Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Điều chỉnh pháp lý hoạt động công chứng tại văn phòng công chứng dưới góc độ pháp luật về doanh nghiệp (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1020.73 KB, 110 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


HỒNG MẠNH THẮNG

ĐIỀU CHỈNH PHÁP LÝ HOẠT ĐỘNG CƠNG CHỨNG TẠI VĂN
PHỊNG CƠNG CHỨNG DƯỚI GĨC ĐỘ PHÁP LUẬT
VỀ DOANH NGHIỆP

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2008


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


HỒNG MẠNH THẮNG

ĐIỀU CHỈNH PHÁP LÝ HOẠT ĐỘNG CƠNG CHỨNG TẠI VĂN
PHỊNG CƠNG CHỨNG DƯỚI GĨC ĐỘ PHÁP LUẬT
VỀ DOANH NGHIỆP

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số:
60-38-50

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: Phó Giáo sư, Tiến sỹ Mai Hồng Quỳ



TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2008


Lời cam đoan
Tôi cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số
liệu và thơng tin nêu trong Luận văn này là trung thực; các dữ liệu, luận điểm được
trích dẫn đầy đủ, nếu khơng thuộc ý tưởng hoặc kết quả tổng hợp của chính bản
thân tơi.
Tác giả
Hồng Mạnh Thắng

iii


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật dân sự

BLDS 2005

Bộ luật dân sự 2005

BLDS 1995

Bộ luật dân sự 1995

CCV


Công chứng viên

CTHD

Công ty hợp danh

CHXHCN Việt Nam

Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam

DNTN

Doanh nghiệp tư nhân

PCC

Phịng Cơng chứng

VBCC

Văn bản cơng chứng

VPCC

Văn phịng cơng chứng

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


TTTT

Trung tâm thơng tin

iv


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

iv

MỤC LỤC

v

LỜI NÓI ĐẦU

1

CHƯƠNG 1 CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA VĂN PHỊNG CƠNG CHỨNG

6

1.1.

Khát qt về cơng chứng và mơ hình cơng chứng


6

1.2.
1.2.1.
1.2.2.

Các loại hình tổ chức hành nghề cơng chứng Việt Nam
Tổ chức hành nghề công chứng tại Việt Nam
Loại hình tổ chức hành nghề cơng chứng theo Luật Công chứng 2006

8
8
10

1.3.
1.3.1.
1.3.2.
1.3.3.

Điều chỉnh pháp lý tổ chức và hoạt động của VPCC
VPCC được tổ chức theo loại hình doanh nghiệp
Thành lập và đăng ký hoạt động của doanh nghiệp - VPCC
Chế độ tài chính, mức thu và sử dụng phí của VPCC

11
11
15
16

1.4.

1.4.1.
1.4.2.

Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp - VPCC
VPCC có các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp
VPCC có các quyền và nghĩa vụ đặc thù

19
19
20

CHƯƠNG 2 HOẠT ĐỘNG CƠNG CHỨNG TẠI DOANH NGHIỆP
VĂN PHỊNG CƠNG CHỨNG - HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH ĐẶC THÙ

23

2.1.
Hoạt động kinh doanh đặc thù và người thực hiện
2.1.1. Hoạt động kinh doanh mang tính bổ trợ tư pháp
2.1.2. Người thực hiện hoạt động kinh doanh đặc thù tại VPCC
2.1.2.1. Công chứng viên hành nghề tại VPCC
2.1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của công chứng viên
2.1.2.3. Đạo đức nghề nghiệp của công chứng viên
2.1.2.4. Nhiệm vụ của cơng chứng viên tại văn phịng cơng chứng

23
23
24
24

25
27
30

2.2.
Sản phẩm thương mại tại VPCC
2.2.1. Kết quả của hoạt động kinh doanh đặc thù tại VPCC
2.2.2. Khái quát về sản phẩm VBCC
2.2.2.1. Hợp đồng, giao dịch
2.2.2.2. Lời chứng của công chứng viên

33
33
34
35
37

2.3.
2.3.1.

38
38

Quy trình tạo ra sản phẩm thương mại - văn bản cơng chứng
Quy trình chung

v


2.3.2.


Quy trình đối với một số việc cụ thể

42

2.4.
2.4.1.
2.4.2.

Đánh giá hoạt động công chứng ở VPCC so với PCC
Đánh giá chung
Đánh giá dưới góc độ thương mại và thực hiện chức năng bổ trợ tư pháp

44
44
46

CHƯƠNG 3 CHẤT LƯỢNG VÀ BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG SẢN
PHẨM VĂN BẢN CƠNG CHỨNG

49

3.1.
3.1.1.
3.1.2.

49
49
51


Vai trị và chất lượng của sản phẩm văn bản công chứng
Vai trị của sản phẩm văn bản cơng chứng trong đời sống kinh tế - xã hội
Chất lượng sản phẩm văn bản công chứng

3.2.
Xây dựng sản phẩm văn bản công chứng đạt chất lượng
3.2.1. Đánh giá và định hướng cho chất lượng sản phẩm văn bản công chứng
3.2.2. Nâng cao chất lượng VBCC thơng qua việc hồn thiện lời chứng
3.2.2.1. Một số vấn đề pháp lý khi xây dựng và hoàn thiện lời chứng
3.2.2.2. Xây dựng bộ mẫu các lời chứng
3.2.3. Bảo đảm chất lượng cho sản phẩm văn bản công chứng
3.2.3.1. Biện pháp bảo đảm về mặt pháp lý
3.2.3.2. Biện pháp bảo đảm về mặt kinh tế
3.2.3.3. Biện pháp bảo đảm về mặt kỹ thuật

51
51
54
54
57
63
64
65
70

3.3.
Một số đề xuất và kiến nghị
3.3.1. Một số đề xuất nâng cao chất lượng sản phẩm văn bản công chứng
3.3.1.1. Đề xuất về việc xây dựng bộ mẫu các lời chứng
3.3.1.2. Đề xuất về việc xây dựng Trung tâm thông tin và lưu trữ công chứng

3.3.1.3. Đề xuất về việc thành lập Hiệp hội nghề công chứng
3.3.1.4. Đề xuất xây dựng quy tắc đạo đức nghề công chứng
3.3.2. Một số kiến nghị cụ thể
3.3.2.1. Kiến nghị về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
3.3.2.2. Kiến nghị về quy hoạch phát triển hệ thống các VPCC
3.3.2.3. Một số kiến nghị về việc sửa đổi, bổ sung Luật Công chứng 2006

73
73
73
73
73
74
74
74
75
75

KẾT LUẬN

78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

vii

PHỤ LỤC CÁC MẪU LỜI CHỨNG CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN

vi


x


LỜI NĨI ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, nền kinh tế nước ta
có nhiều chuyển biến. Với sự hình thành nền kinh tế thị trường với nhiều thành
phần kinh tế, đã tạo điều kiện cho các giao dịch trong đời sống kinh tế, thương mại
và dân sự phát triển không ngừng. Nhu cầu về giao dịch dân sự, kinh tế và thương
mại rất lớn và ngày càng gia tăng. Điều này tất yếu dẫn đến nhu cầu công chứng các
hợp đồng, giao dịch cũng tăng cao.
Cùng với sự gia tăng về nhu cầu cơng chứng, tính đa dạng, phức tạp và yếu
tố mới trong các hợp đồng, giao dịch cũng phát sinh, nên áp lực đối với hoạt động
cơng chứng rất lớn, địi hỏi cơ quan quản lý nhà nước cũng như tổ chức hành nghề
công chứng và cơng chứng viên phải có sự đầu tư nhiều và sâu hơn cho hoạt động
công chứng, cũng như đầu tư về cơ sở vật chất để phục vụ nhu cầu công chứng
trong xã hội.
Luật Công chứng số 82/2006/QH11 đã được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ
10, thơng qua ngày 29/11/2006, có hiệu lực từ ngày 01/7/2007, là đạo luật đầu tiên
của nước CHXHCN Việt Nam về hoạt động công chứng bao gồm phạm vi công
chứng, CCV, tổ chức hành nghề công chứng, thủ tục công chứng và quản lý nhà
nước về công chứng.
Hoạt động công chứng là hoạt động hỗ trợ và bổ trợ cho hoạt động tư pháp
do CCV thực hiện thơng qua việc chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp
đồng, giao dịch bằng văn bản mà pháp luật quy định phải công chứng hoặc các cá
nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. Nó vừa là hoạt động mang tính cơng
quyền, do người có chức danh tư pháp thực hiện, nhưng đồng thời cũng mang tính
dịch vụ, do thực hiện theo yêu cầu của khách hàng, cịn khách hàng phải đóng phí

khi thụ hưởng những sản phẩm của dịch vụ này.
Hình thức của tổ chức hành nghề cơng chứng có thể là Phịng Cơng chứng
hoặc Văn phịng cơng chứng. PCC do Nhà nước thành thành lập hoạt động theo loại
hình cơ quan nhà nước là đơn vị sự nghiệp có thu, cịn VPCC do cá nhân CCV
thành lập, hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân hoặc cơng ty hợp danh.
Trưởng phịng PCC hoặc Trưởng VPCC là CCV đại diện theo pháp luật, quản lý và
điều hành hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng.
Trong tổ chức hành nghề công chứng thì hoạt động chứng nhận của cá nhân
CCV tương đối độc lập so với hoạt động quản lý, điều hành của người đại diện theo
pháp luật của tổ chức hành nghề công chứng. CCV phải tuân theo một số nguyên
tắc hành nghề như: tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; khách quan, trung thực; chịu
trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng; theo quy tắc đạo đức nghề
nghiệp.

