Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Cơ sở lý luận của việc xây dựng chính sách khoan hồng nhằm phá vỡ các thoả thuận hạn chế cạnh tranh tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 69 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Phạm Trí Hùng, đảm bảo
tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 7 năm 2017
Tác giả khoá luận

Nguyễn Thị Ngọc Châu


LỜI CẢM ƠN
Khoá luận tốt nghiệp cử nhân Luật chuyên ngành Luật thương mại với đề tài
“Cơ sở lý luận của việc xây dựng chính sách khoan hồng nhằm phá vỡ các thoả
thuận hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam” là kết quả của q trình cố gắng khơng
ngừng của bản thân tác giả và được sự giúp đỡ, động viên khích lệ của các thầy cơ,
bạn bè và người thân. Qua trang viết này tác giả xin gửi lời cảm ơn tới những người
đã giúp đỡ em trong thời gian học tập - nghiên cứu khoa học vừa qua.
Em xin tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với thầy TS. Phạm Trí Hùng
đã trực tiếp hướng dẫn và sửa chữa khoá luận cho em một cách tận tình từ ngày đầu
em bắt tay vào làm, giúp em hồn thành khố luận một cách tốt nhất.
Em xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh, khoa Luật Thương mại đã tạo điều kiện cho em hồn thành tốt cơng việc
nghiên cứu khoa học của mình.
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Ngọc Châu


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS



Bộ Luật Hình sự số 100/2015/QH13 của Quốc hội ban
hành 27/11/2015

CSKH

Chính sách khoan hồng

DOJ

Bộ Tư pháp Hoa Kỳ

DPPC

Viện trưởng Viện Công Tố Canada

EU

Liên minh Châu Âu

JFTC

Uỷ ban cạnh tranh công bằng Nhật Bản

LCT 2004

Luật Cạnh tranh số 27/2004/QH11 của Quốc hội ban
hành ngày 3 tháng 12 năm 2004

OECD


Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế Liên hợp quốc

TTHCCT

Thoả thuận hạn chế cạnh tranh

VCA

Cục Quản lý cạnh tranh Việt Nam


LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THOẢ THUẬN HẠN CHẾ
CẠNH TRANH VÀ CHÍNH SÁCH KHOAN HỒNG ..........................................6
1.1. Những vấn đề chung về thoả thuận hạn chế cạnh tranh.......................................6
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của các thoả thuận hạn chế cạnh tranh.........................6
1.1.2 Thuộc tính bí mật và khó phát hiện của các thoả thuận hạn chế cạnh tranh....10
1.1.3 Những công cụ giúp điều tra và xử lý các thoả thuận hạn chế cạnh tranh .....12
1.2. Những vấn đề chung về chính sách khoan hồng................................................15
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm cơ bản của Chính sách khoan hồng............................15
1.2.2 Ý nghĩa của việc xây dựng chính sách khoan hồng trong kiểm soát các thoả
thuận hạn chế cạnh tranh...........................................................................................17
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ......................................................................................21
CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH KHOAN HỒNG NHẰM KIỂM
SOÁT CÁC THOẢ THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH .................................22
2.1 Xây dựng chính sách khoan hồng dựa trên ngun lý trị chơi: “Thế lưỡng nan
của người tù” ...........................................................................................................22
2.1.1 Giới thiệu nguyên lý trò chơi “Thế lưỡng nan của người tù” ........................22
2.1.2 Những nỗ lực tạo ra thế lưỡng nan thông qua xây dựng chính sách khoan hồng

nhằm phá vỡ thoả thuận hạn chế cạnh tranh. ...........................................................24
2.1.3 Động lực khuyến khích các doanh nghiệp tự thú và tìm kiếm sự khoan hồng 27
2.2 Chính sách khoan hồng trong pháp luật một số quốc gia trên thế giới. .............29
2.2.1 Chính sách khoan hồng trong pháp luật Hoa Kỳ ............................................29
2.2.2 Chính sách khoan hồng trong pháp luật Liên minh Châu Âu (EU) ................31
2.2.3 Chính sách khoan hồng trong pháp luật Canada .............................................32
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ......................................................................................35
CHƯƠNG 3: CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM XÂY
DỰNG CHÍNH SÁCH KHOAN HỒNG TẠI VIỆT NAM…………………….36
3.1 Thực tiễn điều tra và xử lý các TTHCCT tại Việt Nam hiện nay ......................36
3.2 Những kiến nghị nhằm xây dựng chính sách khoan hồng để kiểm sốt các thoả
thuận hạn chế cạnh tranh .........................................................................................38
3.2.1 Về xây dựng nội dung của chính sách khoan hồng ........................................38
3.2.2 Những điều kiện nền tảng giúp thực thi CSKH đạt hiệu quả tối ưu ...............45
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ......................................................................................50
KẾT LUẬN ............................................................................................................51


LỜI MỞ ĐẦU

1.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Năm 1978, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ (viết tắt là DOJ) lần đầu tiên ban hành chính
sách với tên gọi “Corporate Leniency Policy”, nội dung chính của nó là dành một
cơ hội duy nhất để được miễn trừ sự áp dụng hình phạt đối với doanh nghiệp đầu
tiên chủ động báo cáo hành vi thông đồng và hợp tác với cơ quan cạnh tranh1. Dù
chưa hồn chỉnh, nhưng đây là nền móng ra đời của chính sách khoan hồng mà
ngày nay, được ghi nhận bởi 65 quốc gia trên thế giới2. Đánh giá vai trị của chính
sách này, DOJ nhấn mạnh, “đây là cơng cụ điều tra hiệu quả nhất từng được thiết
kế để chống lại các thoả thuận hạn chế cạnh tranh”3.

Hiện nay có nhiều quốc gia đã áp dụng chính sách khoan hồng trong cuộc
chiến chống lại những thoả thuận hạn chế cạnh tranh (TTHCCT), nổi bật là Hoa
Kỳ, Cộng đồng Châu Âu, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, HongKong,
Singapore… Trong số các nước có thu nhập trung bình và có thu nhập thấp, Brazil,
Mêhicô, Liên bang Nga và Nam Phi là những nước đã xây dựng một chính sách
khoan hồng khá tích cực, thu hút được sự chú ý từ phía các doanh nghiệp4. Các
chương trình của họ mang nét tương tự với các chương trình của Hoa Kỳ và Liên
minh châu Âu, được xem là hình mẫu hiệu quả trong xây dựng và thực thi chính
sách khoan hồng. Tuy nhiên, pháp luật cạnh tranh ở hầu hết các nước có thu nhập
trung bình và thấp đều chưa thiết lập chương trình khoan hồng.
Chính sách khoan hồng được xây dựng trước hết dựa vào vai trị của nó trong
việc phá vỡ các TTHCCT từ bên trong, là một công cụ giúp cơ quan thực thi pháp
luật cạnh tranh cải thiện được việc thu thập chứng cứ và thông tin về các thoả thuận
được tạo lập hết sức tinh vi và bí mật. Thực tiễn Việt Nam cho thấy số lượng ít ỏi
các vi phạm liên quan đến TTHCCT bị phát hiện và xử lý, trong khi ở nhiều lĩnh
vực khác nhau, các biểu hiện thông đồng cấu kết giữa các doanh nghiệp vẫn tồn tại
và gây hại đến môi trường kinh doanh lành mạnh của nước ta. Vì vậy cần thiết phải
thiết lập biện pháp giúp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật, kinh nghiệm của các
1

Eleanor Fox and Daniel Crane (2010), Global Issues in Antitrust and Competition Law, Thomson Reuters
tr. 93
2
Morgan Lewis (2017), 2016 Global cartel enforcement,
truy cập 20/7/2017, tr. 18
3
Ca Hồ Anh Thư (2010), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng chính sách khoan hồng nhằm phá vỡ các thoả
thuận hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam, Khoá luận Tốt nghiệp, Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, tr. 27.
4
Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển, viết tắt là UNCTAD (2010), The use of leniency

programmes as a tool for the enforcement of competition law against hardcore cartels in developing
countries, Geneva, 8–12 November 2010

