Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Điều tra và bảo mật thông tin theo pháp luật việt nam về chống trợ cấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (825.35 KB, 82 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN TÚ

ĐIỀU TRA VÀ BẢO MẬT THƠNG TIN THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ CHỐNG TRỢ CẤP

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế. Mã số: 60.38.50

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Như Phát

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2008


2


3

LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu và thông tin nêu trong
luận văn là trung thực; các dữ liệu, luận điểm
được trích dẫn đầy đủ, nếu khơng thuộc ý tưởng
hoặc kết quả tổng hợp của chính bản thân tơi.
Tác giả


Nguyễn Tú


4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. AOA: Hiệp định về Nơng nghiệp
2. APO: Lệnh bảo vệ hành chính
3. ASEAN: Hiệp hội các nước Đông Nam Á
4. ASEAM: Diễn đàn hợp tác Á-Âu
5. APEC: Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương
6. BPI: Thơng tin có giá trị thương mại
7. CBI: Thông tin thương mại mật
8. DOC: Bộ Thương mại Hoa Kỳ
9. EU: Liên minh Châu âu
10. GATT: Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
11. ITC: Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ
12. OECD: Tổ chức về hợp tác và phát triển kinh tế
13. QATS: Hiệp định về dịch vụ
14. TRAO: Văn phòng trợ giúp thương mại của ITC
15. SCM: Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng
16. HS: Mã số hàng hóa
17. UBTVQH: Ủy ban thường vụ Quốc Hội
18. USD: Đô la Mỹ
19. WTO: Tổ chức Thương mại Thế giới


5


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU

Trang
1

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỢ CẤP VÀ CHỐNG
TRỢ CẤP TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

7

7

1.2.1
1.2.2

Những vấn đề lý luận về trợ cấp hàng hoá nhập khẩu trong
thương mại quốc tế
Khái niệm về trợ cấp trong thương mại quốc tế
Bản chất và mục đích của trợ cấp trong thương mại quốc tế
Tác động của trợ cấp trong nước
Tác động của trợ cấp xuất khẩu
Phân loại trợ cấp
Trợ cấp chung và trợ cấp riêng
Trợ cấp nông nghiệp và trợ cấp phi nông nghiệp
Trợ cấp trong nước và trợ cấp xuất khẩu
Trợ cấp bị cấm, trợ cấp có thể dẫn tới hành động và trợ cấp
không dẫn tới hành động

Trợ cấp trực tiếp và trợ cấp gián tiếp
Trợ cấp hiển thị và trợ cấp không hiển thị
Điều chỉnh pháp luật về chống trợ cấp
Các văn bản pháp lý điều chỉnh trực tiếp
Các văn bản pháp lý hỗ trợ
Mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và quy định của Tổ
chức thương mại thế giới trong lĩnh vực chống trợ cấp
Hoạt động chống trợ cấp trong thương mại quốc tế
Các cam kết của Việt Nam về chống trợ cấp trong hoạt
động thương mại quốc tế
Vai trò và mục tiêu của việc bảo mật thơng tin trong q
trình điều tra chống trợ cấp
Vai trị của bảo mật thơng tin trong điều tra chống trợ cấp
Mục tiêu của bảo mật thông tin trong điều tra chống trợ cấp

2.1

Chương 2
ĐIỀU TRA VÀ BẢO MẬT THÔNG TIN THEO PHÁP
LUẬT CHỐNG TRỢ CẤP CỦA VIỆT NAM
Điều kiện và thủ tục điều tra áp dụng thuế chống trợ cấp

1.1
1.1.1
1.1.2
1.1.2.1
1.1.2.2
1.1.3
1.1.3.1
1.1.3.2

1.1.3.3
1.1.3.4
1.1.3.5
1.1.3.6
1.1.4
1.1.4.1
1.1.4.2
1.1.5
1.1.5.1
1.1.5.2
1.2

7
11
11
13
16
16
17
17
18
19
20
21
21
21
22
22
24
26

26
27
29

29


6

2.1.1
2.1.1.1
2.1.1.2
2.1.1.3
2.1.1.4
2.1.2
2.1.2.1
2.1.2.2
2.2
2.2.1
2.2.1.1
2.2.1.2
2.2.2
2.2.2.1
2.2.2.2
2.2.2.3
2.2.2.4
2.2.2.5
2.2.2.6
2.2.2.7
2.2.3

2.2.3.1
2.2.3.2
2.2.3.3
2.2.3.4
2.3

2.3.1
2.3.1.1
2.3.1.2
2.3.2
2.3.2.1
2.3.2.2

Xác định thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước
Khái niệm về sản phẩm tương tự
Khái niệm về ngành sản xuất trong nước
Khái niệm về thiệt hại của ngành sản xuất trong nước
Xác định thiệt hại vật chất đối với ngành sản xuất trong
nước
Mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được trợ cấp và
thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất trong nước
Ảnh hưởng của khối lượng hàng hoá nhập khẩu được trợ
cấp
Ảnh hưởng về giá cả của hàng hoá nhập khẩu được trợ cấp
Thủ tục điều tra và bảo mật thông tin
Các quy định về hồ sơ vụ kiện
Các thông tin cần thiết trong hồ sơ khởi kiện
Tính đại diện của đơn kiện
Q trình điều tra
Các bên liên quan rong quá trình điều tra

Nộp hồ sơ đề nghị điều tra và bắt đầu điều tra
Kết luận điều tra sơ bộ
Điều tra thực tế tại cơ sở
Kết luận điều tra cuối cùng
Áp dụng thuế chống trợ cấp
Khiếu nại, khởi kiện
Bảo mật thông tin trong điều tra chống trợ cấp theo pháp
luật Việt Nam
Những loại thông tin được bảo mật
Thủ tục bảo mật thông tin
Tiếp cận thông tin mật
Hình thức xử phạt khi tiết lộ thơng tin mật
Một số nhận xét và kiến nghị hoàn thiện pháp luật của Việt
Nam về điều tra và bảo mật thông tin trong lĩnh vực chống
trợ cấp
Thực trạng pháp luật và nhu cầu hoàn thiện pháp luật của
Việt Nam
Về thủ tục điều tra
Về bảo mật thơng tin
Phương hướng hồn thiện pháp luật về điều tra và bảo mật
thơng tin
Hồn thiện pháp luật phù hợp với hội nhập kinh tế quốc tế
Hoàn thiện pháp luật phải đặt trong bối cảnh tương đồng

29
30
31
33
34
37

39
40
41
41
41
43
44
44
47
48
50
50
52
53
54
54
56
57
60
62

62
62
63
63
63
64


7


với các quy định pháp luật và các thiết chế liên quan
2.3.3
Một số giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý về điều tra và
bảo mật thông tin trong quá trình điều tra chống trợ cấp tại
Việt Nam
2.3.3.1 Hồn thiện các quy định về cơ chế điều tra chống trợ cấp
2.3.3.2 Hồn thiện các quy định về bảo mật thơng tin
2.3.3.3 Nâng cao nhận thức cho các cơ quan nhà nước, các doanh
nghiệp, các hiệp hội ngành nghề và hiệp hội bảo vệ người
tiêu dung
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