1


CCV là người có chức danh tư pháp do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm,
hành nghề tại một tổ chức hành nghề công chứng. CCV thực hiện việc chứng nhận
tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch bằng văn bản thông qua lời
chứng thành văn. Bằng hoạt động cơng chứng, CCV góp phần bảo đảm an tồn
pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, phịng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật, bảo
đảm các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, giao dịch.
Hiện nay loại hình VPCC cịn rất mới so với loại hình PCC của Nhà nước đã
và đang hoạt động, vẫn cịn có những ý kiến trái ngược nhau về VPCC. Tuy nhiên,
CCV hành nghề tại VPCC cũng giống như CCV tại PCC, đều do Bộ trưởng Bộ Tư
pháp bổ nhiệm, nhưng CCV của VPCC không phải là cán bộ, công chức nhà nước,
không hưởng lương từ ngân sách. VPCC hoạt động bằng nguồn thu từ kinh phí
đóng góp ban đầu của CCV, phí cơng chứng và thù lao cơng chứng thu do cung cấp
“sản phẩm văn bản công chứng” theo yêu cầu của khách hàng. VBCC của VPCC có

giá trị như VBCC của PCC.
Trong giai đoạn hiện nay, có nhiều hoạt động cung ứng dịch vụ cho xã hội
của Nhà nước đã và đang từng bước được xã hội hóa do tư nhân đảm nhiệm, cung
cấp các dịch vụ cho người dân mà Nhà nước không nhất thiết phải thực hiện. Hoạt
động xã hội hóa cơng chứng cũng ở trong xu hướng này. Sự ra đời của các VPCC
thể hiện sự nhận thức, đánh giá mới về hoạt động công chứng, cũng là giai đoạn
khởi đầu cho q trình xã hội hóa cơng chứng. Việc xã hội hóa cơng chứng cần
được tiến hành từng bước qua từng giai đoạn. Còn nhiều ý kiến cho rằng nếu giao
hoạt động công chứng cho tư nhân làm sẽ bất ổn, vì tư nhân thường vì lợi nhuận mà
xem nhẹ những mục tiêu khác. Tuy nhiên xã hội ln tự hình thành các cơ chế phục
vụ cho các nhu cầu của mình, hoạt động trên cơ sở tự nguyện, tự chịu trách nhiệm
và tự trang trải.
Đến nay chưa có một nghiên cứu chuyên sâu nào về hoạt động và kết quả
hoạt động công chứng tại VPCC, là VBCC - sản phẩm thương mại của doanh
nghiệp có hoạt động kinh doanh đặc thù. Sản phẩm này có ý nghĩa rất quan trong
trong các giao dịch của đời sống kinh tế - xã hội. Nếu những sản phẩm này có chất
lượng kém, bị “lỗi” nhưng lại được “lưu thông” trên thị trường sẽ gây những hậu
quả xấu cho đời sống kinh tế, thương mại và dân sự. Do vậy, rất cần thiết phải tìm
hiểu sâu về hoạt động của VPCC và sản phẩm của hoạt động này. Với mục đích
nâng cao chất lượng sản phẩm của VPCC, bảo đảm tính khách quan, tính chính xác,
tính phù hợp với quy định pháp luật và đạo đức xã hội của sản phẩm VBCC nhằm
hình thành các chứng cứ xác đáng, khơng bị bác bỏ, nhằm loại bỏ và phịng ngừa
các tranh chấp trong đời sống kinh tế - xã hội.
Việc nhận thức đúng đắn về hoạt động công chứng và kết quả của hoạt động
công chứng của CCV tại doanh nghiệp - VPCC, là một yêu cầu cần thiết cho việc
thực hiện nhiệm vụ: “hồn thiện chế định cơng chứng, xác định rõ phạm vi của
công chứng và chứng thực, giá trị pháp lý của văn bản công chứng, xây dựng mơ
hình quản lý nhà nước về cơng chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan

2



cơng chứng thích hợp, có bước đi phù hợp để từng bước xã hội hóa cơng việc này”,
theo như định hướng của Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2006 của Bộ Chính trị
về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020.
2.

Tình hình nghiên cứu
Một số vấn đề về tổ chức và hoạt động công chứng đã được nhiều người
nghiên cứu, trong đó có đề cập đến việc nâng cao chất lượng VBCC do CCV soạn
thảo hoặc hướng dẫn các bên tham gia hợp đồng, giao dịch soạn thảo hoặc công
nhận nội dung do các bên tự soạn thảo khi nội dung này phù hợp với quy định của
pháp luật và không trái đạo đức xã hội, cụ thể như:
“Một số vấn đề chung về công chứng nhà nước và tổ chức cơng chứng nhà
nước” viết năm 1996 của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Hiến có đề cập đến
“giá trị pháp lý của văn bản cơng chứng” đó là giá trị chứng cứ. Khi hợp đồng đã
được cơng chứng thì nó trở thành chứng cứ, nhưng có thể sau đó, nếu có tranh chấp
xảy ra thì nó như một bằng chứng để minh chứng sự việc đó1.
“Những bất cập trong tổ chức và hoạt động công chứng ở nước ta hiện nay”
của Tiến sỹ Trần Thất - Vụ trưởng Vụ Hành chính tư pháp, Bộ Tư pháp, viết năm
2004 (Tài liệu lớp bồi dưỡng công chứng 2004 tại Hà Nội), có chỉ ra “tính cơng
quyền khơng thể thiếu của hành vi công chứng để biến một văn bản từ chỗ là tư
chứng thư (văn bản tự lập của các cá nhân, tổ chức không thuộc về Nhà nước) thành
văn bản cơng chứng thư (văn bản có tính chất cơng như của cơ quan nhà nước)”.
“Trình tự, thủ tục cơng chứng hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất” của ơng
Dương Đình Thành, Phó Vụ trưởng Vụ Hành chính tư pháp, Bộ Tư pháp, viết năm
2004 (Tài liệu lớp bồi dưỡng công chứng 2004 tại Hà Nội), có hướng dẫn thủ tục
cơng chứng hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất và mẫu hợp đồng.
Hầu hết các bài viết, khảo luận đều trăn trở về mơ hình tổ chức và hoạt động
cơng chứng, giá trị pháp lý của hợp đồng, giao dịch được công chứng hoặc hướng

dẫn việc xây dựng, soạn thảo hợp đồng, giao dịch có nội dung khơng vi phạm pháp
luật, không trái đạo đức xã hội.
Các nghiên cứu trên chủ yếu đi vào phân tích mơ hình tổ chức, hoạt động của
PCC của Nhà nước, giá trị chứng cứ của hợp đồng, giao dịch đã được công chứng,
việc xây dựng và soạn thảo, sử dụng một số loại mẫu hợp đồng. Thực tiễn cho thấy
các giao dịch trong đời sống kinh tế, dân sự rất đa dạng, phức tạp, vì vậy sản phẩm
của hoạt động công chứng cũng rất đa dạng, phong phú và có chất lượng khác nhau.
Do đó cần có sự đánh giá, nghiên cứu một cách hệ thống và chuyên sâu về sản
phẩm VBCC của CCV hành nghề tại VPCC, như là một thương phẩm trên thị
trường, các phương thức và trình tự để tạo ra thương phẩm, điều chỉnh pháp lý và

1

Bộ Tư pháp (1996), Những vấn đề cơ bản về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước (Tài liệu nghiệp
vụ), Hà Nội, trang 269.

3


định hướng chất lượng cho thương phẩm đạt chuẩn, để phụ vụ tốt cho nhu cầu công
chứng trong đời sống kinh tế - xã hội.
3.

Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của đề tài:
Đánh giá và làm rõ được hoạt động của CCV tại VPCC ở góc độ doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh đồng thời thực hiện hoạt động bổ trợ tư pháp.
Làm rõ khái niệm VBCC và lời chứng của CCV trong VBCC ở góc độ là sản
phẩm thương mại đặc thù tại VPCC.
Hướng hoàn thiện các cơ sở pháp lý, biện pháp kinh tế và kỹ thuật là ứng

dụng công nghệ thông tin cho việc tạo ra sản phẩm VBCC như là thương phẩm có
giá trị, chất lượng và đạt chuẩn pháp lý phục vụ cho đời sống kinh tế - xã hội.
Nhiệm vụ của đề tài:
Đề tài nghiên cứu hoạt động chứng nhận của CCV, quá trình hình thành sản
phẩm VBCC, mối quan hệ giữa lời chứng CCV với nội dung của hợp đồng, giao
dịch trong VBCC tại VPCC.
Nghiên cứu những nguyên tắc hành nghề công chứng, quy trình và thủ tục
cơng chứng, những biện pháp bảo đảm về mặt pháp lý, kinh tế và kỹ thuật là việc
ứng dụng công nghệ thông tin đối với sản phẩm VBCC.
Xây dựng và hoàn thiện sản phẩm VBCC của VPCC có giá trị, có chất lượng
và đạt chuẩn pháp lý để khi đưa vào lưu thơng, nó hồn thành được vai trò và sứ
mạng pháp lý là bảo đảm và định hướng cho các hợp đồng, giao dịch phù hợp với
quy định của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, giảm thiểu các tranh chấp trong
đời sống kinh tế - xã hội.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu:
Các điều chỉnh pháp lý về hoạt động công chứng, thực tiễn hoạt động công
chứng và người thực hiện công chứng tại VPCC.
Kết quả của hoạt động công chứng tại VPCC là sản phẩm VBCC, gồm nội
dung của hợp đồng, giao dịch và lời chứng của CCV. Quy trình và các biện pháp
bảo đảm cho sản phẩm VBCC của CCV hành nghề tại VPCC có giá trị, có chất
lượng và đạt chuẩn pháp lý.
Phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi của luận văn chuyên ngành luật kinh tế, tác giả tập trung
nghiên cứu những vấn đề sau:
Hoạt động chứng nhận của CCV tại VPCC tổ chức theo loại hình doanh
nghiệp.
Q trình hình thành và hồn thiện VBCC, đặc biệt là lời chứng của CCV

trong VBCC.

4


Những biện pháp về kinh tế, pháp lý và kỹ thuật là ứng dụng công nghệ
thông tin để bảo đảm cho giá trị của VBCC.
5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Cơ sở lý luận của luận văn là Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật của Nhà nước
XHCN Việt Nam liên quan đến nội dung của đề tài; những nghiên cứu của các nhà
khoa học về các lĩnh vực liên quan.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài dựa trên phép duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, trong q trình nghiên cứu và hồn thiện
luận văn tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: so sánh
pháp luật, hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp và khảo sát thực tiễn để làm sáng tỏ nội
dung nghiên cứu của đề tài.
6.

Đóng góp mới và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề tài là một nghiên cứu chuyên khảo đầu tiên về hoạt động và sản phẩm của
hoạt động của VPCC dưới góc độ là doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh đặc thù,
nên kết quả nghiên cứu được coi là mới. Đó là:
- Đưa ra khái niệm về VBCC do CCV của VPCC thực hiện như là một sản
phẩm thương mại của doanh nghiệp VPCC.
- Phương thức để tạo sản phẩm thương mại là VBCC có giá trị, có chất
lượng, đạt chuẩn pháp lý và được bảo đảm.
- Những biện pháp bảo đảm về mặt kinh tế, pháp lý và kỹ thuật là ứng

dụng cong nghệ thông tin đối với sản phẩm là VBCC.
- Đánh giá hiệu quả tích cực của sản phẩm VBCC đạt chất lượng khi lưu
thông trong đời sống kinh tế - xã hội. Tác giả xin chỉ ra một số mặt hạn chế trong
hoạt động công chứng và một số quy định chưa khả thi của pháp luật về hoạt động
công chứng tại VPCC, nguyên nhân của tình trạng này và đề xuất một số kiến nghị
sửa đổi, bổ sung, để khắc phục những mặt hạn chế và chưa khả thi này.
Đề tài có ý nghĩa thực tiễn trong việc nâng cao nhận thức về hoạt động cơng
chứng, vai trị và giá trị của sản phẩm VBCC tại VPCC đối với đời sống kinh tế - xã
hội.
7.

Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm:
Chương 1: Cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của Văn phịng cơng
chứng
Chương 2: Hoạt động cơng chứng tại Văn phịng cơng chứng - Hoạt động
kinh doanh dặc biệt
Chương 3: Chất lượng và bảo đảm chất lượng sản phẩm văn bản công chứng

5


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
VĂN PHỊNG CƠNG CHỨNG
1.1.

Khát qt về cơng chứng và mơ hình cơng chứng
Có thể khát qt về cơng chứng là việc cơng chứng viên chứng nhận tính xác
thực, tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định phải công

chứng hoặc theo yêu cầu của công dân và các tổ chức, nhằm bảo đảm an toàn
pháp lý cho các bên khi tham gia giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại. Hợp đồng,
giao dịch đã được cơng chứng có giá trị thực hiện và giá trị chứng cứ đối với các
bên tham gia.
Nghề công chứng và CCV đã có lịch sử hình thành, phát triển từ hàng nghìn
năm trước đây, có sự gắn bó chặt chẽ với đời sống dân sự xã hội. Khởi đầu, công
chứng là một nghề tự do trong xã hội, phục vụ cho nhu cầu tự nhiên, tự bảo vệ an
toàn pháp lý cho cư dân khi thiết lập các văn tự, khế ước trong các giao dịch
thương mại, dân sự. Trải qua những giai đoạn phát triển, nghề công chứng đã khẳng
định sự tồn tại vững chắc và đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, được
Nhà nước thừa nhận và trở thành hoạt động hỗ trợ đắc lực cho công dân và Nhà
nước trên cả hai phương diện là hỗ trợ hành pháp (ở góc độ quản lý nhà nước) và bổ
trợ tư pháp.
Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa làm cho các quan hệ mua bán, trao đổi
hàng hóa trong xã hội càng ngày càng phát triển. Nếu các giao dịch này tự phát,
không có định hướng pháp lý sẽ dẫn đến các vi phạm và tranh chấp, gây thiệt hại
cho công dân, tổ chức và Nhà nước. Thực hiện chức năng quản lý, Nhà nước phải
định hướng các giao dịch này theo quy định của pháp luật, bảo đảm trật rự và ổn
định xã hội. Thực tiễn cho thấy các tranh chấp trong các giao dịch tăng là do các
bên tham gia không có hoặc khơng tìm được những chứng cứ xác thực để bảo vệ
quyền lợi của mình. Chính do nhu cầu này mà chế định công chứng trong xã hội ra
đời. Hoạt động công chứng cung cấp cho các bên tham gia chứng cứ công chứng, là
chứng cứ xác thực hơn những chứng cứ hoặc giấy tờ không được công chứng hoặc
chỉ trình bày bằng miệng. Thơng qua hoạt động cơng chứng, các quy định của pháp
luật trở thành thực tiễn sinh động, đa dạng và phong phú của giao dịch trong đời
sống xã hội, thành hành vi xử sự đúng pháp luật. Xét ở góc độ Nhà nước, hoạt động
cơng chứng tạo ra loại chứng cứ xác thực, kịp thời khơng thể chối bỏ trừ trường hợp
bị Tịa án tun vơ hiệu. Xét ở góc độ cơng dân thì hoạt động cơng chứng bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, tạo ổn định và an tồn của các giao dịch
trong đời sống xã hội.


6


Trên thế giới, cho đến nay, mơ hình cơng chứng tồn tại ở hầu hết các quốc
gia và hình thành nên ba hệ thống công chứng sau2:
Hệ thống công chứng Latin (chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của hệ thống luật La
mã, còn gọi là hệ thống pháp luật dân sự - Civil Law). Hệ thống này tồn tại ở hầu
hết các nước thuộc cộng đồng châu Âu (trừ Đan Mạch và Anh); châu Phi (các nước
thuộc địa cũ của Pháp); các nước châu Mỹ - La tinh, bang Quebec của Canada, bang
Luisane của Hoa Kỳ, một số nước châu Á (Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ...).
Hệ thống công chứng Anglo-saxon, gắn liền với hệ thống pháp luật AngloSaxon (Common Law), tồn tại ở các quốc gia: Vương quốc Anh, Mỹ (trừ bang
Luisane), Canada (trừ bang Quebec), Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Đài Loan...
Hệ thống công chứng Collectiviste (công chứng tập thể) tồn tại ở các nước
XHCN trước đây và phát triển mạnh vào những năm 70 của thế kỷ 20 đến trước
năm 1990, bao gồm: Liên Xô, Ba Lan, Đông Đức, Bungari, Hungari, Rumani, Cu
Ba, Trung Quốc, Việt Nam.
Mặc dù hình thành ba hệ thống cơng chứng như trên, song chung quy lại, chỉ
có hai mơ hình cơng chứng: mơ hình cơng chứng tự do (ở hệ thống cơng chứng
Latin và hệ thống cơng chứng Anglo-Saxon) và mơ hình cơng chứng nhà nước (chỉ
tồn tại ở hệ thống công chứng Collectiviste).
Ở mơ hình cơng chứng tự do, các CCV được Nhà nước bổ nhiệm, hành nghề
tự do theo quy định của pháp luật đối với các hình thức VPCC tư nhân hoặc VPCC
tập thể, tự chủ trong tổ chức, hoạt động, tự hạch tốn và đóng thuế cho Nhà nước.
CCV chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi công chứng của mình, phải bồi thường
thiệt hại bằng tài khoản tiền ký quỹ của mình nếu hành vi cơng chứng gây thiệt hại
cho khách hàng hoặc người thứ ba.
Ở mơ hình công chứng nhà nước, cơ quan công chứng là thiết chế nhà nước,
CCV là công chức nhà nước, do Nhà nước bổ nhiệm, hưởng lương từ ngân sách nhà
nước, CCV không phải chịu trách nhiệm vật chất trước đương sự về các hậu quả do