1


quốc gia trên thế giới trong thực thi có hiệu quả các chương trình khoan hồng cũng
là nền tảng quan trọng để Việt Nam có thể học hỏi và áp dụng.
Cho đến nay ở Việt Nam, chính sách khoan hồng chỉ vừa bước đầu được đưa
vào quy định trong Dự thảo 2 Luật Cạnh tranh (sửa đổi) vào đầu năm 20175. Với
bối cảnh đầy mới mẻ như vậy, cùng với việc chưa có một cơng trình nghiên cứu
riêng biệt nào được thực hiện liên quan đến cơ sở lý luận của việc xây dựng chính
sách khoan hồng tại Việt Nam; tác giả nhận thấy cần phải có sự khái quát những
kiến thức lý luận về chính sách khoan hồng và xác lập một hệ thống cơ sở lý thuyết
vững chắc, rõ ràng liên quan đến việc xây dựng chính sách khoan hồng, trong mối
liên hệ với điều kiện thực tiễn riêng biệt của Việt Nam hiện nay, từ đó mới có thể
đưa chính sách này trở thành một cơng cụ pháp lý hữu hiệu hồng nhằm phá vỡ các
TTHCCT trên thực tế; đồng thời tạo nên cơ sở cho những việc tiến hành những
nghiên cứu liên quan tiếp theo.
Để thực hiện những mục tiêu trên, tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài khoá luận
tốt nghiệp: “Cơ sở lý luận của việc xây dựng chính sách khoan hồng nhằm phá vỡ
các thoả thuận hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam”.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Trong phạm vi trường Đại học Luật TP.HCM, tác giả đã tìm đọc và nghiên
cứu một số cơng trình cùng chủ đề như: Luận văn cử nhân thực hiện năm 2010
“Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng chính sách khoan hồng nhằm phá vỡ các thoả
thuận hạn chế canh tranh tại Việt Nam” của tác giả Ca Hồ Anh Thư, Luận văn cử
nhân thực hiện năm 2015 “Chính sách khoan hồng trong việc kiểm soát thoả thuận
hạn chế cạnh tranh” của tác giả Võ Thị Kim Liên, Luận văn cử nhân thực hiện năm
2016 “Chính sách khoan hồng trong pháp luật kiểm sốt các thỏa thuận hạn chế

cạnh tranh của Liên minh Châu Âu - Kinh nghiệm cho Việt Nam” của tác giả Hoàng
Trân Bửu Châu. Bài viết “Cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng chính sách khoan
hồng theo luật cạnh tranh của một số nước trên thế giới và đề xuất bổ sung cho Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Anh Tuấn đăng trong tạp chí Khoa học pháp lý số
1/2013.
Trong phạm vi cả nước, tác giả tra cứu và tham khảo một số bài viết như: bài
viết “Chính sách khoan hồng và tác động phá vỡ các – ten” của tác giả Phan Cơng
Thành đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp Số 2(117) năm 2008, tài liệu toạ đàm
“Chính sách khoan hồng và phá vỡ Cartel” được tổ chức vào tháng 11/2008 của

5

Dự thảo 2 Luật cạnh tranh (sửa đổi) được đăng tải trên Trang thông tin điện tử của Cục Quản lý cạnh tranh
thuộc Bộ Công thương Việt Nam nhằm lấy ý kiến đóng góp từ nhân dân vào ngày 05-04-2017.
truy cập ngày 10/6/2017.

2


Cục Quản lý cạnh tranh, “Chính sách khoan hồng – công cụ hữu hiệu khám phá các
thoả thuận hạn chế cạnh tranh” của tác giả Lê Thu Hà biên dịch từ “Khuyến khích
hợp tác bằng chính sách khoan hồng” trong “Thoả thuận hạn chế cạnh tranh nghiêm
trọng, những bước tiến mới và thử thách phía trước (Hard core Cartels – Recent
Progress and Challenges ahead) do Tổ chức về Hợp tác kinh tế và phát triển
(OECD) ấn hành.
Về nội dung bài viết, các tác giả đã mơ tả, phân tích được những cơ sở lý luận
và thực tiễn của việc xây dựng chính sách khoan hồng một cách khái quát, các
nguyên tắc hoạt động của một chính sách khoan hồng cơ bản qua các mơ hình
khoan hồng nổi bật của một số nước lớn trên thế giới, qua đó đúc kết bài học kinh
nghiệm cho việc xây dựng chính sách khoan hồng Việt Nam.

Riêng về mặt cơ sở lý luận, trong các nghiên cứu và bài viết thường nên ra
khái niệm, đặc điểm của chính sách khoan hồng, giải thích nguyên lý của việc xây
dựng chính sách khoan hồng là bắt nguồn từ thuộc tính bí mật và dễ bị phã vỡ từ
bên trong của các TTHCCT, một số tác giả còn dựa trên lý thuyết trò chơi trong
kinh doanh.
Hiện nay chưa có một cơng trình nghiên cứu độc lập nào được tiến hành đi
sâu vào vấn đề nghiên cứu cơ sở lý luận, giải quyết triệt để nền tảng lý thuyết,
những tiền đề của việc xây dựng chính sách khoan hồng nhằm phá vỡ các thoả
thuận hạn chế cạnh tranh trong pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam.
Ở phạm vi quốc tế, tác giả đã tìm đọc được nhiều tài liệu như: sách chuyên
khảo Leniency in Antitrust Enforcement: Theory and Practice, 30 World
Competition của Wouter P.J. Wils, The impact of Leniency and Whistleblowing
Programs on Cartels của Cecile Aubert, Patrick Rey và William E. Kovacic, The
Perks of Being a Whistleblower: Designing Efficient Leniency Programs in New
Antitrust Jurisdictions của Sandra Marco Colino…
Nhìn chung ở phạm vi quốc tế, vấn đề nghiên cứu về chính sách khoan hồng
để kiểm sốt các thảo thuận hạn chế cạnh tranh đã được các nước tiến bộ tập trung
nghiên cứu từ lâu và kết quả là đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu hữu ích ra đời,
tạo thành kim chỉ nam trong hành động đảm bảo thực thi có hiệu quả chính sách
cạnh tranh trên thế giới.
Trong bối cảnh đó, đề tài của tác giả mong muốn có thể tập trung khái quát
những lý thuyết và đi sâu vào giải thích, tìm ra được ngun tắc hoạt động hiệu quả
của chính sách khoan hồng, tạo thành một hệ thống lý luận minh bạch và rõ ràng, có
tính ứng dụng cao trong thực tiễn tại Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, đảm bảo
tính mới, tính khoa học và sát với tình hình thực tiễn.

3


3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Mục tiêu của khố luận là nhằm nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận của việc
xây dựng chính sách khoan hồng nhằm xác định các thoả thuận hạn chế cạnh tranh,
trả lời cho những vấn đề lý luận: Chính sách khoan hồng là gì? Việc xây dựng chính
sách khoan hồng dựa trên những cơ sở nào? Những nguyên tắc nào giúp thực thi
một chính sách khoan hồng đạt được hiệu quả trên thực tế tại Việt Nam?
Cơ sở lý luận sẽ có giá trị là nền tảng để dựa vào đó tiến hành những nghiên
cứu lý thuyết tiếp theo, đồng thời cung cấp một hệ thống lý luận, trở thành công cụ
để đưa chính sách vào thực hành trên thực tế.
Để đạt được mục tiêu trên, cần giải quyết triệt để được các vấn đề lý luận sau:
1.
Phân tích các vấn đề chung của thoả thuận hạn chế cạnh tranh và
chính sách khoan hồng, làm rõ bản chất của một thoả thuận hạn chế cạnh tranh, thấy
được sự nguy hiểm, cũng như những khó khăn trong việc phát hiện, điều tra và xử
lý trên thực tế. Từ đó đưa ra cơ sở lý thuyết về chính sách khoan hồng như khái
niệm, đặc điểm, bản chất của chính sách khoan hồng, ý nghĩa của việc xây dựng
chính sách khoan hồng nhằm kiểm sốt các TTHCCT.
2.
Giải thích nguyên lý hoạt động của các quy định liên quan đến chính
sách khoan hồng, từ đó thấy được vai trị và tác dụng của chính sách này trong việc
kiểm soát các thoả thuận hạn chế cạnh tranh; minh hoạ cho nền tảng lý thuyết bằng
cách đưa ra một số mơ hình về chính sách khoan hồng hoạt động hiệu quả trên thế
giới.
3.
Phân tích cơ sở thực tiễn về tình hình điều tra, xử lý các vi phạm liên
quan đến thoả thuận hạn chế cạnh tranh, sau đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp
nhằm xây dựng và thực thi hiệu quả chính sách khoan hồng trên thực tế tại Việt
Nam.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Trong khuôn khổ của đề tài này, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận
của việc xây dựng chính sách khoan hồng nhằm phá vỡ các thoả thuận hạn chế cạnh

tranh tại Việt Nam, bao gồm:
(i)
Những vấn đề chung liên quan đến thoả thuận hạn chế cạnh tranh như
khái niệm, đặc điểm, khó khăn trong việc điều tra xử lý các TTHCCT,
(ii)
Xác định bản chất của chính sách khoan hồng, đưa ra khái niệm, đặc
điểm, và ý nghĩa nhằm làm nổi bật tác dụng phá vỡ các TTHCCT của chính sách
này;

