tài liệu q
báu có giá trị quan trọng để học viên tham khảo thực hiện đề tài luận văn thạc sỹ
của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở phân tích, đánh giá quy định
của pháp luật về chế độ lao động và sử dụng kết quả lao động của phạm nhân cũng
như thực tiễn thực hiện để đưa ra các các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp
luật và nâng cao hiệu quả thực hiện trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện được mục đích trên, đề tài cần thực hiện những nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể sau:
- Phân tích các quy định của luật thi hành án hình sự và các văn bản pháp
luật khác có liên quan đến việc thực hiện chế độ lao động và chế độ sử dụng kết quả
lao động của phạm nhân;
- Khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng những quy định trên ở các trại giam,
trại tạm giam để nghiên cứu rút ra những ưu điểm, hạn chế, những vấn đề khó khăn,
vướng mắc và xác định nguyên nhân;
- Đề xuất các giải pháp để góp phần thực hiện tốt hơn chế độ lao động và sử
dụng kết quả lao động lao động của phạm nhân.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu, đánh giá quy định của Luật thi hành án hình sự năm
2010, các văn bản hướng dẫn thi hành, so sánh với Luật thi hành án hình sự năm
2019 về chế độ lao động và sử dụng kết quả lao động của phạm nhân. Những quy
định khác mặc dù có liên quan đến nội dung của luận văn như chế độ học tập, chế
độ học nghề, chế độ ăn, mặc, ở của phạm nhân nhưng không thuộc đối tượng
nghiên cứu của luận văn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian nghiên cứu: luận văn khảo sát, đánh giá thực tiễn thực hiện
chế độ lao động và sử dụng kết quả lao động của phạm nhân tại Trại tạm giam Công


5

an tỉnh Bến Tre; Trại tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang; Trại giam Châu Bình
(huyện Giồng Trơm, tỉnh Bến Tre).
- Về thời gian nghiên cứu: từ năm 2013 đến năm 2018.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện đạt luận văn, học viên kết hợp sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau như: phương pháp phân tích, so sánh dùng để luận giải các
quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và những văn bản pháp luật
hướng dẫn thi hành có liên quan, so sánh với Luật Thi hành án hình sự năm 2019;
phương pháp thống kê để trình bày các số liệu có liên quan đến việc thực hiện chế
độ lao động và sử dụng kết quả lao động của phạm nhân ở các trại giam, trại tạm
giam; phương pháp khảo sát thực tiễn được sử dụng làm căn cứ để phân tích, đánh
giá về những hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật và đề
xuất những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung.
6. Những đóng góp của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những quy định của pháp luật về chế độ lao
động và sử dụng kết quả lao động của phạm nhân kết hợp với khảo sát thực tiễn ở
các trại giam, trại tạm giam, luận văn sẽ xác định những hạn chế, khó khăn, vướng
mắc, bất cập để đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm tiếp tục hoàn thiện quy định
của Luật Thi hành án hình sự năm 2019 về chế độ lao động và sử dụng kết quả lao
động của phạm nhân. Đồng thời, học viên cũng mong muốn những kết quả nghiên
cứu của luận văn sẽ là nguồn tài liệu để các nhà nghiên cứu tham khảo, đóng góp
vào việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án hình sự và phục vụ cho công
tác giảng dạy, cũng như mong muốn được các trại giam, trại tạm giam nghiên cứu
áp dụng để thực hiện tốt hơn chế độ lao động và sử dụng kết quả lao động của phạm
nhân.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn được bố cục như sau:
Chương 1. Chế độ lao động của phạm nhân
Chương 2. Sử dụng kết quả lao động của phạm nhân


6


CHƢƠNG 1
CHẾ ĐỘ LAO ĐỘNG CỦA PHẠM NHÂN
1.1. Quy định của pháp luật thi hành án hình sự về chế độ lao động của
phạm nhân
Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi
các vật thể tự nhiên phù hợp với nhu cầu của con người. Lao động tạo ra của cải vật
chất và tinh thần, góp phần đưa xã hội ngày càng phát triển. Con người lao động để
cải tạo xã hội theo hướng tốt đẹp hơn, đồng thời con người cũng thụ hưởng những
thành quả lao động do chính mình làm ra. Chính vì vậy, có thể nói lao động vừa là
quyền vừa là nghĩa vụ của công dân, quyền và nghĩa vụ đó ln được pháp luật tơn
trọng và bảo vệ. Phạm nhân là người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, tù
chung thân (khoản 2 Điều 3 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và khoản 2 Điều 1
Luật Thi hành án hình sự năm 2019). Tuy bị hạn chế một số quyền cơ bản của công
dân nhưng quyền được lao động của phạm nhân vẫn được pháp luật tôn trọng và
bảo vệ (khoản 1 Điều 28 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định phạm nhân
được tổ chức lao động phù hợp với độ tuổi, sức khỏe…). Điều này cho thấy chính
sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta, luôn tạo điều kiện để phạm nhân được lao
động, tức là được thực hiện một trong những quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng
dân nhằm thơng qua đó cải tạo phạm nhân thành con người có ích cho xã hội, tạo
điều kiện để họ tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù. Điều 29
Luật thi hành án hình sự năm 2010 quy định về chế độ lao động của phạm nhân, cụ
thể như sau:
“1. Phạm nhân được tổ chức lao động phù hợp với độ tuổi, sức khỏe và đáp
ứng yêu cầu quản lý, giáo dục, hòa nhập cộng đồng; được nghỉ lao động các ngày
thứ bảy, ngày chủ nhật, lễ, tết theo quy định của pháp luật. Thời gian phạm nhân
lao động và học tập, học nghề không quá 8 giờ trong 1 ngày. Trường hợp đột xuất
hoặc thời vụ, Giám thị trại giam có thể yêu cầu phạm nhân làm thêm giờ nhưng
không quá 2 giờ trong 1 ngày. Trường hợp phạm nhân lao động thêm giờ hoặc lao
động trong ngày thứ bảy, chủ nhật thì được nghỉ bù hoặc được bồi dưỡng bằng tiền,
hiện vật.

2. Phạm nhân nữ được bố trí làm những cơng việc phù hợp với giới tính, sức
khỏe và độ tuổi; không làm công việc nặng nhọc, độc hại thuộc danh mục cấm sử
dụng lao động nữ.