hành vi công chứng trái pháp luật của mình gây ra, chỉ phải chịu trách nhiệm hành
chính trước Nhà nước. Lệ phí cơng chứng được nộp cho ngân sách nhà nước, có
trích lại một phần để trang trải thêm cho hoạt động của tổ chức hành nghề cơng
chứng. Có thể nói, với sự bao cấp tồn bộ của Nhà nước, mơ hình cơng chứng nhà
nước chỉ phù hợp với cơ chế kế hoạch hóa tập trung và nền kinh tế hiện vật, trong
đó, các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại không phát triển. Vai trị cơng chứng
chủ yếu là nhằm bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ tài sản XHCN và tài sản cá nhân.
Có thể thấy ưu thế vượt trội của mơ hình cơng chứng tự do so với mơ hình
cơng chứng nhà nước. Đó là sự đề cao, phát huy trách nhiệm cá nhân của CCV, tạo
ra cơ chế cạnh tranh lành mạnh, tạo động lực để các CCV phát huy tính tích cực,

2

Nguyễn Văn Tồn (2005), Cơng chứng Việt Nam trong nền kinh tế thị trường theo mơ hình Latin, Tạp chí
Thơng tin khoa học pháp lý (Số chun đề tháng 1 năm 2005), Viện Khoa học pháp lý, Hà Nội, trang 9-30.

7


chủ động nhiệt tình trong hoạt động của mình, giảm nhẹ sự bao cấp của Nhà nước,
làm cho bộ máy nhà nước tinh giản, gọn nhẹ, tách bạch chức năng quản lý nhà nước
với chức năng cung ứng dịch vụ cơng trong lĩnh vực cơng chứng. Mơ hình tổ chức
này không chỉ tiết kiệm cho ngân sách nhà nước mà cịn tăng thu ngân sách thơng
qua việc đóng thuế của các CCV. Về mặt tổ chức và hoạt động, mô hình cơng
chứng tự do tạo ra sự linh hoạt về mặt tổ chức, bảo đảm đáp ứng kịp thời nhu cầu
công chứng của nhân dân.
Ở Việt Nam theo các văn bản pháp luật trước khi có Luật cơng chứng 2006,
thì mơ hình cơng chứng duy nhất được tổ chức theo mơ hình cơng chứng nhà nước.
Theo tác giả luận văn thì hiện nay mơ hình cơng chứng ở Việt Nam, theo quy định
của Luật Cơng chứng 2006, có sự pha trộn giữa mơ hình cơng chứng nhà nước với

loại hình PCC là cơ quan nhà nước và mơ hình cơng chứng tự do với loại hình
VPCC là doanh nghiệp của tư nhân. Sự cùng tồn tại và hoạt động của hai mơ hình
cơng chứng trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam đang minh thị cho quá trình từng
bước xã hội hóa hoạt động cơng chứng, chuyển dần từ mơ hình cơng chứng nhà
nước sang mơ hình cơng chứng tự do.
1.2.
Các loại hình tổ chức hành nghề cơng chứng Việt Nam
1.2.1.

Tổ chức hành nghề công chứng tại Việt Nam
Khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 01/10/1945, Bộ
trưởng Tư pháp nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã bổ nhiệm một CCV là người
Việt Nam ở Hà Nội. Tiếp sau đó, Nhà nước ta ban hành Sắc lệnh số 59 ngày
15/11/1945 ấn định thể lệ việc thị thực các giấy tờ và Sắc lệnh số 85 ngày
29/02/1952 quy định thể lệ trước bạ về việc mua, bán, cho đổi nhà cửa, ruộng đất.
Theo hai Sắc lệnh này thì việc chứng nhận một số giấy tờ được giao cho Ủy ban
kháng chiến hành chính các cấp thực hiện3.
Thực ra ở Việt Nam hoạt động cơng chứng đã hình thành từ thời kỳ Pháp
thuộc, lúc đó gọi là chưởng khế. Chưởng khế là người Pháp, hoạt động theo quy chế
chưởng khế của Pháp. Có ba Văn phịng chưởng khế ở Sài gòn và một Văn phòng
chưởng khế ở Hà Nội. Sau năm 1954 đến tháng 4 năm 1975, tại miền Nam Việt
Nam, chính quyền chế độ cũ đã tổ chức lại từ ba Văn phòng chưởng khế của Pháp ở
Sài gòn thành một Phòng Chưởng khế và bổ nhiệm các Chưởng khế là người Việt
Nam thay thế các Chưởng khế người Pháp4. Pháp luật của chế độ cũ Việt Nam cộng
hịa có chế định về Chưởng khế và Phịng Chưởng khế5. Phòng Chưởng khế được
thiết lập trong một quản hạt của Tòa án sơ thẩm hay hòa giải rộng quyền tùy thuộc
Bộ Tư pháp. Phịng Chưởng khế có thể gồm có một hoặc nhiều vị Chưởng khế tùy
theo nhu cầu cơng vụ. Điều khiển Phịng Chưởng khế là “vị nào có chỉ số lương cao
3
Bộ Tư pháp (1996), Những vấn đề cơ bản về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước (Tài liệu nghiệp

vụ), Hà Nội, trang 261-266
4
Bộ Tư pháp (1991), Công chứng nhà nước (Tài liệu nghiệp vụ), Hà Nội, trang 8.
5
Bộ Tư pháp chế độ cũ (1962), Pháp lý tập san - Bản văn tổ chức tư pháp Việt Nam, Sài Gòn, trang 353-384.

8


nhất, nếu chỉ số lương bằng nhau thì vị nào có bằng cử nhơn hay tấn sĩ luật khoa sẽ
lãnh phần điều khiển”6. Chưởng khế có nhiệm vụ7: “Lập tất cả những văn kiện và
khế ước mà những đương sự trước các tịa án bó buộc phải làm; Lập những văn
kiện và khế ước mà các đương sự này muốn cho có tính cách cơng chính y như các
văn kiện do công quyền lập ra; Xác định niên hiệu những văn bản và khế ước ấy;
Quản thủ những văn kiện này; Cấp phát các bản sao đại tự và toàn sao”. Phòng
Chưởng khế là cơ quan thuộc hệ thống tư pháp, các Chưởng khế không được kiêm
nhiệm công vụ khác và được bổ nhiệm suốt đời.
Từ khi đất nước thống nhất tháng 4 năm 1975 đến trước Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI năm 1986, tại Việt Nam vấn đề thành lập và phát triển tổ chức hành
nghề công chứng không được đặt ra. Ở trong giai đoạn này, nền kinh tế nước ta
theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Các giao dịch về bất động sản hoặc
những tài sản khác có giá trị lớn ở giai đoạn này được thực hiện thơng qua các trình
tự, thủ tục hành chính phức tạp, thậm chí phải xin phép.
Năm 1987, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987,
quy định về việc thành lập tổ chức hành nghề cơng chứng theo loại hình là PCC
Nhà nước chun trách. Cụm từ “Phịng Cơng chứng nhà nước” được duy trì cho
đến năm 2000 và được thay thế bằng cụm từ “Phịng Cơng chứng” theo quy định
của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000. Tại mục II của Thông tư
574/QLTPK quy định: “Thành lập Phịng Cơng chứng Nhà nước chun trách ở
thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, và một số tỉnh, thành phố khác có nhu

cầu lớn về cơng chứng và có đủ điều kiện cần thiết”. Ngồi năm việc cơng chứng
bao gồm: “Chứng thực chữ ký; Chứng nhận bản sao giấy tờ tài liệu; Chứng nhận
giấy ủy quyền; Chứng nhận các hợp đồng về chuyển dịch tài sản và các hợp đồng
có nghĩa pháp lý khác; Chứng nhận di chúc và văn bản thỏa thuận phân chia tài sản
thừa kế” thì các PCC Nhà nước chuyên trách cịn được thực hiện các việc làm cơng
chứng: “Nhận giữ giấy tờ tài liệu, giấy tờ gốc; Chứng nhận phần tài sản riêng trong
khối tài sản chung của vợ chồng; Lập kháng nghị hàng hải”.
Đến năm 1991, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 45/HĐBT ngày
27/02/1991 của về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước cho phép thành lập
các PCC nhà nước ở mỗi tỉnh (thành phố trực thuộc Trung ương). Tại điều 1 của
Nghị định số 45/HĐBT quy định: “Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính
xác thực các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của cơng dân và cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
(sau đây gọi chung là các tổ chức), góp phần phịng ngừa vi phạm pháp luật, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp đồng và giấy tờ đã được cơng chứng có
giá trị chứng cứ”.

