Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất trong công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thực trạng và hướng hoàn thiện (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
-----------

NGUYỄN THỊ HẰNG

ĐẢM BẢO QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG
ĐẤT TRONG CÔNG TÁC CẤP GIẤY CHỨNG
NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT- THỰC TRẠNG VÀ
HƢỚNG HOÀN THIỆN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thƣơng mại

TP. HCM/2011


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

ĐẢM BẢO QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG
ĐẤT TRONG CÔNG TÁC CẤP GIẤY CHỨNG
NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT-THỰC TRẠNG VÀ
HƢỚNG HOÀN THIỆN

SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ HẰNG
KHOÁ: 2007-2011



MSSV:3220052

GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN: Th.S NGUYỄN THỊ KIỀU OANH

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011


LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên là Nguyễn Thị Hằng , sinh viên Khoa Thƣơng mại, Trƣịng Đại học Luật TP
Hồ Chí Minh, MSSV: 3220052. Tơi xin cam đoan bản khố luận này là cơng trình
nghiên cứu của riêng tơi. Các dữ liệu, kết quả nêu trong khố luận là hồn tồn
trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả


NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG KHOÁ LUẬN

GCNQSDĐ

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

LĐĐ

Luật đất đai


MỤC LỤC

Trang
Lời mở đầu ........................................................................................................................ 1

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đảm bảo quyền lợi của ngƣời sử dụng đất
trong cơng tác cấp GCNQSDĐ.
1.1 Vai trị của công tác cấp GCNQSDĐ đối với việc thực hiện quản lý về đất đai và
quyền sở hữu của nhà nƣớc. ............................................................................................ 4
1.1.1.Vai trị của cơng tác cấp GCNQSDĐ đối với thực hiện quản lý về đất đai của nhà
nước. ................................................................................................................................... 4
1.1.2 Vai trị của cơng tác cấp GCNQSDĐ đối với việc thực hiện quyền sở hữu của
nhà nước ............................................................................................................................. 5
1.2 Sự cần thiết đảm bảo quyền lợi của ngƣời sử dụng đất trong công tác cấp
GCNQSDĐ. ....................................................................................................................... 7
1.3 Những yêu cầu đối với công tác cấp GCNQSDĐ để bảo đảm quyền lợi của ngƣời
sử dụng đất. ....................................................................................................................... 9
1.3.1 Yêu cầu đối với pháp luật vè công tác cấp GCNQSDĐ....................................... 9
1.3.1.1 Tính khả thi...................................................................................................... 9
1.3.1.2 Tính đơn giản................................................................................................. 12
1.3.1.3 Tính thống nhất............................................................................................. 13
1.3.2 Yêu cầu đối với công tác thực thi pháp luật ....................................................... 14

Chương2: Thực trạng pháp luật về cấp GCNQSDĐ trong việc đảm bảo
quyền lợi của ngƣời sử dụng đất và một số đề xuất nhằm đảm bảo quyền lợi
của ngƣời sử dụng đất trong công tác cấp GCNQSDĐ.
2.1 Thực trạng pháp luật về cấp GCNQSDĐ trong việc đảm bảo quyền lợi của ngƣời
sử dụng đất. ..................................................................................................................... 17
2.1.1 Đối tượng, phạm vi được cấp GCNQSDĐ. .......................................................... 17
2.1.2 Nguyên tắc cấp GCNQSDĐ. ................................................................................ 17
2.1.3 Điều kiện để được cấp GCNQSDĐ. ..................................................................... 18



2.1.4 Hồ sơ và trình tự thủ tục cấp GCNQSDĐ. ........................................................... 22
2.1.4.1 Tiếp nhận hồ sơ ............................................................................................ 22
2.1.4.2 Thời hạn giải quyết. ....................................................................................... 24
2.1.4.3 Cấp GCNQSDĐ. ........................................................................................... 26
2.1.5 Cấp lại GCNQSDĐ đã mất.................................................................................... 33
2.1.6 Cấp đổi, xác nhận bổ sung vào GCNQSDĐ. ........................................................ 34
2.1.7 Đính chính và thu hồi đối với GCNQSDĐ đã cấp ............................................... 38
2.1.8 Đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất trong việc xác định nghĩa vụ tài chính
để cấp GCNQSDĐ............................................................................................................ 39
2.1.8.1 Tiền sử dụng đất. ............................................................................................ 39
2.1.8.2 Ghi nợ tiền sử dụng đất và miễn, giảm tiền sử dụng đất. ............................... 45
2.1.8.3 Tiền lệ phí trước bạ. ....................................................................................... 48
2.2 Một số đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về cấp GCNQSDĐ để bảo đảm
quyền lợi của ngƣời sử dụng đất. .................................................................................. 51
2.2.1 Về quy định của pháp luật. .................................................................................... 50
2.2.2 Cán bộ và công tác triển khai thực hiện pháp luật. ............................................... 54

Kết luận ................................................................................................................. 56


LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là một tài sản vô cùng quan trọng của quốc gia, nhà nước là đại diện chủ sở
hữu đối với đất đai. Do vậy, toàn bộ vốn đất quốc gia đựơc nhà nước quản lý. Song sẽ là
vô nghĩa nếu như hình dung rằng nhà nước sẽ tự mình thực hiện toàn bộ các quyền của
đại diện chủ sở hữu với các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đất đai. Để thực hiện
các quyền của chủ sở hữu, thông qua việc việc giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử
dụng đất, nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất để khai thác lợi ích có
được từ đất đai. Do đó, đất đai khơng chỉ là tài sản của nhà nước, của cộng đồng mà còn