7

3. Phạm nhân mắc bệnh hoặc có nhược điểm về thể chất, tinh thần thì tùy
mức độ, tính chất của bệnh tật và trên cơ sở chỉ định của y tế trại giam, trại tạm
giam được miễn hoặc giảm thời gian lao động”
Như vậy, theo quy định của Luật thi hành án hình sự 2010 thì phạm nhân
trong quá trình chấp hành án được cơ quan thi hành án tổ chức cho họ lao động.
Đây là việc làm bắt buộc và cần thiết bởi vì phần lớn phạm nhân đang chấp hành án
là người khơng có tay nghề và việc làm ổn định, chay lười lao động nhưng thích
sống hưởng thụ dẫn đến phạm tội. Do vậy, họ cần phải được giáo dục, cải tạo nhằm
thay đổi nhận thức và hành vi, thông qua lao động họ thấy được giá trị của sức lao
động, ăn năn hối cải về những việc làm sai trái của mình. “Trong thời gian chấp
hành án phạt tù ở trại giam, phạm nhân có nghĩa vụ phải lao động để cải tạo và trở
thành công dân có ích cho xã hội” (khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch số
12/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC hướng dẫn về chế độ lao động và sử dụng kết quả
lao động, học nghề của phạm nhân trong trại giam).1
Mặc khác, việc tổ chức cho họ lao động sẽ tạo điều kiện để sau khi chấp
hành xong án phạt tù họ sẽ tái hòa nhập cộng đồng tốt hơn với thói quen, kinh
nghiệm và tay nghề tích lũy được trong q trình lao động sản xuất trong thời gian
chấp hành án. Tại khoản 1 Điều 8 Nghị định số 80/2011/NĐ-CP ngày 16/9/2011
của Chính phủ quy định các biện pháp đảm bảo tái hòa nhập cộng đồng đối với
người chấp hành xong án phạt tù nêu rõ: “Trại giam, trại tạm giam có trách nhiệm
kiểm tra, đánh giá kết quả, năng lực nghề nghiệp của từng phạm nhân để có kế
hoạch bồi dưỡng nâng cao tay nghề, định hướng tìm kiếm việc làm cho họ sau khi
chấp hành xong án phạt tù”.

Việc tổ chức lao động cho phạm nhân cũng được quy định rất chặt chẽ. Theo
đó, “Giám thị trại giam có trách nhiệm bố trí lao động cho phạm nhân phù hợp với
độ tuổi, sức khỏe, giới tính, mức án, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng
phạm nhân và đáp ứng yêu cầu quản lý, giáo dục, cải tạo phạm nhân” (khoản 1
Điều 4 Thông tư liên tịch số 12/2013/TTLT). Như vậy, Giám thị trại giam là người
chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc bố trí lao động cho phạm nhân một cách
phù hợp. Phù hợp ở đây có nghĩa là vừa phải đúng các quy định của pháp luật vừa
phải đáp ứng yêu cầu quản lý, giáo dục, cải tạo phạm nhân. Việc thực hiện chế độ
lao động cho phạm nhân phải đảm bảo đảm nguyên tắc tuân thủ quy định của Luật
1

Gọi tắt là Thông tư liên tịch số 12/2013/TTLT.


8

Thi hành án hình sự và các quy định của pháp luật khác có liên quan, bảo đảm
chính sách khoan hồng, nhân đạo của nhà nước đối với phạm nhân; bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp của phạm nhân, tạo điều kiện thuận lợi cho phạm nhân ổn định
cuộc sống, tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù (khoản 1, 2
Điều 3 Thông tư liên tịch số 12/2013/TTLT).
Qua nghiên cứu Điều 29 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và Điều 4 của
Thơng tư liên lịch số 12/2013/TTLT thì việc tổ chức cho phạm nhân lao động phải
bảo đảm các quy định sau:
Thứ nhất, phải phù hợp về độ tuổi. Theo đó, khơng bố trí cơng việc nặng
nhọc, độc hại theo danh mục do pháp luật quy định đối với phạm nhân là nam từ 60
tuổi trở lên, phạm nhân là người chưa thành niên. Danh mục công việc nặng nhọc,
độc hại được xác định tùy thời điểm tại các Quyết định số 190/1999/QĐBLĐTBXH-QĐ ngày 03/3/1999, Quyết định số 1580/2000/QĐ-BLĐTBXH-QĐ
ngày 26/12/2000, Quyết định số 1152/2003/QĐ-BLĐTBXH-QĐ ngày 18/9/2013,
Thông tư số 36/2012/TT-BLĐTBXH ngày 28/12/2012, Thông tư số 20/2014/TTBLĐTBXH ngày 26/8/2014, Thông tư số 15/2016/TT-BLĐTBXH ngày 28/6/2016,

Thông tư số 36/2017/TT-BLĐTBXH ngày 29/12/2017 của Bộ Lao động – Thương
binh và Xã hội về việc ban hành danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại,
nguy hiểm và đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm. Ngoài căn cứ vào các danh
mục được quy định tại các quyết định, thơng tư nêu trên để bố trí cơng việc lao
động cho phạm nhân, Giám thị còn phải căn cứ vào từng độ tuổi để bố trí cơng việc
hoặc nhóm công việc phù hợp nhằm mang lại hiệu quả cao nhất.
Thứ hai, phải phù hợp với sức khỏe của phạm nhân. Tùy vào thể trạng, sức
khỏe của phạm nhân mà Giám thị quyết định bố trí cơng việc phù hợp, vừa đảm bảo
sức khỏe của phạm nhân vừa đảm bảo năng suất đạt được. Theo quy định tại khoản
3 Điều 29 Luật Thi hành án hình sự 2010 thì phạm nhân bị bệnh hoặc có nhược
điểm về thể chất, tâm thần thì tùy mức độ, tính chất của bệnh và trên cơ sở chỉ định
của y tế trại giam, trại tạm giam được miễn hoặc giảm thời gian lao động. Tuy nhiên
để cụ thể hóa rõ hơn điều luật này, tại khoản 3 Điều 4 Thông tư liên tịch số
12/2013/TTLT quy định cụ thể đối với các trường hợp được nghỉ lao động bao
gồm: Phạm nhân nữ có thai được nghỉ lao động trước và sau khi sinh con theo quy