6
7

Bộ Tư pháp chế độ cũ (1962), Pháp lý tập san - Bản văn tổ chức tư pháp Việt Nam, Sài Gòn, trang 354.
Bộ Tư pháp chế độ cũ (1962), Pháp lý tập san - Bản văn tổ chức tư pháp Việt Nam, Sài Gòn, trang 354-355.

9


Đến năm 1996, Chính phủ ban hành Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của
về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước. Tại điều 1 của Nghị định số 31/CP
quy định: “Cơng chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy
tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân

và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là tổ chức),
góp phần phịng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các hợp đồng và giấy tờ đã được Công chứng nhà nước chứng nhận hoặc Uỷ ban
nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp bị Tồ
án Nhân dân tun bố là vơ hiệu”.
Đến năm 2000, Chính phủ ban hành Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày
08/12/2000 về công chứng, chứng thực. Tại điều 2 của Nghị định số 75/2000/NĐCP quy định: “Công chứng là việc PCC chứng nhận tính xác thực của hợp đồng
được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế,
thương mại và quan hệ xã hội khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực
hiện các việc khác theo quy định của Nghị định này”.
Ở những thời kỳ này thì PCC là cơ quan nhà nước, do Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh ra quyết định thành lập, có tư cách pháp nhân, có tài khoản riêng và có
con dấu riêng. Các quy định của pháp luật thời kỳ này còn điều chỉnh chung hoạt
động công chứng và hoạt động chứng thực.
Đến năm 2006, Quốc hội ban hành Luật Công chứng. Tại điều 2 của Luật
cơng chứng 2006 có quy định: “Cơng chứng là việc CCV chứng nhận tính xác thực,
tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch)
bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ
chức tự nguyện yêu cầu công chứng”. Luật Công chứng 2006 xác định mơ hình
cơng chứng tại Việt Nam được tổ chức dưới hai loại hình: PCC là cơ quan nhà nước
và VPCC là doanh nghiệp của tư nhân cùng có chức năng và thẩm quyền như nhau
về công chứng. Luật Công chứng 2006 minh thị rõ hơn các văn bản pháp luật trước
đó về khái niệm cơng chứng, CCV và loại hình tổ chức hành nghề cơng chứng.
1.2.2.

Loại hình tổ chức hành nghề công chứng theo Luật Công chứng 2006
Theo Luật Cơng chứng 2006, loại hình tổ chức hành nghề cơng chứng, bao
gồm: PCC là cơ quan nhà nước do Nhà nước trực tiếp thành lập, tổ chức và cấp chi
phí hoạt động và VPCC là doanh nghiệp do tư nhân lập ra, đăng ký hoạt động, lấy
doanh thu từ tiền thu phí và đóng thuế cho Nhà nước.

PCC do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập, là đơn vị sự nghiệp
thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng. Người đại diện theo pháp
luật của PCC là Trưởng phịng. Trưởng phịng cơng chứng phải là CCV và do Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
VPCC do một CCV thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình
DNTN. VPCC do hai CCV trở lên thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại
hình CTHD. Người đại diện theo pháp luật của VPCC là Trưởng VPCC. Trưởng

10


VPCC phải là CCV. VPCC có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo
nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng nguồn thu từ kinh phí đóng góp của CCV, phí
cơng chứng, thù lao cơng chứng và các nguồn thu hợp pháp khác.
VPCC được tổ chức dưới loại hình là DNTN hoặc CTHD, thực hiện hoạt
động cơng chứng mang tính chất nhà nước - tính cơng vụ, là hoạt động hỗ trợ và bổ
trợ tư pháp, đồng thời cũng mang tính thương mại, do tìm kiếm lợi nhuận từ hoạt
động của mình. VPCC có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định và đăng
ký hoạt động theo quy định của pháp luật.
1.3.
Điều chỉnh pháp lý tổ chức và hoạt động của VPCC
1.3.1.

VPCC được tổ chức theo loại hình doanh nghiệp
VPCC theo quy định của Luật Công chứng 2006 được tổ chức dưới hai loại
hình là DNTN hoặc CTHD (sau đây gọi chung là doanh nghiệp). Cả hai loại hình
đều thể hiện tính chất chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của CCV là người chủ
DNTN (trường hợp tổ chức theo loại hình DNTN) và của thành viên hợp danh
(trường hợp tổ chức theo loại hình CTHD). Luật Cơng chứng 2006 đã dự liệu và
điều chỉnh về trách nhiệm vật chất của CCV trong hoạt động nghề nghiệp (ngoài

những nghĩa vụ và trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật) theo hướng trách
nhiệm vô hạn, được hiểu là chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình, khơng
kể tài sản đó có đưa vào doanh nghiệp hay khơng.
DNTN là loại hình doanh nghiệp đơn giản nhất hoạt động theo Luật Doanh
nghiệp 2005. Mỗi cá nhân chỉ được phép mở một DNTN. DNTN khơng được phép
phát hành bất kỳ loại chứng khốn nào. VPCC là DNTN do một cá nhân CCV đăng
ký và làm chủ. VPCC là DNTN khác với những DNTN khác ở chỗ người chủ
doanh nghiệp - người đứng đầu doanh nghiệp là CCV. Một trong những điều kiện
của CCV phải là công dân Việt Nam thường trú ở Việt Nam, như vậy VPCC là
DNTN khơng thể có chủ doanh nghiệp là người Việt Nam định cư ở nước ngoài
hoặc là người nước ngoài như những DNTN khác. Một CCV chỉ được phép mở một
DNTN là VPCC, cũng giống như DNTN thông thường khác là mỗi cá nhân chỉ
được phép mở một DNTN. CCV là chủ DNTN và là Trưởng VPCC chịu trách
nhiệm về các hoạt động của VPCC bằng tồn bộ tài sản của mình. Điều này có
nghĩa nếu VPCC có nghĩa vụ tài sản đối với người khác, CCV sẽ phải sử dụng tài
sản cá nhân của mình để thanh toán nghĩa vụ này.
Quy định của pháp luật không giới hạn về số lượng địa điểm kinh doanh và
hoạt động của DNTN. DNTN có thể mở chi nhánh với điều kiện các chi nhánh phải
được đăng ký theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên Luật Công chứng 2006 và các
văn bản hướng dẫn đã không quy định đến vấn đề này, như vậy có thể hiểu việc mở
chi nhánh của VPCC là DNTN không bị cấm, nhưng do hoạt động nghề công chứng
gắn liền với CCV - chủ DNTN, nên trường hợp mở chi nhánh thì cũng vẫn phải là
CCV - chủ DNTN tác nghiệp, vì nếu có thêm CCV khác tác nghiệp thì VPCC phải
tổ chức theo hình thức của CTHD. Chủ DNTN là CCV khi thực hiện hoạt động

11


công chứng tại doanh nghiệp không nhân danh DNTN như những DNTN thơng
thường khác mà nhân danh chính cá nhân CCV.

Đối với DNTN thơng thường khác thì Phịng đăng ký kinh doanh thuộc Sở
Kế hoạch và Đầu tư cấp tỉnh nơi đặt trụ sở doanh nghiệp cấp giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh, cịn đối với VPCC là DNTN thì Sở Tư pháp cấp giấy chứng nhận
đăng ký hoạt động.
CTHD là loại hình doanh nghiệp có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu
chung của công ty và hoạt động kinh doanh dưới một tên chung. Các chủ sở hữu
này được gọi là thành viên hợp danh. Đối với VPCC là CTHD thì thành viên hợp
danh phải là CCV. Ngồi thành viên hợp danh, CTHD có thể có các thành viên góp
vốn. VPCC là CTHD khác với những CTHD khác ở chỗ thành viên hợp danh phải
là CCV, mà một trong những điều kiện của CCV phải là công dân Việt Nam thường
trú ở Việt Nam, do vậy VPCC là CTHD khơng thể có thành viên hợp danh là người
Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc người nước ngoài như những CTHD khác.
Thành viên hợp danh phải là cá nhân, pháp nhân không thể là thành viên hợp
danh mà chỉ có thể là thành viên góp vốn. Một thành viên hợp danh của CTHD
không được phép làm chủ DNTN, làm thành viên hợp danh của một CTHD khác,
ngoại trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại. Tuy
nhiên CCV của VPCC là CTHD, kể cả khi có sự nhất trí của CCV là thành viên hợp
danh cịn lại, cũng khơng được phép làm chủ DNTN, làm thành viên hợp danh của
một CTHD khác vì điểm d, khoản 2, điều 22 Luật Cơng chứng 2006 quy định CCV
chỉ được hành nghề tại một tổ chức hành nghề công chứng.
Thành viên hợp danh chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình về các
các nghĩa vụ của cơng ty. Điều này có nghĩa nếu VPCC là CTHD có nghĩa vụ tài
sản hoặc gây thiệt hại vật chất cho người khác thì thành viên hợp danh sẽ phải dùng
tài sản của mình để thanh toán nghĩa vụ hoặc bồi thường, các thành viên hợp danh
khác cũng phải liên đới chịu trách nhiệm thanh toán hết số nợ còn lại trong trường
hợp tài sản của CTHD không đủ để trang trải số nợ của công ty. Thành viên góp
vốn chỉ chịu trách nhiệm về nghĩa vụ của CTHD trong phạm vi số vốn đã góp.
Một thành viên hợp danh không được phép nhân danh cá nhân hoặc nhân
danh người khác để thực hiện hoạt động kinh doanh trong cùng ngành nghề kinh
doanh của CTHD để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của cá nhân, tổ chức khác. Ngồi