4


(iii)
Dựa trên cơ sở của lý thuyết trò chơi, nghiên cứu vấn đề xây dựng
chính sách khoan hồng, giải thích các nguyên tác hoạt động hiệu quả của chính sách
này.
(iv)
Nghiên cứu một số mơ hình về chính sách khoan hồng trên thế giới và
rút ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam.
(iv)
Nghiên cứu cơ sở thực tiễn điều tra và xử lý TTHCCT tại Việt Nam.
(v)
Đưa ra những kiến nghị nhằm xây dựng chính sách khoan hồng để
kiểm sốt các thoả thuận hạn chế cạnh tranh về xây dựng nội dung của chính sách
khoan hồng và về những điều kiện nền tảng giúp thực thi CSKH đạt hiệu quả tối ưu.
5. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH NGHIÊN CỨU
Khoá luận được xây dựng dựa trên sự kết hợp của nhiều phương pháp nghiên
cứu như sau:
-Phương pháp phân tích, áp dụng trong việc phân tích những quy định của
pháp luật và các vụ việc thực tế để là rõ những vấn đề liên quan đến các đặc tính

của TTHCCT. Phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của chính sách
khoan hồng trong kiểm sốt TTHCCT. Ngồi ra tác giả sử dụng phương pháp phân
tích nhằm đi sâu vào nghiên cứu ngun lý trị chơi nhằm tìm ra những ngun tác
xây dựng chính sách khoan hồng hiệu quả.
-Phương pháp tổng hợp được sử dụng nhằm tổng hợp những vấn đề lý luận,
thực tiễn, pháp lý nghiên cứu được từ các công trình đã được thực hiện trong phạm
vi ở Việt Nam cũng như trên thế giới, liên quan đến việc kiểm soát các thoả thuận
hạn chế cạnh tranh và xây dựng chính sách khoan hồng, củng cố cho những lập luận
về cơ sở xây dụng chính sách khoan hồng tại Việt Nam.
-Phương pháp so sánh luật nhằm so sánh giữa lý thuyết và thực tế, pháp luật
và thực tiễn ở Việt Nam với các nước trên thế giới để có thể xác định những kinh
nghiệm xây dựng chính sách khoan hồng tại Việt Nam.
6. BỐ CỤC TỔNG QUÁT CỦA ĐỀ TÀI
Bên cạnh lời mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, kết luận, nội
dung chính của khố luận được cấu trúc thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về thoả thuận hạn chế cạnh tranh và chính
sách khoan hồng.
Chương 2: Xây dựng chính sách khoan hồng nhằm kiểm soát các thoả thuận
hạn chế cạnh tranh.
Chương 3: Cơ sở thực tiễn và kiến nghị nhằm xây dựng chính sách khoan
hồng có hiệu quả tại Việt Nam.

5


CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THOẢ THUẬN HẠN CHẾ
CẠNH TRANH VÀ CHÍNH SÁCH KHOAN HỒNG
Có học giả đã cho rằng trong kinh tế thị trường, “nếu quan hệ cung cầu là cốt
vật chất, giá cả là diện mạo thì cạnh tranh là linh hồn của thị trường”6. Cạnh tranh
từ lâu đã được thừa nhận là một hiện tượng mang tính qui luật tất yếu của nền kinh

tế, là động lực và con đường của sự phát triển7.
Quá trình cạnh tranh khốc liệt buộc các doanh nghiệp phải nỗ lực vượt lên
trên những đối thủ khác để có thể tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận. Nhưng thay vì nâng
cao năng lực cạnh tranh phát triển trong bối cảnh mới, một số doanh nghiệp đã chọn
con đường dễ dàng hơn là dàn xếp, thỏa thuận với các đối thủ cạnh tranh trên thị
trường về giá cả, sản xuất, thị trường, khách hàng... nhằm duy trì thị phần và lợi
nhuận kinh doanh cho tất cả các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận8. Sự cấu kết như
vậy được xác định là một thoả thuận hạn chế cạnh tranh (TTHCCT). Mặc dù vậy
không phải tất cả các TTHCCT đều gây hại cho thị trường và bị cấm tuyệt đối9.
Tuy nhiên trên thực tế, việc kiểm soát TTHCCT là một bài toán cực kỳ khó
khăn đối với cơ quan cạnh tranh. Những TTHCCT bị pháp luật ngăn cấm và kiểm
soát buộc các chủ thể khi tham gia vào phải ra sức sử dụng nhiều chiêu thức, thủ
đoạn tinh vi, bí mật, ngầm thơng đồng hành động nhằm che giấu sự vi phạm10. Xuất
phát từ khó khăn đó mà hiện nay, pháp luật cạnh tranh của nhiều quốc gia trên thế
giới đã thừa nhận một công cụ hữu hiệu giúp cơ quan thực thi pháp luật có thể dùng
làm vũ khí tấn cơng và phá vỡ các TTHCCT từ bên trong, đó chính là xây dựng
chính sách khoan hồng.
Nghiên cứu về vấn đề này, trước tiên tác giả bắt đầu từ chính bản chất của các
TTHCCT để tìm ra cơ sở của việc xây dựng chính sách khoan hồng, xác định khái
niệm, đặc điểm, ý nghĩa và tác động của chính sách khoan hồng trong phá vỡ các
TTHCCT.
1.1

Những vấn đề chung về thoả thuận hạn chế cạnh tranh

6

Cách diễn tả của PGS. Nguyễn Như Phát, Bùi Nguyên Khánh, trích trong TS. Lê Văn Vĩnh, Hoàng Xuân
Bắc, Th.S Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, Nhà xuất bản Tư Pháp, Hà Nội,
tr.17

7
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Pháp luật về cạnh tranh và giải quyết
tranh chấp thương mại, Nhà xuất bản Hồng Đức, tr. 8
8
Cục Quản lý cạnh tranh phối hợp cùng Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) Nam (2012) Báo cáo rà
soát các quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam, tr. 3
9
Ví dụ, nhiều quốc gia cho phép các doanh nghiệp hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu, phát triển sản phẩm
(R&D), nghiên cứu, phát triển các tiêu chuẩn thống nhất cho sản phẩm... để kích thích lợi thế kinh tế qui mô,
thúc đẩy các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ... mang lại lợi ích cho người tiêu dùng và toàn bộ nền kinh tế.
10
OECD (2001), Using Leniency to Fight Hard Core Cartels, Policy Brief tr.1

6


1.1.1

Khái niệm và đặc điểm của thoả thuận hạn chế cạnh tranh
a. Khái niệm thoả thuận hạn chế cạnh tranh

Các học thuyết về kinh tế học vi mô đã chứng minh được rằng sự cấu kết với
nhau của những đối thủ cạnh tranh trên thị trường hướng đến một thị trường độc
quyền nhóm ổn định mang lại khả năng tối ưu hoá lợi nhuận cho doanh nghiệp11,
nhưng một sự hợp tác như vậy lại áp đặt lên người tiêu dùng các mức giá thực chất
cao hơn “giá thị trường”, gây ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường.
Ở một số nước trên thế giới như Anh hay Mỹ, các thoả thuận hạn chế cạnh
tranh thường được gọi là “cartel”. Đây là một thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Đức
(“Kartell”), với ý nghĩa nội hàm là một hình thức hợp tác giữa các doanh nghiệp có
vị trí độc lập với nhau nhằm nâng cao sức mạnh của các bên trên thị trường. Cartel

bị coi là bất hợp pháp khi nó có mục đích nhằm ngăn cản, hạn chế hoặc làm sai lệch
các quy luật cạnh tranh bình thường trên thị trường12.
Theo quy định tại khoản 3, Điều 3 Luật Cạnh tranh hiện hành của Việt Nam13,
hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở
cạnh tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế.
Khác với pháp luật cạnh tranh của Châu Âu và Nhật Bản, Luật Cạnh tranh của Việt
Nam không đưa ra khái niệm về TTHCCT mà quy định cụ thể về 8 dạng thức (hành
vi) thoả thuận theo Điều 8 LCT 2004.
Dự thảo 2 Luật cạnh tranh (sửa đổi) (sau đây gọi tắt là Dự thảo) đã xem xét và
khắc phục bất cập trên, hướng đến việc xác định khái niệm của TTHCCT tại khoản
7 Điều 3 Dự thảo. Theo đó quy định thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là cam kết
hoặc sự ràng buộc giữa các bên dưới mọi hình thức có tác động hoặc có khả năng
gây tác động loại trừ, làm giảm, sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường.
Quy định này tương đối hợp lý và thể hiện được bản chất cơ bản của một TTHCCT.
Như vậy có thể khái quát khái niệm của thoả thuận hạn chế cạnh tranh như
sau: “Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là cam kết hoặc sự ràng buộc dưới mọi
hình thức giữa hai hay nhiều chủ thể kinh doanh trên thị trường hướng tới hoặc
có tác động làm giảm, làm sai lệch hay cản trở hoạt động cạnh tranh bình
thường trên thị trường”.
b. Đặc điểm của các thoả thuận hạn chế cạnh tranh

11

Phí Mạnh Hồng (2009), Kinh tế vi mô, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
Nguyễn Hữu Huyên (2009), Nhận dạng cartel theo luật cạnh tranh của các nước phát triển,
truy cập ngày 15/6/2017
13
Luật Cạnh tranh số 27/2004/QH11 ban hành ngày 3 tháng 12 năm 2004 (LCT 2004)
12