64

65
67
68

70


8

LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, theo lộ trình đã cam kết
Việt Nam phải thực hiện các điều khoản loại bỏ trợ cấp, nếu không sẽ bị nước
nhập khẩu áp dụng các biện pháp chống trợ cấp. Các biện pháp chống trợ cấp

tương tự như chống bán phá giá mà theo đó, nước nhập khẩu cũng thường sử
dụng biện pháp đánh thuế chống trợ cấp, còn gọi là “thuế đối kháng”. Nếu
nước nhập khẩu chứng minh là lượng hàng hoá vào thị trường của họ tăng
nhanh do được trợ cấp từ nước xuất khẩu, thì họ sẽ áp đặt một mức thuế đủ để
làm mất sức cạnh tranh của hàng nhập khẩu, giúp loại bỏ đối thủ cạnh tranh
mạnh đối với các nhà sản xuất kinh doanh trong nước.
Thuế chống trợ cấp thường tập trung trong một số ngành nhất định:
Ngành có cơng nghệ thấp; Ngành sản xuất những sản phẩm có lợi thế cạnh
tranh (hàng nơng sản, hàng dệt may, sản phẩm của ngành công nghiệp dựa
trên lợi thế tự nhiên...); Sản phẩm sắt thép. Đối với hầu hết những sản phẩm
Nơng nghiệp, Việt Nam ít có nguy cơ bị áp đặt thuế chống trợ cấp trong
tương lai gần, bởi vì sau khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới chúng ta
cam kết cắt giảm hỗ trợ sản xuất trong nước và trợ cấp xuất khẩu theo lộ
trình. Tuy nhiên, các sản phẩm như gạo, cà phê của Việt Nam là những mặt
hàng có sản lượng xuất khẩu hàng đầu trên thế giới, do vậy sẽ là đối tượng bị
các nước chú ý và sẽ bị đánh thuế chống trợ cấp nếu gây thiệt hại cho ngành
sản xuất của nước nhập khẩu. Còn đối với những sản phẩm phi nơng nghiệp
thì nguy cơ bị kiện chống trợ cấp là khơng nhỏ, những chính sách của chính
phủ ưu đãi về tín dụng, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, hoàn thuế
xuất khẩu, miễn thuế nhập khẩu linh kiện, hỗ trợ vay vốn ngân hàng cho các
ngành công nghiệp trong nước, (việc chính phủ Việt Nam hỗ trợ cho công ty
Vinashin 750 triệu USD từ việc huy động trái phiếu chính phủ là một ví dụ)
Mặt khác, Việt Nam cũng có thể áp dụng các biện pháp chống trợ cấp
tại thị trường của mình. Những mặt hàng cụ thể như: Sắt thép, tình hình trợ
cấp cho ngành thép trên thế gới rất phổ biến (ví dụ như Hàn Quốc khoanh nợ
cho công ty thép Kangwon sau khủng hoảng tài chính năm 1997; Indonesia
trợ cấp cho các nhà máy sản xuất thép thông qua việc cấp vốn ưu đãi để xây
dựng các nhà máy thép, như công ty CRMI năm 1988, 1998, 1999…). Vì thế,
trong những năm gần đây ngành thép non trẻ của Việt Nam đã phải cạnh
tranh gay gắt với hàng nhập khẩu giá rẻ, đặc biệt là thép xây dựng và các loại

ống thép từ các nước Thái Lan và Trung Quốc. Ngoài ra một số sản phẩm
khác như: gạo nhập khẩu từ Thái Lan, tàu biển từ Hàn Quốc và EU…Như
vậy, trong một vài năm nữa, khi hàng rào thuế quan giảm dần theo lộ trình thì
một số ngành sản xuất trong nước sẽ rất khó khăn trong việc cạnh tranh với
sản phẩm nhập khẩu được trợ cấp từ nước xuất khẩu.


9

Để chứng minh hàng nhập khẩu đã được hưởng trợ cấp từ chính phủ
nước xuất khẩu thì khơng hề đơn giản, nhất là hiện nay trợ cấp được thực hiện
dưới rất nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta có thể tìm hiểu thơng
tin về trợ cấp của các quốc gia thông qua các thông tin về trợ cấp của quốc
gia đó, các thơng tin từ các cơ quan về quản lý nước ngoài về trợ cấp về thuế
chống trợ cấp (ví dụ: Bộ Thương mại Hoa Kỳ có địa chỉ internet
www.ita.doc.gov, cơng bố các chương trình trợ cấp của nước ngồi khá đầy
đủ và có thể sử dụng được vì đã được phân loại tương đối kỹ) và các nguồn
thông tin từ cơ sở dữ liệu của tổ chức thương mại thế giới và các tổ chức quốc
tế khác như Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới, v.v…
Hiện nay, Việt Nam chưa có một vụ kiện nào về chống trợ cấp, kể cả
với tư cách là nguyên đơn hay là bị đơn. Nhưng, trong tương lai chúng ta
cũng không thể tránh khỏi việc bị kiện để áp đặt thuế chống trợ cấp từ các
quốc gia nhập khẩu sản phẩm của Việt Nam. Mặt khác, các sản phẩm nhập
khẩu từ nước ngoài vào Việt Nam cũng đã có những dấu hiệu cho thấy có
hiện tượng được trợ cấp từ chính phủ của nước xuất khẩu, điều này đã ảnh
hướng rất lớn tới các doanh nghiệp và người lao động Việt Nam. Vì thế, việc
nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm của pháp luật các nước để đối phó với các
vụ kiện chống trợ cấp là vơ cùng quan trọng và hữu ích đối với chúng ta.
Trong các vụ kiện chống trợ cấp thì một trong những vấn đề quan trọng
là cung cấp thông tin và bảo mật thông tin. Đây được coi là yếu tố rất quan

trọng, là bằng chứng hay “chứng cứ” quan trọng trong mỗi vụ kiện mà pháp
luật cần quan tâm điều chỉnh. Mặt khác, theo yêu cầu của thủ tục tố tụng, bên
kiện cũng như bên bị kiện đều có nghĩa vụ chứng minh yêu cầu của mình. Vì
vậy, vấn đề đặt ra là xác định biên giới giữa nghĩa vụ thông tin và khả năng
bảo mật thông tin của doanh nghiệp trong khi thơng tin là “điều kiện sống
cịn” của mỗi doanh nghiệp. Đây là những vấn đề cần đến sự điều chỉnh của
pháp luật. Trong khi đó, pháp luật của Việt Nam về vấn đề này nhìn chung
cịn chưa đáp ứng yêu cầu.
Trên tinh thần đó, để giúp cho sự điều chỉnh pháp luật của Việt Nam về
vấn đề này được hoàn thiện hơn nữa, điều cần thiết là phải nghiên cứu một
cách toàn diện lý luận cơ bản điều tra và vấn đề bảo mật thơng tin trong q
trình điều tra theo pháp luật Việt Nam cũng như kinh nghiệm của một số nước
trên thế giới, từ đó đặt ra các định hướng hoàn thiện pháp luật cũng như giúp
các doanh nghiệp ý thức được việc xử lý các thông tin có giá trị thương mại
của mình….
2. Tình hình nghiên cứu về đề tài
Thuế chống trợ cấp xuất hiện ở trên thế giới rất sớm (từ những năm
1890), trong khi đó ở Việt Nam thì mãi đến năm 2004 mới ban hành văn bản
pháp luật đầu tiên về chống trợ cấp. Vì thế, có thể nói chống trợ cấp là một