9

định của pháp luật về lao động;2 phạm nhân bị bệnh không đủ sức khỏe để lao động
và được y tế của trại giam xác nhận; phạm nhân đang điều trị tại trạm xá, bệnh xá
hoặc bệnh viện; phạm nhân có con dưới 36 tháng tuổi đang ở cùng mẹ trong trại
giam mà bị bệnh, được y tế của trại giam xác nhận.
Thứ ba, phải phù hợp với giới tính. Khoản 2 Điều 29 Luật Thi hành án hình
sự năm 2010 quy định: “Phạm nhân nữ được bố trí làm những cơng việc phù hợp
với giới tính, sức khỏe và độ tuổi không làm công việc nặng nhọc, độc hại thuộc
danh mục cấm sử dụng lao động nữ”. Như vậy, khi xem xét phân công lao động
Giám thị cân nhắc những công việc phù hợp để phân công cho phạm nhân nữ như:
chăm sóc cây cảnh, dọn dẹp vệ sinh, nấu ăn…, không phân công phạm nhân nữ làm
những việc nặng nhọc, độc hại thuộc danh mục cấm sử dụng lao động nữ theo các

quyết định, thông tư của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội được pháp luật quy
định là không được sử dụng lao động nữ.3 Những quy định này cũng thể hiện đậm
nét tính nhân văn, phù hợp với truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta.
Về thời gian lao động: khoản 1 Điều 29 Luật Thi hành án hình sự năm 2010
quy định: “Thời giờ lao động, học tập, học nghề của phạm nhân không quá 8 giờ
trong 1 ngày” và “được nghỉ lao động vào các ngày thứ bảy, chủ nhật, lễ, tết theo
quy định của pháp luật”. Việc quy định như trên là phù hợp với quy định tại Điều
104 của Bộ Luật lao động: “thời giờ làm việc bình thường không quá 8 giờ trong
một ngày và 48 giờ trong một tuần. Nhà nước khuyến khích người sử dụng lao động
thực hiện tuần làm việc 40 giờ”. Luật cũng quy định: “Trường hợp đột xuất hoặc
thời vụ, Giám thị trại giam có thể yêu cầu phạm nhân làm thêm giờ nhưng không
được quá 2 giờ trong 1 ngày”. Thời gian làm thêm giờ được quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 106 Bộ Luật lao động, cụ thể là “Bảo đảm số giờ làm thêm của người
lao động không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong một ngày”. Như vậy, số
giờ làm thêm tối đa trong ngày của phạm nhân thấp hơn số giờ làm thêm tối đa
2

Điều 34 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định: “Lao động nữ sinh con được nghỉ việc trước và sau khi
sinh con là 6 tháng. Trường hợp lao động nữ sinh đơi trở lên thì tính từ con thứ hai trở đi , cứ mỗi con, người
mẹ được nghỉ thêm một tháng, thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản trước khi sinh tối đa không quá 2 tháng.
Sau khi sinh con nếu con bị chết, trường hợp con dưới 2 tháng tuổi chết thì được nghỉ việc 4 tháng tính từ
ngày sinh con, con từ 2 tháng tuổi trở lên chết thì được nghỉ việc 2 tháng tính từ ngày con chết, thời gian
nghỉ này khơng vượt quá thời gian nghỉ sinh con thông thường và không tính vào thời gian nghỉ việc riêng
theo quy định của pháp luật lao động”.
3
Điều 160 Bộ luật lao động năm 2012 quy định công việc không được sử dụng lao động nữ gồm: cơng việc
có ảnh hưởng xấu đến chức năng sinh đẻ và nuôi con theo danh mục do Bộ lao động – Thương binh và Xã
hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành; công việc phải ngâm mình thường xun dưới nước; cơng việc
làm thường xuyên dưới hầm mỏ),



10

trong ngày của lao động bình thường được quy định trong luật lao động. Điều này
thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và nhà nước ta dựa trên đặc điểm của người
đang thi hành án phạt tù điều kiện sống vất vả hơn, do vậy sức lao động cũng hạn
chế hơn người bình thường.
Ngồi ra, khoản 1 Điều 29 Luật Thi hành án hình sự 2010 cũng quy định
“trường hợp phạm nhân lao động thêm giờ hoặc lao động trong ngày nghỉ thì được
nghỉ bù hoặc được bồi dưỡng bằng tiền, hiện vật”. Về vấn đề này Bộ Luật lao động
không quy định mà chỉ quy định về thời gian nghỉ bù cho số thời gian đã không
được nghỉ (điểm c khoản 2 Điều 106), nhưng Bộ luật lao động quy định việc làm
thêm giờ phải được sự đồng ý của người lao động (điểm a khoản 2 Điều 106). Ở
đây do tính chất đặc thù đối tượng lao động trong trường hợp này là phạm nhân và
việc họ phải lao động là nghĩa vụ phải làm như phân tích ở trên, vì thế luật khơng
quy định họ được nghỉ bù mà chỉ quy định được bồi dưỡng bằng tiền, hiện vật là
thỏa đáng.
Thứ tư, đáp ứng yêu cầu quản lý, giáo dục và hòa nhập cộng đồng. Đây là
nội dung cốt lõi vì mục đích của việc tổ chức cho phạm nhân lao động là nhằm quản
lý, giáo dục tốt phạm nhân, trước tiên phạm nhân khi lao động phải được đặt dưới
sự giám sát của trại giam, trại tạm giam (khoản 1 Điều 29 Luật Thi hành án hình sự
năm 2010). Việc giám sát này nhằm đảm bảo phạm nhân khơng bỏ trốn, khơng chay
lì lao động, kịp thời phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật của
phạm nhân trong quá trình lao động, đồng thời nhằm giúp cho phạm nhân hoàn
thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao, đảm bảo cho họ chấp hành tốt các quy định
của pháp luật đối với người đang chấp hành án phạt tù. Việc quản lý này cũng nhằm
giáo dục cải tạo họ thành người có ích cho xã hội, tạo điều kiện để họ rèn luyện đức
tính cần cù, chịu khó, có tay nghề khi tái hòa nhập cộng đồng.
Để thực hiện tốt bốn yêu cầu trên, Giám thị trại giam phải có trách nhiệm lập
kế hoạch lao động hàng năm cho phạm nhân ở trại giam nơi mình quản lý trình cấp

trên có thẩm quyền phê duyệt để tổ chức thực hiện. Việc lập kế hoạch lao động phải
căn cứ vào độ tuổi, sức khỏe, giới tính, mức án, tính chất, mức độ hành vi phạm tội
của phạm nhân, điều kiện đất đai, tài nguyên, các ngành nghề, trang thiết bị, phương
tiện, vật tư, nguồn vốn mà trại giam đang quản lý và điều kiện cụ thể của trại giam
(khoản 1 Điều 5 Thơng tư liên tịch số 12/2013/TTLT).
Q trình thực hiện, định kỳ phải tổ chức hạch toán kế toán thu, chi và lập
báo cáo kết quả thu, chi trình cấp trên có thẩm quyền phê duyệt. Trình tự thực hiện