7


Về chủ thể, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất cùng hành động
giữa các chủ thể kinh doanh trên cùng một thị trường liên quan14. Việc chủ thể kinh
doanh có là doanh nghiệp hay khơng là khơng quan trọng, tuy nhiên các chủ thể này
phải là những chủ thể kinh doanh, hoạt động độc lập với nhau.
Chủ thể tham gia TTHCCT phải có sự thống nhất ý chí cùng hành động với
mục đích làm giảm và triệt tiêu cạnh tranh trên thị trường. Một khi chưa có sự thống
nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp tham gia thì chưa thể kết luận có sự tồn
tại của thoả thuận hạn chế cạnh tranh15. Đây cũng chính là đặc điểm gây nên sự khó
khăn trong việc điều tra và xử lý TTHCCT trên thực tế, bởi để chứng minh một yếu
tố thống nhất về ý chí giữa các chủ thể không dễ dàng như chứng minh về một hành
vi vi phạm thực tế. Phần tiếp theo tác giả sẽ đi sâu vào giải thích sự khó khăn này.
Về nội dung, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang thường tập
trung vào các yếu tố cơ bản của quan hệ thị trường mà các doanh nghiệp đang cạnh
tranh nhau như giá, thị phần, sản lượng, trình độ kỹ thuật, công nghệ, điều kiện ký
kết hợp đồng và nội dung của hợp đồng. Thỏa thuận theo chiều dọc lại thường đa
dạng, và tùy thuộc vào đặc điểm của sản phẩm hay dịch vụ phân phối. Theo đánh
giá, các thoả thuận theo chiều dọc ít gây nguy hại cho cạnh tranh hơn là các
TTHCCT chiều ngang
Về hình thức, thỏa thuận là sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh
nghiệp, hình thức của nó có thể cơng khai hoặc khơng cơng khai. Hình thức pháp lý
của sự thống nhất ý chí khơng ảnh hưởng đến việc định danh thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh16, Luật mẫu về cạnh tranh của UNCTAD quy định về hình thức của
TTHCCT có thể là thỏa thuận bằng văn bản hay lời nói, chính thức hay khơng chính
thức. Thơng thường, đối với những thoả thuận bị cấm, các chủ thể sẽ tìm cách che
giấu sự cấu kết của mình, tạo lập nên các thoả thuận bí mật và tinh vi để thốt khỏi
sự điều tra của cơ quan chức năng17.

Về hậu quả tác động đến thị trường, các TTHCCT được xem là một loại vi
phạm đặc biệt nguy hại bởi nó hướng đến triệt tiêu hoàn toàn cạnh tranh giữa những
doanh nghiệp thành viên. Dấu hiệu chung của các loại hành vi hạn chế cạnh tranh sẽ
là làm giảm, sai lệch và cản trở cạnh tranh trên thị trường. Các TTHCCT gây ảnh
14

Bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan.
Phịng Thương mại và cơng nghiệp Việt Nam (2009), Sổ tay "Hành vi hạn chế cạnh tranh: Một số vụ việc
điển hình của châu Âu", nằm trong khuôn khổ hoạt động của Dự án Hỗ trợ Thương mại Đa biên (EU - Việt
Nam MUTRAP III), tr. 14
16
Phùng Văn Thành (2014), Khái niệm, bản chất và đặc trưng pháp lý của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam, truy cập
30/6/2017.
17
Đại học Luật tp. Hồ Chí Minh, tlđd (7), tr. 158
15

8


hưởng khơng những đến người tiêu dùng mà cịn gây tác động xấu cho cả nền kinh
tế18, một thoả thuận thành công sẽ làm cho giá cả tăng cao trên mức cạnh tranh
thông thường, đồng thời chất lượng và sản lượng sản phẩm lại không được đảm
bảo19. Hơn nữa, các thoả thuận che chở cho thành viên của nó khỏi sự cạnh tranh
giữa các đối thủ trên thị trường, giảm áp lực đầu tư nâng cao tiến bộ kỹ thuật nhằm
tăng chất lượng sản phẩm, giảm giá thành. Tựu trung lại, nó làm cho nền kinh tế bị
trì trệ, khơng có động lực để phát triển.
Về ngun tắc kiểm sốt các TTHCCT, trên cơ sở đánh giá mức độ nguy hại
tới cạnh tranh của các dạng thỏa thuận, người ta sẽ đưa ra các nguyên tắc để đánh

giá tính hợp pháp hoặc bất hợp pháp của một thỏa thuận nhằm kiểm soát chúng.
Tuỳ theo pháp luật mỗi nước khác nhau, không phải tất cả các TTHCCT đều bị
pháp luật cấm và bị điều tra xử lý.
Điều 9 LCT 2004 Việt Nam quy định về các hành vi TTHCCT bị cấm, gồm
hai nhóm: nhóm hành vi bị cấm tuyệt đối và nhóm hành vi bị cấm trên cơ sở thị
phần kết hợp trên thị trường liên quan của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận từ
30% trở lên. Các trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được
quy định tại Điều 10 LCT. Như vậy LCT 2004 sử dụng tiêu chí “thị phần” làm
thước đo khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đánh kể trên thị trường.
Dự thảo mới cũng đã có sự thay đổi trong quy định này, áp dụng theo hai
nguyên tắc, nguyên tắc vi phạm mặc nhiên và nguyên tắc hợp lý trong kiểm sốt
TTHCCT thay vì dùng yếu tố thị phần như trước20, đây là hướng tiếp cận điều chỉnh
tương tự nhiều nước trên thế giới, thể hiện sự đánh giá một cách toàn diện tác động
hạn chế cạnh tranh của các thoả thuận, và giúp tăng hiệu quả xử lý các trường hợp
vi phạm.
Trong phạm vi khoá luận, tác giả sử dụng thuật ngữ thoả thuận hạn chế cạnh
tranh với mong muốn hướng đến những thoả thuận bị cấm và và phải bị xử lý theo
pháp luật.
Về biện pháp xử lý vi phạm, trước đây, để xử lý các doanh nghiệp tham gia
18

OECD (2002), Report on the nature and impact of hard core cartels and sanctions against cartels under
nations.
19
Sandra Marco Colino (2011),, Competition Law of the EU and UK (7th Edn), Oxford University Press ,ch.
8.2.2

20

Điều 13 Dự thảo về “Các thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm
1. Cấm các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh của nhau tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại

các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và 6 Điều 12 Luật này.
2. Cấm các doanh nghiệp thực hiện thỏa thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại các khoản 7, 8, 9, 10, 11 và 12
Điều 12 Luật này gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị
trường”.

9


các TTHCCT bị cấm, LCT Việt Nam áp dụng biện pháp xử phạt hành chính đối với
các doanh nghiệp vi phạm, với mức phạt tiền tối đa đến 10% tổng doanh thu của tổ
chức, cá nhân vi phạm trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm21.
Hiện nay, khi Bộ luật Hình sự 2015 vừa được thơng qua, cá nhân và pháp
nhân thương mại có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 217 BLHS 2015
về các hành vi phạm quy định về cạnh tranh.
Có thể thấy đây là bước tiến của Việt Nam, với quan điểm thống nhất cho
rằng vi phạm về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là một trong các vi phạm pháp luật
cạnh tranh nghiêm trọng nhất, thời gian gần đây các nước trên thế giới có xu hướng
điều chỉnh các quy định về xử lý vi phạm liên quan đến hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh theo hướng tăng chế tài xử phạt, hình sự hố các TTHCCT nhằm đảm
bảo tính răn đe hiệu quả, chống lại các “ung nhọt của nền kinh tế thị trường mở”
(Ông Mario Monti – Cựu Cao ủy Cạnh tranh của EU)22.
1.1.2 Thuộc tính bí mật và khó phát hiện của các TTHCCT
Độc quyền hoặc khống chế thị trường là mơ ước của hầu hết các nhà doanh
nghiệp khi tham gia vào nền kinh tế, với mong muốn tồn tại và phát triển mà không
phải đương đầu với những cuộc cạnh tranh gây gắt. Vì vậy lịch sử của các hành vi
hạn chế cạnh tranh có một bề dày gần tương đương với lịch sử của kinh tế thị
trường23.
Cũng giống như bất kỳ vấn đề pháp lý nào, để kiểm sốt được thoả thuận
thơng đồng hạn chế cạnh tranh, nhà làm luật tốt hơn hết nên bắt nguồn từ những
thuộc tính, đặc điểm và kết cấu của vi phạm, xác định điểm yếu của nó mới có thể

tìm được biện pháp tấn cơng một cách hiệu quả.
Đặc điểm về hình thức của các TTHCCT vi phạm thường bí mật và khó bị
phát hiện24. Từ nguyên nhân TTHCCT là đối tượng hàng đầu chịu sự kiểm soát
nghiêm ngặt của pháp luật về cạnh tranh nên bắt buộc các thành viên tham gia thoả
thuận này phải tạo lập chúng trong bóng tối và dưới “chiếc áo chồng bí mật25” để
tránh nguy cơ bị phát hiện và bị áp dụng các hình phạt nặng nề của cơ quan quản lý
cạnh tranh. Chủ thể tham gia xây dựng và duy trì các TTHCCT thơng thường lại là
những nhà kinh doanh, đứng đầu các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn, họ có tiềm