10

lĩnh vực khá mới trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Hiện nay, đã có một số cơng trình nghiên cứu đến pháp luật về chống
trợ cấp liên quan đến các quy định của Tổ chức thương mại thế giới, cụ thể
như: i) Luật thương mại quốc tế; những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác
giả Raj Bhala, nhà xuất bản Tư pháp 2006, cơng trình khoa học này tác giả
nghiên cứu những vấn đề cơ bản của thương mại quốc tế cũng như những vấn
đề lý luận cũng như thực tiễn của các hoạt động thương mại quốc tế; ii) “Trợ

cấp và các biện pháp đối kháng theo quy định của WTO” của tác giả Nguyễn
Thị Hải Yến, cơng trình khoa học này tác giả đã nghiên cứu lý luận cơ bản về
trợ cấp cũng như các biện pháp đối kháng theo quy định của Hiệp định về
chống trợ cấp và đối kháng. Tuy nhiên, tác giả chưa nghiên cứu chuyên sâu
về một quy định cụ thể nào theo quy định của Hiệp định về chống trợ cấp….
về chống trợ cấp.v.v…và những cơng trình khoa học nghiên cứu đến chính
sách trợ cấp của Việt Nam, như iii) “điều chỉnh chính sách thuế và trợ cấp
sau khi gia nhập WTO” của tác giả Nguyễn Xn Trình, cơng trình khoa học
của tác giả này đã phân tích khá sâu về lĩnh vực thuế quan và phương pháp
điều chỉnh các chính sách thuế cũng như các biện pháp điều chỉnh trợ cấp sau
khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, nhằm đưa ra lộ trình
điều chỉnh về thuế và trợ cấp cho phù hợp với các quy định của và các cam
kết sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức này; iv) “Việt Nam gia nhập WTO:
phân tích thuế quan, ngành và trợ cấp” của nhóm tác giả Montague Lord,
Malcolm Bosworth, cũng tương tự như vậy, cơng tình này cũng tập trung
nghiên cứu và phân tích khá sâu về thuế quan, về các ngành và vấn đề trợ cấp
để từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp trong việc điều chỉnh thuế và việc
trợ cấp cho phù hợp với cam kết quốc tế.
Về đề tài cao học luật, có đề tài “ Nghiên cứu đề xuất các giải pháp góp
phần hồn thiện pháp luật chống trợ cấp hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam
sau khi gia nhập WTO” của tác giả Phan Đặng Hiếu Thuận. Tuy nhiên, đề tài
này cũng đang nằm trong giai đoạn nghiên cứu.
Nhìn chung, đến nay đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu về lĩnh vực trợ
cấp và các chính sách thuế liên quan, cũng như vấn đề lý luận của thương mại
quốc tế, có những cơng trình nghiên cứu một cách tồn diện các vấn đề lý
luận, có những cơng trình đi sâu vào lĩnh vực thuế chống trợ cấp.v.v…Tuy
nhiên, đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu đi sâu về đề tài mà tác giả
đã nêu.
Qua tìm hiểu, tác giả thấy rằng đề tài mà tác giả chọn để nghiên cứu là
khá chuyên sâu và có ý nghĩa quan trọng về lý luận cũng như thực tiễn trong

quá trình điều tra và các quy định về bảo mật thông tin trong q trình điều tra
chống trợ cấp hàng hố nhập khẩu. Vì thế, việc chọn đề tài này để làm luận
văn cao học là cần thiết, luận văn sẽ tìm ra phương thức tiếp cận mới về trợ


11

cấp và chống trợ cấp trong lĩnh vực thương mại hàng hoá.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cơ sở lý luận, cũng như thực tiễn về
điều tra chống trợ cấp và nghĩa vụ bảo mật thơng tin trong q trình điều tra
chống trợ cấp, trên cơ sở đó nhằm hồn thiện pháp luật và giúp đỡ các doanh
nghiệp tự bảo vệ được những thơng tin có giá trị thương mại của mình cũng
như những thơng tin bí mật của nhà nước.
Luận văn giới hạn ở nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản,
phân tích các quy định pháp luật về điều tra và bảo mật thông tin trong q
trình điều tra để từ đó đưa ra kiến nghị để hồn thiện pháp luật về chống trợ
cấp nói chung cũng như trong giai đoạn điều tra và bảo mật thơng tin trong
điều tra chống trợ cấp hàng hố nhập khẩu nói riêng.
Theo đó, Luận văn đưa ra một số khái niệm cơ bản có liên quan đến trợ
cấp. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu luận văn tập trung chủ yếu vào
nghiên cứu về điều tra và quy định về bảo mật thông tin của WTO và kinh
nghiệm của một số các quốc gia trên thế giới. Trên cơ sở đó luận văn nghiên
cứu thủ tục điều tra và bảo mật thơng tin trong q trình điều tra của pháp luật
Việt Nam. Các nội dung nghiên cứu được phân tích trên cơ sở so sánh với các
quy định về điều tra cũng như vấn đề bảo mật thông tin theo quy định của
pháp luật chống trợ cấp hàng hoá nhập khẩu của WTO và các nước…
Trên cơ sở đó, luận văn giải thích và phân tích rõ để các doanh nghiệp
hiểu được những việc cần phải làm khi tham gia vụ kiện. Đối với những vụ
kiện với tư cách là bị đơn, các doanh nghiệp Việt Nam biết được các quy định

thủ tục điều tra và cách bảo mật thông tin của WTO và một số quốc gia mà
các doanh nghiệp có nguy cơ cao bị kiện, để từ đó cung cấp các thơng tin kịp
thời cho cơ quan điều tra nhưng đồng thời cũng bảo vệ được những thơng tin
mà mình đã cung cấp, nhằm tránh lọt vào tay đối thủ cạnh tranh. Thông
thường khi tham gia vào vụ kiện ở nước ngoài, các doanh nghiệp rất e ngại
khi cung cấp những thông tin mà họ cho là bí mật, có giá trị thương mại. Tuy
nhiên, những thơng tin này có nhiều khi là rất quan trọng, có thể quyết định
về bản chất của vụ kiện, nếu không cung cấp kịp thời thì sẽ bất lợi cho mình,
cịn nếu cung cấp mà không biết thủ thục yêu cầu bảo vệ thơng tin thì cũng có
thể gây thiệt hại vô cùng to lớn. Mặt khác, đối với những vụ kiện với tư cách
là nguyên đơn, giúp các doanh nghiệp hiểu rõ hơn những quy định của pháp
luật về chống trợ cấp của Việt Nam, để từ đó chủ động hơn trong việc tham
gia vào việc khởi kiện cũng như hợp tác với cơ quan điều tra trong các vụ
kiện chống trợ cấp, nhằm mang lại sự cạnh tranh lành mạnh cho thị trường
trong nước.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu, phân tích trên cơ sở lý luận của học thuyết


