Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Cổ phần hóa các công ty nhà nước lí luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.97 KB, 48 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
--------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

CỔ PHẦN HỐ CÁC CƠNG TY NHÀ NƯỚC
LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ VĂN CHÍNH
Khóa: 30 - MSSV: 3020032
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. PHAN HUY HỒNG

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2009

1


LỜI CAM ĐOAN.
Tơi xin cam đoan cơng trình nghiên cứu khoa học này là của riêng tôi. Các số liệu và
thơng tin nêu trong bài khóa luận là hồn tồn trung thực. Các dữ liệu, luận điểm được
trích dẫn đầy đủ nếu không thuộc ý tưởng hoặc kết quả tổng hợp của chính bản thân
tơi. Tơi xin chịu trách nhiệm hồn tồn về tính xác thực này
Tác giả khóa luận.
Lê Văn Chính

2


LỜI MỞ ĐẦU
 Lí do chọn đề tài.


CPH DNNN (trước khi Luật DNNN 2003 có hiệu lực, thuật ngữ DNNN có nội
hàm trùng khớp với thuật ngữ CTNN trong LDNN 2003), là một chủ trương đúng đắn
trong chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình hội nhập
quốc tế. Chủ trương này được thực hiện thí điểm ban đầu vào năm 1990 trên cơ sở
pháp lí là Quyết định số 143/HĐBT ngày 10/5/1990. Sau đó được cụ thể trong Nghị
quyết TW 3 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX và điều 15 Hiến pháp 1992, và
được áp dụng thực tế từ năm 1992 theo Quyết định số 202/HĐBT ngày 08 tháng 06
năm 1992 của Hội Đồng Bộ Trưởng. Như vậy nếu lấy mốc là năm 1992 thì đã được
thực hiện ở nước ta được 17 năm, thực chất quá trình này là sắp xếp lại các DNNN
nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, quản lí DNNN, có tác động sâu rộng
đến sự phát triển kinh tế của đất nước, đời sống người lao động.
Trên cơ sở đó, khi tác giả tiếp cận vấn đề CPH các CTNN, thì đã có rất nhiều
cơng trình nghiên cứu khoa học của nhiều tác giả, cùng với đó là rất nhiều phương
pháp và cách lí giải tiếp cận vấn đề khác nhau. Nhưng thực tế khơng đơn thuần chỉ nằm
ở những khía cạnh đã phân tích, bởi lẽ pháp luật thực định dù có tốt đến đâu, dự liệu
vấn đề có chiến lược đến đâu cũng không thể theo kịp với sự biến đổi và đi lên của xã
hội. Vấn đề CPH lại là một vấn đề mang tính thực tiễn cao với rất nhiếu vướng mắc
chưa có hướng tháo gỡ. Vì vậy việc tìm ra những khó khăn, vướng mắc trong việc
CPH CTNN để đưa ra giải pháp hoàn thiện là vấn đề cần phải được quan tâm cao và
chú trọng. Để đem tới cái nhìn khác tồn diện và mới mẻ hơn, giải quyết những vấn đề
đã và đang còn bất cập, những vấn đề mới phát sinh thêm mà pháp luật chưa có hướng
giải quyết, tác giả đã chọn đề tài “CPH các CTNN lí luận và thực tiễn” làm khóa luận
tốt nghiệp cho mình.
Những kiến nghị, giải pháp sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật nhằm
xúc tiến quá trình CPH các CTNN của tác giả nêu lên trong bài khóa luận này đều xuất
pháp từ ý kiến chủ quan trong q trình nghiên cứu. Cùng với đó do vốn kiến thức và
khả năng nắm bắt vấn đề còn hạn chế, nên những vấn đề nêu ra có thể cịn chưa hồn
tồn bao qt hết tính chất đa dạng và phức tạp của một giải pháp đang còn gặp nhiều
vướng mắc. Song tác giả vẫn hi vọng rằng, bài khóa luận này sẽ là một đóng góp cho
việc nghiên cứu và đưa ra các giải pháp hữu hiệu cho công tác CPH CTNN ở nước ta

hiện nay.
Là một sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường, với vốn kiến thức còn hạn chế,
chắc chắn bài viết của em còn có nhiều sai sót. Vì thế em rất mong được sự chỉ bảo
hướng dẫn tận tình của Thầy Phan Huy Hồng – giảng viên Trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh để khóa luận của em được hồn thiện hơn. Em xin chân thành cảm
ơn Thầy.
 Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của để tài.
Đề tài là cơng trình nghiên cứu có giá trị tham khảo cho những người làm cơng
tác pháp luật trong q trình hoàn thiện những quy định của pháp luật về cổ phần hóa
CTNN. Đồng thời cũng có thể làm tài liệu học tập cho các bạn sinh viên có nhu cầu
quan tâm tìm hiểu.
3


 Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài thực hiện nghiên cứu những quy định của pháp luật về CPH CTNN và
thực tế thực hiện công tác này, đồng thời làm rõ những điểm mới tiến bộ trong chính
sách quản lí của Nhà nước, cũng như những hạn chế thiếu sót của những quy định đó.
 Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Đề tài chủ yếu đi vào nghiên cứu những quy định của pháp luật về CPH các
CTNN và thực tiễn của việc áp dụng, thực hiện các quy định pháp luật. Để từ đó chỉ ra
được những vướng mắc trong quá trình thực hiện CPH và đưa ra một số ý kiến nhằm
hồn thiện hơn mặt pháp lí, đảm bảo cho việc thực hiện các quy định của pháp luật trên
thực tế.
 Mục đích nghiên cứu của đề tài.
Với mục đích tìm hướng đi và giải pháp tháo gỡ những vướng mắc, chỉ ra
những sai phạm yếu kém liên quan trong q trình CPH xuất phát từ chính cách làm và
từ thực tế thay đổi của kinh tế toàn cầu, hướng đến một bước đi phù hợp với tiến trình
phát triển và hội nhập. Tác giả thực hiện việc nghiên cứu đề tài một cách có hệ thống
từ cơ sở lí luận và thực tiễn bao gồm những quy phạm pháp luật thực định trong việc

CPH các CTNN, vấn đề về hoạt động, cơng tác quản lí của CTNN… Từ đó đánh giá
thực tiễn áp dụng giữa những quy định pháp luật vào thực tế đời sống, nhằm đưa ra
những giải pháp đề xuất, góp phần hồn thiện cơ sở pháp lí cho vấn đề CPH CTNN,
nâng cao hiệu quả hoạt động, quản lí của các DN hậu CPH.
 Phương pháp nghiên cứu.
Từ những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về vấn đề CPH các CTNN
trên cơ sở của phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tác giả kết hợp
nhiều phương pháp khác như: phương pháp bình luận, so sánh, phương pháp đánh giá,
tổng hợp …. Qua đó nhằm tổng hợp, đối chiếu các phương pháp trên tạo ra những
chuỗi logic làm nổi bật lên những thành tựu, chỉ rõ những sai phạm trong cách nghĩ,
cách làm, qua đó giúp người đọc phần nào hiểu rõ được quan điểm của tác giả khi tiếp
cận vấn đề CPH các CTNN.
 Bố cục của đề tài.
Dựa trên mục đích và yêu cầu của đề tài, kết cấu của đề tài được trình bày như sau:
Lời nói đầu.
Nội dung chính bao gồm 2 chương.
Chương 1: Những Vấn Đề Lí Luận Chung Về Cổ Phần Hóa CTNN.
Chương 2: Thực Trạng CPH CTNN những giải pháp kiến nghị.
Kết Luận.
Mục lục.
Danh mục từ viết tắt.
Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo.

CHƯƠNG 1
4


NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ CỔ PHẦN HĨA CTNN
1.1 Khái quát cơ bản về CTNN và CPH CTNN.
1.1.1 Khái niệm CTNN.

Để làm rõ những vấn đề lí luận về CTNN và lí do CPH CTNN, việc xác định
thế nào là CTNN và lí do dẫn đến việc Nhà nước thực hiện chính sách này có một ý
nghĩa cần thiết.
Theo quy định tại khoản 1, điều 3 của Luật DNNN 2003. “Công ty Nhà nước là
doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, thành lập, tổ chức quản lí,
đăng ký hoạt động theo quy định của Luật này. Công ty Nhà nước được tổ chức dưới
hình thức cơng ty nhà nước độc lập, tổng cơng ty nhà nước”.
Từ khái niệm CTNN đã nêu, CTNN được hiểu là một loại hình của DNNN.
Điều 1 Luật DNNN 2003 cũng đã quy định rõ. “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức
kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối,
được tổ chức dưới hình thức cơng ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn”.
Qua khái niệm trên ta thấy 3 điểm mấu chốt để phân biệt CTNN với DNNN
chính là vấn đề sở hữu của Nhà nước đối với vốn điều lệ, hình thức pháp lý và cuối
cùng là luật điều chỉnh.
Thứ nhất, CTNN là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ. Nhà
nước là chủ đầu tư duy nhất trong CTNN hay nói cách khác đây là doanh nghiệp một
chủ mà chủ sở hữu là Nhà nước, vốn đầu tư trong CTNN trực tiếp lấy từ ngân sách
Nhà nước. Cịn DNNN có thể là doanh nghiệp do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ
hoặc là doanh nghiệp mà nhà nước có cổ phần hoặc phần vốn góp đủ để chi phối (ở
đây có sự liên kết về vốn giữa Nhà nước và các thành phần kinh tế khác).
Hai là, về hình thức tồn tại, CTNN được tổ chức dưới hình thức CTNN độc lập,
tổng CTNN, DNNN tồn tại dưới hình thức CTNN, CTCP, CTTNHH.
Thứ ba, việc tổ chức và quản lí của CTNN theo quy định của Luật DNNN 2003,
cịn DNNN tùy vào hình thức mà chịu sự điều chỉnh của các đạo luật khác nhau, đối
với loại hình CTNN thì hoạt động theo Luật DNNN 2003, với loại hình CTCP,
CTTNHH mặc dù Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ vẫn phải hoạt động theo luật
doanh nghiệp.
1.1.2 Khái niệm Cổ phần hóa cơng ty Nhà nước.
Khi xem xét vấn đề CPH các CTNN ta cần phân biệt rõ khái niệm CPH và Tổ

chức lại CTNN. Đây là hai khái niệm riêng biệt nhưng dễ gây nhầm lẫn.
“Tổ chức lại CTNN là việc áp dụng các biện pháp nhất định nhằm làm thay đổi
hình thức tổ chức hoạt động của CTNN nhưng không làm thay đổi sỡ hữu nhà nước đối
với cơng ty đó”.1
Các hình thức tổ chức lại CTNN bao gồm: sáp nhập, hợp nhất, chia tách, chuyển
CTNN thành công ty TNHH một thành viên, hoặc công ty TNHH hai thành viên trở
lên, chuyển tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập thành tổng công
ty do các công ty tự đầu tư và thành lập.
1

Xem Trường Đại học luật Tp. Hồ Chí Minh khoa thương mại (2007), Tập bài giảng chủ thể kinh doanh (tr. 207)

5


“Cổ phần hóa các CTNN là hình thức chuyển CTNN thành CTCP bằng cách
Nhà nước bán một phần hoặc toàn bộ giá trị cơng ty thơng qua hình thức bán cổ phần.
Đây là một hình thức chuyển đổi sở hữu CTNN từ chỗ chỉ thuộc về Nhà nước thành
CTCP thuộc sở hữu của nhiều cổ đông”.2
Từ khái niệm trên ta thấy CPH khác với tổ chức lại CTNN chính là ở chỗ việc tổ
chức lại CTNN không làm thay đổi sở hữu Nhà nước, cịn CPH các CTNN có thể làm
thay đổi sở hữu Nhà nước ở việc có nhiều chủ sở hữu là cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ
phần mà Nhà nước bán ra.
Như vậy sau khi CPH các CTNN sẽ trở thành các công ty cổ phần, đó là một
loại doanh nghiệp trong đó các thành viên chỉ chịu trách nhiệm nợ và các nghĩa vụ tài
sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn (tức là số cổ phần) của mình góp vào
doanh nghiệp. CTCP là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân mà vốn kinh
doanh do nhiều người đóng góp dưới hình thức cổ phần. Các cổ đơng trong các Cơng
ty chỉ có trách nhiệm hữu hạn đối với phần vốn góp của mình. Nhờ đặc điểm này mà
cơng ty là một hình thức pháp lí đầy đủ và thuận lợi để kinh doanh.