11

các bước và nội dung nêu trên được quy định cụ thể tại điều 5, 6, 7 Thông tư liên
tịch số 12/2013/TTLT. Theo đó, căn cứ vào đặc điểm tình hình, tính chất của trại
giam và phạm nhân, Giám thị các trại giam thuộc Bộ Cơng an, Bộ Quốc phịng,
Qn khu có trách nhiệm lập kế hoạch tổ chức lao động hàng năm trình cơ quan thi
hành án hình sự cấp trên theo ngành dọc để được xem xét phê duyệt trước ngày 05
tháng 7 hàng năm. Kế hoạch phải thể hiện được các nội dung cơ bản như: tổng số
phạm nhân, trong đó nêu rõ số lượng phạm nhân đủ điều kiện lao động theo quy
định của pháp luật; dự kiến chi phí cho lao động, trích khấu hao tài sản cố định; dự
kiến kết quả thu được, chênh lệch thu, chi trong tổ chức lao động của phạm nhân;
dự kiến đề xuất kế hoạch sử dụng kết quả lao động của phạm nhân.
Sau khi được phê duyệt, Giám thị trại giam có trách nhiệm tổ chức cho phạm
nhân lao động, q trình thực hiện cần có các biện pháp để quản lý, giáo dục,
khuyến khích, động viên họ tích cực lao động, phát huy sáng kiến, cải tiến kỷ thuật,
tăng năng suất hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Trong quá trình tổ chức cho
phạm nhân lao động nếu có những biến động bất khả kháng như thiên tai, hỏa hoạn,
dịch bệnh… dẫn đến việc khơng thể hồn thành các chỉ tiêu theo kế hoạch đề ra thì
Giám thị trại giam gửi báo cáo bằng văn bản về cơ quan thi thành án hình sự cấp
trên theo ngành dọc để xem xét quyết định điều chỉnh kế hoạch tổ chức lao động
của trại giam cho phù hợp vào q IV hàng năm.

So với Thơng tư liên tịch số 04/2010/TTLT-BTC-BCA-BQP về việc hướng
dẫn thực hiện chế độ lao động và sử dụng kết quả lao động, dạy nghề của phạm
nhân trong các trại giam4 thì việc quy định chế độ lao động của phạm nhân tại
Thông tư liên tịch số 12/2013/TTLT có nhiều thay đổi tiến bộ hơn, cụ thể là: Về kỹ
thuật lập pháp, đã có sự thay đổi về bố cục một cách chặt chẽ, hợp lý hơn: bổ sung
thêm Chương những quy định chung, trong đó xác định về phạm vi điều chỉnh, đối
tượng áp dụng, nguyên tắc thực hiện. Thông tư liên tịch số 12/2013/TTLT cũng
giành riêng một chương (Chương II) quy định về chế độ lao động của phạm nhân và
việc tổ chức lao động, học nghề cho phạm nhân so với Thông tư số 04 chỉ được quy
định trong các điều riêng lẻ (từ điều 1 đến điều 4), trong đó có một số nội dung thay
đổi cơ bản như: tuổi được miễn lao động nặng nhọc, độc hại của nam được nâng lên
(từ 55 tuổi lên 60 tuổi); thời gian phê duyệt kế hoạch tổ chức lao động dài hơn (từ
trong thời hạn 10 ngày lên 30 ngày); việc điều chỉnh kế hoạch tổ chức lao động của
4

Gọi tắt là Thông tư liên tịch số 04/2010/TTLT.


12

trại giam trong trường hợp có những biến động bất khả kháng không quy định thời
gian cụ thể từ ngày xảy ra sự việc và được cấp trên xem xét quyết định điều chỉnh
kế hoạch lao động vào quí IV hàng năm. Điều này khác với Thông tư số 04, quy
định trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày xảy ra sự kiện Giám thị trại giam phải gửi
báo cáo (bằng văn bản) về thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự cấp trên theo
ngành dọc và việc xem xét phê duyệt điều chỉnh kế hoạch tổ chức lao động được
thực hiện trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo. Điều này tạo điều
kiện thông thống hơn để các trại giam, trại tạm giam có thời gian khắc phục các sự
việc biến động bát khả kháng và hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
Luật Thi hành án hình sự năm 2019 cũng có điểm mới tiến bộ hơn khi quy

định về chế độ lao động của phạm nhân, cụ thể là:
Thứ nhất, dành một điều riêng để quy định về tổ chức lao động cho phạm
nhân (Điều 33). Trước đây theo Luật Thi hành án hình sự năm 2010 các vấn đề về
tổ chức lao động cho phạm nhân được quy định chung với chế độ lao động của
phạm nhân trong cùng một điều luật. Quy định tại Điều 33 Luật Thi hành án hình sự
năm 2019 đa số trước đây đã được quy định tại Điều 5 Thông tư liên tịch số
12/2013/TTLT, nay được chuyển thành quy định của luật, qua đó nâng cao hơn về
hiệu lực thực thi pháp luật. Tại khoản 4 Điều 33 Luật Thi hành án hình sự năm 2019
cũng quy định giao cho Chính phủ quy định chi tiết điều này nhằm nâng cao hiệu
lực quản lý nhà nước và tạo sự thống nhất, chặt chẽ trong quá trình thực hiện. Việc
quy định chế độ lao động của phạm nhân và tổ chức lao động cho phạm nhân thành
2 điều luật riêng biệt vừa thể hiện kỹ thuật lập pháp tốt vừa tạo nên sự phân biệt
rạch ròi và dễ áp dụng các quy định của pháp luật một cách chuyên biệt.
Thứ hai, về thời gian lao động. Khoản 1 Điều 32 Luật Thi hành án hình sự
năm 2019 bổ sung thêm quy định: “Thời gian lao động của phạm nhân không quá 8
giờ trong một ngày và 5 ngày trong một tuần”. Trước đây Luật Thi hành án hình sự
năm 2010 chỉ quy định “khơng q 8 giờ trong một ngày” mà không quy định
“không quá 5 ngày trong một tuần”, điều này dẫn tới phạm nhân có thể phải lao
động trên 5 ngày trong một tuần. Như vậy thời gian lao động tối đa của phạm nhân
theo quy định theo Luật Thi hành án hình sự năm 2019 là 40 giờ trong một tuần,
điều này phù hợp với quy định tại Điều 104 Bộ Luật lao động “thời giờ làm việc
bình thường khơng q 8 giờ trong một ngày và 48 giờ trong một tuần. Nhà nước
khuyến khích người sử dụng lao động thực hiện tuần làm việc 40 giờ”.