21

Khoản 1 Điều 118 LCT 2004.
Mario Monti, The new shape of European Competion Policy, Tokyo, Japan Inaugural Symposium of the
Competition Policy Research Center, pp6.
23
Võ Duy Thái (2009), Một số vấn đề lý luận về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh tranh,
/>24
OECD (2001), tlđd (10), tr. 2
25
OECD (2001), tlđd (10)
22

10


lực cao về kinh phí cũng như tri thức khi tạo ra các vỏ bọc che đậy hoàn hảo dành
cho các thoả thuận trái phép của mình. Họ có động lực lớn trong việc thuyết phục
các đối thủ cạnh tranh trên thị trường cùng tham gia vào một thoả thuận phi pháp để
đạt được lợi nhuận mong muốn mà không phải tốn quá nhiều công sức. Từ tài liệu
nội bộ trong vụ việc Lysine, Hoa Kỳ đã tiết lộ một phương châm hoạt động đáng

ngại của công ty vi phạm: "Đối thủ cạnh tranh là bạn bè của chúng tôi, khách hàng
của chúng tôi là kẻ thù”26.
Các TTHCCT hầu hết không lập thành một văn bản, tài liệu mà chỉ là sự
thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp, ví dụ như việc đồng loạt tăng
giá sản phẩm, hay hạn chế sản lượng cung cấp cho thị trường. Thỏa thuận cịn có
thể bao gồm cả các quyết định tập thể của các doanh nghiệp thông qua quyết định
của Hiệp hội ngành nghề, của các tổ chức nghề nghiệp để các tổ chức, cá nhân kinh
doanh là thành viên. Theo Franz Jurgen Sacker, cựu thẩm phán về chống độc quyền
và là một trong những chuyên gia hàng đầu về luật cạnh tranh tại Đại học Berlin, đã
nhận định cartel là “những đứa con trong bóng tối” của EU. Khi cơng nghệ thông
tin ngày một tiên tiến, với tiềm lực sẵn có của mình, những ơng chủ lớn cố gắng áp
dụng các phương tiện trao đổi với nhau có tính bảo mật cao, không dễ dàng thâm
nhập và chứng minh sự cấu kết giữa họ. Nếu có dấu hiệu bị điều tra, doanh nghiệp
sẵn sàng tẩu tán bằng chứng về thỏa thuận, như trong một trường hợp, các doanh
nghiệp thông đồng với nhau phải đối mặt với yêu cầu kiểm tra tài liệu từ các cơ
quan cạnh tranh, đã đưa hai xe ô tô với các hồ sơ đấu thầu gian lận và đã đưa chúng
đến một đất nước, nơi mà nó mất trọn một ngày để đốt cháy chúng trong “bốn đống
lửa khổng lồ”27.
Ta có thể xem xét các ví dụ về hoạt động của một TTHCCT để thấy rõ hơn
thuộc tính bí mật và tinh vi của chúng. Vào ngày 5/12/2012, Ủy ban châu Âu đã
quyết định mức phạt khổng lồ 1,47 tỉ euro đối với bảy tập đoàn điện tử châu Âu và
châu Á thao túng thị trường đèn chân không (cathode-ray tube) dùng trong ti vi và
màn hình máy tính. Theo đó, từ 1996 đến 2006, các công ty liên quan đã chia sẻ các
thị trường, chi phối giá cả, và hạn chế sản lượng, bất chấp quyền lợi người tiêu
dùng. Trong một thập niên thao túng thị trường, các giám đốc điều hành của những
công ty này thường xuyên gặp mặt ở Paris, Rome, Amsterdam và châu Á trong
những “hội nghị xanh” – gọi như thế vì các cuộc họp thường kết thúc bằng ván chơi

26


Scott D. Hammond, Caught in the Act: Inside an International Cartel, OECD Competition Committee,
Working Party No. 3, Public Prosecutors Program (18 October 2005)
27
OECD (2002), Report on the Nature and Impact of Hard Core Cartels and Sanctions against Cartels under
National Competition Laws, truy cập 10/6/2017

11


trên các sân golf khắp châu Âu và châu Á. Việc thực hiện chi tiết sẽ được thỏa
thuận để bảo đảm hạn định đã thỏa thuận về năng suất.
Hay như tờ Der Tagesspiegel ở Berlin, Đức, mô tả tổ chức một cartel trong
thị trường máy biến thế từ những hội nghị ở Frankfurt, Đức, tương tự cartel đèn
chân không bị EU phanh phui trên. Trong các hội nghị Zentralverbands
Elecktrotechnik, các doanh nhân nổi tiếng sẽ nói về thị trường và cơng nghệ mới,
hay bất kể cái gì mới trong kinh doanh máy biến thế. Nhưng công việc thật sự quan
trọng ln nằm ở cuối chương trình chính thức, vào buổi chiều tối hay trong những
chuyến du ngoạn chung. Khi đó, các giám đốc điều hành và lãnh đạo bán hàng họp
thành những nhóm nhỏ, “thảo luận kế hoạch” sao cho đạt lợi nhuận cao nhất. Kết
quả từ những cuộc nói chuyện đó là sự sắp xếp sao cho bảo đảm các cơng ty bề
ngồi tưởng là đối thủ cạnh tranh sẽ có thêm lợi nhuận khổng lồ. Những thỏa thuận
chi tiết về ai nên có hợp đồng nào và nhất là, với giá nào28.
Như vậy có thể thấy, để phát hiện hoặc tìm cách áp dụng hình phạt nhằm
kiểm sốt đối với hành vi vi phạm chống độc quyền, các cơ quan cạnh tranh cần
thông tin về sự tồn tại của những vi phạm đó, và có đủ bằng chứng để làm cơ sở
thuyết phục khi đưa ra biện pháp xử phạt, nhưng điều này dường như là không hề
dễ dàng và đơn giản trên thực tế.
Ngày nay, trong bối cảnh nền kinh tế có sự mở cửa và hợp tác sâu rộng, thì
các TTHCCT cũng tăng lên về quy mơ, tính nguy hiểm cũng những mức độ tinh vi.
Các TTHCCT có khuynh hướng quốc tế hố, mở rộng phạm vi hoạt động và ảnh

hưởng càng làm tăng sự nan giải trong việc xử lý đối với cơ quan chức năng.
Về mặt chủ quan, sự thiếu nguồn lực và hệ thống pháp lý chưa được hoàn
chỉnh của quốc gia cũng dẫn đến chất lượng điều tra, xử lý những chủ thể vi phạm
TTHCCT không được hiệu quả, đặc biệt đối với những nước có nền kinh tế đang
phát triển.
1.1.3 Những công cụ giúp điều tra và xử lý các TTHCCT
Xử lý và điều tra các vi phạm liên quan đến TTHCCT là một vấn đề rất khó
khăn vì nhà điều tra không chỉ phải chứng minh một hành vi trao đổi thông tin, dữ
liệu về hoạt động kinh doanh như về giá cả, sản lượng, thị phần, kế hoạch sản
xuất… hay một biểu hiện đồng loạt trên thị trường công khai mà cịn phải chứng
minh sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể.
Việc trao đổi thông tin giữa các đối thủ cạnh tranh có thể tạo ra sự minh bạch
trên thị trường, và nó chỉ mang tính chất phản cạnh tranh khi nó tạo điều kiện cho
28

Võ Phương (2012), Đằng sau mức phạt 1,47 tỉ euro đối với một cartel truy cập ngày 30/6/2017

12


các doanh nghiệp thiết lập sự phối hợp, kiểm soát cạnh tranh và ngầm phối hợp
trừng phạt bất kỳ sai lệch nào từ thoả thuận29. Để có thể đánh giá tính hợp pháp hay
khơng của việc trao đổi thơng tin, các tiêu chí sẽ phải được xem xét bao gồm30:
- Bản chất và số lượng thông tin (trao đổi rộng rãi thơng tin về giá cả, đầu ra,
chi phí lớn… mới có nhiều khả năng có ý nghĩa chống cạnh tranh);
- Thời điểm thông tin được chia sẻ so với sự thay đổi của giá (chia sẻ dữ liệu
trong quá khứ thường được coi là ít có vấn đề hơn chia sẻ dữ liệu hiệu tại)
- Ý chí của các bên khi trao đổi thơng tin (nhằm mục đích hạn chế cạnh tranh,
như nhằm ấn định giá hay bình ổn giá, sẽ là vấn đề)
- Mức độ công khai của việc trao đổi thông tin