Xét ở bản chất pháp lý, CPH là biến doanh nghiệp một chủ thành doanh nghiệp
nhiều chủ, tức là chuyển hình thức sở hữu đơn nhất sang sở hữu chung, thông qua việc
chuyển một phần tài sản của doanh nghiệp cho những người khác. Những người này
trở thành sở hữu doanh nghiệp theo tỷ lệ tài sản mà họ sở hữu trong doanh nghiệp
CPH. Nhìn bề ngồi, CPH là quá trình xác định lại mục tiêu phương hướng kinh
doanh, nhu cầu vốn điều lệ và chia ra thành cổ phần. Đánh giá lại tài sản của doanh
nghiệp, quyết định mức vốn Nhà nước cần nắm giữ và rao bán rộng rãi phần cịn lại.
Qua đó làm thay đổi cơ cấu sở hữu, huy động tiền vốn, xác lập cụ thể những người
tham gia làm chủ, được chia lợi nhuận và chuyển CTNN thành CTCP, thuộc sở hữu tập
thể cổ đông và chuyển sang hoạt động theo luật doanh nghiệp 2005.
Song để hiễu rõ thực chất của CPH cần thấy rằng, trong CTCP trên cơ sở vốn
điều lệ được chia ra làm nhiều phần thì quyền lợi và trách nhiệm đối với kết quả sản
xuất kinh doanh cũng được phân ra thành những đơn vị theo cơ cấu sỡ hữu. Sở dĩ CPH
có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của các CTNN là do qua CPH giúp thay đổi quy
chế hoạt động của doanh nghiệp từ chỗ hoàn toàn bị Nhà nước định đoạt sang tự chủ
kinh doanh theo quy định của pháp luật, cơ cấu sở hữu doanh nghiệp cũng có sự thay
đổi, dẫn tới cơ cấu và cơ chế thực hiện quyền lợi và trách nhiệm đối với kết quả kinh
doanh cũng thay đổi theo, từ đó tạo ra một cơ cấu động lực có chủ thể rõ ràng hợp lực
mạnh mẽ hơn, đồng thời CPH sẽ chuyển doanh nghiệp sang vận hành theo một cơ chế
quản lí mới, tự chủ, năng động hơn, nhưng có sự giám sát rộng rãi và chặt chẽ hơn.
Cho nên, thực chất CPH là giải pháp tài chính và tổ chức, dựa trên chế độ cổ
phần nhằm đổi mới cơ chế và cơ cấu phân chia quyển lợi, trách nhiệm gắn chặt với kết
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.3 Lí do cổ phần hóa cơng ty nhà nước.
Trong nền kinh tế của nước ta, khu vực kinh tế Nhà nước đóng một vai trị rất
quan trọng. Qua nhiều giai đoạn khác nhau, các CTNN đã có những đóng góp rất lớn
vào sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên bên cạnh những
2

Xem Trường Đại học luật Tp. Hồ Chí Minh khoa thương mại (2007), Tập bài giảng chủ thể kinh doanh (tr. 209)


6


doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì cịn một bộ phận khơng nhỏ những doanh nghiệp
khơng thích ứng được với tình hình mới nên hoạt động kém hiệu quả và gây nên nhũng
tổn thất to lớn cho nền kinh tế đất nước.
Các CTNN của ta hiện nay phần lớn là kế thừa từ thời bao cấp nên trình độ kỹ
thuật, cơng nghệ lạc hậu, khơng có nguồn thay thế. Cơ cấu CTNN khơng hợp lí, khơng
có khả năng tự đổi mới công nghệ cũng như ngành nghề, ngoại trừ một số ít CTNN
được đầu tư mới do Nhà nước đầu tư nhằm thực hiện những mục tiêu trọng điểm, còn
hầu hết các doanh nghiệp đều đã được thành lập khá lâu, có trình độ kỹ thuật thấp. Mặt
khác các doanh nghiệp được xây dựng bằng kỹ thuật của nhiều nước khác nhau nên
tính đồng bộ trong các CTNN là rất thấp.
Việc phân bố các doanh nghiệp cịn có nhiều bất cập, về ngành nghề, vị trí địa
lí, vùng miền. Nhiều nhà máy được xây dựng mà khơng có sự bố trí về vùng ngun,
nhiên liệu, điều kiện giao thơng đi lại khó khăn khiến cho việc doanh nghiệp tốn thêm
phần chun trở, hiệu quả của q trình lưu thơng hàng hóa, phân phối sản phẩm ra thị
trường khơng thu lại kết quả tốt.
Trình độ quản lí trong các doanh nghiệp là thấp, chậm được đổi mới. Đại đa số
cán bộ quản lí chưa được đào tạo lại và chưa được trang bị những kiến thức quản lí tiên
tiến đặc biệt là trong lĩnh vực quản trị tài chính doanh nghiệp. Hoạt động yếu kém cịn
được thể hiện thơng qua hiệu quả sử dụng vốn thấp.
Từ thực trạng tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, ta thấy rằng CPH
CTNN là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta xuất phát từ yêu cầu đẩy
mạnh công cuộc đổi mới nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình hội nhập, hợp tác phát triển
và hội nhập kinh tế trong khu vực và trên thế giới.
CPH CTNN góp phần đa dạng hóa sở hữu nhằm thực hiện chính sách phát triển
kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta. Nền kinh tế nhiều thành phần là
một chỉnh thể gồm các bộ phận, các thành phần kinh tế tương tác và phụ thuộc lẫn

nhau. Nền kinh tế đó chỉ có thể hoạt động và phát triển lành mạnh nếu toàn thể các
thành phần kinh tế có điều kiện phát triển lành mạnh.
CPH tạo môi trường thuận lợi để thủ tiêu tâm lí và tác phong quen thuộc từ nền
kinh tế tập trung bao cấp, đó là tâm lí và tác phong xem sở hữu tồn dân là sở hữu
khơng của riêng ai, do đó khơng có chủ thể cụ thể chịu trách nhiệm về kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp, dẫn đến tùy tiện, lãng phí. Khi CTNN đã chuyển sang CTCP
thì mọi người góp vốn vào cơng ty đều là cổ đông và chịu trách nhiệm đối với công ty
trong phần vốn góp của mình, cho nên người có cổ phần thực sự quan tâm đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tự giác thực hiện giám sát chặt chẽ về tài
chính và các vấn đề thu chi của doanh nghiệp.
CPH làm giảm nhẹ gánh nặng ngân sách về các khoản bao cấp còn tồn tại dai
dẳng, nhất là bao cấp về vốn tín dụng thơng qua ngân hàng. Từ đó, nâng cao khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp và giúp Nhà nước phân phối lại nguồn vốn ít ỏi của
mình một cách có hiệu quả hơn.
Khi CTNN trở thành CTCP thì có thể thu hút thêm nguồn vốn (kể cả nguồn vốn
đầu tư nước ngoài), vào việc trang bị mày móc, thiết bị kỹ thuật, thay đổi công nghệ,
mở rộng sản xuất của các CTNN hiện có nên năng lực sản xuất kinh doanh, năng suất
lao động, lợi nhuận cao hơn trước. Việc thu hút được một khối lượng lớn vốn góp
7


trong xã hội giúp CTCP có đủ vốn để đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, tránh
được tình trạng thiếu vốn mà một số CTNN thường gặp phải.
CPH giúp phát huy quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp có phần vốn Nhà
nước và tinh thần tích cực của người lao động tại CTNN. Quyền lợi của người lao động
trong công ty, đồng thời là các cổ đông gắn với quyền lợi của công ty. Người lao động
một mặt làm việc với tinh thần trách nhiệm cao vì quyền lợi của mình, mặt khác cũng
yêu cầu Hội đồng quản trị, Ban giám đốc phải chỉ đạo công ty hoạt động có hiệu quả
để thu lợi nhuận cao hơn. Phương pháp quản lí điều hành thay đổi, từ việc Giám đốc
CTNN do cấp trên chỉ định sang hình thức bầu Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và

Ban giám đốc, do đó trách nhiệm của những người quản lí cũng cao hơn.
Là một loại hình của DNNN nên CPH các CTNN cũng là một yêu cầu cấp thiết
cần phải đặt ra.
Hiện nay các CTNN đang trong giai đoạn hội nhập nhưng lại rơi vào tình trạng
thiếu vốn trầm trọng, quy mơ vốn điều lệ của các CTNN xem ra rất nhỏ bé (do được
hình thành từ nguồn vốn của Nhà nước hoặc từ những cơ quan nhà nước có thẩm
quyền), tình trạng làm ăn thua lỗ, nợ khá lớn làm cho tình hình tài chính của một số
doanh nghiệp khơng lành mạnh. Chất lượng quản lí, sản phẩm lưu thơng, cung ứng và
đầu tư chiến lược chưa được đảm bảo làm thất thoát nhiều tỷ đồng trong những vụ án
kinh tế.
Để đáp ứng được nhu cầu kinh doanh và đầu tư có chiều sâu, đầu tư dài hạn địi
hỏi các CTNN cần phải bổ sung thêm vốn mà cách duy nhất là có thể CPH nhằm huy
động vốn từ cơng chúng, điều này không đơn thuần chỉ là giảm bớt áp lực đối với ngân
sách Nhà nước mà còn giúp cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực tài chính, thơng
qua tăng vốn điều lệ, đồng thời tạo điều kiện để các doanh nghiệp đầu tư phát triển,
góp phần làm đa dạng nguồn vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình.
Mặt khác để nâng cao năng lực quản trị của doanh nghiệp thì việc khuyến khích
sự tham gia của các đối tác chiến lược nước ngoài cũng là rất cần thiết. Phương pháp
tốt nhất là đa dạng hóa sở hữu các doanh nghiệp thông qua biện pháp CPH, tạo điều
kiện thu hút nguồn vốn, và các nhà đầu tư nước ngồi có kinh nghiệm và năng lực tài
chính tham gia vào cơng tác quản lí điều hành thời ký hậu CPH.
Đặc biệt khi các CTNN đã chuyển sang hình thức CTCP thì sẽ loại bỏ được sự
thiếu minh bạch trong các mục tiêu và chiến lược doanh nghiệp theo đuổi, buộc lãnh
đạo các doanh nghiệp làm việc vì lợi ích của cổ đơng. Và vì vậy, buộc họ phải nổ lực
hết mình nếu khơng muốn bị các cổ đơng khác bãi miễn quyền lãnh đạo.
Như vậy CPH là phương thức hữu hiệu để các CTNN có thể cùng một lúc đạt
được nhiều mục tiêu trong chiến lược phát triển của mình. Một mặt, CPH giúp các
doanh nghiệp huy động thêm nguồn vốn từ công chúng để phát triển và đảm bảo an
toàn kinh doanh. Mặt khác, CPH tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư chiến lược trong
và ngồi nước, từ đó giúp các doanh nghiệp hiện đại hóa cơng nghệ, nâng cao năng lực

quản lí và quản trị điều hành, đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh
tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra nhanh chóng.
1.2

Mục tiêu của cổ phần hóa

8


Như chúng ta được biết, từ khi nền kinh tế Việt Nam chuyển sang nền kinh tế
thị trường thì giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có sự cạnh tranh
ngày càng trở nên mạnh mẽ. Để đảm bảo cho các CTNN có quyền chủ động trong
cạnh tranh, Nhà nước có chủ trương và chính sách chuyển đổi sở hữu Nhà nước. CPH
là một trong những cách thức chuyển đổi sở hữu CTNN. Theo Luật doanh nghiệp Nhà
nước 2003 và Luật doanh nghiệp 2005 trong thời hạn 4 năm kể từ ngày Luật Doanh
nghiệp 2005 có hiệu lực, các CTNN phải chuyển đổi thành các công ty TNHH, hoặc
CTCP để hoạt động theo Luật Doanh nghiệp 2005. Theo đó mục tiêu của CPH được
quy định như sau.