là tư liệu sản xuất và cơ sở vật chất đặc biệt quan trọng của bản thân người sử dụng đất.
Chính vì vậy, bên cạnh thực hiện quyền chủ sở hữu và thực hiện tốt chức năng quản lý tài
nguyên đất đai của mình, nhà nước cịn phải đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng cho
người sử dụng đất.
Với quyền sử dụng đẩt, người sử dụng đất tiến hành khai thác các lợi ích từ đất đai và
thực hiện các quyền mà nhà nước cho phép. Trong đó, đặc biệt và quan trọng nhất là
quyền giao dịch quyền sử dụng đất. Các quyền này chỉ được thực hiện khi người sử dụng
đất có chứng thư pháp lý xác nhận quyền sử dụng đất hợp pháp của mình, đó chính là
GCNQSDĐ. Cấp GCNQSDĐ khơng chỉ có ý nghĩa với nhà nước mà còn rất quan trọng
đối với người sử dụng đất. Với những quy định của pháp luật về công tác cấp GCNQSDĐ
tại Luật đất đai 2003 cùng với các Văn bản hướng dẫn thi hành, có thể nói pháp luật hiện
hành đang từng bước đi sâu vào thực tiễn. Thủ tục cấp GCNQSDĐ đã minh bạch, đỡ
phức tạp, dễ tiếp cận đồng thời ngày càng đảm bảo tốt hơn quyền lợi của người sử dụng
đất. So với những quy định trước đây, những quy định mới về cải cách thủ tục hành chính
trong cơng tác cấp GCNQSDĐ có thể coi là điểm sáng trong bức tranh kinh tế xã hội hiện
nay. Tuy nhiên, với yêu cầu của người sử dụng đất, những quy định đó vẫn chưa được
như mong muốn. Những quy định về cấp GCNQSDĐ còn nhiều điểm bất cập. Đồng thời,
hiện nay vẫn còn những địa phương mà việc cấp GCNQSDĐ tồn tại nhiều vướng mắc,
1


chậm trễ, cán bộ đất đai ít nhiều gây phiền hà, nhũng nhiễu, làm cản trở việc cấp
GCNQSDĐ. Tất cả những điều này làm cho quyền lợi của người sử dụng đất chưa được
đảm bảo.
Một mặt, pháp luật còn những vướng mắc, hạn chế. Mặt khác, người thực thi pháp
luật khơng phải lúc nào cũng cơng tâm và có trách nhiệm với cộng việc của mình. Quy
định về quyền lợi của người sử dụng đất có thể coi là điều kiện cần, thực thi pháp luật là
điều kiện đủ để bảo vệ quyền lợi của người sử dụng đất. Đứng trước thực trạng pháp luật
cũng như việc thực thi pháp luật về đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất trong cơng
tác cấp GCNQSDĐ, pháp luật cần phải có những sửa đổi phù hợp đồng thời cần phải tìm

những giải pháp để làm cho công tác cấp GCNQSDĐ được thực hiện đúng các quy định
của pháp luật, cán bộ đất đai có năng lực chun mơn và trách nhiệm đối với công việc để
đảm bảo được một cách tốt nhất quyền lợi của người sử dụng đất. Đặc biệt trong thời đại
hiện nay, nhu cầu sử dụng đất đai ngày càng tăng do dân số tăng, kinh tế phát triển, q
trình cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước đang diễn ra ồ ạt, việc cấp GCNQSDĐ trở
thành nhu cầu không thể thiếu nên việc đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất lại càng
quan trọng hơn.
Xuất phát từ các lý do đó mà tơi chọn đề tài: “Đảm bảo quyền lợi của người sử dụng
đất trong công tác cấp GCNQSDĐ - Thực trạng và hướng hoàn thiện.” làm khoá luận tốt
nghiệp.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là: đảm bảo quyền lợi của người sử dụng
đất trong công tác cấp GCNQSDĐ, xoay quanh việc tiếp cận thực trạng pháp luật và thực
tiễn áp dụng pháp luật đất đai hiện hành về cấp GCNQSDĐ được nhìn nhận dưới góc độ
quyền lợi của người sử dụng đất. Trên cơ sở đó, đề tài sẽ phân tích và đánh giá việc bảo
đảm quyền lợi của người sử dụng đất trong công tác cấp GCNQSDĐ.

2


Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề mang tính lí luận và quy định của pháp luật về cấp
GCNQSDĐ được xem xét dưới khía cạnh quyền lợi của người sử dụng đất, kết hợp với
việc thu thập thơng tin, so sánh, đánh giá, phân tích thực trạng về việc đảm bảo quyền lợi
của người sử dụng đất trong công tác cấp GCNQSDĐ. Tác giả sẽ nêu ra những điểm tích
cực và những điểm cịn hạn chế. Từ đấy sẽ đưa ra những đề xuất nhằm góp phần tốt hơn
việc bảo đảm quyền lợi của người sử dụng đất trong công tác cấp GCNQSDĐ.
Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứu đề tài, tác giả vận dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin trong việc nghiên cứu những quy định của pháp luật. Bên

cạnh đó tác giả cịn vận dụng phương pháp phân tích, so sánh, thu thập số liệu khi xem
xét đánh giá thực trạng việc bảo vệ quyền lợi của người sử dụng đất trong công tác cấp
GCNQSDĐ.
Ý nghĩa nghiên cứu
Dựa trên việc phân tích ý nghĩa cũng như tiêu chí cần phải đạt được của cơng tác cấp
GCNQSDĐ để đảm bảo quyền lợi của người sử dụng, đề tài sẽ làm sáng tỏ những hạn chế
của công tác cấp GCNQSDĐ trên cơ sở các quy định của pháp luật và việc thực hiện pháp
luật trong việc bảo đảm quyền lợi của người sử dụng đất, để từ đó đề ra những giải pháp,
góp phần đảm bảo tốt hơn quyền lợi của người sử dụng đất trong công tác cấp
GCNQSDĐ.

3


CHƢƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI SỬ
DỤNG ĐẤT TRONG CÔNG TÁC CẤP GCNQSDĐ

1.1 Vai trị của cơng tác cấp GCNQSDĐ đối với việc thực hiện quản lý nhà nƣớc về
đất đai và quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai
1.1.1 Vai trị của cơng tác cấp GCNQSDĐ đối với việc thực hiện quản lý nhà nƣớc
về đất đai
Ở Việt Nam, nhà nước là chủ sở hữu duy nhất đối với đất đai nhưng không trực tiếp
khai thác, sử dụng đất mà trao quyền sử dụng đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân...Để
xác nhận mối quan hệ hợp pháp giữa nhà nước với người sử dụng đất, nhà nước cấp
GCNQSDĐ cho người sủ dụng đất. Vì vậy, theo quy định của pháp luật đất đai, cấp
GCNQSDĐ là một trong những nội dung của hoạt động quản lý nhà nước về đất đai. Hoạt
động cấp GCNQSDĐ đã được quy định từ Luật đất đai 1987, tiếp theo đó Quyết định
201-QĐ/ĐKTK ngày 14/7/1989 của Tổng cục Quản lý ruộng đất đã quy định một cách cụ
thể hơn về việc cấp GCNQSDĐ (bao gồm các vấn đề như: khái niệm, mẫu giấy chứng