- Tần suất trao đổi, cấu trúc và việc kiểm soát lẫn nhau giữa các doanh
nghiệp.
Vấn đề lớn nhất đối với các cơ quan quản lý cạnh tranh là thu thập chứng cứ
và thông tin cần thiết liên quan đến sự trao đổi thông tin và các biểu hiệu trên thị
trường, và chứng minh được yếu tố thống nhất ý chí của các đối thủ cạnh tranh để
làm căn cứ khởi xướng điều tra các vụ việc hạn chế cạnh tranh31.
Qua quá trình nghiên cứu thực tiễn, cho thấy các cơ quan chức năng về cạnh
tranh có thể tìm hiểu các thơng tin và thu thập bằng chứng cần thiết liên quan đến
vụ việc hạn chế cạnh tranh từ ba nguồn cơ bản32.
Thứ nhất là nguồn thông tin từ việc quan sát những biểu hiện đồng loạt trên
thị trường và các dữ liệu công khai, sau đó nhà điều tra sẽ cố gắng phát hiện và
chứng minh hành vi vi phạm thông qua công cụ phân tích kinh tế chuyên biệt.
Thứ hai, là sự thu thập thông tin từ khiếu nại hay tố giác từ các bên thứ ba,
bao gồm: khách hàng hoặc đối thủ cạnh tranh bị xâm phạm bởi vi phạm hạn chế
cạnh tranh, một nhân viên của công ty, hay bất kỳ bên nào khác33.
Thứ ba, và thông thường là tốt nhất, là nguồn thơng tin trực tiếp từ chính nội
bộ cơng ty và cá nhân có hành vi vi phạm đã tham gia trong các TTHCCT.
29

Trần Việt Dũng, Phạm Hoài Huấn (2017), Hành vi cung cấp thông tin giữa các đối thủ cạnh tranh: Một
vài góp ý hồn thiện Dự thảo Luật cạnh tranh, Hội thảo lấy ý kiến doanh nghiệp Dự thảo Luật cạnh tranh
(sửa đổi).
30
OECD (2010), Roundtable on Information Exchanges Between Competitors under Competition Law,
truy cậy 10/7/2017
31
Nguyễn Anh Tuấn (2013), “Cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng chính sách khoan hồng theo Luật Cạnh
tranh của một số nước trên thế giới và đề xuất bổ sung cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Pháp lý số 1/2013,
tr.49
32

Wouter P.J. Wils (2006), Leniency in Antitrust Enforcement: Theory and Practice, 30 World Competition
25, />33
D.I. Baker (2001), ‘The Use of Criminal Law Remedies to Deter and Punish Cartels and Bid-Rigging’ 69
George Washington Law Review 693 at 708.

13


Đối với một số loại vi phạm nhất định, đặc biệt là các thoả thuận về giá cả
hay sản lượng, thơng thường chỉ có bản thân doanh nghiệp và một số ít nhân viên
của họ có thể là những người nắm giữ thơng tin và bằng cứ có liên quan. Vì vậy mà
thơng tin từ các nguồn thứ nhất và thứ hai hầu như khơng thực sự có ý nghĩa. Các
bằng chứng từ thị trường công khai không đủ để đưa ra một kết luận chứng tỏ sự
thông đồng; bởi trong nền kinh tế vốn có nhiều biến động, vấn đề tìm ra nguyên
nhân thật sự của những biểu hiện ấy và một minh chứng thuyết phục về sự liên kết
lẫn nhau nhưng được che giấu kỹ lưỡng có vẻ như vẫn rất khó khăn.
Như vậy, câu hỏi đặt ra là làm thế nào giúp cơ quan chức năng có thể tiếp cận
những nguồn tài liệu trực tiếp từ phía doanh nghiệp? Có ba cơng cụ điều tra thường
được đề xuất34.
Đầu tiên là biện pháp trực tiếp xâm nhập, điều tra vào trụ sở của cơ quan,
doanh nghiệp để nắm được chứng cứ. Cơ quan quản lý cạnh tranh có thể có quyền
tiến hành kiểm tra tại cơ sở kinh doanh và kiểm tra tại nhà riêng; hoặc thực hiện
giám sát trực tiếp hoặc theo dõi nguồn thơng tin bí mật của các cá nhân có liên
quan. Biện pháp điều tra này có ít nhất hai nhược điểm35. Nó sẽ vô cùng tốn kém
khi phải thực hiện trên diện rộng, vì cơ quan chức năng khơng thể biết được chính
xác những nơi chứa đựng thơng tin cần tìm; và kết quả của q trình tìm kiếm đơi
khi chỉ là những tài liệu thơng thường, khơng có giá trị chứng minh cao, chưa kể
đến việc nhà điều tra cần có trình độ nhất định để phân loại, và đánh giá tính đúng
đắn của những tài liệu thu thập được.
Tiếp theo, cơ quan cạnh tranh có thể cố gắng làm cho các cơng ty và cá nhân

có liên quan hợp tác với họ bằng cách sử dụng sự ép buộc dưới hình thức các biện
pháp trừng phạt36. Biện pháp trừng phạt đe doạ từ chối hợp tác thường là một hành
vi phạm tội riêng rẽ, hoặc gia tăng số tiền phạt đối với vi phạm chống độc quyền
được thiết lập sau cuộc điều tra. So với phương pháp trực tiếp đầu tiên, biện pháp
này tạo được lợi thế trong việc giảm bớt kinh phí, cơ quan chức năng có thể thơng
qua lời khai của các công ty và nhân viên của công ty liên quan và xác định được vị
trí chính xác của các tài liệu vi phạm, thay vì tìm được một lượng tài liệu khổng lồ
nhưng khơng có giá trị chứng minh cao. Tuy nhiên, đáng lưu ý là khi bị đe dọa,
những người liên quan lại có xu hướng đưa ra các câu trả lời không trung thực, với
hy vọng đánh lạc hướng cơ quan điều tra và tránh được nguy cơ bị phát hiện và

34

Wouter P.J. Wils, tlđd (32).
Wouter P.J. Wils ,tlđd (32), tr. 20.
36
Wouter P.J. Wils, tlđd(32)
35

14


trừng phạt. Từ đó dẫn đến hệ quả cơ quan điều tra cũng không thể đánh giá được lời
khai đưa ra có đáng tin cậy hay khơng, khả năng xác định vi phạm không đạt được.
Cuối cùng, là phương pháp thứ ba được đề xuất bởi nhiều học giả pháp lý trên
thế giới, phương pháp sử dụng chính sách khoan hồng. Chính sách khoan hồng có
thể được sử dụng để có được tất cả các loại thơng tin, khơng chỉ là tài liệu hiện tại
hoặc chứng cứ vật lý hiện có mà cịn là một lời khai nhận sự vi phạm trực tiếp của
người người bị tình nghi. Giống như phương pháp thứ hai, nó tiết kiệm chi phí tìm
kiếm vì việc thu thập thơng tin liên quan được thực hiện bởi chính sự cam kết của

các cơng ty và nhân viên có liên quan, những người biết chính xác về những thơng
tin ấy. Đồng thời, chính sách khoan hồng đem lại các thơng tin đáng tin cậy hơn vì
ít nhất, nếu những người xin miễn trừ cung cấp thông tin khơng đáng tin cậy, họ có
nguy cơ mất quyền lợi miễn trừ của mình, trực tiếp mất đi lợi ích cao nhất mà họ có
thể có được37.
Và vấn đề chính sách khoan hồng là gì? Nó mang lại hiệu quả như thế nào?
Cơ chế hoạt động nào để chính sách này có thể khuyến khích sự hợp tác từ chính
những người tham gia TTHCCT? Trong các phần tiếp theo của đề tài, tác giả sẽ lần
lượt giải quyết những vấn đề này để tìm ra câu trả lời thoả đáng.
Những vấn đề chung về chính sách khoan hồng
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm cơ bản của Chính sách khoan hồng.
“Khoan hồng” được định nghĩa trong New Oxford Dictionary: [t]he fact or
quality of being more merciful or tolerant than expected, tạm dịch là thực tế hoặc
chất lượng của lòng thương xót hoặc khoan dung hơn mong đợi.
Trong nội dung của pháp luật nói chung, sự khoan hồng đã xuất hiện từ rất
1.2

lâu, theo đó nó là việc cho phép miễn trừ một phần hoặc toàn bộ các chế tài xử phạt
cho người vi phạm pháp luật nếu họ đồng ý và tự nguyện hợp tác với cơ quan chức
năng, thực hiện một số yêu cầu như tự thú, khai nhận hành vi vi phạm hoặc cung
cấp các bằng chứng, chứng cứ có liên quan.
Luật Mẫu về Cạnh tranh ban hành bởi UNCTAD vào năm 2010 đưa ra
khuyến nghị về chương trình khoan hồng như là một cơng cụ điều tra để khám phá
ra những vi phạm nghiêm trọng nhất của các hành vi hạn chế cạnh tranh.
“Một chương trình khoan hồng là một hệ thống, được công bố rộng rãi, được
hiểu là sự miễn trừ một phần hoặc toàn bộ sự trừng phạt từ hình phạt dành cho một
đối tượng đổi lấy việc khai nhận về các TTHCCT mà họ tham gia cũng như báo cáo

37


Wouter P.J. Wils, tlđd(32)