Chuyển đổi những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn sang
loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của các nhà đầu tư trong
nước và nước ngồi để nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới
phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế 3
Việc cơ cấu lại sở hữu của CTNN không cần tiếp tục giữ 100% vốn điều lệ sử
dụng có hiệu quả hơn số tài sản Nhà nước đã đầu tư vào cơng ty. Phần vốn Nhà nước
trong q trình đầu tư kinh doanh được luân chuyển một cách khoa học, hợp lý. Nhà
nước không tiếp tục giữ 100% vốn điều lệ, việc này giúp cho việc phân bổ các nguồn
vốn tốt hơn, phần ngân sách chi cho đầu tư kinh doanh được Nhà nước sử dụng cho các
mục tiêu kinh tế vĩ mô khác. Mặt khác hoạt động này nhằm huy động vốn của toàn xã
hội, tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, phát huy quyền làm chủ của

các cổ đông trong việc đầu tư giám sát doanh nghiệp. Nó thậm chí cịn có thể bổ sung
cả nguồn nhân lực cho bộ máy lãnh đạo của đơn vị, tạo ra động lực mạnh mẽ và cơ chế
quản lí năng động cho doanh nghiệp trong đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng thị
trường sản xuất và sử dụng vốn có hiệu quả. Các doanh nghiệp sau khi sắp xếp, cổ
phần hóa thực hiện sản xuất kinh doanh sẽ có thể phát triển mạnh mẽ, đạt hiệu quả cao,
có tăng trưởng về nguồn vốn, tiếp cận thị trường, chủ động trong sản xuất kinh doanh,
thu hút thêm lao động. Thu nhập của người lao động ngày càng tăng, tạo sự ổn định
cho người lao động cũng như ổn định cho doanh nghiệp.

Đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao
động trong doanh nghiệp. 4
Đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, Nhà đầu tư và người lao
động trong doanh nghiệp không đơn giản chỉ là những vấn đề chỉ số về lợi ích, sự cân
bằng trong việc chia sẻ quyền lực mà nó cịn là những vấn đề mang tính thiết thực có
thể nhìn thấy được. Nhà nước với vai trò là nền kinh tế chủ đạo được xem là nhân tố
quan trọng đảm bảo cho sự phát triển bền vững của các thành phần kinh tế khác. Điều
đó thể hiện thơng qua các hoạt động quản lí điều hành của Nhà nước nhằm bảo đảm
cho việc thực thi các chính sách, luật pháp của mình hữu hiệu hơn tại chính doanh

3

Xem Khoản 1 điều 1 nghị định 109/2007/NĐ-CP
Xem Khoản 2 điều 1 nghị định 109/2007 NĐ-CP

4

9


nghiệp.

Đối với các CTNN, CPH tạo ra khả năng phát triển nguồn vốn, thu hút và tổ
chức thêm nhiều nguồn vốn từ xã hội, mở rộng phạm vi chi phối của nguồn vốn nhà
nước. Ngồi ra cịn tạo thuận tiện cho việc lưu động vốn nhà nước giữa các doanh
nghiệp và ngành nghề khác nhau, thông qua thị trường vốn, làm tăng hiệu quả vốn
trong sản xuất, kinh doanh.
Đặc biệt đối với người lao động, CPH tạo điều kiện cho họ trở thành cổ đông,
thực sự làm chủ công ty. Nó vừa bảo đảm lợi ích thiết thực cho người lao động vừa
giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa các chủ thể lợi ích trong việc CPH các CTNN.
Theo quy định tại điều 44 và 45 Luật DNNN 2003, khi CPH nguời lao động có cổ phần
trong cơng ty đuợc quyền tham gia quản lí cơng ty thơng qua các hình thức Đại hội
tồn thể hoặc Đại hội cơng nhân viên chức được tổ chức từ tổ, đội, phân xưởng phịng
ban, đến cơng ty, để thảo luận và biểu quyết các vấn đề liên quan đến lợi ích của mình
và của doanh nghiệp, tham gia tổ chức cơng đồn của công ty, Ban thanh tra nhân dân,
tham gia thảo luận góp ý kiến trước khi cấp có thẩm quyền quyết định về các vấn đề
phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch, biện pháp phát triển sản xuất kinh doanh, sắp xếp
lại cơng ty, phương án cổ phần hóa, đa dạng hóa sở hữu cơng ty (…). Nhưng thực tế
trong hoạt động này chỉ có một số bộ phận các cổ đơng nắm giữ cổ phần lớn và có
tiếng nói trong cơng ty tham gia. Lý do xuất phát từ chính tâm lí e ngại của người lao
động trong việc đóng góp ý kiến cho cơng ty, đánh giá thấp vai trị của chính mình
trong với tư cách là một cổ đông, hoặc doanh nghiệp không thực sự tạo điều kiện cho
nguời lao động tham gia quản lí. Có một số trường hợp, người lao động tham gia quản
lí nhưng lại theo nghĩa vụ mà không hiểu rõ trách nhiệm của mình trong vấn đề này có
ý nghĩa quan trọng với bản thân, công ty như thế nào. Người lao động đã gián tiếp từ
bỏ cái quyền mà lẽ ra họ cần làm để bảo vệ cho chính mình. Bên cạnh đó, khi CPH có
lẽ vấn đề mà người lao động quan tâm tới nhất chính là vấn đề việc làm của họ sẽ được
sắp xếp, bố trí như thế nào sau khi doanh nghiệp CPH. Các trường hợp mất việc làm
liệu có phương án ổn thỏa giải quyết đúng quyền lợi của họ khơng, phương án kinh
doanh mới liệu có mang lại hiệu quả tích cực khơng khi mà người lao động cũng chính
là người được thụ hưởng phần lợi nhuận đó với tư cách là một cổ đơng. Đây không
những là mối lo lắng của người lao động mà còn là mối lo của Nhà nước trong vấn đề

an sinh xã hội, của doanh nghiệp trong phương án sắp xếp, và đầu tư kinh doanh và
nhà đầu tư trong việc tìm kiếm lợi nhuận.
 Thực hiện cơng khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục tình
trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp, gắn với phát triển thị trường
vốn, thị trường chứng khoán 5
Việc cơng khai minh bạch hóa các quy định của pháp luật là một trong những vấn
đề cần thiết đáng quan tâm. Bởi lẽ tác giả nhận thấy, hiện nay chính sự không công
5

Xem Khoản 3 điều 1 Nghị định 109/2007/NĐ-CP

10


khai, minh bạch hóa các thơng tin về doanh nghiệp khiến cho việc các cổ đông hoặc
các nhà đầu tư thiếu thông tin về doanh nghiệp, khiến họ mất đi những kênh thông tin
quan trọng trong việc đầu tư hoặc trong việc kiểm soát doanh nghiệp.
Yếu tố thị trường vốn và TTCK phải cần được xem như là một kênh thơng tin
tối đa thể hiện tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, là phong vũ biểu của
các nhà đầu tư trong nước và ngồi nước xem xét nhìn nhận đánh giá hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp. Ngoài ra, để thực hiện tốt được mục tiêu này còn cần phải
cơng khai minh bạch hóa các thơng tin về công ty như giá trị thực và giá trị tương lai
của cơng ty, để các nhà đầu tư có được cái nhìn chân thực nhất khi quyết định đầu tư
vào cơng ty đó. Nó được xem là yếu tố bảo vệ nhà đầu tư một cách thiết thực nhất.
1.2.1

Đối tượng và hình thức cổ phần hóa


Đối Tượng CPH


Trước kia vấn đề này được đề cập tại Nghị định 187/2004/NĐ-CP. Nhưng hiện
nay vấn đề này được điều chỉnh tại nghị định 109/2007/NĐ-CP. Theo quy định tại
Điều 2 NĐ 109/2007/NĐ/CP thì đối tượng cổ phần hóa bao gồm:
 Cơng ty nhà nước độc lập thuộc các Bộ, ngành, địa phương.
 Công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế (sau đây gọi tắt là tập đồn), Tổng cơng ty
nhà nước (kể cả Ngân hàng Thương mại nhà nước).


Công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ - công ty con.



Công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.


Cơng ty thành viên hạch tốn độc lập thuộc Tổng công ty do Nhà nước
quyết định đầu tư và thành lập.
 Đơn vị hạch tốn phụ thuộc của cơng ty nhà nước độc lập, tập đồn, tổng
cơng ty nhà nước, cơng ty mẹ, cơng ty thành viên hạch tốn độc lập của Tổng cơng ty.
Để được cổ phần hóa thì các doanh nghiệp phải thỏa mãn điều kiện là sau khi xử
lí các tồn tại về tài chính, nợ và tài sản tồn đọng thì các doanh nghiệp phải cịn vốn Nhà
nước để CPH. Tuy nhiên, không phải bất kỳ CTNN nào cũng thuộc đối tượng CPH.
Đối với những CTNN làm ăn thua lỗ, yếu kém thì nó có thể thuộc đối tượng giải thể
hoặc phá sản tức là sau khi đã được xử lí tài chính và xác định lại giá trị doanh nghiệp
mà giá trị thực của doanh nghiệp thấp hơn các khoản phải trả thì chuyển sang bán hoặc
giải thể phá sản. Đây chính là điểm khác biệt giữa CPH với giải thể và phá sản.
Đối với đơn vị hạch toán phụ thuộc của các CTNN mà Nhà nước không nắm
giữ 100% vốn điều lệ chỉ được tiến hành khi thỏa mãn các điều kiện sau:
 Có đủ điều kiện hạch toán độc lập;