nhận; đối tượng và điều kiện được cấp giấy; thẩm quyền cấp giấy,v.v). Sau đó là Luật đất
đai 1993 và hiện nay là Luật đất đai 2003.
Theo khoản 20 Điều 4 LĐĐ 2003, GCNQSDĐ là giấy chứng nhận do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cấp cho người sử dụng đất để bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của
người sử dụng đất.
Việc cấp GCNQSDĐ hướng tới mục tiêu cơ bản đó là:
Thơng qua việc cấp GCNQSDĐ, cơ quan nhà nứơc có thẩm quyền có thể xác định thực
trạng sử dụng đất với những thơng tin đầy đủ và chính xác về diện tích đất, loại đất, hình
thức sử dụng đất, người sử dụng đất với từng thửa đất... Từ đó nhà nước có cơ sở thống
4


nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và kế hoạch chung, bảo đảm mỗi thửa đất đều
được sử dụng hợp pháp và mang lại hiệu quả.
Cùng với việc xác định thực trạng sử dụng đất, cấp GCNQSDĐ cịn góp phần giúp nhà
nước xây dựng hệ thống hồ sơ đầy đủ về tài nguyên đất đai, làm cơ sở để nhà nước thực
hiện các biện pháp quản lý chặt chẽ, hiệu quả, đồng thời nắm chắc tài nguyên đất đai.
Cùng với các hoạt động đo đạc, đánh giá, phân hạng đất, lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất, hoạt động cấp GCNQSDĐ vừa mang tính chất pháp lý, vừa là biện pháp nghiệp vụ
để đưa công tác quản lý đất đai vào trật tự pháp luật.
Bên cạnh đó, cấp GCNQSDĐ cịn là một trong các cơng cụ hữu hiệu để nhà nước có
thể quản lý đối tượng sử dụng đất. Theo quy định của pháp luật đất đai hiện hành, khi
người sử dụng đất muốn thực hiện các quyền về quyền sử dụng đất như quyền giao dịch:
chuyển nhượng, thế chấp, tặng cho quyền sử dụng đất...thì điều kiện cần tuân thủ cho tất
cả các chủ thể sử dụng đất là phải có GCNQSDĐ. Nhờ có GCNQSDĐ nhà nước có thể
xác định được tình hình sử dụng đất đai trước đó, cũng như những thay đổi tình trạng sử
dụng đất đang diễn ra. Để từ đó cập nhật được các biến động, chỉnh sửa, bổ sung hệ thống
hồ sơ, dữ liệu... Góp phần quản lý tốt hơn tài nguyên đất đai.
Có thể thấy, cấp GCNQSDĐ có một vai trò quan trọng trong việc thực hiện quản lý
đất đai của nhà nước. Đây cũng là lý do vì sao nhà nước luôn dành sự quan tâm đặc biệt

đến hoạt động cấp GCNQSDĐ.
1.1.2 Vai trị của cơng tác cấp GCNQSDĐ đối với việc thực hiện quyền sở hữu toàn
dân đối với đất đai
Điều 17 của Hiến pháp năm 1992 quy định: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước,
tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và
tài tài sản do nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, cơng trình và các ngành thuộc lĩnh vực
kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kinh tế, ngoại giao, quốc phòng, an ninh, cùng các tài
sản khác mà pháp luật quy định là của nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân”.
5


Đất đai thuộc sở hữu tồn dân, có nghĩa là đất đai thuộc sở hữu của toàn thể nhân dân.
Tuy nhiên, chủ sở hữu toàn dân là một khái niệm trừu tượng. Do vậy, để thực hiện quyền
sở hữu toàn dân đối với đất đai thì phải có chủ thể thay mặt tồn dân thực hiện. Và chủ
thể đó khơng thể là ai khác ngoài nhà nước.
Như vậy, nhà nước ta với tư cách là nhà nước của dân, do dân, vì dân chính là chủ thể
sở hữu đối với đất đai. Với tư cách đó nhà nước nắm trong tay các quyền: chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt đối với đất đai. Những quyền này của nhà nước được thực hiện thông qua
những hoạt động của nhà nước về: quy hoạch, kế hoạch, sử dụng đất, giao đất, cho thuê
đất, quyết định mục đích sử dụng đất...Và hoạt động cấp GCNQSDĐ.
Theo quy định của Bộ Luật Dân Sự 2005, quyền chiếm hữu là quyền của chủ sở hữu tự
mình giữ, quản lý tài sản thuộc sở hữu của mình. Điều này có nghĩa là: một chủ thể nếu
có trong tay tài sản nào đó, họ làm chủ nó và kiểm sốt nó. Tuy nhiên, đối với đất đai
khơng đồng nhất quyền chiếm hữu đất đai của nhà nước với quyền chiếm hữu tài sản khác
trong Luật dân sự. Bởi đất đai khơng phải là hàng hố lưu thơng bình thường trong đời
sống xã hội, mà là một tài sản đặc biệt luôn nằm trong sự quản lý và chi phối của nhà
nước. Do vậy, là đại diện chủ sở hữu đất đai, nhà nước có quyền chiếm hữu đất đai thơng
qua việc nắm chắc tình hình đất đai về số lượng, chất lượng, chủ thể sử dụng, mục đích sử
dụng... Bằng các hoạt động quản lý Nhà nước đối với đất đai trong đó có hoạt động cấp
GCNQSDĐ, nhà nước nắm chắc tài nguyên đất đai, để từ đó nhà nước có thể thực hiện

quyền năng “chiếm hữu” của mình.
Quyền sử dụng đất đai là quyền khai thác những thuộc tính có ích từ đất đai để phục vụ
cho lợi ích phát triển đời sống và kinh tế xã hội. Nhà nước không trực tiếp khai thác mà
gián tiếp thực hiện quyền sử dụng đất thông qua hành vi giao đất, cho thuê đất, đánh thuế
việc chuyển quyền sử dụng đất...Việc cấp GCNQSDĐ là hình thức nhà nước Nhà nước
thừa nhận quyền sử dụng đất hợp pháp của các chủ thể sử dụng đất, họ khơng có quyền sở
hữu đối với đất đai mà chỉ có quyền sử dụng đất.
6