12

Mác-Lê Nin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phương pháp lịch sử,
phân tích, logíc, tổng hợp, so sánh, chứng minh…cũng được sử dụng hợp lý
xuyên suốt quá trình nghiên cứu.
Xuất phát từ một thực tiễn là, pháp luật của Việt Nam về vấn đề này
còn rất sơ khai, trong khi thực tiễn pháp lý lại rất phức tạp. Vì vậy, trong quá
trình thực hiện luận văn này, tác giả đã đặc biệt sử dụng phương pháp so sánh,
lấy kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của WTO và của Hoa kỳ (nước hay sử
dụng công cụ này trong thương mại quốc tế) là chủ yếu để tìm hiểu vấn đề.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn nghiên cứu tương đối đầy đủ các vấn đề lý
luận về khoa học pháp lý trong thương mại quốc tế cũng như thực trạng pháp
luật của Việt Nam trong hoạt động chống trợ cấp đối với hàng hoá nhập khẩu.
Phân tích đầy đủ các quan điểm khoa học liên quan đến chống trợ cấp và các
biện pháp chống trợ cấp.
Những nội dung và kết quả nghiên cứu có thể được dùng để làm tài liệu
tham khảo cho các doanh nghiệp, cho các cán bộ thực thi pháp luật và những
người cần quan tâm.
Những kiến nghị được nêu trong luận văn có những ý nghĩa nhất định
trong việc hồn thiện pháp luật về chống trợ cấp cũng như góp phần hiệu quả
trong quá trình thực thi pháp luật, đồng thời giúp đỡ các doanh nghiệp có các
biện pháp để bảo vệ mình khi bị cạnh tranh khơng lành mạnh từ hàng hoá
nhập khẩu được trợ cấp.
6. Kết cấu của luận văn
Xuất phát từ mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài, Luận văn có cơ
cấu gồm ngồi lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo là 02
chương nội dung chính là:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về trợ cấp và chống trợ cấp trong
Thương mại quốc tế.
- Chương 2: Điều tra và bảo mật thông tin theo pháp luật chống trợ cấp
Việt Nam.
*******
Luận văn này được hoàn thành ngoài sự nỗ lực của bản thân, tác giả
còn nhận được sự chỉ bảo tận tình của Thầy giáo, PGS. TS Nguyễn Như Phát
và các thầy, cô giáo ở trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; Viện
nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật trong suốt khoá học.
Mặc dù tác giả đã nỗ lực hết mình để hồn thành luận văn này một cách
tốt nhất. Tuy nhiên, đây là lĩnh vực nghiên cứu mới, rộng và tương đối khó
khăn trong khi tiếp cận nên Luận văn không tránh khỏi những sơ suất hoặc



13

hạn chế. Ngồi ra, trong q trình nghiên cứu tác giả có sử dụng khá nhiều tài
liệu bằng tiếng Anh. Do vậy, có thể có một số thuật ngữ chuyên môn cũng
như một số câu chữ chưa được sát nghĩa. Vì thế, tác giả rất mong nhận được
sự chỉ bảo của các Thầy, Cô và các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn.


14

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỢ CẤP VÀ CHỐNG TRỢ CẤP
TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỢ CẤP HÀNG HÓA NHẬP
KHẨU TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1.1.1 Khái niệm về trợ cấp trong thương mại quốc tế
Trợ cấp là một cơng cụ chính sách được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở
hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhằm đạt các mục tiêu của chính phủ về
kinh tế, chính trị, xã hội.v.v…Tuy nhiên, để đi đến một khái niệm tương đối
chính xác và thống nhất về trợ cấp là một chủ đề gây tranh cãi rất nhiều,
không chỉ giữa các nhà khoa học mà còn giữa các quốc gia. Một vấn đề nữa
cũng gây tranh cãi không kém là làm sao để phân biệt được giữa các hình
thức trợ cấp gây bóp méo thương mại, hay là xác định: những trợ cấp nào
không được chấp nhận trong thương mại quốc tế?.
Trợ cấp có thể được hiểu theo nghĩa rộng hoặc theo nghĩa hẹp. Chẳng
hạn, theo nghĩa hẹp trợ cấp có thể chỉ được hiểu đơn thuần là biện pháp cấp
tiền trực tiếp cho một số ngành hoặc một số doanh nghiệp cụ thể, nhằm tạo
điều kiện cho ngành đó hoặc những doanh nghiệp đó có được lợi thế nhất

định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tuy nhiên, theo cách
hiểu này thì trợ cấp sẽ khơng được hiểu một cách đầy đủ. Trong thực tế, hoạt
động trợ cấp rất đa dạng, có nhiều hình thức trợ cấp khác có ảnh hưởng về
mặt kinh tế tương đương với biện pháp cấp tiền trực tiếp này, do đó có thể
gây khó khăn hoặc nhầm lẫn trong việc so sánh mức trợ cấp giữa các nước
khác nhau.v.v…Mặt khác, nếu trợ cấp được hiểu theo nghĩa rộng lại có những
điểm yếu riêng như bao trùm cả ảnh hưởng do các hoạt động của chính phủ
vào phạm vi định nghĩa, dẫn tới việc đánh đồng nhiều hoạt động bình thường
của chính phủ cũng mang tính chất của một biện pháp trợ cấp. Ví dụ như bảo
hiểm thất nghiệp có thề bị coi là trợ cấp gián tiếp cho một ngành nghề nhất
định mang tính thời vụ hoặc chu kỳ, hay chi phí của chính phủ cho các hàng
hóa cơng cộng như tư pháp, an ninh, giáo dục, đường sá, quốc
phịng.v.v…cũng có thể bị cho là trợ cấp.
Theo định nghĩa của Từ điển Oxford dành cho giới kinh doanh (Nhà
xuất bản Đại học Oxford 1994): Trợ cấp là khoản tiền do nhà nước cấp cho
các nhà sản xuất một số hàng hóa nhất định để giúp họ có thể bán những
hàng hóa đó cho dân chúng với giá thấp, để cạnh tranh với các nhà sản xuất
nước ngoài, để tránh hàng tồn đọng thừa ế và tránh tạo ra thất
nghiệp.v.v…Nhìn chung, trợ cấp gây bóp méo thương mại quốc tế và không
phố biến nhưng đôi khi vẫn được chính phủ sử dụng để tạo dựng hoặc bảo hộ
một ngành sản xuất mới trong nước. Từ điển Bách khoa toàn thư Columbia1
1

Từ điển bách khoa toàn thư Columbia, ấn bản lần thứ sáu, 2001 của nhà sách trường đại học columbia.