11


 Việc cổ phần hóa đơn vị hạch tốn phụ thuộc khơng gây khó khăn hoặc ảnh
hưởng đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp hoặc các bộ phận còn lại
của doanh nghiệp;
 Đã xác định trong Phương án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt
Việc nhà nước quy định như vậy để đảm bảo sau khi CPH, doanh nghiệp và
các bộ phận khác của doanh nghiệp vẫn hoạt động bình thường, khơng làm xấu đi tình
trạng hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
 Hình Thức CPH
Trước nhất ta xác định loại hình doanh nghiệp nào được phát hành cổ phần. Khi
tiến hành CPH, một trong những điều kiện quan trọng để doanh nghiệp 100% vốn của
Nhà nước được CPH là doanh nghiệp đó phải cịn vốn của Nhà nước sau khi đã xử lí
tài chính tại doanh nghiệp. Tùy theo vị trí, vai trò và lĩnh vực hoạt động của từng doanh
nghiệp mà Nhà nước quyết định CPH theo một trong những hình thức sau:
Hình thức 1: Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành
thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ6.
Ví dụ, khi Nhà nước quyết định CPH doanh nghiệp, giá trị doanh nghiệp được
xác định là 2 tỷ đồng thể hiện bằng 2.000 cổ phiếu. Mỗi cổ phiếu có mệnh giá là 1triệu
đồng. Nhà nước phát hành thêm 8.000 cổ phiếu nữa và bán cho các tổ chức, cá nhân
khác. Vốn của CTCP bây giờ là 10 tỷ đồng tương ứng với 10.000 cổ phiếu. Nhà nước
có 2.000 cổ phiếu, các tổ chức cá nhân khác có 8.000 cổ phiếu trong CTCP. Nhà nước
và họ là những cổ đơng của cơng ty.
Theo hình thức này, phần vốn của Nhà Nước vẫn được giữ nguyên như trước
khi CPH, doanh nghiệp chỉ phát hành cổ phiếu để huy động thêm vốn nhằm phát triển
sản xuất kinh doanh.
Hình thức này áp dụng đối với các doanh nghiệp CPH có nhu cầu tăng thêm vốn
điều lệ. Mức vốn huy động thêm tùy thuộc vào quy mô và nhu cầu vốn của chính

CTNN. Tuy nhiên hình thức này lại hạn chế sự tham gia của các cổ đông do cổ phiếu
phát hành khơng nhiều, bởi vì hình thức này là một biện pháp mà Nhà nước áp dụng
đối với những CTNN có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế, an ninh quốc gia và các mục
tiêu an sinh xã hội, do vậy Nhà nước ln muốn hạn chế phần vốn góp của các cá
nhân, tổ chức, để qua đó có thể kiểm sốt CTNN một cách có hệ thống hơn, tránh tình
trạng mâu thuẫn về lợi ích, quyền, nghĩa vụ của các cổ đông, khi Nhà nước cần sử
dụng đến quyền lực quản lí của mình tác động tới chính doanh nghiệp đó.
Hình thức 2: Bán một phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp
vừa bán bớt một phần vốn Nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.7
Ví dụ doanh nghiệp đưa ra CPH có giá trị là 6 tỷ đồng tương ứng với 6.000 cổ
phiếu. Nhà nước bán đi 5.000 cổ phiếu, giữ lại 1.000 cổ phiếu. Nhà nước và những
người mua cổ phiếu cùng là cổ đông của công ty.
Như vậy Nhà nước khơng cần bán hết tồn bộ phần vốn hiện có của mình tại
doanh nghiệp. Tức là trong mọi trường hợp, Nhà nước đều giữ lại một phần sở hữu. Để
6
7

Xem Khoản 1 điều 4 Nghị định 109/2007NĐ-CP
Xem Khoản 2 điều 4 Nghị định 109/2007NĐ-CP

12


thực hiện CPH theo hình thức này, trước hết phải xác định giá trị doanh nghiệp CPH,
xác định số cổ phần trên giá trị đó, xác định phần vốn nhà nước cần giữ lại để đầu tư
trong doanh nghiệp, phần cịn lại sẽ bán cho các cổ đơng trong và ngoài doanh nghiệp.
Thực tiễn cho thấy tùy theo tầm quan trọng của doanh nghiệp CPH mà Nhà
nước sẽ giữ lại số cổ phần nhiều hay ít. Đồng thời doanh nghiệp cũng có thể phát hành
thêm cổ phiếu để thu hút thêm vốn như hình thức thứ nhất. Tuy nhiên CPH theo hình
thức này sẽ trực tiếp thu nhỏ đi sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp. Thế nhưng ta cần

định liệu rằng khi CPH các CTNN theo hình thức này có làm suy yếu các CTNN
khơng?. Câu trả lời sẽ là không nếu như Nhà nước dùng số vốn đã rút ra đầu tư vào
Doanh nghiệp khác có hiệu quả hơn. Mặt khác nếu số vốn được rút ra từ các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác bằng hình thức cổ phần thì sẽ làm tăng khối
lượng và tỉ trọng tổng thu nhập quốc dân chi phối lên một mức đáng kể. Vai trò chủ
đạo của hệ thống các CTNN cũng tăng lên theo tỷ lệ thuận với yếu tố đó.
Hình thức 3: Bán tồn bộ vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp
vừa bán toàn bộ vốn Nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.8
Ví dụ doanh nghiệp được đưa ra CPH có giá trị là 5 tỷ đồng tương ứng với
5.000 cổ phiếu. Số cổ phiếu đó được bán hết cho các tổ chức, cá nhân. Trong trường
hợp này, Nhà nước không là cổ đông của công ty, những tổ chức cá nhân mua cổ phiếu
là những cổ đơng của cơng ty.
Tức là tồn bộ vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp sẽ được chia thành cổ
phần để bán hết cho người lao động và nhà đầu tư ngồi doanh nghiệp. Đồng thời
doanh nghiệp cũng có thể phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. Sau khi tiến
hành CPH theo hình thức này thì Nhà nước khơng cịn nắm giữ cổ phần tại doanh
nghiệp. Hình thức này được áp dụng với các doanh nghiệp có quy mô sản xuất nhỏ,
hoạt động trong những nghành nghề không quan trọng nên Nhà nước không cần giữ cổ
phần. Hình thức này có ưu điểm là thu hồi được phần vốn Nhà nước để đầu tư kinh
doanh ở những lĩnh vực, nghành nghề quan trọng khác.

Đối tượng và điều kiện mua cổ phần
 Cổ phần: Theo khoản 1 điều 77 của Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định
CTCP là doanh nghiệp, trong đó: vốn điều lệ được chia thành những phần bằng nhau
gọi là cổ phần.
 Cổ phiếu: là chứng chỉ do CTCP phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền
sở hữu một hoặc một số cổ phần của cổ đơng tại cơng ty đó. Cổ phiếu có thể ghi tên
hoặc khơng ghi tên. nhưng phải có đủ nội dung chủ yếu sau đây:
a) Tên địa chỉ trụ sở chính của cơng ty
b) Số và ngày cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh

c) Số lượng cổ phần và loại cổ phần
d) Mệnh giá cổ phần và tổng mệnh giá số cổ phần ghi trên cổ phiếu
e) Họ tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc
chứng thực cá nhân hợp pháp khác của cổ đông là cá nhân, tên địa chỉ thường
trú , quốc tịch, số quyết định thành lập hoặc sổ đăng kí kinh doanh của cổ đơng
là tổ chức đối với cổ phiếu có ghi tên.
8

Xem Khoản 3 điều 4 Nghị định 109/2007NĐ-CP

13


f)
g)
h)
i)

Tóm tắt về thủ tục chuyển nhượng cổ phần.
Chữ kí mẫu của người đại diện theo pháp luật và dấu của cơng ty.
Số đăng kí tại sổ đăng kí cổ đông của công ty và ngày phát hành cổ phiếu.
Các nội dung khác theo quy định tại các điều 82, điều 82, điều 83 của luật doanh
nghiệp đối với cổ phần ưu đãi.9

Cổ đơng: Là người sở hữu ít nhất một cổ phần đã phát hành của CTCP10
 Đối tượng mua cổ phần.
Bao gồm các đối tượng sau đây:

Nhà đầu tư trong nước: Là cá nhân người Việt Nam, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội được thành lập và hoạt động theo luật pháp Việt Nam (gọi tắt là nhà đầu tư trong

nước). Theo quy đinh thì nhà đầu tư trong nước được quyền mua cổ phần với số lượng
khơng hạn chế.11

Nhà đầu tư nước ngồi: Là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện
hoạt động đầu tư tại Việt Nam, Nhà đầu tư nước ngồi có nhu cầu mua cổ phần phải
mở tài khoản tiền gửi tại một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đang hoạt động trên
lãnh thổ Việt Nam và tuân thủ pháp luật Việt Nam. Mọi hoạt động mua, bán cổ phần,
nhận, sử dụng cổ tức và các khoản thu chi khác từ đầu tư mua cổ phần đều phải thông
qua tài khoản này.12

Nhà đầu tư chiến lược: Là các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngồi
có năng lực tài chính, quản trị doanh nghiệp, chuyển giao công nghệ mới, cung ứng
nguyên vật liệu, phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm, gắn bó lợi ích lâu dài với
doanh nghiệp.
Căn cứ vào quy mô vốn điều lệ, tính chất ngành nghề kinh doanh và yêu cầu mở
rộng phát triển doanh nghiệp, thì Ban chỉ đạo CPH doanh nghiệp trình người quyết
định CPH việc bán cổ phần lần đầu cho nhà đầu tư chiến lược và tiêu chí lưa chọn nhà
đầu tư chiến lược, theo quy định thì nhà đầu tư chiến lược được mua cổ phần theo giá
khơng thấp hơn giá đấu thành cơng bình qn. Đối với các Tập đồn, Tổng cơng ty nhà
nước (bao gồm cả các Ngân hàng Thương mại nhà nước) nếu nhất thiết phải chọn nhà
đầu tư chiến lược thì cơ quan quyết định cổ phần hoá báo cáo Thủ tướng Chính phủ
quyết định việc tổ chức đấu thầu riêng giữa các nhà đầu tư chiến lược.
Nhà đầu tư chiến lược không được chuyển nhượng số cổ phần được mua trong
thời hạn tối thiểu 03 năm, kể từ ngày CTCP được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh. Trường hợp đặc biệt cần chuyển nhượng số cổ phần này trước thời hạn trên thì
phải được Đại hội đồng cổ đơng chấp thuận13. Đây là quyết định mang tính chiến lược
nhằm tạo cho cơng ty cổ phần có được sự ổn định trong giai đoạn đầu của việc chuyển
đổi, tránh những xáo trộn gây nên những hiệu ứng xấu đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, cũng qua đó giúp tranh thủ được thời gian tạo dựng uy tín với nhà đầu
tư, thơng qua việc này có thể tận dụng được kinh nghiệm quản lí điều hành doanh

nghiệp của các nhà đầu tư làm nền tảng cơ sở cho hoạt động kinh doanh sau này.
9

Xem Điều 85 luật doanh nghiệp 2005.
Xem Khoản 11 điều 4 luật doanh nghiệp 2005
11
Xem Khoản 1 điều 6 Nghị định 109/2007NĐ-CP
12
Xem Khoản 2 điều 6 Nghị định 109/2007NĐ-CP
13
Xem Khoản 3 điều 6 Nghị định 109/2007NĐ-CP
10