Trong quá trình sử dụng đất người sử dụng đất khơng có quyền định đoạt đối với đất
đai với tư cách là chủ sở hữu mà họ chỉ có quyền định đoạt đối với quyền sử dụng đất trên
cơ sở GCNQSDĐ. Quyền định đoạt đất đai là quyền định đoạt số phận pháp lý của đất
đai, đây là quyền năng duy nhất và tuyệt đối của nhà nước. Và nhà nước khẳng định tư
cách chủ sở hữu của mình trong việc định đoạt đất đai bằng cách nhà nước chỉ cấp
GCNQSDĐ cho những đối tượng mà đáp ứng những điều kiện mà nhà nước quy định,
cịn những đối tượng khơng đáp ứng được sẽ không được cấp GCNQSDĐ. Người sử
dụng đất chỉ được sử dụng đất khi được nhà nước cho phép.
Có thể thấy cơng tác cấp GCNQSDĐ có một vai trò, ý nghĩa đặc biệt đối với việc quản
lý đất đai và thực hiện quyền sở hữu của nhà nước. Do vậy, để quản lý đất đai và thực
hiện quyền sở hữu đối với đất đai một cách tốt nhất, cùng với việc quan tâm đến các hoạt
động khác, nhà nước cần phải có những quy định và thực thi pháp luật về công tác cấp
GCNQSDĐ một cách đúng đắn và hợp lý.
1.2 Sự cần thiết đảm bảo quyền lợi của ngƣời sử dụng đất trong công tác cấp
GCNQSDĐ.
Để tạo điều kiện khai thác, phát huy hết tiềm năng kinh tế của đất đai, một mặt, Nhà
nước quản lý chặt chẽ đất đai, mặt khác, cũng đặc biệt quan tâm đến quyền lợi của người
sử dụng đất. Bởi lẽ, đất đai không chỉ là tài sản nhà nước, của cộng đồng mà còn là tư liệu
sản xuất và cơ sở vật chất đặc biệt quan trọng của bản thân người sử dụng đất. Vì vậy, bên
cạnh việc định hướng tốt cho hoạt động khai thác, sử dụng đất thông qua quy hoạch, kế

hoạch sử dụng đất, xây dựng hệ thống pháp luật đất đai ngày càng phù hợp, mang tính
khả thi cao, tạo điều kiện cho người sử dụng đất được sử dụng đất ổn định lâu dài...Nhà
nước còn phải đảm bảo cho lợi ích chính đáng của người sử dụng đất trong cơng tác cấp
GCNQSDĐ, vì đây chính là chứng thư pháp lý xác nhận quyền sử dụng đất hợp pháp của
họ.

7


Như đã phân tích ở trên, ở nước ta nhà nước là chủ sở hữu duy nhất đối với đất đai
nhưng nhà nước không trực tiếp khai thác, sử dụng đất mà trao quyền sử dụng cho các tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân… Đối với người sử dụng đất, GCNQSDĐ là một văn bản pháp
quy mà họ mong mỏi có trong tay để an tâm về quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài
sản của mình, để chắc rằng Nhà nước đã thừa nhận và bảo vệ quyền của họ. Do vậy, cấp
GCNQSDĐ không chỉ là chứng thư pháp lý xác nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cho
người sử dụng đất mà giúp người sử dụng đất yên tâm khai thác, sử dụng hiệu quả đất đai.
Việc cấp GCNQSDĐ cùng với những thông tin được thể hiện trên GCNQSDĐ (như
tên người sử dụng đất, số hiệu, diện tích, mục đích sử dụng, những biến động sau khi cấp
giấy, v.v), GCNQSDĐ giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với cả Nhà nước và người
sử dụng đất. Đối với người sử dụng đất, GCNQSDĐ là tiền đề để người sử dụng đất thực
hiện các quyền của mình, mà trước hết và quan trọng nhất là quyền giao dịch quyền sử
dụng đất bao gồm: quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế
chấp, quyền được góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Bởi một trong các điều kiện
cần tuân thủ khi thực hiện giao dịch quyền sử dụng đất của chung tất cả các chủ thể sử
dụng đất là phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Bên cạnh đó, GCNQSDĐ cịn có ý nghĩa to lớn đối với người sử dụng đất trong việc
bảo vệ các lợi ích hợp pháp khác liên quan đến người sử dụng đất đó là: quyền được
hưởng các lợi ích của cơng trình cơng cộng về bảo vệ, cải tạo đất mang lại, được nhà
nước hướng dẫn giúp đỡ trong việc cải tạo bồi bổ đất, yêu cầu nhà nước bảo vệ khi có
người khác xâm phạm quyền sử dụng đất hợp pháp của mình, được bồi thuờng thiệt hại

về đất đai bị thu hồi, được quyền khiếu nại và tố cáo về những hành vi, vi phạm quyền sử
dụng đất hợp pháp và những hành vi khác vi phạm pháp luật đất đai. GCNQSDĐ góp
phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất khi có tranh chấp xảy ra. Mặt
khác, trong quá trình tổ chức, thực hiện và quản lý việc cấp GCNQSDĐ cơ quan nhà
nước sẽ kịp thời phát hiện và xử lý những vi phạm, những khiếu nại của những người liên
quan nhằm kịp thời bảo vệ quyền lợi của người sử dụng đất.
8


Từ những ý nghĩa đặc biệt quan trọng đã nêu trên của việc cấp GCNQSDĐ đối với
người sử dụng đất, ta có thể thấy rằng việc đảm bảo quyền lợi cho người sử dụng đất là
thật sự cần thiết. Để các quyền của công dân, quyền tài sản của người sử dụng đất ở trên
được bảo vệ trước hết phải bảo đảm quyền lợi của họ trong công tác cấp GCNQSDĐ, vì
đây là hoạt động trực tiếp nhất liên quan đến GCNQSDĐ. Do vậy, có thể thấy nhà nước
và các cấp chính quyền địa phương ln chú trọng, quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi
của người sử dụng đất trong hoạt động cấp GCNQSDĐ.
Tuy nhiên, công tác cấp GCNQSDĐ hiện nay bên cạnh những điểm sáng trong việc
giản đơn thủ tục cấp GCNQSDĐ vẫn cịn tồn tại tình trạng quyền lợi của người sử dụng
đất không được đảm bảo ở nhiều địa phương khi họ đi xin cấp GCNQSDĐ. Theo quy
định của pháp luật đất đai, cấp GCNQSDĐ là một nội dung của hoạt động quản lý nhà
nước về đất đai, đồng thời cũng là một quyền đầu tiên mà bất kỳ người sử dụng đất hợp
pháp nào cũng được hưởng. Luật đất đai 2003 đã quy định rất rõ một trong những đảm
bảo đầu tiên của nhà nước đối với người sử dụng đất là cấp GCNQSDĐ cho người sử
dụng đất. Cần phải xác định rằng cấp GCNQSDĐ cho người dân đó là một nghĩa vụ,
trách nhiệm của nhà nước đồng thời là quyền lợi của công dân. Do đó, nhà nước khơng
thể chậm trễ trong việc xác lập quyền sử dụng đất hợp pháp cho người dân, càng khơng
thể coi đó là sự ban phát từ cơ quan nhà nước. Vậy mà vẫn cịn có những nơi người dân
vẫn rất khó khăn trong việc xin cấp GCNQSDĐ, bởi thủ tục hành chính nhiêu khê, người
có trách nhiệm làm thủ tục dường như vẫn cịn cố tình làm trễ ở mọi công đoạn với nhiều
lý do khác nhau. Thực tế này đã ảnh hưởng lớn đến quản lý nhà nước về đất đai đồng thời