15

lại định nghĩa rằng Trợ cấp là sự hỗ trợ tài chính mà chính phủ …dành cho
một người hoặc một hiệp hội với mục đích thúc đẩy một doanh nghiệp được

cho là có lợi cho phúc lợi cơng cộng …Trợ cấp có thể nhằm giữ cho giá ở
mức thấp, để duy trì thu nhập hoặc cơng ăn việc làm. Cịn Từ điển Ngôn ngữ
tiếng Anh American Heritage2 đưa ra hai định nghĩa cho thuật ngữ, trợ cấp
(subsidy) là: (i)Hỗ trợ dưới dạng tiền do một chính phủ dành cho một người
hoặc mơt nhóm để hỗ trợ mơt doanh nghiệp được coi là đang phục vụ lợi ích
cơng cộng; và (ii) Hỗ trợ tài chính do một người hoặc một chính phủ dành
cho một đối tượng khác.
Trong khi đó, một số các nhà kinh tế thì định nghĩa về trợ cấp khá đơn
giản. Chắng hạn Roger & Row, 1986 khi xem xét mối quan hệ giữa trợ cấp
với độ co giãn cung cầu đã định nghĩa rằng trợ cấp là: Một khoản tiền mà
chính phủ trả cho nhà cung cấp tính theo mỗi đơn vị hàng hóa được sản xuất
và trợ cấp thường có tác động làm cho giá hàng hóa liên quan giảm xuống và
lượng cung cấp hàng hóa tăng lên; mức độ giám giá và tăng lượng phụ thuộc
vào độ co giãn của đường cung và cầu tương ứng…
Cũng có học giả nhìn nhận trợ cấp là: sự can thiệp vào quá trình định
giá của thị trường tự do và làm sai lệch các lợi thế so sánh của các đối tượng
tham gia thị trường. Trợ cấp tạo ra sự chênh lệch giữa chi phí cần thiết để
sán xuất hàng hóa với chi phí thực tế mà nhà sản xuất phải bỏ ra. Sản phẩm
được trợ cấp trở nên rẻ hơn trong khi các sản phẩm cạnh tranh sẽ đắt hơn
một cách giả tạo3.
Đơn giản nhất, một số học giả đưa ra khái niệm: Trợ cấp là những
khoản tiền do chính phủ cấp hoặc miễn khơng thu. Tuy nhiên, cùng với q
trình phát triển của các cơng cụ chính sách, khái niệm trợ cấp được một số
nhà nghiên cứu mở rộng sang bao trùm cả những chính sách làm chuyển của
cải từ đối tượng này sang đối tượng khác (transfer) thơng qua cơ chế thị
trường. Để phân tích chính sách can thiệp của chính phủ, một định nghĩa mở
rộng khác được đưa ra như sau: Trợ cấp bao gồm tất cả các biện pháp giữ
cho giá đối với người tiêu dùng ở dưới mức giá trị thị trường hoặc giữ cho
giá đối với nhà sản xuất cao hơn mức giá thị trường hoặc các biện pháp làm
giám giá chi phí đối với người tiêu dùng và nhà sản xuất bằng cách cung cấp

hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp4. Định nghĩa này có hai yếu tố quan trọng, đó
là phân biệt giữa việc điều chuyển qua ngân sách (budgetary transfers) với
điều chuyển qua thị trường (market transfers) và phân biệt giữa hỗ trợ cho sản
xuất với trợ cấp cho người tiêu dùng. Căn cứ vào định nghĩa này, trợ cấp bao
2

Từ điển ngôn ngữ tiếng anh American Heritage, ấn bản lần thứ tư, năm 2000 của NXB Houghton.
Quy định điều chỉnh các trợ cấp tác động tới thương mại quốc tế, Warren F. Schwartz & Eugene W.,Harper,
Jr 1972.
4
Tài liệu Perverse Incentives: Subsidies and Substainable Development, trích từ địa chỉ
www.eucouncil.ac.cr/rio/focus/report/english/subsidies/chap2.htm
3


16

gồm các biện pháp như sau:
Thứ nhất, trợ cấp từ ngân sách: (i) Trợ cấp trực tiếp như các khoản cấp
phát, chuyển tiền cho người tiêu dùng hoặc nhà sản xuất; (ii) Tác động của
chính sách thuế đến ngân sách như ưu đãi thuế, miến giám thuế, khấu trừ hoặc
loại một số khoản trong căn cứ chịu thuế cho nộp chậm thuế.
Thứ hai, cung cấp hàng hóa và dịch vụ dưới giá thành cho người dân:
Cung cấp cơ sở hạ tầng, dịch vụ bổ trợ, chi phí nghiên cứu và phát triển
(R&D) của chính phủ.
Thứ ba, Trợ cấp chi phí vốn: Cho vay ưu đãi, bão lãnh vay hay bão
lãnh trách nhiệm thanh tốn.
Thứ tư, Các chính sách điều chuyển của cải thơng qua cơ chế thi
trường: (i) Các chính sách định hướng cho thị trường trong nước như quy
định quản lý giá, kiểm sốt chất lượng, chính sách và quy định về mua sắm

chính phủ, thủ tục đấu thầu hạn chế; (ii) Các chính sách định hướng thương
mại quốc tế như thuế quan xuất nhập khẩu, hoàn thu xuất khấu, các hàng rào
phi thuế quan.5
Có thể nói khái niệm về trợ cấp trên đây khá rộng, bao gồm cả những
khoản trợ cấp không được thống kê trong ngân sách của chính phủ, chẳng hạn
như: trợ cấp chi phí vốn (trừ những khoản cấp phát vốn trực tiếp từ ngân
sách) không hề xuất hiện trong bất kỳ khoản mục ngân sách nào của chính
phủ, và rất khác với các hình thức chuyển khoản trực tiếp. Trợ cấp này chẳng
qua xuất phát từ những chính sách làm giảm chi phí vốn hay gánh nặng tài
chính đối với đối tượng liên quan.
Về cơ bản, khái niệm này tương đối giống với khái niệm được sử dụng
phổ biến hiện nay trong Hiệp định về Trợ cấp và Các biện pháp đối kháng của
WTO (Hiệp định SCM ). Theo đó, một biện pháp được coi là trợ cấp nếu thỏa
mãn đúng hai điều kiện sau:
Thứ nhất, Là một khoản đóng góp về tài chính6 do chính phủ hoặc một
tổ chức nhà nước/cơng (public body) cung cấp; Hoặc là một khoản hỗ trợ thu
nhập hoặc hỗ trợ giá7; và
5