ra, thành viên hợp danh khơng được phép chuyển nhượng một phần hoặc tồn bộ
phần vốn góp của mình tại cơng ty cho người khác nếu khơng được sự chấp thuận
của các thành viên hợp danh còn lại. Đối với CTHD thơng thường khác thì thành
viên hợp danh khi thực hiện hoạt động kinh doanh, họ nhân danh CTHD8. Đối với
VPCC là CTHD thì thành viên hợp danh (là CCV) khi thực hiện công chứng, họ
nhân danh chính cá nhân CCV, khơng nhân danh CTHD.
8

Khoản 1 điều 137 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định “các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp
luật và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty”.

12


VPCC là CTHD do Hội đồng thành viên (gồm tất cả thành viên hợp danh và
góp vốn hợp lại) quản lý. Hội đồng thành viên bầu một CCV là thành viên hợp danh
làm Chủ tịch Hội đồng thành viên, đồng thời làm Trưởng VPCC, đứng đầu và đại
diện theo pháp luật của VPCC.
Quy định của pháp luật không bị giới hạn về số lượng địa điểm kinh doanh
và hoạt động của CTHD. CTHD cũng có thể mở chi nhánh với điều kiện các chi
nhánh này phải được đăng ký theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên Luật Công
chứng 2006 và các văn bản hướng dẫn không quy định về vấn đề này, như vậy vẫn
có thể hiểu việc mở chi nhánh của VPCC là CTHD không bị cấm, và nếu mở chi
nhánh thì người thực hiện các hoạt động công chứng của chi nhánh phải là CCV.
Đối với CTHD thơng thường khác thì Phịng đăng ký kinh doanh thuộc Sở
Kế hoạch và Đầu tư cấp tỉnh nơi đặt trụ sở cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, còn đối với VPCC là CTHD thì Sở Tư pháp cấp giấy chứng nhận đăng ký
hoạt động.
Tuy nhiên có quan điểm cho rằng do Luật Cơng chứng 2006 khơng có quy
định cho VPCC được mở chi nhánh, mặt khác việc pháp triển hệ thống các VPCC

phải theo quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng của địa phương, nên
VPCC không được mở chi nhánh. Theo tác giả thì quan điểm này áp đặt và hạn chế
quyền kinh doanh của doanh nghiệp VPCC, dù được giải thích bằng lý do gì.
Luật Cơng chứng 2006 cho phép VPCC lựa chọn loại hình tổ chức là CTHD
hoặc DNTN. Loại hình CTHD có ưu điểm là kết hợp được uy tín và danh tiếng cá
nhân của các CCV, mặt khác do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn của các
thành viên hợp danh nên dễ dàng tạo được sự tin cậy của các khách hàng, hơn nữa
việc điều hành quản lý CTHD không quá phức tạp do số lượng các thành viên
không nhiều và là những người có uy tín, tin tưởng nhau. Loại hình DNTN có ưu
điểm là quy mơ gọn nhẹ, tổ chức đơn giản, phù hợp với địa bàn ít giao dịch. Cả hai
loại hình này đều đề cao trách nhiệm vật chất của CCV theo hướng chịu trách
nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình. Tuy nhiên VPCC tổ chức theo loại hình
DNTN hay CTHD thì chủ DNTN hoặc thành viên hợp danh là CCV khi tác nghiệp
không nhân danh doanh nghiệp mà nhân danh chính cá nhân CCV, thực hiện thẩm
quyền cơng chứng mang tính nhà nước do được Nhà nước trao quyền. Đây là đặc
điểm khác của VPCC với DNTN và CTHD thơng thường khác.
VPCC có một CCV (nếu tổ chức theo mơ hình của DNTN) hoặc từ hai CCV
trở lên (nếu tổ chức theo mô hình của CTHD), có các nhân viên giúp việc cho CCV,
nhân viên lưu trữ, tin học, thu lệ phí, kế toán doanh nghiệp và bộ phận gián tiếp
khác (nếu cần thiết). Trưởng VPCC, đại diện theo pháp luật của VPCC, thực hiện
việc quản lý và điều hành hoạt động của VPCC.

13


Chế độ và thời gian làm việc của VPCC phải thực hiện chế độ làm việc theo
ngày, giờ làm việc của cơ quan hành chính nhà nước9. Theo tác giả đây là vấn đề
chưa phù hợp, nhất là trong giai đoạn xã hội có nhiều và đa dạng nhu cầu cơng
chứng như hiện nay của cơng dân, tổ chức. Có rất nhiều yêu cầu cần phải thực hiện
ngoài giờ hành chính, nếu máy móc áp dụng quy định này sẽ không đáp ứng được

nhu cầu công chứng trong xã hội.
Theo quan điểm của tác giả thì VPCC nên tổ chức bộ máy càng gọn nhẹ, để
giảm chi phí hoạt động, nhưng CCV cần có năng lực, trình độ kinh nghiệm và nắm
vững nghiệp vụ, có bộ máy giúp việc hiệu quả sẽ làm tăng năng suất công việc,
nâng cao năng lực hoạt động và khả năng cạnh tranh.
Mặc dù Luật Công chứng 2006 không đề cập đến việc phá sản của doanh
nghiệp VPCC, nhưng theo tác giả VPCC mặc dù hoạt động bình đẳng và có đầy đủ
thẩm quyền cơng chứng như PCC, nhưng nó lại được tổ chức theo loại hình doanh
nghiệp, mà đã là doanh nghiệp thì đều chịu sự chi phối của quy luật thị trường, hay
nói cách khác, VPCC cũng có thể bị lâm vào tình trạng phá sản và có thể bị tuyên
bố phá sản theo quy định của pháp luật.
Thông thường hoạt động của VPCC là hoạt động thu phí và thù lao dịch vụ
công chứng. Đây là hoạt động tương đối ổn định, dựa trên lao động trí tuệ và kinh
nghiệm nghề nghiệp của CCV để tạo ra sản phẩm VBCC và được các bên tham gia
giao dịch công nhận và thực hiện. Rủi ro dẫn đến thiệt hại về kinh tế cho khách
hàng trong hoạt động công chứng rất hiếm khi xảy ra, nhưng khơng phải khơng có.
Khi VPCC lâm vào tình trạng phá sản thì thủ tục giải quyết và tuyên bố phá sản
được thực hiện như đối với các doanh nghiệp khác.
Tại khoản 1 điều 34 Luật Công chứng 2006 quy định về hai trường hợp chấm
dứt hoạt động của VPCC, đó là: Tự chấm dứt hoạt động và bị thu hồi giấy đăng ký
hoạt động do VPCC vi phạm pháp luật hoặc khơng cịn CCV do bị miễn nhiệm. Về
trường hợp thứ nhất, việc tự chấm dứt hoạt động có thể hiểu đồng nghĩa với việc
VPCC giải thể do nhiều lý do (VPCC không muốn hoạt động nữa hoặc CCV của
VPCC là DNTN hoặc CCV của CTHD chỉ có hai thành viên hợp danh chết..v.v.).
Luật Doanh nghiệp 2005 cũng quy định cho cả CTHD hoặc DNTN có quyền giải
thể doanh nghiệp. Về trường hợp thứ hai, trường hợp VPCC vi phạm pháp luật đến
mức bị tước giấy phép hoạt động hoặc CCV bị miễn nhiệm10 mà khơng có CCV
khác thay thế. Tuy nhiên trong trường hợp doanh nghiệp VPCC bị tuyên bố phá sản

9


Khoản 2 điều 32 Luật Công chứng 2006.
Các trường hợp CCV bị miễn nhiệm theo khoản điều 20 Luật Cơng chứng 2006 bao gồm: “Khơng cịn đủ
tiêu chuẩn công chứng viên theo quy định tại điều 13 Luật Công chứng 2006; Bị mất hoặc bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự; Kiêm nhiệm công việc khác; Không hành nghề công chứng kể từ ngày được bổ nhiệm
CCV từ hai năm trở lên hoặc không hành nghề công chứng liên tục từ một năm trở lên; Đã bị xử phạt hành
chính đến lần thứ hai trong hoạt động hành nghề cơng chứng mà cịn tiếp tục vi phạm hoặc bị xử lý kỷ luật
bằng hình thức cảnh cáo trở lên đến lần thứ hai mà còn tiếp tục vi phạm hoặc bị kỷ luật buộc thôi việc; Bị kết
tội bằng bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
10