không bảo đảm được quyền lợi của người sử dụng đất nói chung và quyền dân sự của họ
nói riêng khi thực hiện các giao dịch về đất đai. Do vậy, rất cần thiết phải đảm bảo quyền
lợi của người sử dụng đất trong công tác cấp GCNQSDĐ. Sự cần thiết đảm bảo quyền lợi
của người sử dụng đất này lại càng thể hiện rõ khi GCNQSDĐ trở thành một điều kiện
bắt buộc khi người sử dụng đất thực hiện các quyền giao dịch quyền sử dụng đất, pháp
luật đất đai tại Điều 66 Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 đã quy định “kể từ
ngày 1/1/2008, người sử dụng đất phải có GCNQSDĐ mới được thực hiện các quyền
9


chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp,
góp vốn bằng quyền sử dụng đất”.
1.3 Những yêu cầu đối với công tác cấp GCNQSDĐ để bảo đảm quyền lợi của ngƣời
sử dụng đất.
1.3.1 Yêu cầu đối với pháp luật về công tác cấp GCNQSDĐ.
1.3.1.1 Tính khả thi:
“Khả thi” theo từ điển tiếng Việt có nghĩa là khả năng thực hiện. Như vậy, quy định
của pháp luật có tính khả thi là những quy định có khả năng thực hiện trên thực tế hay nói
cách khác là những quy định đó có khả năng đi vào cuộc sống mà không chỉ dừng lại trên
giấy. Việc bảo đảm tính khả thi của các quy định pháp luật là một yêu cầu quan trọng
được đặt ra trong suốt quá trình xây dựng những quy định đó.
Vậy pháp luật về cơng tác cấp GCNQSDĐ có tính khả thi tức là những quy định về
cấp GCNQSDĐ có khả năng thực hiện và đi vào cuộc sống. Chỉ khi pháp luật về công tác
cấp GCNQSDĐ đi vào cuộc sống thì nó mới có thể đảm bảo được quyền lợi của người sử
dụng đất. Bởi lẽ, đối tượng được áp dụng trực tiếp nhất của quy định về cấp GCNQSDĐ
chính là người sử dụng đất, họ là người được cấp GCNQSDĐ để xác nhận quyền sử dụng
đất hợp pháp của mình. Nếu các quy định về cấp GCNQSDĐ như điều kiện cấp
GCNQSDĐ, trình tự thủ tục cấp, nghĩa vụ tài chính...khơng phù hợp với thực tế khách
quan của người sử dụng đất và khơng có khả năng thực hiện cũng như áp dụng đối với
người sử dụng đất...Thì rõ ràng quyền lợi của người sử dụng đất trong những trường hợp

này không thể được đảm bảo. Người sử dụng đất sẽ khó khăn trong việc xin cấp
GCNQSDĐ hoặc có thể không được cấp GCNQSDĐ, điều này làm ảnh hưởng đến các
quyền về quyền sử dụng đất của họ, dẫn đến quyền lợi khơng được đảm bảo. Chính vì
vậy, pháp luật về công tác cấp GCNQSDĐ phải đảm bảo được tính khả thi. Để có được
điều này, trước hết pháp luật về cấp GCNQSDĐ phải :

10


- Phù hợp với thực tế
Điều này có nghĩa là, quy định của pháp luật về cấp GCNQSDĐ phải phản ánh đúng
hiện thực khách quan, không thấp hơn hoặc cao hơn trình độ kinh tế, xã hội trong từng
thời kì. Cụ thể hơn đó là quy định này phải phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường hiện
tại, phù hợp với trình độ nhận thức và hiểu biết pháp luật của chủ thể sử dụng đất. Có như
vậy thì quy định của pháp luật về công tác cấp GCNQSDĐ mới được xã hội chấp nhận,
người sử dụng đất mới tuân thủ và thực hiện.
Trong điều kiện kinh tế hiện nay, giao dịch mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng
đất diễn ra với một số lượng rất lớn. Mà như đã đề cập ở các phần trước, người sử dụng
đất phải có GCNQSDĐ mới có thể thực hiện các giao dịch trên. Chính vì vậy quy định về
cấp GCNQSDĐ phải bám sát với thực tế về điều kiện, thủ tục...mà đặc biệt hơn hết là các
quy định về nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất khi xin cấp GCNQSDĐ. Nghĩa vụ
tài chính có thể nói là một nhân tố quan trọng để quyết định xem người sử dụng đất có thể
có được GCNQSDĐ quyền sử dụng đất hay không. Trong điều kiện kinh tế thị trường,
giá cả biến đổi một cách thường xuyên. Do vậy, Giá do Nhà nước quy định phải sát giá
thị trường, không thể cách biệt nhiều như giá hàng hóa bao cấp theo tem phiếu, để khơng
gây thiệt thịi cho người sử dụng đất và trở thành nguyên nhân chủ yếu của tình trạng
khiếu kiện và tình trạng lợi dụng tham nhũng. Chính phủ phải chỉ định ra nguyên tắc và
các khung giá, để chính quyền địa phương định giá cụ thể một cách linh hoạt, sát với điều
kiện thực tế; công bố định kỳ hàng năm (biến động trong năm được điều tiết bằng thuế).
Thực hiện tốt được điều này, sẽ tránh được tình trạng người sử dụng đất vì nghĩa vụ tài

chính q cao mà khơng đăng kí xin cấp GCNQSDĐ hoặc khơng đến nhận GCNQSDĐ,
góp phần đảm bảo tốt hơn quyền lợi của người sử dụng đất.
Bên cạnh tính phù hợp với thực tế, để có được tính khả thi, từ đó đảm bảo quyền lợi
của người sử dụng đất, quy định của pháp luật về cơng tác cấp GCNQSDĐ cịn phải:
- Đầy đủ, cụ thể, rõ ràng:
11