Nguồn: Nghiên cứu của OECD và Shelby (1994)
Đóng góp về tài chính được thể hiện dưới hình thức Chính phủ trực tiếp đứng ra thực hiện hoặc ủy thác hay
chỉ đạo một tổ chức tư nhân thực hiện một hoặc một số hoạt động như: Chuyến tiền / vốn trực tiếp (Cấp phát,
cho vay, tham gia góp vốn); Chuyển tiền/ vốn gián tiếp ( bảo lãnh vay); Miễn hoặc không thu các khoản đáng
lẽ phải thu (Miễn giảm thuế ); Cung cấp hàng hóa, dịch vụ ( trừ cơ sở hạ từng nói chung ); Mua sắm hàng
hóa .
7
“Hỗ trợ thu nhập và hỗ trợ giá thường khơng liên quan tới sự chuyển tiền/ vốn từ chính phủ tới nhà sản
xuất mà lại là sự chuyển tiền từ người tiêu dùng tới nhà sản xuất thông qua việc chính phủ duy trì ấn định
một mức giá nhất định buộc người tiêu dùng phải trả giá cao hơn mức đáng ra phải trả trong một thị trường
tự do nhằm đem lại thuận lợi cho nhà sản xuất. Mặc dù có thể khơng xuất hiện bất kỳ sự đóng góp tài chính

trực tiếp nào từ phía chính phủ trong các chương trình này thì các hỗ trợ thu nhập và hỗ trợ giá vẫn bị coi là
thuộc phạm vi định nghĩa trợ cấp theo điều 1 của Hiệp định SCM”. Trích tài liệu the new rules of global
trade: a guide to the world trade organization của jefferey S. Thomas & Micheal A Meyer, Carswell
6


17

Thứ hai, Mang lại lợi ích cho đối tượng nhận trợ cấp8.
Như vậy, trợ cấp của chính phủ là một công cụ trực tiếp tái phân phối
nguồn thu ngân sách của chính phủ cho một số đối tượng. Trợ cấp có thể dưới
dạng cho vay, xóa nợ, hỗn hoặc miễn thuế. Trong một số trường hợp khác,
chính phủ khơng nhất thiết phải trích từ nguồn ngân sách của mình để trợ cấp
mà có thể thơng qua cơng cụ luật pháp để hướng nguồn lực từ nhóm đối
tượng này chuyển sang cho nhóm đối tượng khác, cụ thể ở đây là làm lợi cho
nhà sản xuất bằng tiền từ túi người tiêu dùng thông qua việc hỗ trợ giá.
Do các quy định của WTO về trợ cấp và các biện pháp đối kháng9 là
khung pháp lý đa phương dành cho các thành viên của WTO, áp dụng và làm
căn cứ cho nguồn nội luật của các quốc gia thành viên. Nghiên cứu này sẽ
thống nhất sử dụng các khái niệm và định nghĩa trong Hiệp định SCM của
WTO làm cơ sở nền tảng cho các phân tích và lập luận về sau. Đồng thời, đề
tài dựa trên một số giả thiết là:
- Đối tượng hưởng lợi ích của trợ cấp là nhà sản xuất/ xuất khẩu hàng
hóa chứ khơng phải là người tiêu dùng.
- Lợi ích mà một đối tượng nhận trợ cấp được hưởng từ khoản trợ cấp
được phân tích dưới góc độ điều tra của nước nhập khẩu để đánh thuế chống
trợ cấp.
- Các nội dung nghiên cứu của đề tài được xem xét trong bối cảnh điều
tra để đánh thuế chống trợ cấp và bảo mật thông tin trong quá trình điều tra.
- Đề tài tập trung nghiên cứu về điều tra và bảo mật thông tin trong q

trình điều tra đối với trợ cấp phi nơng sản và thuế chống trợ cấp theo quy định
của Hiệp định SCM10.
publisher 1997, trang 157) Chương trình hỗ trợ giá của chính phủ dẫn đến cung, vượt cầu (tức dư thừa) tại
mức giá hỗ trợ. Để hỗ trợ mức giá ở cao hơn mức giá cân bằng của thị trường, chính phủ buộc phải thực hiện
một trong số chính sách như sau: mua và dự trữ lượng sản phẩm dư thừa, ấn định hạn mức sản xuất nhất
định, kích cầu, hoặc thanh toán cho nhà sản xuất phần chênh lệch giữa giá hỗ trợ với mức giá mà nhà sản
xuất thông thường nhận được nếu khơng có sự hỗ trợ của chính phủ (mức này ln thấp hơn giá hỗ trợ).
8
Một số ví dụ về lợi ích do trợ cấp như: Chính phủ cho một cơng ty vay với lãi suất thấp hơn lãi suất phổ
biến trên thị trường tài chính đối với khốn vay thương mại tương đuơng (Lợi ích đó chính là khốn chênh
lệch giữa lãi suất cho vay của chính phủ và lãi suất cho vay thương mại thơng thường); Chính phủ đứng ra
bão lãnh khốn vay của cơng ty, nhờ vậy tổng chi phí mà cơng ty phải trả cho khốn vay được chính phủ bảo
lãnh sẽ thấp hơn so với trường hợp khơng được chính phủ báo lãnh (Khoản chênh lệch giữa tổng số tiền mà
công ty phải trả trong hai trường hợp chính là lợi ích mà công ty được hưởng); Chính phủ cung cấp hàng hóa
với giá trị thấp hơn so với giá bán thơng thường của mặt hàng đó trên thị trường thương mại; Chính phủ mua
hàng hóa với giá cao hơn so với gia mua thơng thường của mặt hàng đó trên thị trường thương mại.
9
Biện pháp đối kháng được hiểu là gồm thuế chống trợ cấp, các cam kết (undertakings) loại bỏ trợ của chính
phủ nước xuất khẩu hoặc cam kết tăng giá của nhà sản xuất/ xuất khẩu thay cho việc bị nước nhập khẩu đánh
thuế chống trợ cấp.
10
Mặc dù vậy, cần lưu ý rằng trợ cấp cho nông sản, kể cả hỗ trợ trong nước lẫn trợ cấp xuất khẩu , dù thuộc
danh mục cam kết cắt giảm của nước thành viên WTO theo quy định tại Hiệp định Nông nghiệp (AOA) hay
không, nếu gây ra thiệt hại cho thành viên khác đều có thể bị điều tra và đánh thuế chống trợ cấp theo quy