13

Thứ ba, tại khoản 4 Điều 32 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 đã quy định
cụ thể các trường hợp được miễn lao động bao gồm: “phạm nhân bị bệnh, không đủ
sức khỏe lao động và được y tế trại giam xác nhận; phạm nhân đang điều trị tại cơ

sở y tế; phạm nhân có con dưới 36 tháng tuổi đang ở cùng mẹ trong trại giam mà bị
bệnh được y tế trại giam xác nhận; phạm nhân nữ có thai được nghỉ lao động trước
và sau khi sinh con theo pháp luật về lao động”. Những trường hợp này, trước đây
không được quy định trong Luật thi hành án hình sự năm 2010 mà chỉ được quy
định tại khoản 3 Điều 4 của Thông tư liên tịch số 12/2013/TTLT nay được cụ thể
hóa thành luật nhằm ghi nhận tính nhân văn, chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà
nước ta đối với phạm nhân, đồng thời nâng cao giá trị hiệu lực thực thi pháp luật đối
với các trường hợp được nghỉ lao động nêu trên.
Thứ tư, khoản 1 Điều 32 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định:
“Phạm nhân lao động phải được sự giám sát, quản lý của trại giam, trại tạm
giam”. Trước đây Luật Thi hành án hình sự năm 2010 chỉ đề cập vấn đề này dưới
góc độ “đáp ứng yêu cầu quản lý, giáo dục và tái hòa nhập cộng đồng”. Quy định
này nhằm ràng buộc hơn trách nhiệm của trại giam, trại tạm giam đối với việc giám
sát, quản lý phạm nhân trong quá trình lao động tránh họ có các hành vi trốn, vượt
trại, vi phạm kỷ luật, pháp luật, khắc phục tệ làm việc lười biếng dẫn đến khơng
hồn thành chỉ tiêu cơng việc được giao.
Ngồi ra, khoản 1 Điều 32 Luật Thi hành án hình sự năm 2019 còn quy định
“Trại giam phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo đảm an toàn, vệ sinh lao
động cho phạm nhân”. Điều này nghĩa là trong bất kỳ hoàn cảnh nào, khi tổ chức
cho phạm nhân lao động trại giam phải có trách nhiệm đảm bảo các điều kiện về an
toàn và vệ sinh lao động để tránh xảy ra tai nạn lao động và các tác động của môi
trưởng ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của phạm nhân, làm cho họ an tâm lao động,
đồng thời tạo mơi trường lành mạnh giúp họ hồn thành các nhiệm vụ và chỉ tiêu
lao động được giao. Nội dung này trước đây không được quy định trong Luật thi
hành án hình sự năm 2010. Việc bổ sung quy định này nhằm phù hợp với Điều 133
Bộ luật lao động: “Mọi doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến
lao động, sản xuất phải tuân theo quy định của pháp luật về an toàn lao động, vệ
sinh lao động”.



14

1.2. Thực tiễn thực hiện chế độ lao động của phạm nhân, những hạn chế
và nguyên nhân
1.2.1. Thực tiễn thực hiện chế độ lao động của phạm nhân
Trên cơ sở quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và các văn bản
hướng dẫn có liên quan, qua khảo sát thực tế tại Trại giam Châu Bình, Trại Tạm
giam Công an tỉnh Bến Tre và Trại tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang từ năm 2013
đến năm 2018 cho thấy, hàng năm căn cứ vào Kế hoạch và các văn bản hướng dẫn,
chỉ đạo của Tổng cục Thi hành án hình sự, Bộ Cơng an các đơn vị nêu trên đều có
lập Kế hoạch lao động cho phạm nhân được lãnh đạo cấp trên trực tiếp phê duyệt
theo thẩm quyền và tổ chức cho phạm nhân lao động đúng theo quy định tại Điều 5
Thông tư liên tịch số 12/2013/TTLT.
Qua khảo sát, từ năm 2013 đến 2018 Trại giam Châu Bình, Bộ Cơng an, Trại
tạm giam Cơng an tỉnh Bến Tre, trại tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang (sau đây
gọi tắc là các trại) đã quản lý, giáo dục cải tạo 12.543 lượt phạm nhân (Châu Bình:
12.333, Tiền Giang: 113, Bến Tre: 97). Trong các trại này khơng có phạm nhân nữ
vì từ năm 2009 tất cả phạm nhân nữ ở khu vực Miền Tây Nam Bộ được chuyển về
Trại giam Thạnh Hòa và Long Hòa thuộc Bộ Công an. Tất cả 12.543 lượt phạm
nhân đều được thực hiện chế độ lao động (đạt 100%), Tuy nhiên trong từng thời
điểm khác nhau tỉ lệ phạm nhân tham gia lao động đạt khoảng 83%, số còn lại thuộc
các trường hợp được miễn, giảm, nghỉ lao động theo quy định tại khoản 3 Điều 29
Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và khoản 3 Điều 4 Thông tư liên tịch số
12/2013/TTLT, trong đó chế độ lao động được thực hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, về việc bố trí lao động theo độ tuổi, sức khỏe, mức độ, tính chất và
hành vi phạm tội.
Nhìn chung việc phân cơng lao động cho phạm nhân đều được Giám thị các
trại thực hiện đúng quy định của Luật thi hành án hình sự năm 2010 và Thơng tư
liên tịch số 12/2013/TTLT. Theo đó căn cứ vào độ tuổi, sức khỏe, trình độ tay nghề,
mức độ, tính chất và hành vi phạm tội của phạm nhân, Giám thị phân công nhiệm

vụ và chỉ tiêu lao động một cách phù hợp cho tổng số 12.543 lượt phạm nhân ở Trại
Giam Châu Bình, Trại tạm giam Công an tỉnh Bến Tre, Trại tạm giam Công an tỉnh
Tiền Giang, cụ thể như sau:


15

Bố trí theo độ tuổi
Dưới 18

Từ 18 đến dưới 30 Từ 30 đến dưới 45 Từ 45 đến dưới 60

Từ 60 trở
lên

298 lượt

7.819 lượt

4.142 lượt

158 lượt

126 lượt

(2,39%)

(62,33%)

(33%)


(1,26%)

(1%)

Báo cáo của Trại giam Châu Bình, Trại tạm giam Cơng an tỉnh Bến Tre, Trại tạm
giam Cơng an tỉnh Tiền Giang
Bố trí theo ngành nghề lao động
Trồng trọt,

Đan đát (ghế

May gia công

chăn nuôi

mây, bội)

túi xách

2.564 lượt

4.042 lượt

(20,4%%)

(32,2%)

Làm mộc


Công việc khác

3.439 lượt

1.320 lượt

476 lượt

(27,41%)

(8,65%)

(3,79%)

Báo cáo của Trại giam Châu Bình , Trại tạm giam Công an tỉnh Bến Tre, Trại tạm
giam Công an tỉnh Tiền Giang
Các ngành nghề trên đều phù hợp với phạm nhân là nam giới, các đơn vị đều
khơng bố trí phạm nhân lao động ở các ngành nghề thuộc danh mục lao động độc
hại, nguy hiểm. Việc phân công chỉ tiêu lao động cũng được thực hiện một cách hợp
lý dựa trên điều kiện về độ tuổi, sức khỏe của phạm nhân để đảm bảo phạm nhân
hoàn thành các chỉ tiêu được giao. Ví dụ: Trại giam Châu Bình giao chỉ tiêu gia
công đan giỏ xách cho người dưới 18 tuổi nam là 3 cái/ngày; từ 18 tuổi đến dưới 30
tuổi là 5 cái/ngày, từ 30 tuổi đến dưới 45 tuổi là 4 cái/ngày, từ 45 tuổi đến dưới 60
tuổi là 3 cái/ngày, từ 60 tuổi trở lên là 2 cái/ngày. Việc phân cơng trên khơng cứng
nhắc cịn tùy thuộc vào thể chất, năng lực, sức khỏe và thái độ chấp hành lao động
của phạm nhân ở từng thời điểm mà điều chỉnh chỉ tiêu cao hoặc thấp cho phù hợp
nhưng phải đảm bảo tạo điều kiện để phạm nhân hồn thành chỉ tiêu được giao, bên
cạnh đó những phạm nhân có tính chất, mức độ phạm tội nguy hiểm hơn, phạm
nhân là người lười lao động nhưng thích đua địi, hưởng thụ dẫn đến phạm tội thì
chỉ tiêu thực hiện thường cao hơn nhưng vẫn đảm bảo trong phạm vi sức khỏe để họ

thực hiện đạt các chỉ tiêu được giao.
Riêng trại tạm giam Công an tỉnh Bến Tre và Công an tỉnh Tiền Giang số
phạm nhân được giữ lại mỗi nơi là 15% trên tổng số phạm nhân chuyển về các trại


16

giam của Bộ Công an để phục vụ việc tạm giam, tạm giữ theo quy định của luật Thi
hành án hình sự năm 2010. Việc tổ chức lao động cho số phạm nhân này không như
các phạm nhân ở Trại giam Châu Bình mà chủ yếu là để phục vụ công tác giam giữ
nên lao động hàng ngày của họ chủ yếu là dọn dẹp vệ sinh trại, nấu ăn, trồng trọt,
chăn nuôi để cải thiện bữa ăn cho bản thân họ và người bị tạm giữ, tạm giam.
Thứ hai, về việc bố trí thời gian lao động cho phạm nhân. Nhìn chung các
trại đều bố trí cho phạm nhân lao động đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Luật
Thi hành án hình sự năm 2010, tức là không quá 8 giờ trong 1 ngày. Việc yêu cầu
phạm nhân làm việc thêm giờ, làm việc trong ngày thứ bảy, chủ nhật do công việc
đột xuất hoặc thời vụ không xảy ra ở Trại tạm giam Công an tỉnh mà chỉ xảy ra ở
Trại Giam Châu Bình, Bộ Cơng an nhưng khơng đáng kể (trung bình chiếm khoảng
từ 5 đến 8% trên tổng số giờ lao động). Các trường hợp làm thêm giờ, làm việc vào
thứ bảy, chủ nhật chủ yếu là để giải quyết các chỉ tiêu sản xuất cịn tồn động của
Trại vào cuối q, năm. Các trường hợp làm thêm giờ đều không vượt quá 2 giờ
trong một ngày và đều được bổ sung chế độ ăn gấp 2 lần lao động bình thường và
được nhận tiền bồi dưỡng. Số tiền này được gửi lưu ký tại trại giam để phạm nhân
sử dụng theo quy định, trại không giải quyết chế độ nghỉ bù hoặc bồi dưỡng bằng
hiện vật (do số lượng phạm nhân làm thêm giờ nhiều nên việc giải quyết nghỉ bù sẽ
ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất và việc bồi dưỡng bằng hiện vật thì khó thực hiện).
Thứ ba, việc xét miễn, giảm thời gian lao động cho phạm nhân và các trường
hợp phạm nhân được nghỉ lao động. Nhìn chung được các trại thực hiện đúng theo
quy định tại khoản 3 Điều 29 của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và khoản 3
Điều 4 Thông tư liên tịch số 12/2013/TTLT.