Theo đó, pháp luật về cơng tác cấp GCNQSDĐ có khả năng thi hành ngay mà khơng
cần phải chờ có quá nhiều văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành. Thực tế cho
thấy những quy định mà nguyên tắc, chung chung, hoàn toàn phụ thuộc vào các văn bản
hướng dẫn chi tiết và hướng dẫn thi hành, thì chậm đi vào cuộc sống. Những văn bản
chồng chéo, mâu thuẫn, không bảo đảm được sự đồng bộ dẫn đến vướng mắc cho tổ chức
thực hiện và khó đi vào cuộc sống. Để có được tính rõ ràng địi hỏi các quy định của pháp
luật phải chặt chẽ về mặt hình thức tức là nội dung của pháp luật phải được thể hiện trong
những hình thức nhất định và bằng một ngơn ngữ rõ ràng, chính xác. Tính chặt chẽ đảm
bảo nguyên tắc "bất kỳ ai được đặt vào những điều kiện ấy cũng không thể làm khác
được". Pháp luật về công tác cấp GCNQSDĐ cần phải đầy đủ, cụ thể, rõ ràng trước hết là
để cơ quan có thẩm quyền dễ dàng áp dụng, sau đó là để thuận tiện cho người sử dụng đất
khi đăng kí xin cấp GCNQSDĐ. Tránh được tình trạng một quy định mà có nhiều cách
hiểu khác nhau làm cơ quan cơng quyền lúng túng và người sử dụng đất thì khơng biết
quyền lợi của mình như thế nào.
- Tiếp đó, các quy định của pháp luật về công tác cấp GCNQSDĐ phải có quy định về
bộ máy thực hiện, tổ chức thực hiện và kiểm tra giám sát thực hiện, xử lý hành vi vi
phạm, đồng thời quy định rõ về nguồn ngân sách và kinh phí khi thực hiện cơng tác cấp
GCNQSDĐ. Kế đến cũng cần có những quy định rõ ràng và cụ thể về trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức, cá nhân hữu quan trong thực hiện các quy định của pháp luật về cấp
GCNQSDĐ. Những quy định này sẽ hạn chế phần nào sự nhũng nhiễu, quan liêu từ phía
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, quy rõ trách nhiệm và hướng xử lý cho hành vi vi
phạm. Từ đó quyền lợi của người sử dụng đất sẽ được bảo đảm hơn.

Có thể khẳng định, quyền lợi của người sử dụng đất sẽ được đảm bảo tốt hơn khi quy
định của pháp luật về công tác cấp GCNQSDĐ có tính khả thi cao. Tuy nhiên, để quyền
lợi của người sử dụng đất trong công tác cấp GCNQSDĐ được đảm bảo thì riêng quy
định của pháp luật về cơng tác cấp GCNQSDĐ có tính khả thi cao vẫn chưa đủ, nó địi
hỏi quy định của những hoạt động liên quan cũng phải có tính khả thi cao. Nói đến đầu
12


tiên, đó là quy định về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Việc lập quy hoạch và kế hoạch
sử dụng đất chưa phù hợp với thực tế, cho nên tính khả thi khơng cao, thêm vào đó văn
bản quy phạm pháp luật liên quan việc cấp GCNQSDÐ còn chưa rõ ràng hoặc thiếu hoặc
chưa thống nhất, làm cho người sử dụng đất không được cấp hoặc chậm trễ được cấp
GCNQSDĐ vì quy hoạch treo. Vì vậy, cơng tác quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất cần
phải được chấn chỉnh lại, có tính khả thi cao đặc biệt là đất ở đơ thị, theo đó pháp luật về
cấp GCNQSDĐ phải rõ ràng, cụ thể. Có như thế mới bảo đảm được quyền lợi của người
sử dụng đất.
Nhìn nhận một cách tổng quát, một quy định của pháp luật nói chung và quy định về
cơng tác cấp GCNQSDĐ nói riêng, muốn tồn tại thì điều kiện đầu tiên nó phải có tính
khả thi. Nhìn ở góc độ của người sử dụng đất, quy định càng phù hợp với họ, với điều
kiện kinh tế thị trường mà họ đang chịu tác động thì càng bảo đảm quyền lợi của họ. Song
hành với điều đó là sự rõ ràng, minh bạch của những quy định và cơ chế bắt buộc thực
hiện từ phía cơ quan nhà nước. Tất cả những điều này kết hợp lại sẽ làm cho quyền lợi
của người sử dụng đất ngày càng được đảm bảo hơn trong công tác cấp GCNQSDĐ.
1.3.1.2 Tính đơn giản:
Ở nước ta, đất đai là một tư liệu sản xuất không thể thiếu của bất kì người dân nào. Vì
vậy, cấp GCNQSDĐ là một hoạt động rất phổ biến ở tất cả các địa phương. Chính vì tính
phổ cập của hoạt động này nên những quy định về hoạt động cấp GCNQSDĐ phải đơn
giản, nhanh gọn để tạo điều kiện cho đại đa số người sử dụng đất có thể có được
GCNQSDĐ để thực hiện các quyền của mình, đồng thời ổn định cuộc sống, sản xuất kinh
tế. Sự đơn giản của pháp luật làm cho người sử dụng đất dễ dàng tiếp cận, và đặc biệt là

khơng né tránh việc đăng kí xin cấp GCNQSDĐ do thủ tục quá phức tạp. Đối với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thì quy định đơn giản giúp họ áp dụng dễ dàng và nhanh chóng.
Từ đó người sử dụng sẽ thuận tiện hơn trong việc xin cấp GCNQSDĐ. Góp phần đảm bảo
quyền lợi của người sử dụng đất trong việc xin cấp GCNQSDĐ.
13