14


Lưu ý : “Người lao động trong doanh nghiệp CPH, tổ chức cơng đồn tại doanh
nghiệp, các pháp nhân trong cùng tập đồn kinh tế, Tổng cơng ty, Cơng ty mẹ không
được xác định là nhà đầu tư chiến lược”14. Quy định này chính là việc tạo ra sự bình
đẳng trong việc sở hữu phần vốn tại doanh nghiệp, vì khi được mua cổ phần các đối
tượng trên đã được ưu đãi về giá, thứ hai đây là những chủ thể có những lợi ích gắn bó
với doanh nghiệp, nếu xác định họ là những nhà đầu tư chiến lược thì mục tiêu huy
động vốn từ ngồi xã hội ngay từ đầu đã không đạt được, yếu tố này làm tăng thêm
tính CPH cục bộ khép kín trong doanh nghiệp do đó đây là quy định hồn tồn hợp lí.
Nhìn vào đối tượng được mua cổ phần ta thấy việc CPH CTNN đã có sự thay
đổi, một trong những sự thay đổi căn bản là đưa cổ đông chiến lược là người nước
ngoài vào các doanh nghiệp. Song hiện nay đang có một thực tế rất lớn, ngăn cản đối
với các nhà đầu tư chiến lược, đó là khơng phải CTNN nào cũng muốn có nhà đầu tư
chiến lược tham gia. Bởi vì khi một nhà đầu tư chiến lược tham gia và có tiếng nói
trong các quyết định của cơng ty thì quyền lực của những người điều hành hiện tại bị

giảm đi rất nhiều và khả năng bị sa thải vì năng lực khơng đáp ứng u cầu cơng việc
là điều khó tránh khỏi, điều này làm cho việc thu hút các nguồn vồn vô cùng lớn từ
nguồn tiết kiệm trong nước và ngoài nước thất bại, cộng thêm vào đó là khơng có sự
tham gia điều hành quản lí từ các chủ sở hữu bên ngồi khiến cho việc khơng có tranh
thủ được kinh nghiệm quản lí và điều hành từ họ làm cho chất lượng quản trị doanh
nghiệp hậu CPH sẽ rất khó được cải thiện.
1.2.2 Quyền được mua cổ phần lần đầu tại các doanh nghiệp.
Nghị định 109/2007/NĐ-CP đã xác lập trình tự ưu tiên trong cơ cấu cổ phần lần
đầu, trong đó sau khi dành lại số lượng cổ phần theo tỷ lệ Nhà nước cần thiết nắm giữ
thì cổ phần bán ra cho nhà đầu tư chiến lược và nhà đầu tư khác không thấp hơn 25%
vốn điều lệ. Trường hợp nếu doanh nghiệp thuộc diện Nhà nước nắm giữ cổ phần chi
phối thì cơ quan quyết định CPH xem xét, quyết định điều chỉnh quy mô vốn điều lệ để
tăng số lượng hợp lí cổ phần bán ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp hoặc
giảm cổ phần bán cho nhà đầu tư chiến lược và các nhà đầu tư thông thường, nhưng
phải đảm bảo cổ phần bán cho nhà đầu tư chiến lược và các nhà đầu tư thông thường
không thấp hơn 20% vốn điều lệ15.
Giá bán cho nhà đầu tư chiến lược không thấp hơn giá đấu thành công bình
qn, trong đó giá đấu thành cơng bình qn của cuộc đấu giá công khai làm cơ sở xác
định giá bán cổ phần ưu đãi cho người lao động, tổ chức cơng đồn tại doanh nghiệp
hoặc làm cơ sở bán theo phương thức thỏa thuận được xác đinh trên cơ sở giá, số lượng
cổ phần của các nhà đầu tư tham gia đấu giá thực tế mua. Trường hợp đấu giá riêng để
chọn nhà đầu tư chiến lược thì cơ quan quyết định CPH phải báo cáo Thủ tướng chính
phủ để được chấp thuận việc tổ chức đấu thầu riêng giữa các nhà đầu tư chiến lược.
Quy định như trên tạo ra được sự chuyển động tích cực, bởi thiết nghĩ đây là
cách tốt nhất để khuyến khích các nhà đầu tư, mặt khác cịn giúp hạn chế được tình
trạng mua bán cổ phần cục bộ trong doanh nghiệp.

14

Xem Điểm 1.3 mục A phần V thông tư 146/2007/TT- BTC

Xem Điều 35 nghị định 109/2007/NĐ-CP

15

15


Nghị định 109/2007/NĐ-CP quy định giá bán ưu đãi cho người lao động bằng
60%16 giá đấu thành cơng bình qn do Trung tâm hay Sở giao dịch chứng khoán tổ
chức đấu giá cho mọi đối tượng tham gia. Đối với những doanh nghiệp ở vùng sâu
vùng xa, giá bán cổ phần ưu đãi cho người lao động có thể thấp hơn mức giá trên theo
quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Cơng tác này giúp cho người lao động có điều
kiện tiếp cận nguồn vốn của doanh nghiệp. Với cách làm này thì chính sách giải quyết
việc mua bán cổ phần trong doanh nghiệp xem ra đảm bảo được quyền lợi cho người
lao động, nhưng hiện nay có một thực tế, khi doanh nghiệp CPH, cổ phần bán cho
người lao động dù đã có những ưu đãi nhất định song lại có một bộ phận khơng nhỏ
người lao động nghèo trong doanh nghiệp đã bán lại cổ phần của mình ngay sau khi
CPH. Sở dĩ thực trạng này bởi là do người lao động nghèo không đủ khả năng về tài
chính mua phần cổ phần của mình nên buộc họ phải bán đi cái quyền mua cổ phần của
ưu đãi của mình cho các đối tượng đầu tư khác để hưởng tiền chênh lệch. Đây có lẽ là
vấn đề gây nhức nhối nhất, vấn đề bây giờ là làm sao hạn chế tối đa sự thua thiệt cho
người lao động khi chính người lao động vì lợi nhuận trước mắt mà ảnh hưởng đến
quyền lợi của mình sau này.
Việc quy định “Các nhà đầu tư trong nước được quyền mua cổ phần lần đầu tại
các doanh nghiệp CPH với số lượng không hạn chế”17 là chưa phù hợp với tinh thần
CPH là thu hút những nhà đầu tư không những có tiềm năng về nguồn vốn, mà cịn có
trình độ quản lí hiện đại, kỹ thuật cơng nghệ tiên tiến nhằm quản trị doanh nghiệp có
hiệu quả. Thực tế nhận thấy khả năng và trình độ của các nhà đầu tư trong nước vẫn
còn nhiều hạn chế. Ở đây chúng ta cũng nên áp dụng quy định trên đối với các nhà đầu
tư nước ngồi, vì theo tác giả sỡ dĩ có quy định trên, là xuất phát từ chính tâm lí lo sợ

bị cổ đơng nước ngồi thơn tính, nhưng nhìn vấn đề thật khách quan chúng ta sẽ có thể
vận dụng hợp lí mà vẫn giữ được sự kiểm soát, để làm được điều này yết tố quyết định
nằm ở khung pháp lí, chế tài cho quy định này, sự lãnh đạo, thanh tra kiểm tra của các
cơ quan hữu quan. Có như vậy chúng ta mới có thể tranh thủ được nguồn lực chất xám
và vốn cho doanh nghiệp.
Vấn đề trên là một trong những cách để chúng ta có thể giải quyết tối đa quyền
bình đẳng về lợi ích của các nhà đầu tư với nhau, trong đó khi đưa ra một khung pháp
lí chế tài, Nhà nước và nhất là những doanh nghiệp CPH nên áp dụng thật triệt để
thống nhất, qua đó có tác dụng làm thay đổi những tư duy mang tính tư hữu của các
nhà đầu tư khi muốn thơn tính doanh nghiệp. Đây là những vấn đề mang tính pháp lí để
thu hút nhà đầu tư, chứng minh cho các nhà đầu tư mơi trường kinh doanh của Việt
Nam bình đẳng, là nơi tốt nhất để lựa chọn và quyết định đầu tư kinh doanh.
Bên cạnh đó để đảm bảo tính công khai minh bạch trong việc bán cổ phần tại
doanh nghiệp, nghị định 109/2007/NĐ-CP đã quy định việc bán cổ phần phải thông
qua đấu giá. “Nếu tổng giá trị cổ phần bán ra trên 10 tỷ đồng thì phải tổ chức bán đấu
giá tại trung tâm giao dịch chứng khoán để nhằm thu hút nhà đầu tư, nếu tổng giá trị cổ
phần bán ra dưới 10 tỷ đồng thì có thể tổ chức tại các tổ chức tài chính trung gian
(cơng ty chứng khốn, cơng ty cổ phần, các tổ chức tín dụng” …).18
16

Xem Khoản 2 điều 37 nghị định 109/32007/NĐ-CP
Xem Điểm b khoản 1 điều 6 nghị định 109/32007/NĐ-CP
18
Xem Điểm a,b khoản 2 điều 38
17

16


Trường hợp doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết trên TTCK thì việc bán cổ phần phát

hành lần đầu gắn với việc niêm yết cổ phiếu trên TTCK.

Thời điểm bán cổ phần lần đầu của CTNN.
Để giải quyết vấn đề này chúng ta cần phân biệt thời điểm bán cổ phần lần đầu
nằm trong lộ trình CPH, với việc bán cổ phần tăng vốn sau này với tư cách là một
doanh nghiệp cổ phần.
Theo luật DNNN 2003 quy định “CTNN là doanh nghiệp do Nhà nước sỡ hữu
toàn bộ vốn điều lệ, thành lập, tổ chức hoạt động theo quy định của luật DNNN 2003
và được tổ chức dưới các hình thức là cơng ty Nhà nước độc lập, tổng cơng ty Nhà
nước” và có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh. Do đó “CTNN có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức và tự chịu mọi trách
nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn điều lệ tại công
ty”.19 Chủ sở hữu Nhà nước “chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của cơng ty”.20 Trong q trình hoạt
động của mình Nhà nước chỉ huy động vốn để kinh doanh dưới hình thức phát hành
các giấy tờ có giá như: trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu cơng ty21. Vì vậy CTNN (kể cả
trong giai đoạn đang thực hiện thủ tục chuyển đổi thành CTCP) “không được phát hành
cổ phần”22 để huy động vốn.
Vậy căn cứ vào luật DNNN 2003 và luật doanh nghiệp 2005, thì chỉ khi nào
chuyển đổi thành CTCP thì các CTNN mới được phát hành cổ phần và người mua cổ
phần mới trở thành cổ đông của công ty. Vấn đề này được phản ánh tại khoản 2 điều
166 của luật doanh nghiệp 2005 trong thời hạn chuyển đổi, những quy định của luật
DNNN 2003 được tiếp tục áp dụng đối với CTNN nếu như luật doanh nghiệp 2005
khơng có quy định. Như vậy theo quy định như đã trình bày trên ta thấy thời điểm bán
cổ phần của doanh nghiệp là sau khi CTCP được thành lập, tức là Nhà nước là người
bán cổ phần sau khi CTCP được thành lập, và người mua cổ phần chỉ trở thành cổ đông
khi công ty đã chính thức chuyển thành CTCP.
Cịn việc bán cổ phần tăng vốn sau này với tư cách là một doanh nghiệp cổ
phần, lại là hành vi pháp lí mở đầu để doanh nghiệp có thể huy động vốn từ các nhà
đầu tư, tạo vốn điều lệ pháp định ban đầu làm cơ sở chuyển đổi doanh nghiệp thành