18

1.1.2. Bản chất và mục đích của trợ cấp trong thương mại quốc tế
1.1.2.1 Tác động của trợ cấp trong nước

Chính phủ của các nước thường chủ động tiến hành trợ cấp cho các
doanh nghiệp và sản phẩm của ngành cơng nghiệp của mình nhằm đạt được
một số mục tiêu kinh tế-xã hội nhất định, như: Bảo hộ sản xuất trong nước,
hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp non trẻ hay là trọng điểm của nền kinh tế,
khuyến khích đầu tư, cải thiện thu nhập của nhà sản xuất, bù đắp chi phí đầu
tư ban đầu quá lớn.v.v…Quyết định trợ cấp của chính phủ thường được đưa
ra nhằm phục vụ lợi ích của một hoặc một số đối tượng nhất định có vai trị
chi phối và ảnh hưởng mang tính chính trị đối với chính phủ. Chính phủ có
thể trợ cấp trực tiếp cho nhà sản xuất hoặc trợ cấp gián tiếp thông qua trợ cấp
đầu vào cho nhà sản xuất. Với mọi hình thức trợ cấp, lợi thế và khả năng cạnh
tranh của những sản phẩm được trợ cấp ln mang tính cạnh tranh cao.
Đối với những ngành cơng nghiệp non trẻ, khi mới ra đời còn yếu về
quy mô, kinh nghiệm, yếu kém về khả năng cạnh tranh thì việc trợ cấp từng
bước để nâng cao cạnh tranh, mở rộng quy mơ, góp phần khởi động và đẩy
mạnh phát triển của ngành. Cịn đối với những cơng ty mới gia nhập thị
trường, thiếu vốn để trang trải chi phí trong thời gian đầu, khó cạnh tranh với
những đối thủ có “ tầm cỡ” trên thị trường thì sự hỗ trợ của chính phủ có thể
bù đắp cho những khoản thua lỗ phát sinh trong những năm đầu, đưa cơng ty
vào sự phát triển ổn định. Ví dụ: Ngành sản xuất đóng tàu biển của Việt Nam
đã được chính phủ hỗ trợ rất nhiều về tài chính từ khoản vay 750 triệu USD
phát hành trái phiếu chính phủ ra nước ngồi năm 2005.
Ngồi ra trợ cấp cịn góp phần ổn định công ăn việc làm, hạn chế thất
nghiệp, bảo đảm trật tự và ổn định xã hội, đặc biệt là những khoản trợ cấp
dành cho các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, đứng trước nguy cơ phá sản. Sự hỗ
trợ của chính phủ có thể giúp các doanh nghiệp này khỏi bị sụp đổ nhanh
chóng, thúc đẩy các doanh nghiệp tổ chức lại cơ cấu sản xuất, tự điều chỉnh
khả năng thích nghi và cạnh tranh khi tham gia vào thị trường cạnh tranh quốc
tế.
Trợ cấp cũng có thể được sử dụng nhằm khuyến khích những ngành
sản xuất kém sức cạnh tranh giảm công suất dư thừa hoặc rút khỏi những lĩnh

vực hoạt động không hiệu quả hoặc không sinh lợi. Nhờ đó, q trình điều
chỉnh cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động được diễn ra sn sẻ
hơn, góp phần thúc đẩy nguồn lực thích hợp, hiệu quả và khuyến khích nhập
định của Hiệp định SCM. Kể từ ngày 1/1/2004, Hiệp định SCM được coi là hiệp định duy nhất điều chỉnh
mọi biện pháp trợ cấp dù trong nông nghiệp hay phi nông nghiệp, nếu như các thành viên WTO không đi đến
một thỏa thuận nào mới về việc gia hạn hay thay thế Hiệp định Nông nghiệp (AOA) để điều chỉnh các biện
pháp trợ cấp trong lĩnh vực nơng nghiệp. Khi đó, để đối phó với trợ cấp của nước khác, nước thành viên
WTO có thể lựa chọn khiếu kiện ra Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO hoặc điều tra để đánh thuế
chống trợ cấp theo quy định của Hiệp định SCM.


19

khẩu sản phẩm cạnh tranh từ bên ngồi thay vì cố gắng tự cung tự cấp và sản
xuất ra những sản phẩm chi phí cao, kém khả năng cạnh tranh.
Trợ cấp một ngành nhất định có thể tác động ngược chiều đến các
ngành khác trong nền kinh tế. Nếu chính phủ chọn đúng ngành được trợ cấp,
theo nguyên lý hiệu ứng lan truyền tích cực (external benefit), trợ cấp sẽ có
khả năng tạo ra hiệu ứng tích cực theo dây chuyền. Chẳng hạn khi chính phủ
trợ cấp cho ngành xi măng thì các ngành xây dựng cơ sở hạ tầng cũng có điều
kiện phát triển. Như vậy, lợi ích của trợ cấp có thể lan rộng sang cho cả các
ngành sản xuất khác ngồi chính bản thân ngành được trợ cấp.
Tuy nhiên, xét trên bình diện chung của nền kinh tế, trợ cấp ngăn cản
sự phân bổ tối ưu hiệu quả các nguồn lực quốc gia. Trợ cấp cho một hoặc một
số ngành nhất định sẽ làm hạn chế khả năng sự hỗ trợ của chính phủ đối với
các ngành khác vì ngân sách của nhà nước là có hạn. Việc chính phủ quyết
định hỗ trợ cho một ngành sản xuất trong nước để nhằm thay thế nhập khẩu
có thể dẫn đến xu hướng vốn và nguồn lực xã hội sẽ đổ xơ vào ngành đó.
Thậm chí nguồn lực sản xuất để xuất khẩu cũng có thể bị thu hút chuyển sang
phục vụ ngành sản xuất nội địa. Về lâu dài, tình trạng này dẫn đến cung vượt

cầu trên thị trường. Hậu quả là những doanh nghiệp khơng có khả năng cạnh
tranh sẽ bị thua lỗ và phá sản, nền kinh tế bị tổn thất, mục đích của trợ cấp
cũng không đạt được.
Trợ cấp cho một ngành nhất định cũng có thể tạo ra gánh nặng cho
ngành khác. Chi phí cho các yếu tố sản xuất của ngành khác sẽ bị tăng lên khi
ngành sản xuất được trợ cấp ngày một phát triển với quy mô, sản lượng sản
xuất ngày một tăng và thu hút các nguồn lực sản xuất ra khỏi các ngành khác.
Nhập khẩu các sản phẩm của các ngành có chi phí sản xuất nội địa cao sẽ gia
tăng vì sản xuất trong nước trở nên kém cạnh tranh. Như vậy, ưu dãi giành
cho một hoặc một số nhóm ngành sản xuất lại có ảnh hưởng giống như một
khoản thuế đánh lên những nhà sản xuất khác. Lợi ích thu được nhờ việc hỗ
trợ một ngành nhất định không chắc sẽ bù đủ tổn thất mà những ngành khác
phải gánh chịu. Về phía chính phủ, trợ cấp trong mọi trường hợp đều gây bất
lợi cho ngân sách nhà nước, cho dù ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp, có thể
khai được hay khơng kê khai được thành một khoản chi ngân sách cụ thể. Còn
đối với người tiêu dùng thì sẽ có lợi do được sử dụng sản phẩm có giá thành
thấp do sản phẩm được trợ cấp.
Tuy nhiên, hành vi trợ cấp trong nước của chính phủ không chỉ tác
động đến thị trường nội địa, mà cịn ảnh hưởng đến lợi ích xuất khẩu của các
quốc gia khác. Cụ thể, việc trợ cấp của một quốc gia nhằm bảo hộ để nâng
cao sức cạnh tranh cho ngành sản xuất trong nước thì hiển nhiên gây bất lợi,
giảm sức cạnh tranh của hàng hoá tương tự nhập khẩu, làm vơ hiệu hố hoặc
vi phạm các điều khoản đã cam kết về thuế quan của nước trợ cấp. Những bất