Tính đơn giản của các quy định về cấp GCNQSDĐ được thể hiện ở chỗ nó phải nhanh
gọn, rõ ràng, dễ hiểu và dễ thực hiện. Những quy định cụ thể cần phải loại bỏ những bước
không cần thiết nhưng vẫn đảm bảo được tính chặt chẽ, ổn định của các quy định theo
pháp luật hiện hành. Pháp luật về cấp GCNQSDĐ đơn giản, dễ thực hiện trong tất cả các
quy định của mình mà đặc biệt là những quy định về trình tự, thủ tục cấp GCNQSDĐ.
Quy trình cấp GCNQSDĐ càng phức tạp thì người sử dụng đất càng tốn nhiều cơng sức,
càng khó khăn khi xin cấp GCNQSDĐ, và hơn nữa là tạo ra tâm lý e ngại cho người sử
dụng đất khi xin cấp GCNQSDĐ. Đồng thời cũng tạo điều kiện cho sự “nhũng nhiễu”,
phiền hà từ phía cơ quan nhà nước. Chính vì vậy, đảm bảo tính đơn giản trong các quy
định về trình tự thủ tục nói riêng và pháp luật về cơng tác cấp GCNQSDĐ nói chung sẽ
tạo điều kiện để đảm bảo được quyền lợi của người sử dụng đất khi đăng kí xin cấp
GCNQSDĐ.
1.3.1.3 Tính thống nhất.
Tính thống nhất của pháp luật là tính chất nhất quán ở hệ thống văn bản trên tất cả các
lĩnh vực cũng như trên từng lĩnh vực, thậm chí ngay các quy định trong một văn bản pháp
luật cũng không được mâu thuẫn, trái ngược, triệt tiêu lẫn nhau. Điều này xuất phát từ yêu
cầu về tính thống nhất của hệ thống pháp luật của một quốc gia nói chung. Tính thống
nhất của hệ thống pháp luật phản ánh tính thống nhất của hệ thống đối tượng khách thể
mà chúng điều chỉnh, rộng hơn là phản ánh sự thống nhất của thị trường, sự thống nhất
của một quốc gia. Tính thống nhất của pháp luật địi hỏi phải coi hệ thống pháp luật là
một cơ thể sống với những mối quan hệ lơgích thống nhất nội tại, không mâu thuẫn,
không chồng chéo, không thừa, không thiếu, xét cả tầm hệ thống, đến từng văn bản, từng
quy phạm. Chính vì vậy, tính nhất qn của pháp luật là cơ sở tạo nên sức mạnh tự thân

của hệ thống pháp luật nói chung cũng như của từng quy phạm pháp luật cụ thể.
Do đó, pháp luật về cơng tác cấp GCNQSDĐ phải nhất quán với hệ thống các văn bản
khác trong hệ thống pháp luật nước ta, đồng thời ngay trong nội dung của các quy định về
công tác cấp GCNQSDĐ cũng phải thống nhất với nhau. Có như vậy thì mới tạo nên sự
14


nhất quán, đồng bộ của hệ thống các quy định về cấp GCNQSDĐ nói riêng và hệ thống
pháp luật nói chung.
Sự thống nhất của các quy định pháp luật về cơng tác cấp GCNQSDĐ có một ảnh
hưởng quan trọng đến sự bảo đảm quyền lợi của người sử dụng đất. Bởi lẽ, một khi các
quy định cấp GCNQSDĐ thống nhất, khơng có sự chồng chéo, mâu thuẫn từ những quy
định của các bộ ngành trung ương, đến các quy định của địa phương thì quyền lợi của
người sử dụng đất mới có thể được đảm bảo sự cơng bằng giữa các vùng miền, đảm bảo
sự thống nhất từ trên xuống dưới. Đồng thời, cũng loại bỏ được tình trạng cùng một đối
tượng, một trường hợp mà có những hướng xử lý khác nhau hoặc mâu thuẫn nhau giữa
các văn bản pháp luật về công tác cấp GCNQSDĐ hoặc ngay trong một văn bản. Từ đó
cơ quan có thẩm quyền lúng túng không biết áp dụng quy định nào để rồi “ngâm” hồ sơ
quá lâu, không cấp GCNQSDĐ một cách nhanh chóng, kịp thời, đáp ứng nhu cầu của
người sử dụng đất làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ.
Để có được tính thống nhất của những quy định pháp luật về cơng tác cấp GCNQSDĐ
địi hỏi việc soạn thảo những quy định này phải hết sức kĩ lưỡng, chặt chẽ. Trước hết,
những quy định của pháp luật đất đai về công tác cấp GCNQSDĐ, cụ thể tại Luật đất đai
2003 không được mâu thuẫn, chồng chéo với những quy định của Luật khác như: Luật
nhà ở, Luật xây dựng...Sau đó, những văn bản hướng dẫn thi hành phải phù hợp với đạo
luật gốc, và cuối cùng ngay trong những quy định của một điều luật không được mâu
thuẫn với những quy định khác trong một văn bản pháp luật. Để đảm bảo tính thống nhất
từ trung ương đến địa phương đòi hỏi các cơ quan nhà nước ở địa phương khi soạn thảo
những quy định hướng dẫn ở địa phương mình bắt buộc phải phù hợp với những quy định
ở trung ương.

Xét ở góc độ quyền lợi của người sử dụng đất, sự thống nhất của các quy định pháp
luật về cơng tác cấp GCNQSDĐ góp phần đảm bảo tốt hơn quyền lợi của họ. Nhìn nhận
một cách tổng quát, đó là một bộ phận của sự đồng bộ, nhất quán của hệ thống các quy
phạm pháp luật đất đai nói riêng và hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung.
15