14


thì cũng phải chấm dứt hoạt động. Tại khoản 1 điều 90 của Luật Phá sản 2004 có
quy định về trường hợp đối với chủ DNTN, thành viên hợp danh của CTHD thì sau
khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản họ không được miễn trừ nghĩa vụ về tài sản
đối với chủ nợ chưa được thanh toán nợ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác. Thực hiện đúng theo quy định này của Luật Phá
sản 2004 thì quyền lợi của khách hàng là chủ nợ của VPCC bị tuyên bố phá sản sẽ
bảo đảm được một phần nào, đặc biệt trong trường hợp CCV có tài sản riêng. Luật
Cơng chứng 2006 khơng quy định VPCC khi thành lập cần có vốn pháp định. Tuy
vậy pháp luật về đăng ký kinh doanh cũng rất cần bổ sung thêm quy định về vốn
pháp định cần phải có của CCV khi thành lập và đăng ký hoạt động của VPCC, để
bảo đảm quyền và lợi ích có thể bị xâm hại của khách hàng khi sử dụng dịch vụ
công chứng do CCV của VPCC cung cấp.
Theo tác giả luận văn thì cơng chứng cũng là một nghề hoạt động trong lĩnh
vực pháp luật, gần với nghề luật sư và một số nghề thuộc lĩnh vực bổ trợ tư pháp
khác, tuy nhiên điều 33 và điều 34 Luật Luật sư 2006 cho phép tổ chức hành nghề
luật sư được tổ chức dưới hình thức Văn phịng luật sư theo loại hình DNTN, Cơng

ty luật theo loại hình CTHD hoặc cơng ty trách nhiệm hữu hạn, thậm chí là cơng ty
TNHH một thành viên. Trong khi đó Luật Cơng chứng 2006 chỉ cho phép VPCC tổ
chức theo loại hình DNTN và CTHD, đây là điểm mà các nhà làm luật cần cân nhắc
và đánh giá lại khi chỉnh sửa Luật Công chứng 2006. Theo tác giả thì quan điểm
cho rằng nghề cơng chứng thường liên quan đến tài sản có giá trị của cơng dân, tổ
chức, cần phải nâng cao trách nhiệm của CCV nên phải quy định loại hình hành
nghề theo hướng chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình là chưa phù hợp.
Thực tế có rất nhiều nghề liên quan đến những tài sản quan trọng, có giá trị lớn của
cơng dân, tổ chức và phải chịu trách nhiệm rất cao đối với cơng dân và xã hội như
nghề tài chính, tín dụng hoặc như nghề y liên quan đến tính mạng, sức khỏe của
người dân, vẫn được cho phép tổ chức dưới các loại hình doanh nghiệp mà khơng bị
hạn chế về loại hình theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp. Tư duy hạn chế
về loại hình doanh nghiệp hoạt động nghề công chứng này cũng cần thay đổi cho
phù hợp với xu thế phát triển của đời sống xã hội.
1.3.2.

Thành lập và đăng ký hoạt động của doanh nghiệp - VPCC
CCV thành lập VPCC phải có hồ sơ đề nghị thành lập VPCC gửi Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh. Hồ sơ gồm có: Đơn đề nghị thành lập VPCC; Bản sao quyết
định bổ nhiệm CCV; Đề án thành lập VPCC phải nêu rõ sự cần thiết thành lập, dự
kiến về tổ chức, tên gọi, nhân sự, địa điểm đặt trụ sở, các điều kiện vật chất và kế
hoạch triển khai thực hiện. Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ
đề nghị thành lập VPCC, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định cho phép
thành lập VPCC. Trong trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ
lý do. Người bị từ chối có quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật.
Trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định cho phép
thành lập, VPCC phải đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp của địa phương nơi cho

15



phép thành lập. Khi đăng ký hoạt động, phải có đơn đăng ký hoạt động, giấy tờ
chứng minh về trụ sở ở địa phương nơi quyết định cho phép thành lập.
Trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ các giấy tờ đăng ký
hoạt động, Sở Tư pháp cấp giấy đăng ký hoạt động cho VPCC. Trường hợp từ chối
phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người bị từ chối có quyền khiếu nại
theo quy định của pháp luật.
Kể từ ngày được cấp giấy đăng ký hoạt động, trong thời hạn ba mươi ngày,
VPCC phải đăng báo trung ương hoặc báo địa phương nơi đăng ký hoạt động trong
ba số liên tiếp về những nội dung sau: Tên gọi, địa chỉ trụ sở của VPCC; Họ, tên, số
quyết định bổ nhiệm CCV của CCV hành nghề trong VPCC; Số, ngày, tháng, năm
cấp giấy đăng ký hoạt động, nơi đăng ký hoạt động và ngày bắt đầu hoạt động. Khi
thay đổi nội dung hoạt động của VPCC, Sở Tư pháp sẽ giải quyết cấp lại giấy đăng
ký hoạt động trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
VPCC phải đăng báo về nội dung đăng ký hoạt động được cấp lại.
Đến thời điểm hiện nay (tháng 12 năm 2008) tại thành phố Hồ Chí Minh, Sở
Tư pháp thành phố đã cấp giấy đăng ký hoạt động cho tám VPCC đã được UBND
TP.HCM cấp giấy phép thành lập. Trong đó có hai VPCC hoạt động theo loại hình
CTHD, cịn lại hoạt động theo loại hình DNTN11. Thơng qua số liệu này, ta có thể
nhận thấy từ khi Luật Cơng chứng 2006 có hiệu lực ngày 01/7/2007 cho đến tháng
12/2008, tại thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có các giao dịch dân sự, thương
mại rất sơi động thì số lượng VPCC được cấp giấy phép thành lập và đăng ký hoạt
động chưa nhiều. Cơ quan có thẩm quyền cấp phép, đăng ký và các CCV có vẻ thận
trọng khi quyết định đưa VPCC vào hoạt động.
1.3.3.

Chế độ tài chính, mức thu và sử dụng phí của VPCC
VPCC có tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính bằng
nguồn thu từ kinh phí đóng góp của CCV, phí cơng chứng, thù lao cơng chứng và
các nguồn thu hợp pháp khác. VPCC phải niêm yết mức phí cơng chứng, thù lao

cơng chứng tại trụ sở của mình.VPCC phải chấp hành các quy định của pháp luật về
lao động, thuế, tài chính, thống kê và kế toán như đối với những doanh nghiệp khác
đang hoạt động kinh doanh.
Luật Công chứng 2006 quy định các khoản thu khi thực hiện công chứng
gồm ba loại thu như sau: phí cơng chứng, thù lao cơng chứng và chi phí khác.
Phí cơng chứng: Bao gồm phí cơng chứng hợp đồng, giao dịch, phí lưu giữ
di chúc, phí cấp bản sao VBCC. Người yêu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch,
lưu giữ di chúc, cấp bản sao VBCC phải nộp phí cơng chứng. Cịn thù lao cơng
chứng là số tiền mà người yêu cầu công chứng phải trả khi yêu cầu soạn thảo hợp

11

Số liệu năm 2008 tổng hợp từ Phòng Bổ trợ tư pháp, Sở Tư pháp TP.HCM.

16


đồng, giao dịch, đánh máy, sao chụp và các việc khác liên quan đến công chứng.
Mức thù lao này do tổ chức hành nghề công chứng xác định12.
Ngày 17/10/2008, Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp ban hành Thơng tư liên tịch
số 91/2008/TTLT/BTP-BTC hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử
dụng phí cơng chứng, áp dụng chung cho cả PCC và VPCC, như sau:
Phí cơng chứng được áp dụng đối với việc công chứng các hợp đồng, giao
dịch, nhận lưu giữ di chúc, cấp bản sao VBCC theo quy định của Luật công chứng
2006 và Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật cơng chứng 2006; Đối tượng nộp
phí cơng chứng là cá nhân, tổ chức Việt Nam hoặc cá nhân, tổ chức nước ngồi u
cầu cơng chứng hợp đồng, giao dịch, lưu giữ di chúc, cấp bản sao VBCC tại PCC
hoặc VPCC; Đơn vị thu phí cơng chứng bao gồm PCC và VPCC.
Mức thu phí cơng chứng quy định tại Thông tư số 91/2008/TTLT/BTP-BTC