Trại giam Châu Bình
Miễn lao
động
249 lượt
trường hợp
(2,31%)

Giảm thời
Nghỉ lao động
gian lao động
có thời hạn
416 lượt
trường hợp
(3,31%)

1.082 lượt
trường hợp
(8,6%)

Trại tạm giam
Trại tạm giam
Công an tỉnh Công an tỉnh Tiền
Bến Tre
Giang
Nghỉ lao động có thời hạn
27 lượt
trường hợp
(0,28%)

47 lượt trường

hợp
(0,31%)

Báo cáo Trại giam Châu Bình, Tại tạm giam Cơng an tỉnh Bến Tre, Trại tạm
giam Công an tỉnh Tiền Giang


17

Theo đó, từ năm 2013 đến 2018, Trại giam Châu Bình đã xét miễn lao động
cho 249 lượt trường hợp (2,31%), xét giảm thời gian lao động cho 416 lượt trường
hợp (3,31%) phạm nhân mắc bệnh, có nhược điểm về thể chất, tinh thần nặng
không thể lao động, xét cho nghỉ lao động có thời hạn 1.082 lươt trường hợp phạm
nhân bị bệnh không đủ sức khỏe để lao động và nằm viện để trị bệnh (8,6%). Riêng
Trại tạm giam Công an tỉnh Bến Tre và Trại tạm giam công an tỉnh Tiền Giang
khơng có trường hợp phạm nhân được miễn, giảm thời gian lao động, có 74 trường
hợp được xét cho nghỉ lao động có thời hạn (0,59%) (Tiền Giang 47 trường hợp,
Bến Tre 27 trường hợp). Các trường hợp được xét miễn, giảm, nghỉ lao động đều
căn cứ vào xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền và được Ban Giám thị, thủ
trưởng cơ quan thi hành án hình sự cấp tỉnh tổ chức xét duyệt đúng theo quy định
của pháp luật và của Bộ Công an đảm bảo tính khách quan, minh bạch khơng để
phạm nhân lợi dụng sơ hở để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ lao động, đồng thời
không để xảy ra tiêu cực, tham nhũng trong xét duyệt cho phạm nhân được miễn,
giảm hay nghỉ lao động.
Thứ tư, về việc đảm bảo các điều kiện về an toàn vệ sinh lao động cho phạm
nhân. Tuy mới được Luật Thi hành án hình sự năm 2019 quy định tại khoản 1 Điều
33, nhưng nhìn chung vấn đề này từ trước đến nay đều được các trại quan tâm thực
hiện nghiêm túc nhằm đảm bảo an tồn sức khỏe, tính mạng cho phạm nhân trong
quá trình lao động. Do vậy, số lượng phạm nhân bị tổn hại sức khỏe và thương vong
trong quá trình lao động rất ít (Trại giam Châu Bình 16 trường hợp bị chấn thương

trong lao động, Trại tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang 01 trường hợp, Trại tạm
giam Công an tỉnh Bến Tre không xảy ra). Các trường hợp bị tổn hại sức khỏe và
thương trong lao động đều được thực hiện chế độ chăm sóc y tế chu đáo, được giải
quyết cho nghỉ lao động, tăng suất ăn trong thời gian điều trị, giảm chỉ tiêu lao động
và được Giám thị trại nghiêm túc kiểm điểm rút kinh nghiệm.
Thứ năm, về việc giám sát, giáo dục phạm nhân trong quá trinh lao động và
xử lý kỷ luật đối với phạm nhân vi phạm. Hàng ngày phạm nhân lao động đều được
đặt dưới sự giám sát của lực lượng quản giáo và bảo vệ nhằm đôn đốc, nhắc nhở
phạm nhân thực hiện tốt nghĩa vụ lao động và phòng ngừa ngăn chặn các trường
hợp phạm nhân trốn, vượt trại, vi phạm pháp luật, nội qui trại trong quá trình thực
hiện chế độ lao động. Ngoài ra, Trại giam Châu Bình cịn tổ chức cho phạm nhân
giám sát lẫn nhau theo mơ hình tổ sản xuất, trong đó tổ trưởng, tổ phó ngồi thực
hiện tốt cơng việc của mình cịn có trách nhiệm đơn đốc, hướng dẫn, giám sát việc


18

lao động của các thành viên trong tổ. Nhờ làm tốt việc giám sát, giáo dục phạm
nhân trong những năm qua các trại khơng có trường hợp phạm nhân lợi dụng lúc lao
động để trốn, vượt trại, số lượng phạm nhân vi phạm pháp luật, kỷ luật trong lao
động ngày càng giảm. Cụ thể, tại Trại giam Châu Bình năm 2013: 16 vụ, 23 phạm
nhân; 2014: 16 vụ, 20 phạm nhân; 2015: 14 vụ, 18 phạm nhân; 2016: 12 vụ, 16
phạm nhân; 2017: 11 vụ, 14 phạm nhân, 2018: 7 vụ, 11 phạm nhân. Các hành vi vi
phạm chủ yếu như: gây mất trật tự, đánh nhau, không chấp hành theo yêu cầu của
cán bộ…. Căn cứ vào tính chất, mức độ và hành vi vi phạm, Giám thị đã ra quyết
định thi hành kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo: 27 phạm nhân, giam trong buồng kỷ
luật: 75 phạm nhân. Riêng trại tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang và Công an tỉnh
Bến Tre không xảy ra.
1.2.2. Những hạn chế trong việc thực hiện chế độ lao động của phạm nhân
Qua khảo sát thực tế việc thực hiện chế độ lao động của phạm nhân ở Trại

Giam Châu Bình và Trại tạm giam Công an tỉnh Tiền Giang, Bến Tre cho thấy bên
cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số mặt hạn chế, cụ thể như sau:
Thứ nhất, nghề lao động cịn ít, chưa phong phú, điều kiện trang thiết bị lao
động cịn hạn chế, thơ sơ dẫn đến phạm nhân chưa phát huy tối đa trình độ chuyên
môn, tay nghề họ đã được đào tạo trước khi phạm tội. Đa số các nghề là lao động
chân tay, giản đơn, dẫn đến lãng phí nguồn lực lao động, nhất là số phạm nhân có
trình độ chun mơn, tay nghề cao.
Thứ hai, việc đề ra các chỉ tiêu lao động tuy có phù hợp với độ tuổi, sức khỏe
nhưng nhìn chung chỉ tiêu giao cho phạm nhân cịn cao. Vì vậy phạm nhân phải làm
việc cật lực mới hoàn thành được chỉ tiêu trong ngày, điều này làm ảnh hưởng đến
chất lượng sản phẩm làm ra và chưa phù hợp giữa năng suất lao động với mục đích
thơng qua lao động để giáo dục, cải tạo phạm nhân là chính.
Thứ ba, việc đề ra và thực hiện các biện pháp nhằm khuyến khích phạm nhân
tích cực lao động, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động,
hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch lao động được giao theo quy định tại
điểm a khoản 3 Điều 5 Thông tư liên tịch số 12/2013/TTLT chưa được chú trọng
đúng mức, dẫn đến phạm nhân chỉ chú trọng làm sao để đạt được chỉ tiêu và hết
ngày, giờ công mà không làm hơn hoặc nghiên cứu các giải pháp nhằm tăng năng
suất lao động.
Thứ tư, việc Trại giam Châu Bình chỉ giải quyết bồi dưỡng bằng tiền đối với
phạm nhân lao động làm thêm giờ, lao động vào ngày thứ bảy, chủ nhật mà không