1.3.2 Yêu cầu đối với công tác thực thi pháp luật.
Để đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất trong công tác cấp GCNQSDĐ, yêu cầu
về pháp luật cấp GCNQSDĐ mới chỉ là điều kiện cần. Muốn quyền lợi của người sử dụng
đất được bảo đảm trên thực tế thì điều kiện đủ là khâu tổ chức, thực hiện. Nói một cách
khác, ngồi u cầu về chất lượng của những quy định pháp luật( là phải đảm bảo tính
khả thi, tính đơn giản, tính thống nhất) cịn cần phải tiến hành tốt việc tổ chức thực thi
pháp luật, trong đó bao gồm nhiều cơng việc như: tun truyền, giáo dục, phổ biến pháp
luật để nâng cao ý thức pháp luật của người sử dụng đất, đồng thời phổ biến tập huấn các
quy định của pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức để phục vụ cho việc thực thi, áp
dụng pháp luật, tiến hành rà soát để kịp thời sửa đổi, bổ sung ban hành mới các văn bản
quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật sau
khi luật được ban hành, kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết, tăng cường
giám sát việc thi hành pháp luật, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.
Công tác thực thi pháp luật phải đáp ứng được:
-Tính nhanh chóng, kịp thời:
Thực vậy, quy định của pháp luật đơn giản, nhanh gọn giải quyết nhanh chóng việc cấp
GCNQSDĐ cho người sử dụng đất nhưng đến khâu tổ chức thực hiện cán bộ thực thi
không thực hiện đúng các quy định của pháp luật, lúc này quy định của pháp luật khơng
thể phát huy được những điểm tích cực của mình, quyền lợi người sử dụng đất khơng
được bảo đảm. Do đó, q trình thực hiện cơng tác cấp GCNQSDĐ cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phải đảm bảo được sự nhanh chóng, kịp thời, tránh tình trạng “ngâm” hồ sơ
của họ quá lâu. Bởi lẽ, có nhiều trường hợp người sử dụng đất cần GCNQSDĐ ngay để
thực hiện các quyền của của mình: quyền giao dịch quyền sử dụng đất, quyền được nhà

nước bảo vệ khi bị người khác xâm phạm...Nếu khơng cấp GCNQSDĐ kịp thời thì nhu
cầu của người sử dụng đất không được đáp ứng, ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích của
họ.
-Tính lành mạnh và công khai:
16


Trong q trình thực hiện cơng tác cấp GCNQSDĐ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cần cơng khai các bước thực hiện, các nội dung cần thiết để người sử dụng đất có thể tiến
hành bổ sung, hồn thiện hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ và tiến hành đăng kí cấp GCNQSDĐ
theo đúng các quy định của pháp luật. Đồng thời thể hiện sự minh bạch hoá và lành mạnh
trong quá trình hoạt động của mình.
Việc cơ quan nhà nước tiến hành công khai các hoạt động trong công tác cấp
GCNQSDĐ, trước hết sẽ hạn chế được phần nào những hành vi tiêu cực, nhũng nhiễu từ
phía cơ quan nhà nước, đồng thời về phía người sử dụng đất, họ sẽ biết được quyền lợi
của mình đến đâu, và họ phải làm những gì để được cấp GCNQSDĐ. Sau đó, là đảm bảo
được sự dân chủ, công khai, “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Góp phần đảm
bảo quyền lợi của người sử dụng đất.
Song hành với việc thực hiện cấp GCNQSDĐ nhanh chóng, kịp thời, lành mạnh và
cơng khai, để đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất, cần phải có cơ chế, đảm bảo thực
thi pháp luật. Xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát công tác cấp GCNQSDĐ, quy rõ trách
nhiệm đối với cá nhân, tổ chức đối với hoạt động của họ. Đồng thời có hướng xử lý đối
với từng hành vi vi phạm cụ thể pháp luật cấp GCNQSDĐ từ phía cơ quan nhà nước. Như
vậy, mới đảm bảo tốt quyền lợi của người sử dụng đất.
Có thể nói, đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất trong công tác cấp GCNQSDĐ
bên cạnh việc những quy định pháp luật còn một phần quan trọng khơng kém đó là cơ chế
thực thi pháp luật, đây là hoạt động trực tiếp ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của người sử dụng đất. Do đó, nhà nước phải có những quy định cụ thể và phù hợp để
đảm bảo tốt cơ chế thực thi pháp luật.


17


KẾT LUẬN

Hoạt động cấp GCNQSDĐ khơng chỉ có ý nghĩa to lớn đối với nhà nước mà còn đặc
biệt quan trọng đối với người sử dụng đất, GCNQSDĐ là cơ sở để người sử dụng đất có
thể thực hiện các quyền của mình cũng như được hưởng các lợi ích từ nhà nước. Do đó
cần phải đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất trong công tác cấp GCNQSDĐ. Để có
được điều đó nhà nước phải có một chính sách pháp luật về cơng tác cấp GCNQSDĐ
hồn thiện, đồng thời phải một xây dựng cơ chế đảm bảo thực thi những quy định đó, có
như thế quyền lợi của người sử dụng đất mới được bảo đảm.

18


CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ VIỆC ĐẢM BẢO QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI SỬ
DỤNG ĐẤT TRONG CẤP GCNQSDĐ VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM ĐẢM BẢO
QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG ĐẤT TRONG CÔNG TÁC CẤP GCNQSDĐ

2.1 Thực trạng pháp luật về cấp GCNQSDĐ trong việc đảm bảo quyền lợi của người
sử dụng đất.
2.1.1 Đối tƣợng, phạm vi đƣợc cấp GCNQSDĐ:
Theo quy định của pháp luật đất đai hiện hành đối tượng và phạm vi được công nhận là
chủ thể sử dụng đất và được cấp GCNQSDĐ gồm: tổ chức trong nước, cơ sở tơn giáo, tổ
chức nước ngồi, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thực hiện dự
án đầu tư tại Việt Nam, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được
sở hữu nhà ở tại Việt Nam, cộng đồng dân cư.1
Rõ ràng đối tượng và phạm vi được cấp GCNQSDĐ được mở rộng hơn nhiều so với

các quy định trước đây. Điều này thấy rõ khi cơ sở tôn giáo và cộng đồng dân cư xuất
hiện trong các quy định của pháp luật đât đai và được công nhận quyền sử dụng đất. Có
thể thấy, pháp luật ngày càng quan tâm và bảo đảm quyền lợi cho chủ thể sử dụng đất.
Trong GCNQSDĐ ghi tên cơ sở tôn giáo và cộng đồng dân cư sử dụng đất, nhưng trao
giấy cho người đại diện hợp pháp của cơ sở tôn giáo hoặc cộng đồng dân cư.
Tuy nhiên, đối với các cơ sở tôn giáo, việc cấp giấy lại không nhiều do người đại diện
cho các cơ sở tôn giáo thay đổi liên tục, theo nhiệm kỳ, nên các cơ sở này chưa chủ động
thực hiện rà soát, kê khai đăng ký sử dụng đất tích cực. Bên cạnh đó, phần lớn các cơ sở
tôn giáo chỉ thực hiện kê khai khi có nhu cầu về việc xây dựng mới, sửa chữa cơng trình.

1

Theo quy định tại Khoản1 Điều 11 Nghị định 88/2009/NĐ-CP.
19


×