CTCP. Thông qua Đại hội đồng cổ đông đầu tiên, tạo dựng nền tảng pháp lí để tiến
hành các hoạt động kinh doanh theo chế định theo tổ chức kinh tế mới là CTCP, trên
cơ sở điều lệ tổ chức và hoạt động được đại hội đồng cổ đông thông qua và tiến hành
đăng ký kinh doanh theo luật định… Sau khi doanh nghiệp hoạt động với vị thế là một
pháp nhân mới là CTCP, thì mọi việc phát hành cổ phần để tăng thêm vốn điều lệ sẽ
khơng cịn mang ý nghĩa bán cổ phần lần đầu nữa.
Từ những lập luận trên ta thấy điểm khác nhau của hai hình thức trên là ở chỗ,
bán cổ phần lần đầu nằm trong lộ trình CPH do Ban chỉ đạo CPH doanh nghiệp nghiên
cứu xác lập và cơ quan có thẩm quyền quyết định CPH doanh nghiệp phê duyệt. Còn
việc bán cổ phần tăng vốn điều lệ sau này với tư cách là một doanh nghiệp cổ phần, thì
19

Xem Khoản 2 điều 14 luật DNNN 2003
Xem Điểm c khoản 2 điều 64 luật DNNN 2003
21
Xem Khoản 1 điều 17 luật DNNN 2003
22
Xem Khoản 3 điều 38 luật doanh nghiệp 2005
20

17


quyết định là do Đại hội đồng cổ đông của công ty đảm trách trong khuôn khổ pháp
luật chung, quy định đối với loại hình CTCP.
1.3 Về xử lí tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp trước khi CPH.
1.3.1 Xử lí những vấn đề tài chính trước khi xác định giá trị doanh nghiệp.
Đây được xem như là một chu trình để doanh nghiệp rà sốt lại tồn bộ số vốn,
các khoản thu chi của doanh nghiệp trong q trình hoạt động, đầu tư kinh doanh,
trong đó đáng chú ý nhất là những khoản nợ phải trả, và khoản nợ phải thu trong việc

hoạch tốn tài chính để xác định giá trị doanh nghiệp.
Việc xử lý tài sản thuê, mượn, nhận góp vốn liên doanh, liên kết, tài sản không
cần dùng, tài sản được đầu tư bằng Quỹ khen thưởng, phúc lợi được thực hiện như sau.
Đối với tài sản do doanh nghiệp thuê, mượn, nhận góp vốn liên doanh, liên kết và
các tài sản khác không phải của doanh nghiệp thì khơng tính vào giá trị doanh nghiệp để
cổ phần hố. Trước khi chuyển sang cơng ty cổ phần, doanh nghiệp phải thanh lý hợp
đồng hoặc thoả thuận với chủ sở hữu tài sản để công ty cổ phần kế thừa các hợp đồng đã
ký trước đây hoặc ký lại hợp đồng mới.
Đối với những tài sản của doanh nghiệp không cần dùng, ứ đọng, chờ thanh lý:
doanh nghiệp thanh lý, nhượng bán hoặc báo cáo cơ quan có thẩm quyền để điều
chuyển cho đơn vị khác theo quy định hiện hành. Đến thời điểm xác định giá trị doanh
nghiệp nếu những tài sản trên chưa kịp xử lý thì được loại trừ khơng tính vào giá trị
doanh nghiệp. Trong q trình cổ phần hố, doanh nghiệp tiếp tục xử lý những tài sản
này, đến thời điểm quyết định công bố giá trị doanh nghiệp nếu chưa xử lý thì chuyển
giao cho Cơng ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp để xử lý theo quy
định của pháp luật.
Đối với những tài sản thuộc cơng trình phúc lợi: nhà trẻ, nhà mẫu giáo, bệnh xá
và các tài sản phúc lợi khác đầu tư bằng nguồn Quỹ khen thưởng, phúc lợi thì chuyển
giao cho công ty cổ phần quản lý, sử dụng để phục vụ tập thể người lao động trong
doanh nghiệp.
Riêng đối với nhà ở cán bộ, công nhân viên, kể cả nhà ở được đầu tư bằng vốn
ngân sách nhà nước cấp thì chuyển giao cho cơ quan nhà đất của địa phương để quản
lý hoặc bán cho người đang sử dụng theo quy định hiện hành.
Đối với tài sản đầu tư bằng nguồn Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi của doanh
nghiệp được công ty cổ phần tiếp tục dùng trong sản xuất kinh doanh thì tính vào giá
trị doanh nghiệp cổ phần hoá và chuyển thành cổ phần để chia cho người lao động
trong doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá theo thời gian thực tế đã làm việc tại
doanh nghiệp của từng người.
Về các khoản nợ phải thu: doanh nghiệp CPH có trách nhiệm đối chiếu xác
nhận, thu hồi các khoản nợ phải thu đế hạn trước khi CPH. Đến thời điểm xác định giá

trị doanh nghiệp, nếu còn tồn đọng nợ phải thu khó địi thì doanh nghiệp CPH có trách
nhiệm bàn giao các khoản cơng nợ có khả năng thu hồi đã loại khỏi giá trị doanh
nghiệp CPH (kèm theo hồ sơ các tài liệu liên quan) cho công ty mua bán nợ và tài sản
tồn đọng của doanh nghiệp để xử lí theo quy định của pháp luật23. Theo ý kiến tác giả
với cách xử lí vấn đề trên là không ổn bởi lẽ khi doanh nghiệp CPH thì phần giá trị của
23

Xem Điều 15 nghị định 109/2007/NĐ-CP

18


doanh nghiệp dựa vào các yếu tố bao gồm vốn, tài sản cố định và tài sản lưu động, nếu
một phần nợ phải thu này doanh nghiệp không thu hồi được tức là sẽ phải loại bỏ
khoản này khỏi giá trị doanh nghiệp, khoản dư nợ này không được hoạch toán vào
phần giá trị doanh nghiệp. Như vậy liệu rằng nếu đó là những khoản nợ đầu tư kinh
doanh chiếm tỷ trọng vốn hoặc tài sản lớn của doanh nghiệp thì sao?. Lúc này vơ hình
chung giá trị thực tế để định giá doanh nghiệp đã bị thu hẹp bớt so với thực tế. Đặc
biệt, việc xử lí nợ xấu sẽ mất rất nhiều thời gian do thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ
giữa các ngành ngân hàng, tài chính, thuế. Điều đáng lo ngại ở đây là việc các khoản
nợ phải thu của doanh nghiệp lại nằm ở các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ
thuật được Nhà nước giao thực hiện mà hiện nay các dự án này trở thành gánh nặng
cho doanh nghiệp, bởi hiện nay ngoài các dự án được giải ngân xong thì các dự án cịn
lại hầu hết đang nằm trong tình trạng treo hoặc hiệu quả kinh doanh thu lợi thấp. Do
vậy nếu khơng có phương án xử lí được những số nợ phải thu của các CTNN thì nguồn
dự phịng để bù đắp, phần trừ vào kết quả kinh doanh cũng khơng đủ mà có thể trừ vào
phần vốn Nhà nước trước khi CPH. Có khi có doanh nghiệp khi đối trừ giữa nợ phải
thu và phần vốn của Nhà nước thì vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp đó lại bị thâm
hụt.
Đối với các khoản nợ phải trả: Doanh nghiệp CPH phải huy động các nguồn vốn

hợp pháp để thanh toán các khoản nợ đến hạn phải trả trước khi cổ phần hóa hoặc thoả
thuận với các chủ nợ để xử lý hoặc chuyển thành vốn góp cổ phần.Việc chuyển nợ đến
hạn phải trả tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp thành vốn góp cổ phần được
thực hiện theo kết quả đấu giá thành cơng của chủ nợ24. Quy định thì như vậy nhưng
thực tế doanh nghiệp có làm được hay khơng là chuyện hoàn toàn khác bởi tác giả
nhận thấy nếu doanh nghiệp có thể huy động được các nguồn vốn hợp pháp để trả nợ
tại sao doanh nghiệp không làm, hay là do đội ngũ cán bộ quản lí của doanh nghiệp
khơng muốn làm. Vậy cơ chế trách nhiệm ở đây ra sao khi mà doanh nghiệp có quyết
định CPH lúc này doanh nghiệp mới huy động vốn để thanh toán khoản nợ này. Ở đây
có thể hiểu trong kinh doanh tồn tại cơng nợ là chuyện thường tình, doanh nghiệp có
thể nợ lẫn nhau, nợ các đối tác nước ngoài, hay nợ của ngân hàng Nhà nước nhưng
thực tế các khoản nợ này khơng được thanh tốn dứt điểm gây nên những hiệu ứng xấu
trong việc tạo dựng uy tín và thương hiệu của các CTNN. Mặt khác đối với các khoản
nợ của tổ chức cá nhân làm cách nào để doanh nghiệp có thể thoả thuận được với các
chủ nợ để xử lí hoặc chuyển thành vốn góp cổ phần. Đây thực sự là điều mơ hồ bởi lẽ
nếu một nhà đầu tư có tầm nhìn thì khơng ai chấp nhận trở thành cổ đông của một công
ty khi mà các khoản nợ khơng thể thanh tốn, và chính mình lại là chủ nợ của cơng ty,
điều đó là minh chứng cho việc hoạt động đầu tư kinh doanh của công ty không thu
được kết quả khả quan. Đặt trường hợp ngược lại, nếu như nhà đầu tư nhìn thấy được
tiềm năng vốn có của doanh nghiệp và tự tin vào khả năng của mình có thể quản lí và
vực dậy doanh nghiệp được thì cũng khó có thể thu được kết quả như mong muốn, bởi
các đối tác chiến lược thường không muốn hợp tác với một doanh nghiệp đang trong
q trình vực dậy, khơi phục sản xuất, đó là chưa tính đến cung cách tiếp cận và quản lí
mới chắc chắn ảnh hưởng đến tâm lí của các chủ thể liên quan về lời ích.
24

Xem Điều 16 nghị định 109/2007/NĐ-CP

19



Trường hợp doanh nghiệp CPH chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế thì CTCP có
trách nhiệm kế thừa tồn bộ. Trong q trình CPH, nếu doanh nghiệp cổ phần hóa có
khó khăn về khả năng thanh tốn các khoản nợ quá hạn (vay Ngân hàng Thương mại
nhà nước, Ngân hàng Phát triển Việt Nam) do kinh doanh thua lỗ thì xử lý nợ theo quy
định hiện hành của Nhà nước về xử lý nợ tồn đọng.25 Đây là quy định hợp lí bởi vì khi
CPH chính là sự chuyển đổi hình thức doanh nghiệp cịn bản thân doanh nghiệp khơng
hề có sự thay đổi nên việc kế thừa các khoản nợ này sẽ buộc doanh nghiệp có trách
nhiệm với các nghĩa vụ của mình, giảm thiểu được những chi phí hoạch toán mà ngân
sách Nhà nước phải bù đắp để chi trả khi thực hiện CPH CTNN.
Như vậy với quy định tại Nghị định 109/2007/NĐ-CP và Thông tư
146/2007/TT-BTC đã giải quyết được khâu đầu tiên về xử lí tài chính đây là khâu tốn
nhiều thời gian nhất khi tiến hành CPH các CTNN. Thế nhưng đây chỉ là bước đầu là
khởi điểm cho vấn đề trọng tâm là xác định giá trị doanh nghiệp.
1.3.2
Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp.
Hiện nay ở Việt Nam theo quy định tại điều 27 và điều 33 nghị định
109/2007/NĐ-CP có hai phương pháp chủ yếu thường được các tổ chức định giá sử
dụng để xác định giá trị doanh nghiệp là phương pháp tài sản và phương pháp dòng
tiền chiết khấu. Thực chất đây là hai phương pháp do Chính phủ ban hành dùng để xác
định giá trị doanh nghiệp, đối với các doanh nghiệp chuyển sang hình thức CTCP.
Trong nền kinh tế thị trường, giá trị doanh nghiệp không chỉ là vốn, tài sản hiện hữu,
mà cịn một số yếu tố vơ hình như; lợi thế kinh doanh, thương hiệu, thị phần giá trị
quyền sử dụng đất, cũng được coi là vốn của doanh nghiệp, mà vốn của doanh nghiệp
thường được thể hiện dưới hiện vật là tài sản cố định và tài sản lưu động, tài sản cố
định là những tài sản tham gia vào những chu trình sản xuất kinh doanh mà vẫn giữ
nguyên trạng thái ban đầu, giá trị của nó chuyển dần vào giá trị của sản phẩm theo mức
độ hao mịn. Ví dụ: nhà xưởng máy móc v.v. Tài sản lưu động là những tài sản tham
gia vào một chu kỳ sản xuất, giá trị của nó chuyển tồn bộ vào sản phẩm được sản xuất
ra, Ví dụ như nguyên liệu, vật liệu chính, nhiên liệu, nửa thành phẩm, việc đưa ra hai