19

giải quyết nghỉ bù hoặc bồi dưỡng bằng hiện vật chưa kích thích tinh thần lao động
của một số phạm nhân vì phạm nhân cho rằng tiền bồi dưỡng khơng nhiều và được
gửi lưu ký nhưng việc sử dụng khó khăn và bị ràng buộc bởi quy định của pháp luật
nên họ muốn được nghỉ bù hoặc bồi dưỡng bằng hiện vật hơn.
Thứ năm, chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa tổ chức lao động với việc hướng

nghiệp, dạy nghề, nâng cao tay nghề cho phạm nhân; việc tổ chức cho phạm nhân
sinh hoạt vui chơi, giải trí sau giờ lao động có thực hiện nhưng cịn hạn chế.
Thứ sáu, Trại giam Châu Bình chưa tổ chức được khu vực lao động riêng
phù hợp với điều kiện của phạm nhân là người chưa thành niên theo quy định tại
khoản 3 Điều 51 Luật Thi hành án hình sự năm 2010. Thực trạng này xuất phát từ
lý do điều kiện nơi sản xuất của trại chật hẹp và số phạm nhân là người chưa thành
niên khơng nhiều, tính chất các nghề lao động không nặng nhọc và đều phù hợp với
lao động là người chưa thành niên.
Thứ bảy, một số ít cán bộ trại giam chưa thật sự thể hiện tốt văn hóa ứng xử
đối với phạm nhân trong quá trình quản lý, giám sát, đơn đốc, hướng dẫn phạm
nhân lao động sản xuất, còn bộc lộ thái độ bề trên, vô cảm, xa lánh, kỳ thị. Một số
phạm nhân chưa thật sự ăn năn, hối cải, tỏ thái độ chống đối, chây lỳ, thậm chí vi
phạm pháp luật, kỷ luật trong lao động.
1.2.3. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong việc thực hiện chế độ lao
động của phạm nhân
- Nguyên nhân khách quan:
+ Số lượng phạm nhân giam giữ ở các trại nhiều trong khi biên chế số lượng
cán bộ làm công tác giáo dục cải tạo phạm nhân chưa tương xứng, cơ sở vật chất
phục vụ lao động sản xuất và vui chơi giải trí cho phạm nhân cịn hạn chế, ngành
nghề lao động cịn ít.
+ Đa số phạm nhân trước khi phạm tội chưa qua các lớp đào tạo nghề, khơng
có nghề nghiệp, nghề nghiệp khơng ổn định hoặc có nghề nghiệp nhưng khơng phù
hợp với nghề hay công việc do trại chọn để tổ chức cho họ lao động.
+ Một bộ phận không nhỏ phạm nhân có trình độ văn hóa, phẩm chất đạo
đức, ý thức chấp hành pháp luật, kỷ luật thấp, thậm chí vi phạm pháp luật, kỷ luật
trong quá trình lao động.
- Nguyên nhân chủ quan:
+ Việc xây dựng kế hoạch lao động hàng năm của trại có căn cứ vào các nội
dung quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và Thông tư liên tịch số



20

12/2013/TTLT nhưng q trình tổ chức thực hiện có những nội dung chưa đạt yêu
cầu theo kế hoạch đã được phê duyệt hoặc phải điều chỉnh do yêu cầu khách quan.
+ Việc tổ chức cho phạm nhân lao động do Giám thị quyết định, phạm nhân
không được lựa chọn công việc phù hợp với mình.
+ Giám thị trại chưa chú trọng đầu tư đúng mức nhằm nâng cao chất lượng
cơ sở vật chất, trang, thiết bị phục vụ sản xuất; chưa liên kết được nhiều doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất nhằm có nhiều ngành nghề đa dạng, phong phú để phạm
nhân phát huy tốt chuyên môn, năng lực, sở trường của mình.
+ Cơng tác hướng nghiệp, dạy nghề cho phạm nhân có thực hiện nhưng chưa
thường xuyên, chất lượng chưa cao, chủ yếu là dạy phạm nhân biết cách thực hiện
công việc lao động được giao, chưa chú trọng đến việc nâng cao chất lượng, hiệu
quả của sản phẩm làm ra.
+ Công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho phạm nhân thấy được lao động
vừa là nghĩa vụ vừa là quyền lợi của mình chưa được thường xuyên chú trọng đúng
mức, dẫn đến khơng ít phạm nhân chưa nêu cao ý thức tự giác lao động.
+ Việc tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm khuyến khích phạm nhân thực
hiện tốt nghĩa vụ lao động, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao
động như: biểu dương khen thưởng đối với phạm nhân có sáng kiến hay, hoàn
thành vượt mức chỉ tiêu, tổ chức thi đua giữa các tổ đội, tổ chức các phong trào thi
đua, các hoạt động vui chơi giải trí… chưa được chú trọng, trong khi đó việc xử đối
với phạm nhân chay lười lao động, vi phạm kỷ luật có lúc thiếu kịp thời, chưa
nghiêm, chưa đủ sức răn đe.
+ Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, giáo dục phạm nhân trình độ và năng
lực thực hiện văn hóa ứng xử, chuyên môn nghiệp vụ quản lý, giáo dục phạm nhân
chưa đồng đều, trong đó nhiều cán bộ chưa được đào tạo, bồi dưỡng chuyên ngành
giáo dục, cải tạo phạm nhân.
+ Một số quy định pháp luật chưa được giám thị trại tổ chức thực hiện

nghiêm túc, ví dụ như chưa tổ chức khu vực lao động riêng cho người chưa thành
niên.
1.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện đúng quy
định về chế độ lao động của phạm nhân
Trên cơ sở nghiên cứu Luật Thi hành án hình sự năm 2010, 2019, Thơng tư
Liên tịch số 04, 12 và các văn bản qui phạm pháp luật khác có liên quan, đối chiếu
với nghiên cứu, khảo sát thực tiễn việc thực hiện chế độ lao động cho phạm nhân tại


×