15


thơng tin về những thành viên cịn lại trong thoả thuận đó cho cơ quan thi hành luật
cạnh tranh"38.
Như vậy, về khái niệm có thể hiểu: Chính sách khoan hồng là một cơ chế do
Nhà nước quy định dành quyền miễn trừ khỏi các chế tài phạt mà pháp luật áp
dụng đối với các thành viên tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nhưng chủ
động khai báo, cung cấp thông tin, tài liệu hay chứng cứ chứng minh hành vi
thỏa thuận và có sự hợp tác với cơ quan điều tra trong suốt q trình điều tra.
Chính sách khoan hồng sẽ có một số đặc điểm cơ bản sau.
Đối tượng được hưởng sự khoan hồng thông thường là các doanh nghiệp, là
chủ thể tham gia vào các TTHCCT, nhưng vẫn có quốc gia dành sự khoan hồng cho
đối tượng là cá nhân, những người là giám đốc, lãnh đạo và những người lao động
trong công ty tham gia cartel.
Cụ thể, Hoa Kỳ áp dụng song song hai chính sách khoan hồng, một là dành
cho công ty và một là dành cho các cá nhân. Nhật Bản khơng có chính sách khoan
hồng riêng dành cho cá nhân như Hoa Kỳ nhưng theo chính sách khoan hồng mà
AMA đưa ra thì các lãnh đạo, nhân viên của công ty đầu tiên khai báo tới JFTC
cũng sẽ được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự.
Về phạm vi các hình phạt được miễn hồn tồn hoặc giảm với một tỉ lệ nhất
định, đó có thể là bất kỳ hình phạt nào được áp dụng bởi các cơ quan thực thi luật
cạnh tranh thuộc thẩm quyền liên quan như tiền phạt đối với công ty, tiền phạt đối
với cá nhân, một số quốc gia cịn cho phép miễn giảm đối với trách nhiệm hình sự
cho cá nhân.
Để đạt được sự miễn/giảm mức phạt, nhìn chung đối tượng xin hưởng khoan
hồng phải thoả mãn một số điều kiện cơ bản39:
-Là một trong những người đầu tiên nộp đơn xin hưởng khoan hồng.

-Thơng thường, một chính sách khoan hồng sẽ xây dựng theo đó dành
cho người đầu tiên nộp đơn xin hưởng khoan hồng được miễn hoàn toàn
mức phạt (đồng thời đáp ứng một số yêu cầu riêng khác). Những người nộp
đơn tiếp theo thứ hai và thứ ba chỉ được giảm mức phạt với tỉ lệ dựa vào các
tiêu chí như mức độ các thơng tin cung cấp, thời điểm xin hưởng khoan
hồng, v.v…

38

Wouter P.J. Wils (2006), Leniency in Antitrust Enforcement: Theory and Practice, 30 World Competition
25-64 />39
Võ Thị Kim Liên (2015), Chính sách khoan hồng trong việc kiểm soát thoả thuận hạn chế cạnh tranh,
Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật thành phố HCM, tr.16

16


-Đối tượng phải là thành viên tham gia vào TTHCCT và khơng có vai
trị tổ chức, dẫn đầu hay lơi kéo bất kỳ thành viên nào khác vào các thoả
thuận.
-Tại thời điểm khai báo cơ quan điều tra chưa nhận được thông tin khai
báo từ bất kỳ nguồn nào và/hoặc chưa tự phát hiện được hành vi vi phạm.
-Chủ động khai báo, hợp tác đầy đủ và liên tục với cơ quan điều tra
cho đến khi kết thúc điều tra.
-Đối tượng phải chấm dứt, rời khỏi TTHCCT khi ứng dụng khoan
hồng được áp dụng.
Về phần mình, cơ quan thi hành luật cạnh tranh cần phải đảm bảo chính sách
khoan hồng được hoạt động với sự minh bạch và đáng tin cậy cao40, tạo ra khả
năng có thể đốn trước được đối với các hình phạt và sự miễn trừ nhằm tạo sự
khuyến khích áp dụng khoan hồng cho các các thành viên”41.

Mục đích chính xây dựng chính sách khoan hồng trong pháp luật cạnh tranh
là nhằm hướng đến một phương pháp giúp cơ quan chức năng đạt được hiểu quả
trong việc thu thập thông tin chứng cứ về hành vi TTHCCT từ những người trực
tiếp tham gia. Điều này giúp cơ quan chức năng giảm được một chi phí điều tra lớn
và đồng thời nâng cao chất lượng điều tra, kiểm sốt các hành vi TTHCCT.
Một chương trình khoan hồng sẽ bao gồm việc xây dựng chế định chính sách
khoan hồng trong luật cùng với những biện pháp, công cụ hỗ trợ để nhằm thực thi
chính sách khoan hồng có hiệu quả trên thực tế.
1.2.2 Ý nghĩa của việc xây dựng chính sách khoan hồng trong kiểm sốt
các TTHCCT
Trong nhiều tài liệu tham khảo lịch sử, chúng ta có thể tìm thấy việc ghi nhận
việc một đối tượng phạm tội có khả năng thốt khỏi những hình phạt nghiêm trọng
nhất bằng việc đổi lấy một số hình thức hợp tác với chính quyền.
Tiểu thuyết Sophie's World của tác giả Gaarder đã mô tả vào năm 399, nhà
triết học Socrates bị chính quyền khi đó kết tội làm bại hoại tư tưởng của thanh niên
do không thừa nhận hệ thống các vị thần cũ được thành Athena thừa nhận và bảo hộ
và truyền bá các vị thần mới. Vì thế ơng bị tuyên phạt tự tử bằng thuốc độc, mặc dù
vậy ơng vẫn có thể thốt khỏi án tử hình này nếu như ông công nhận những cáo
trạng và sai lầm của mình, hoặc là rời bỏ Athena. "Có thể ơng ta đã khẩn cầu về sự
40

OECD (2001), tlđd (10), tr. 2
UNCTAD (2010), Model Law on Competition (2010) – Chapter X, TD/RBP/CONF.7/L.10 United Nations
Conference on Trade and Development , Sixth United Nations Conference to Review All Aspects of the Set
of Multilaterally Agreed Equitable Principles and Rules for the Control of Restrictive Business Practices,
United Nations.
41

17



khoan hồng. Ít nhất ơng có thể đã cứu sống ông bằng cách đồng ý rời Athens”42.
Nhưng với quan điểm "Thà rằng chịu lỗi, hơn là lại gây ra tội lỗi", ông kiên quyết ở
lại, đối diện với cái chết một cách hiên ngang.
Trong trường hợp này, nhà triết học nổi tiếng có thể nhận được sự khoan
hồng bằng một hành động hợp tác, nhưng không phải buộc tội bất cứ ai khác để
thốt án tử hình. Các hệ thống khoan hồng hiện đại thường liên quan đến việc xử lý
có lợi cho người tố cáo, người đã vi phạm luật pháp, khuyến khích họ đưa ra và
cung cấp bằng chứng cần thiết giúp các cơ quan có thẩm quyền hành động chống lại
những người phạm sai trái khác. Đây chính xác là cách thức khiến cho những bằng
chứng ra vụ bê bối tham nhũng khét tiếng trong Liên đoàn bóng đá Quốc tế
Fédération (FIFA) - cơ quan quản lý bóng đá bị phanh khui và xử lý. Chuck Blazer,
người từng là thành viên ban chấp hành FIFA, đã chấp nhận cung cấp thông tin
đồng thời xác nhận đã hối lộ, tham gia vào rửa tiền và trốn thuế. Blazer đã tránh
được án tù 75 năm bằng cách thú tội và đồng ý "cung cấp thông tin trung thực, đầy
đủ và chính xác" cho các cơng tố viên Hoa Kỳ và "tham gia vào các hoạt động bí
mật theo các hướng dẫn cụ thể của các cơ quan thực thi pháp luật".43
Với tinh thần đó, chính sách khoan hồng đã được xây dựng với mục đích
khuyến khích những người vi phạm tố cáo các hành vi vi phạm chống lại những
người khác và cung cấp các thông tin cần thiết cho cuộc điều tra.
Ý nghĩa đầu tiên của chính sách khoan hồng là giúp cơ quan thực thi luật
cạnh tranh cải thiện vấn đề thu thập thông tin và chứng cứ vi phạm, tăng hiệu quả
điều tra đối với các hành vi TTHCCT.
Như đã trình bày ở trên, vì một TTHCCT là bất hợp pháp, nên nó được xây
dựng và vận hành trong bóng tối, được che đậy một cách tinh vi. Để có thể xử lý và
áp đặt các mức phạt đối với các đối tượng nhằm kiểm soát đối với hành vi vi phạm
chống hạn chế cạnh tranh, các cơ quan cạnh tranh cần thông tin về sự tồn tại của
những vi phạm đó, địi hỏi họ có đủ bằng chứng đủ để làm cơ sở đưa ra biện pháp
xử phạt.
Nhìn chung, khoan hồng khơng chỉ cho phép thu thập chúng cứ ít tốn kém

hơn và mà cịn đáng tin cậy hơn nếu chỉ có phương pháp nghiên cứu khác đã có sẵn.
Nó cũng tạo ra động lực cho các bên tham gia cartel chủ động tạo ra và lưu
giữ được nhiều bằng chứng xác đáng. Điều này tác động tăng khả năng các cơ quan
cạnh tranh tìm ra bằng chứng thông qua các phương pháp điều tra trực tiếp.
42