phương pháp này tựu chung lại cũng là nhằm mục đích xác định được phần vốn (tức là
giá tri doanh nghiệp), nhằm phục vụ cho công tác CPH.
Đối với cả hai phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp nêu trên thì khi áp
dụng, yếu tố cơ sở để thực hiện trước tiên phải là hồ sơ pháp lí của doanh nghiệp, các
văn bản liên quan đến cơng tác chuyển đổi hình thức doanh nghiệp và số liệu trên báo
cáo tài chính, sổ kế tốn của doanh nghiệp. Theo phương pháp tài sản thì giá trị doanh
nghiệp được xác định dựa trên cơ sở đánh giá giá trị thực tế toàn bộ tài sản hiện có của
doanh nghiệp tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp (ngoại trừ các tài sản không
cần dùng, chờ thanh lý, tài sản thêu mượn, cơng nợ khơng có khả năng thu hồi…) theo
đó khi đánh giá cơ sở quan trọng của phương pháp này là dựa vào số lượng và chất
lượng tài sản theo kiểm kê và phân loại thực tế, tính năng kỹ thuật của tài sản, nhu cầu

25

Xem Khoản 2 , 3 Điều 16 nghị định 109/2007/NĐ-CP

20


sử dụng và giá trị thực tế trên thị trường của tài sản, ngồi ra cịn tính đến giá trị sử
dụng đất khả năng sinh lời của doanh nghiệp (nếu có).
Theo phương pháp dịng tiền chiết khấu thì giá trị doanh nghiệp dựa trên cơ sở
đánh giá khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai, phương pháp dòng tiền
chiết khấu được áp dụng cho các doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh chủ yếu
trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại, tư vấn, thiết kế xây dựng, tin
học và chuyển giao cơng nghệ, có tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn nhà nước bình
quân 5 năm liền kề trước khi cổ phần hoá cao hơn lãi suất trả trước của trái phiếu
Chính phủ có kỳ hạn từ 5 năm trở lên tại thời điểm gần nhất với thời điểm xác định giá
trị doanh nghiệp. Theo đó, cơ sở chủ yếu thực hiện phương pháp này là phụ thuộc vào
báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong 5 năm liền kề trước khi xác định giá trị doanh

nghiệp, phương án hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ 3 đến 5 năm sau khi
chuyển đổi thành CTCP, lãi suất trả trước của trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn 10 năm
trở lên ở thời điểm gần nhất với thời điểm xác đinh giá trị doanh nghiệp và giá trị
quyền sử dụng đất đã được nhà nước giao. Theo quy định tại thông tư 146/2007/TTBTC quy định số năm tương lai được chọn như đã nêu ở trên là từ 3 đến 5 năm là chưa
hợp lí vì khi mà kinh tế nước ta đang trong q trình chuyển đổi và hội nhập doanh
nghiệp có khơng ít những cơ hội và những thách thức do đó nếu sử dụng thời gian dự
báo quá ngắn sẽ không lường hết được những thách thức và biến động của mơi trường
kinh doanh, kết quả dự báo sẽ kém chính xác, nếu ta đặt trong bối cảnh hiện nay khi
kinh tế thế giới đang trong suy thối thì yếu tố tác động của chính sách điều chỉnh Nhà
nước chắc chắn sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến những phương án kinh doanh của doanh
nghiệp, liệu rằng với chừng ấy thời gian doanh nghiệp không hoạch định được phương
án thay đổi phù hợp hoặc nếu có hoạch định được cũng mất một thời gian khá dài để đi
vào ổn định, đó là chưa kể đến thực tế thời gian để tiến hành CPH một doanh nghiệp là
khơng phải ít, như vậy thời gian đâu để doanh nghiệp có thể thay đổi, thực hiện theo
kịp với tiến trình phát triển của nền kinh tế.
Còn nếu bắt doanh nghiệp đưa ra kế hoạch tương lai dài hơn, liệu có thực tế
khơng khi mà những biến động trong nền kinh tế toàn cầu, ngay cả Nhà nước cũng
không dự báo được huống chi là doanh nghiệp. Do đó, theo tác giả chúng ta nên để
doanh nghiệp tự hoạch định lấy phương án của mình trong đó cần có tính đến khả năng
thực tế hồn thành kế hoạch đề ra, các phương án xây dựng kế hoạch được dựa trên
tình hình biến động của tình hình kinh tế, kết hợp với năng lực hiện tại của doanh
nghiệp, từ đó thơng qua nhiều phương thức doanh nghiệp sẽ tạo ra ra những kế hoạch
ngắn hạn, trung và dài hạn cho phù hợp với những biến động, chứ khơng nhất thiết
phải bó buộc doanh nghiệp xây dựng những phương án kinh doanh theo một lộ trình cụ
thể, đây có lẽ là phương án hợp lí hơn cả nên áp dụng cho doanh nghiệp khi CPH.

Yếu tố thương hiệu và vấn đề lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp.
Đối với Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp sẽ bao gồm giá trị thương
hiệu, giá trị vị thế về vị trí địa lí, tiềm năng phát triển, trong đó
Giá trị thương hiệu là một trong những giá trị lợi thế kinh doanh của doanh

nghiệp được xác định trên cơ sở các chi phí thực tế cho việc sáng chế, xây dựng và bảo
vệ chăm sóc nhãn mác, tên thương mại của doanh nghiệp trong 10 năm trước thời điểm
xác định giá trị doanh nghiệp hoặc kể từ ngày thành lập đối với các doanh nghiệp có
21


thời gian hoạt động của doanh nghiệp ít hơn 10 năm (bao gồm cả chi phí quảng cáo,
tuyên truyền trong và ngoài nước để quảng bá, giới thiệu sản phẩm, cơng ty, xây dựng
trang web...).
Có thể hiểu đơn giản nghĩa riêng lẻ của thương hiệu là dấu hiệu, biểu tượng,
hình vẽ thiết kế hoặc tập hợp các yếu tố trên nhằm xác định và phân biệt hàng hóa dịch
vụ của các đối thủ cạnh tranh; như vậy các công ty thường dùng thương hiệu làm biểu
tượng cho cơng ty mình và là biểu tượng trong thương mại khi thực hiện các hoạt động
kinh doanh. Do đó giá trị thương hiệu là tổng hòa các mối liên hệ và thái độ của khách
hàng và các nhà phân phối đối với thương hiệu. Nó cho phép cơng ty đạt được lợi
nhuận và doanh thu lớn từ sản phẩm so với trường hợp nó khơng có thương hiệu. Điều
này sẽ giúp cho thương hiệu trở nên có thế mạnh, ốn định và lợi thế khác biệt so với
đối thủ cạnh tranh.
Thương hiệu luôn song hành với sự thành công hoặc thất bại kinh doanh của các
cơng ty trên thị trường. Do đó để khẳng định được vị thế và uy tín thương hiệu của
mình, các CTNN khơng những giữ được mối liên hệ chặt chẽ với những khách hàng
truyền thống mà còn mở rộng tìm kiếm thu hút và giới thiệu tới những khách hàng và
đối tác mới đầy tiềm năng, giá trị thương hiệu mới được gia tăng và tác động không
nhỏ tới doanh thu của các CTNN trong hoạt động kinh doanh thường ngày. Do đó cần
tốn nhiều cơng sức, thời gian, tiền bạc, để xây dựng, bảo vệ và duy trì thương hiệu của
mình trên thị trường. Đây là yếu tố tài sản mang tính vơ hình có giá trị cao và là một bộ
phận không thể tách rời giá trị tài sản của CTNN khi tiến hành CPH. Nên vấn đề đặt ra
ở đây chính là việc định giá đúng giá trị thương hiệu trong tổng tài sản của CTNN thế
nhưng đây lại là một ẩn số muốn biết nhưng khơng tính được. Mặc dù việc định giá
thương hiệu được các chuyên gia nghiên cứu đánh giá kỹ càng và cẩn trọng nhưng lại

cho ra các kết quả gây nhiều tranh cải khiến cho khó có một đáp số chính xác cho bài
tốn giá trị thương hiệu của một cơng ty.
Hiện nay ở Việt Nam chuẩn mực kế tốn đã chấp nhận ghi nhận giá trị của
thương hiệu như là tài sản vơ hình vào bảng cân đối kế toán nhưng thực tế ta nhận thấy,
đối với các thương hiệu có sự mua bán, chuyển nhượng lại dễ gây nhầm lẫn. Bởi phần
nhiều các thương hiệu mà các CTNN tự xây dựng thành cơng nên khơng thể có giá trị
chuyển nhượng nên khơng có số liệu mà ghi số. Hơn nữa mỗi doanh nghiệp có quy mơ
riêng, đặc thù riêng nên việc định giá thương hiệu không nhất thiết chỉ bằng bằng
phương pháp tài sản và phương pháp dòng tiền triết khấu mà nên dùng thêm nhiều
phương pháp khác như phương pháp so sánh tức là thu thập dữ liệu của những doanh
nghiệp có cùng quy mơ để phân tích, điều chỉnh rồi đưa ra số liệu phù hợp để so sánh,
nhưng vẫn đảm bảo tính khoa học, phản ánh thực chất giá trị doanh nghiệp và được
quốc tế áp dụng rộng rãi.
Đối với giá trị về vị trí địa lí và tiềm năng phát triển cũng được xem là phần giá
trị tài sản vơ hình của doanh nghiệp, mà tài sản vơ hình thường mang tính chất đặc thù
gắn với loại hình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, nó có thể rất hữu ích cho
doanh nghiệp này nhưng lại khơng có ý nghĩa đối với những doanh nghiệp khác, do đó
22


khi xác định các yếu tố này cần xem xét đến yếu tố phù hợp và phạm vi sử dụng của
nó. Bởi hiện nay cái khó khăn nhất đối với cơng tác thẩm định tài sản vơ hình này là cơ
sở mang tính thuyết phục khi đưa ra giá trị của nó, vì tính chất đặc thù nên chúng ta
khơng nên so sánh những tài sản tương đương nhau do vậy độ chính xác khơng cao chỉ
mang tính tương đối nhất định.
Đây là một vấn đề rất mới, được nhận thấy trong q trình thực hiện cơng tác
CPH, do trước kia chúng ta khơng nhìn nhận hết được những giá trị tích cực từ lợi thế
vị trí địa lí của các doanh nghiệp nên chúng ta chưa có quy định cụ thể cho vấn đề này.
Do vậy kể từ năm 2008 trở đi các yếu tố này phải được xác định, tính tốn vào giá trị
doanh nghiệp. Những doanh nghiệp nằm ở vị trí đắc địa trong các khu đơ thị phải xác