này được áp dụng thống nhất đối với PCC và VPCC.
Mức thu phí cơng chứng hợp đồng, giao dịch được xác định theo giá trị tài
sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch hoặc không theo giá trị tài sản hoặc giá trị hợp
đồng, giao dịch mà theo loại việc cụ thể. Mức thu cao nhất đối với trường hợp xác
định theo giá trị tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch là 10.000.000 đồng/trường
hợp và thấp nhất là 100.000 đồng/trường hợp, đối với trường hợp không theo giá trị
tài sản hoặc giá trị hợp đồng, giao dịch mà theo loại việc thì mức thu cao nhất là
100.000 đồng/trường hợp và thấp nhất là 20.000 đồng/trường hợp.
Về quản lý, sử dụng phí cơng chứng đối với VPCC: Phí cơng chứng thu được
là khoản thu khơng thuộc ngân sách nhà nước. Tiền phí thu được là doanh thu của
VPCC. VPCC có nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật đối với số phí thu
được và có quyền quản lý, sử dụng số tiền thu phí sau khi đã nộp thuế theo quy định
của pháp luật. Hàng năm, VPCC phải thực hiện quyết toán thuế đối với số tiền phí
thu được với cơ quan thuế theo quy định của pháp luật về thuế hiện hành.
Thù lao công chứng: Người yêu cầu công chứng phải trả thù lao khi yêu cầu
công chứng viên của VPCC thực hiện việc soạn thảo hợp đồng, giao dịch, đánh
máy, sao chụp và các việc khác liên quan đến việc công chứng. Mức thù lao đối với
từng loại việc do VPCC xác định. VPCC phải niêm yết phí cơng chứng, thù lao
cơng chứng tại trụ sở hoạt động của mình13.
Mức thù lao công chứng do VPCC tự quyết định, tùy thuộc vào mức độ phức
tạp của công việc, vào mặt bằng chung của giá cả thị trường và sự cạnh tranh trên
thị trường. Tuy nhiên theo tác giả thì trong xu thế hạ giá thành sản phẩm và nâng
cao chất lượng phục vụ, việc quyết định mức giá thù lao quá cao không phải là xu
hướng phù hợp. Giá thành rẻ, chất lượng và cung cách phục vụ tốt, sản phẩm có giá

12
13

Theo điều 56 Luật Công chứng 2006.
Theo khoản 1 điều 32 Luật Công chứng 2006.


17


trị sử dụng cao, được công nhận và được bảo đảm về mặt pháp lý cũng như được
bảo đảm về kinh tế là xu hướng phù hợp. Mặt khác theo quy luật của thương trường
và để bảo vệ người tiêu dùng cũng như thực hiện vai trò quản lý của Nhà nước, ở
góc độ Nhà nước điều tiết và định hướng thị trường, các cơ quan có thẩm quyền nên
và cần phải ấn định về mức thu tối thiểu và mức thu tối đa của thù lao công chứng,
không nên để cho các bên tự quyết định và thỏa thuận về mức thù lao. Thông tư liên
tịch số 91/2008/TTLT/BTP-BTC không quy định mức thu tối đa hoặc tối thiểu đối
với thù lao cơng chứng, điều này có thể dẫn đến những trường hợp thu thù lao cơng
chứng q cao.
Chi phí khác liên quan đến yêu cầu công chứng: Trường hợp người yêu cầu
công chứng đề nghị xác minh, giám định hoặc thực hiện cơng chứng ngồi trụ sở
của VPCC (ví dụ như chi phí đi lại và ăn ở trong những trường hợp phải công
chứng ở những nơi xa hoặc ở nước ngồi) thì người u cầu cơng chứng phải trả chi
phí để thực hiện việc đó. Mức chi phí này do người yêu cầu công chứng và VPCC
thoả thuận. Trường hợp cần trưng cầu kết quả giám định của cơ quan chun mơn
thì phải theo mức chi phí giám định của cơ quan này để xây dựng cơ sở thu chi phí
khác tại VPCC cho phù hợp.
Hiện nay có quan điểm cho rằng mức thu phí cơng chứng theo mức thu tại
Thơng tư liên tịch số 91/2008/TTLT/BTP-BTC có mức thu tối đa 10.000.000
đồng/trường hợp là quá cao so với mức thu trước đây tại Thông tư liên tịch số
93/2001/TTLT/BTC-BTP ngày 21/11/2001 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp hướng
dẫn chế độ thu, nộp và quản lý, sử dụng phí, lệ phí cơng chứng, chứng thực áp dụng
trước đây là 2.000.000 đồng/trường hợp và hiện nay ở một số PCC ở thành phố Hồ
Chí Minh tiền phí giữ lại được sử dụng khơng hết. Theo tác giả thì quan điểm này
chỉ đúng cho một số ít trường hợp cá biệt ở một số PCC mà thôi. Thực ra trong khu
vực nhà nước, PCC có thu nhiều hay thu ít thì cũng khơng ảnh hưởng nhiều đến

hoạt động vì CCV vẫn hưởng lương từ ngân sách và chi phí hoạt động của các PCC
vẫn do ngân sách “bao cấp”.
Cũng theo tác giả với chủ trương phát triển hệ thống các VPCC như hiện nay
thì mức thu phí theo như Thơng tư số 91/2008/TTLT/BTP-BTC là tương đối phù
hợp (thậm chí là hơi thấp so với mặt bằng giá cả như hiện nay) vì ngun tắc để xác
định mức thu phí là: “Mức thu phí đối với các dịch vụ do Nhà nước đầu tư phải bảo
đảm thu hồi vốn trong thời gian hợp lý, có tính đến những chính sách của Nhà nước
trong từng thời kỳ; Mức thu phí đối với các dịch vụ do tổ chức, cá nhân đầu tư vốn
phải bảo đảm thu hồi vốn trong thời gian hợp lý, phù hợp với khả năng đóng góp của
người nộp”14. Trường hợp cá biệt một vài PCC có tổng số tiền thu phí lớn khơng có
nghĩa là tất cả các PCC và VPCC khác đều có tổng số tiền thu phí lớn. Mặt khác các
VPCC là loại hình doanh nghiệp do cá nhân bỏ vốn và đầu tư, cùng với các PCC thực
hiện chức năng và nhiệm vụ phục vụ cho nhu cầu công chứng của công dân, tổ chức
14

Theo điều 12 Pháp lệnh phí và lệ phí 2001.

18


trong xã hội, nhưng khác với PCC là kinh phí hoạt động của VPCC khơng do ngân
sách cấp, vì vậy mức thu phí phù hợp là điều rất quan trọng và cần thiết để VPCC hoạt
động, tồn tại và thu hồi vốn, do hoạt động cơng chứng tại VPCC có đặc điểm tìm kiếm
lợi nhuận và tiền phí cơng chứng thu được chính là doanh thu của VPCC.
1.4.
Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp - VPCC
1.4.1.

VPCC có các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp
Là một doanh nghiệp hoạt động trên thương trường như những doanh nghiệp

khác, VPCC cũng có những quyền và nghĩa vụ chung của doanh nghiệp nói chung
theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nói chung có các quyền theo quy định tại điều 8 Luật Doanh
nghiệp 2005 như: “Quyền tự chủ kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa
bàn, hình thức kinh doanh, đầu tư; chủ động mở rộng quy mô và ngành, nghề kinh
doanh; được Nhà nước khuyến khích, ưu đãi và tạo điều kiện thuận lợi tham gia sản
xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ cơng ích; Lựa chọn hình thức, phương thức huy
động, phân bổ và sử dụng vốn; Chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết
hợp đồng; Kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu; Tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động
theo yêu cầu kinh doanh; Chủ động ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại để nâng
cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh; Tự chủ quyết định các công việc
kinh doanh và quan hệ nội bộ; Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của doanh
nghiệp; Từ chối mọi yêu cầu cung cấp các nguồn lực không được pháp luật quy
định; Khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo; Trực tiếp
hoặc thông qua người đại diện theo uỷ quyền tham gia tố tụng theo quy định của
pháp luật và các quyền khác theo quy định của pháp luật”.
Doanh nghiệp cũng có các nghĩa vụ điều 9 của Luật Doanh nghiệp 2005:
“Hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh; bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật khi kinh
doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện; Tổ chức cơng tác kế tốn, lập và nộp
báo cáo tài chính trung thực, chính xác, đúng thời hạn theo quy định của pháp luật
về kế toán; Đăng ký mã số thuế, kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài
chính khác theo quy định của pháp luật; Bảo đảm quyền, lợi ích của người lao động
theo quy định của pháp luật về lao động; thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế và bảo hiểm khác cho người lao động theo quy định của pháp luật về bảo
hiểm; Bảo đảm và chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá, dịch vụ theo tiêu chuẩn
đã đăng ký hoặc công bố; Thực hiện chế độ thống kê theo quy định của pháp luật về
thống kê; định kỳ báo cáo đầy đủ các thơng tin về doanh nghiệp, tình hình tài chính
của doanh nghiệp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo mẫu quy định; khi phát
hiện các thông tin đã kê khai hoặc báo cáo thiếu chính xác, chưa đầy đủ thì phải kịp

thời sửa đổi, bổ sung các thơng tin đó; Tn thủ quy định của pháp luật về quốc
phịng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ tài ngun, mơi trường, bảo vệ di tích

19


×