Jostein Gaarder, Sophie’s World (20th anniversary edition), Weidenfeld & Nicolson (2015).
Rupert Neate (2015), Chuck Blazer agreed to go undercover to avoid potential 75-year sentence, The
Guardian, deal.
43

18


Bên cạnh đó, khi thực thi chính sách khoan hồng trên thực tế, nó có thể làm
tăng khó khăn trong việc tạo ra và duy trì các TTHCCT44.
Thiết lập và duy trì một TTHCCT thành cơng địi hỏi một nỗ lực lớn của các
thành viên45 bởi vì đặc điểm chính của TTHCCT là sự đối nghịch giữa việc hợp tác
và lợi ích cá nhân. Các doanh nghiệp tham gia vào một cartel là những đối thủ cạnh
tranh với nhau trên thương trường. Harrington đã khẳng định rằng, khả năng duy trì
của các TTHCCT bị ảnh hưởng bởi bài tốn lợi ích của thành viên, cụ thể là lợi ích
dự kiến mà một thành viên có thể thu được nếu tiếp tục duy trì TTHCCT so với lợi
ích mà thành viên đó có thể được hưởng từ việc phá vỡ thỏa thuận46. Do đó, khi cố
gắng thuyết phục các đối thủ của mình, bản thân doanh nghiệp phải lựa chọn và
điều phối hành vi của các thành viên trên các chiến lược đồng ý chung, đồng thuận,
cho phép những người tham gia cartel cùng gia tăng lợi nhuận và tạo ra sự phân
chia lợi nhuận một cách công bằng, hợp lý. Họ đồng thời cũng cần phải phát triển
các cơ chế để ngăn cản sự gian lận, bao gồm giám sát, thưởng và trừng phạt. Trong
một nền kinh tế năng động, các tập đồn thành cơng phải phát triển một cấu trúc tổ
chức cho phép họ giải quyết những vấn đề này một cách liên tục47.

Trên cơ sở đó, một chương trình khoan hồng được thiết kế tốt có thể tạo ra sự
ảnh hưởng nhất định, làm suy yếu các yếu tố trên ở một mức độ nào đó, làm tăng
chi phí cho việc kiểm sốt lẫn nhau của các doanh nghiệp. Nhưng đặc biệt hơn,
chính sách khoan hồng mặt khác cịn có tác động trực tiếp đến yếu tố niềm tin giữa
các thành viên48.
Khả năng những người tham gia vào cartel nộp đơn xin hưởng sự khoan hồng
sẽ làm tăng thêm nguy cơ gian lận49, và doanh nghiệp thành viên một mặt đối mặt
với nguy cơ bị đối thủ của mình gian lận các thoả thuận, một mặt là nguy cơ có một
thành viên sẽ phá vỡ các thoả thuận thông qua hợp tác với cơ quan chức năng để họ
tìm đến sự khoan hồng. Niềm tin lẫn nhau giữa các doanh nghiệp sẽ giảm sút
nghiêm trọng khi một đối thủ có khả năng gian lận để đạt được các khoản lợi đáng
kể, và về lâu dài sẽ gây áp lực lên bất kỳ một “ý định” thông đồng nào.
44

Gary R. Spratling and D. Jarrett Arp (1993), ‘The International Leniency Revolution – The Transformation
of International Cartel Enforcement During The First Ten Years Of The United States’ Corporate
Amnesty/Immunity Policy’, American Bar Association Section of Antitrust Law Annual Meeting
45
Wouter P.J. Wils, tlđd(32)
46
Joseph E. Harrington, “Optimal Corporate Leniency Programs”, 56 The Journal of Industrial Economics 2
(June 2008), tạiwww.econ.jhu.edu/People/Harrington/jie08.pdf
47
M.C. Levenstein and V.Y. Suslow, see also J.E. Harrington, ‘How Do Cartels Operate?’ (June 2006),
available at />48
N.K. Katyal, ‘Conspiracy Theory’, (2003) 112 Yale Law Journal 1307, at 1330-1331,
49
J.E. Harrington, tlđd

19



Ngồi những ảnh hưởng tích cực của sự khoan hồng trong giai đoạn điều tra
(cải thiện thu thập thông tin tình báo và bằng chứng), sự khoan hồng cịn dẫn đến
tiết kiệm chi phí trong giai đoạn xét xử, vì đảm bảo được việc xác nhận sự vi phạm
và chấp nhận hình phạt. 50 Ví dụ như trong trường hợp của Bộ Tư pháp Hoa Kỳ,
việc thực hiện các thoả thuận nhận tội cho phép tiết kiệm chi phí kiện tụng trước
tịa án liên bang, cũng như chi phí cho việc kháng cáo tiếp theo.
Cuối cùng, trong một số trường hợp nhất định, chính sách khoan hồng giúp
đem lại sự công bằng cho những đối tượng đã chịu thiệt hại bởi các TTHCCT gây
ra, đồng thời tăng hiệu quả thực thi pháp luật về cạnh tranh thông qua cơ chế bồi
thường cho người bị thiệt hại. Một trong những điều kiện để có được quyền miễn
trừ theo Chính sách khoan hồng cho các công ty của Bộ Tư pháp Hoa Kỳ trong một
số trường hợp, công ty sẽ phải bồi thường cho những người bị thiệt hại. Ở Anh,
trong vụ việc Independent Schools mà Văn phòng thương mại Anh xử lý, các
trường học bị điều tra đã đồng ý thực hiện bồi thường một khoản tiền trị giá 3 triệu
bảng cho một quỹ từ thiện dành cho những học sinh thuộc các trường học, bên cạnh
việc phải trả một khoản phạt danh nghĩa là 10.000 bảng cho mỗi trường51.

50

L Wouter P.J. Wils, tlđd(32), tr.25
P. Collins (2006), ‘Public and private enforcement challenges and opportunities’, Speech to the Law
Society’s European Group (6 June 2006)
51

20


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Qua chương 1, bằng những phân tích về khái niệm, đặc điểm của các
TTHCCT, tác giả đã hướng đến những tác động tiêu cực của TTHCCT đến nền
kinh tế và người tiêu dùng, đặc biệt làm sáng tỏ đặc tính bí mật, tinh vi và những
khó khăn trong việc điều tra, xử lý đối với các TTHHCT. Trong những công cụ
giúp phát hiện và thu thập thông tin về các vi phạm liên quan đến TTHCCT, tác giả
nhận thấy chính sách khoan hồng là một cơng cụ đem lại hiệu quả cao nhất đồng
thời giúp tiết kiệm chi phí một cách đáng kể. Đây là nền tảng quan trọng trong việc
xây dựng chính sách khoan hồng trong pháp luật cạnh tranh ở hầu hết các nước trên
thế giới, và trong đó có cả Việt Nam.
Chính sách khoan hồng là một cơ chế do Nhà nước quy định dành quyền
miễn trừ khỏi các chế tài phạt mà pháp luật áp dụng đối với các thành viên tham gia
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nhưng chủ động khai báo, cung cấp thông tin, tài liệu
hay chứng cứ chứng minh hành vi thỏa thuận và có sự hợp tác với cơ quan điều tra
trong suốt quá trình điều tra. Hiệu quả to lớn của chính sách này là giúp cơ quan
thực thi pháp luật dễ dàng hơn trong việc thu thập các thơng tin, bằng chứng vi
phạm và khuyến khích các doanh nghiệp vi phạm hợp tác với họ, chống lại những
thành viên khác. Từ đó chính sách khoan hồng tác động đến sự tồn tại ổn định của
các TTHCCT, hạn chế sự hình thành và phát triển của chúng trong tương lai, đảm
bảo môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh.
Tuy nhiên, việc quy định về chính sách khoan hồng của các quốc gia khơng
hồn tồn thống nhất với nhau, với nhiều quan điểm và nguyên tắc khác biệt nhất
định, mức độ hiệu quả trong kiểm soát các TTHCCT cũng khác nhau và phụ thuộc
rất lớn vào những điều kiện đặc thù của riêng mỗi đất nước.
Khi ta học tập kinh nghiệm xây dựng chính sách khoan hồng, nếu chỉ sao
chép toàn bộ tất cả quy định của một mơ hình bấy kỳ khơng những sẽ khơng thể
mang lại kết quả khơng như mong muốn mà cịn có thể đem lại một số tác động tiêu
cực; vấn đề đặt ra là cần phải có một kim chỉ nam xác định những cơ sở và nguyên
tắc nào để đem lại hiệu quả tối ưu nhất có thể.
Chương tiếp theo của khoá luận sẽ tập trung vào nghiên cứu những nguyên
tắc hoạt động của mơ hình chính sách khoan hồng, sau đó tiến hành đối chiếu vào

pháp luật cạnh tranh của một số quốc gia lớn nhằm học hỏi những kinh nghiệm tiến
bộ có thể áp dụng cho pháp luật Việt Nam.

21


×