định yếu tố này vào giá trị doanh nghiệp. Việc này xem ra là một trong những điều
chỉnh mang tính tích cực thể hiện cách nhìn nhận vấn đề có chọn lọc của các cơ quan
ban nghành phụ trách vấn đề này, nó thể hiện tư duy mới, đó là thực hiện và rút kinh
nghiệm trong q trình làm, giúp công tác xác định giá trị doanh nghiệp trong việc
nhận diện quy mô doanh nghiệp sát với thực tế hơn, ngồi ra cịn tránh thiệt thịi cho
Nhà nước trong định giá doanh nghiệp.
1.3.3 Xử lí tài chính từ thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp đến thời điểm
doanh nghiệp chính thức chuyển thành CTCP.
Đây là khâu tất tốn tài chính của doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể hoàn tất
thủ tục chuyển đổi, giai đoạn này thường kéo dài dẫn tới những hệ lụy khó lường, việc
kéo dài thời gian đồng nghĩa với việc giá trị doanh nghiệp có thể thay đổi tăng hoặc
giảm vì tính theo từng thời điểm khác nhau, trong khoảng thời gian đó công ty vẫn hoạt
động nên tất yếu các vấn đề tài chính liên quan đến doanh nghiệp vẫn sẽ phải phát sinh.
Trường hợp có chênh lệch tăng giữa giá trị thực tế phần vốn của Nhà nước tại
thời điểm công ty chuyển sang CTCP với giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại thời
điểm xác định giá trị doanh nghiệp thì sẽ nộp về Tổng cơng ty Nhà nước, công ty Nhà
nước độc lập hoặc công ty thành viên hạch tốn độc lập khi cổ phần hóa bộ phận cơng ty này.
Trường hợp phát sinh chênh lệch giảm thì doanh nghiệp CPH có trách nhiệm
báo cáo cơ quan có thẩm quyền quyết định CPH để phối hợp với các cơ quan liên quan
tổ chức kiểm tra, làm rõ nguyên nhân, xác định trách nhiệm tập thể, cá nhân và xử lý
trách nhiệm. Điều quan trọng là xác đinh được đó là do nguyên nhân chủ quan hay
khách quan đối với từng vấn đề cụ thể.
Nếu do nguyên nhân khách quan (do thiên tai địch họa, do Nhà nước thay đổi
chính sách hoặc do biến động của thị trường quốc tế và các nguyên nhân bất khả kháng
khác) doanh nghiệp CPH báo cáo cơ quan có thẩm quyền quyết định CPH xem xét,
quyết định việc sử dụng tiền thu từ CPH để bù đắp tổn thất sau khi trừ đi bồi thường
của bảo hiểm nếu có. Trường hợp tiền thu từ CPH không đủ bù đắp, cơ quan quyết
định CPH xem xét điều chỉnh giảm quy mô, cơ cấu vốn điều lệ của CTCP.
Nếu do nguyên nhân chủ quan lỗ trong việc khơng xử lí dứt điểm các tồn tại về
tài chính theo quy định hiện hành của Nhà nước khi xác định giá trị doanh nghiệp, thì

23


phải xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan liên quan, doanh nghiêp, tổ chức tư vấn
định giá và cơ quan quyết định CPH để bồi thường về vật chất.
Nếu lỗ do điều hành sản xuất, kinh doanh thì các cán bộ quản lí doanh nghiệp
đó có trách nhiệm bồi thường toàn bộ tổn thất do chủ quan gây ra, trường hợp vì lí do
bất khả kháng mà người có trách nhiệm bồi thường khơng có khả năng thực hiện bồi
thường theo quyết định của các cơ quan có thẩm quyền thì phần tổn thất cịn lại được
xử lí như trường hợp do nguyên nhân khách quan.
Hiện nay khi mà nền kinh tế thế giới đang bị khủng hoảng, các CTNN cũng
đang đứng trước những nguy cơ và thách thức lớn, để nhằm thốt khỏi tình trạng này
thì vấn đề xử lí tài chính để chính thức chuyển thành CTCP không phải là chuyện ngày
một ngày hai. Hơn nữa để có thể thốt khỏi tình trạng khủng hoảng, Nhà nước cũng đã
có những chủ trương thay đổi trong chính sách quản lí và phát triển kinh tế, làm cho
cơng tác này lại khó có thể thực hiện dứt điểm theo chương trình và kế hoạch đề ra.
Theo mục tiêu và phương án được duyệt thì đến năm 2009 tồn bộ những doanh
nghiệp Nhà nước giữ100% vốn điều lệ sẽ được chuyển đổi thành CTCP hoặc công ty
TNHH Nhà nước một thành viên, hoặc hai thành viên. Việc chuyển đổi này nhằm giúp
các doanh nghiệp trở thành công cụ điều tiết vĩ mơ trong nền kinh tế thị trường. Đó là
một trong những nội dung quan trọng trong chương trình hành động của Chính phủ về
cơng tác đẩy mạnh, sắp xếp đổi mới và phát triển doanh nghiệp, nâng cao hoạt động
của doanh nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ kí phê duyệt ngày 15/11/2006 tại
quyết định số 263/2006/QĐ-TTg. Nhưng kế hoạch đề ra là một chuyện, còn áp dụng có
đúng kế hoạch hay khơng cịn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa, theo quan điểm tác
giả nhìn nhận, nếu đặt doanh nghiệp đang trong quá trình chuyển đổi hiện nay bắt buộc
phải theo kế hoạch trên chắc chắn sẽ có nhiều vấn đề đáng quan tâm.
Ở đây trên cơ sở của tư duy khi phân tích yếu tố lỗi trên, liệu nếu các yếu tố lỗi
trong quản lí điều hành doanh nghiệp, các yếu tố ngoại cảnh tác động và thêm vào đó
là những điều chỉnh của Nhà nước, hay các doanh nghiệp mạnh dặn tìm hướng đi và

giải pháp cho mình, nhằm vượt qua khủng hoảng thì yếu tố lỗi ở đây cần được xem xét
dưới những góc độ như thế nào, cơ chế chịu trách nhiệm có được áp dụng có khả thi
khơng, làm sao xác định rõ được đâu là do lỗi chủ quan và do lỗi khách quan, liệu có
nên xem các doanh nghiệp hiện nay chưa chuyển đổi, hoặc đang chuyển đổi nhưng xử
lí chưa dứt điểm là về tài chính trong hoạt động sản xuất kinh doanh là do nguyên nhân
khách quan không. Đây thực sự là vấn đề chúng ta nên xem xét cân nhắc kỹ, nhằm
tránh những sai phạm trong việc xử lí khơng đúng cá nhân và trách nhiệm liên quan
đến cơng tác CPH


Vấn đề quản lí và sử dụng tiền thu từ cổ phần hóa.

Tại điều 4 nghị định 109/2007/NĐ-CP có nêu rõ ba cách xử lí vốn Nhà nước tại
doanh nghiệp CPH. Thứ nhất vốn Nhà nước được giữ nguyên tại các doanh nghiệp,
vốn điều lệ tăng thêm do phát hành cổ phần mới cho các nhà đầu tư khác, kể cả các nhà
đầu tư nước ngoài.
24


Thứ hai: Vốn Nhà nước được rút một phần khỏi doanh nghiệp, các nhà đầu tư
khác mua lai phần vốn này, (đồng thời phát hành thêm cổ phiếu tăng vốn điều lệ...).
Thứ ba: Vốn Nhà nước rút hoàn toàn 100% khỏi doanh nghiệp, các nhà đầu tư
khác mua lại phần vốn này của nhà nước (đồng thời doanh nghiệp phát hành cổ phiếu
tăng vốn điều lệ...). theo cách quy đinh trên khi CPH lại thấy nổi lên vấn đề có ý nghĩa
kinh tế, chính trị, đó là việc phân chia thặng dư vốn cổ phần thuộc lợi ích Nhà nước.
Nếu vốn Nhà nước có tại các doanh nghiệp được xử lí rút khỏi doanh nghiệp cổ
phần hóa tức Nhà nước chuyển nhượng vốn cổ phần cho các nhà đầu tư khác, thì số
vốn thặng dư phát sinh sau khi sử dụng chi phí cho u cầu cổ phần hóa, số vốn thặng
dư cịn lại thuộc Nhà nước, thì việc rút ra khỏi doanh nghiệp kể cả việc rút ra bằng tiền
mặt để phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế vĩ mơ, an sinh xã hội... thì đây là điều

hợp lí.
Nhưng hiện nay, việc Nhà nước thu phần lớn thặng dư từ phát hành thêm cổ
phiếu trong khi phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp được giữ nguyên đang khiến
khơng ít doanh nghiệp băn khoăn, bởi việc Nhà nước thu về phần lớn thặng dư từ đợt
đấu giá, doanh nghiệp chỉ được hưởng một phần nhỏ (mà trong phần nhỏ này, Nhà
nước vẫn được hưởng phần lớn vì là cổ đông chi phối) là không hợp lý với doanh
nghiệp. vấn đề đặt ra là, cơ sở nào để nhà nước rút đi phần vốn thăng dư theo tỷ lệ áp
đặt, và cách rút vốn thặng dư ra khỏi doanh nghiệp CPH có phù hợp với thơng lệ
chung.
Theo nghị định 109/2007/NĐ-CP ta biết rằng phần thặng dư Nhà nước được sử
dụng và phần thặng dư để lại doanh nghiệp, nhưng không xác định tỷ lệ cụ thể. Ý kiến
chủ quan tác giả cho rằng nếu, vận dụng thông lệ chung về xử lí nguồn vốn thặng dư cổ
phần trong quá trình phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ của các chế đinh kinh tế cổ
phần, thì phần vốn thặng dư sau khi sử dụng trang trải các chi phí liên quan đến cơng
việc cổ phần hóa, trước hết để lại cho doanh nghiệp toàn bộ số này. Nguồn vốn này
thuộc phạm trù vốn bổ sung điều lệ công ty, thuộc lợi ích của mọi cổ đơng hiện hữu.
Vốn thặng dư cổ phần cũng là nguồn làm tăng thêm năng lực tài chính của bản thân
doanh nghiệp cổ phần. Qua một thời gian được sử dụng hoạt động kinh doanh vì lợi ích
chung của cơng ty, nguồn thặng dư này sẽ được CPH tức là được phân chia bằng cổ
phiếu cho mọi cổ đông hiện hữu xác định vào ngày chốt danh sách quyền được hưởng
số thặng dư này, theo nguyên tắc tỷ lệ vốn sở hữu của từng cổ đông tại công ty cổ
phần. Cổ đông Nhà nước cũng được thụ hưởng nguồn thặng dư này một cách minh
bạch và công bằng.
Thiết nghĩ nguồn vốn thặng dư của các CTNN qua đợt phát hành cổ phần lần
đầu ra công chúng và các đợt phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ theo lộ trình sắp tới
khi cổ phần hóa cần xử lí theo cách trên đây sẽ đảm bảo tính cơng khai minh bạch,
cơng bằng theo thơng lệ chung. Nhà nước rút vốn thặng dư này thông qua chuyển
nhượng cổ phiếu trên thị trường hoặc thặng dư từ bán cổ phần, Nhà nước nên để lại
cho doanh nghiệp dưới hình thức vay ưu đãi hoặc sử dụng để tăng vốn cho chính Nhà
25



×