20

lợi của hàng hoá tương tự nhập khẩu vào nước trợ cấp bao gồm: (i) Sản phẩm
nhập khẩu bị mất thị phần trên thị trường nước trợ cấp, biểu hiện của tình
trạng này là sự thay đổi thị phần theo hướng bất lợi cho sản phẩm nhập khẩu

không được trợ cấp như: Sự gia tăng của sản phẩm được trợ cấp, hoặc thị
phần của sản phẩm được trợ cấp không đổi trong khi nếu khơng có trợ cấp thì
thị phần của sản phẩm này phải suy giảm, hoặc thị phần của sản phẩm được
trợ cấp bị thu hẹp với tốc độ chậm hơn so với trường hợp không được trợ
cấp; (ii) Giá của sản phẩm nhập khẩu tại thị trường nước trợ cấp phải đắt hơn
một cách đáng kể so với giá của sản phẩm được trợ cấp, vì giá của sản phẩm
trong nước nhập khẩu được cắt giảm so với trước nhờ có khoản trợ cấp của
chính phủ trong khi giá của sản phẩm nhập khẩu hầu như không đổi; (iii) Lợi
ích mà nước xuất khẩu trơng đợi được hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp từ cam
kết ràng buộc thuế quan của nước nhập khẩu trong khuôn khổ WTO bị vơ
hiệu hố hoặc bị suy giảm. Ví dụ: Nước nhập khẩu cam kết ràng buộc thuế
quan ở mức 10% đối với sản phẩm Tivi. Với mức thuế nhập khẩu này, nước
xuất khẩu tivi dự đốn mỗi năm có thể xuất khẩu được 1.000.000 sản phẩm
vào thị trường nước nhập khẩu (nước trợ cấp). Nếu nước nhập khẩu trợ cấp
đối với ngành sản xuất tivi, dù thuế nhập khẩu không thay đổi nhưng lượng
sản phẩm mà nước xuất khẩu có thể xuất vào thị trường nước được trợ cấp
khi đó sẽ khơng đạt được mức trơng đợi bình thường là 1.000.000 sản phẩm
như dự đoán do nước nhập khẩu trợ cấp để bảo hộ sản phẩm nội địa. Trong
trường hợp này, lợi ích mà nước xuất khẩu đáng ra được hưởng từ cam kết
ràng buộc thuế quan của nước nhập khẩu đã bị trợ cấp của nước nhập khảu
không chỉ làm mất tác dụng mà còn bị suy giảm.
1.1.2.2 Tác động của trợ cấp xuất khẩu
Trong hoạt động thương mại quốc tế, các nước có rất nhiều lý do để trợ
cấp cho hàng hố xuất khẩu của mình. Có nước lập luận rằng trợ cấp là để bảo
đảm công ăn việc làm, hay để hỗ trợ vùng khó khăn,v.v…Tuy nhiên, mọi lý
do biện minh cho trợ cấp xuất khẩu đều mục đích là hướng tới sự cải thiện
khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần. Trợ cấp xuất khẩu có thể được tiến
hành dưới nhiều hình thức, từ thưởng theo kim ngạch xuất khẩu đến cho vay
với lãi suất ưu đãi đối với hàng xuất khẩu hay áp dụng thuế suất ưu đãi đối
với ngành nghề xuất khẩu.Về mặt lý thuyết, nhờ có trợ cấp xuất khẩu thị phần

sản phẩm liên quan của nước xuất khẩu trên thị trường thế giới có thể được
mở rộng hơn so với khi khơng có sự can thiệp của trợ cấp xuất khẩu.
Thực tế, trợ cấp xuất khẩu không phải lúc nào cũng mang tác động tích
cực đối với nước xuất khẩu. Bản chất của trợ cấp là làm lợi cho một hoặc một
số đối tượng nhất định, điều này cũng đồng nghĩa làm mất quyền lợi của
những nhóm đối tượng khác. Do vậy, trong khi các nhà xuất khẩu có thể gia
tăng xuất khẩu hàng hố thì người tiêu dùng trong nước phải chấp nhận mua


21

cùng loại hàng hố đó tại thị trường nội địa với giá cao và sản lượng tiêu thụ
hàng hố đó tại thị trường nội địa bị giảm sút.
Nhiều trường hợp, những lợi ích có được từ trợ cấp xuất khẩu khơng đủ
để bù đắp cho những tổn phí liên quan đến trợ cấp nhà nước. Dưới góc độ
kinh tế, những trường hợp như vậy, rõ ràng trợ cấp là một chính sách phi kinh
tế của chính phủ nước xuất khẩu, vừa gây thiệt hại cho ngân sách vừa không
đạt được kết quả mong muốn.
Vì thế, nhiều nhà kinh tế cho rằng để thực hiện mục tiêu tăng trưởng
xuất khẩu, cần chú trọng đầu tư hỗ trợ từ gốc, tức là nâng cao sức cạnh tranh
của tự thân hàng hoá bằng chất lượng,v.v…hơn là sự hỗ trợ theo kiểu trợ cấp
xuất khẩu. Đây khơng phải là một chính sách bền vững, lâu dài. Trên thực tế,
chính phủ khơng thể theo đuổi trợ cấp xuất khẩu lâu dài vì ngân sách hạn hẹp
của chính phủ khơng thể kham nổi các khoản chi, cũng như bỏ qua những
khoản lẽ ra phải thu mang tính dài hạn.
Hơn thế nữa, trợ cấp xuất khẩu làm cho tỷ suất mậu dịch của nước xuất
khẩu bị suy giảm (cung so sánh tăng mà cầu so sánh lại giảm), trong khi đó
lại cải thiện tỷ suất mậu dịch cho các đối tác thương mại khác. Do vậy, có thể
nói, việc trợ cấp xuất khẩu như một cơng cụ chính sách thường chủ yếu nhằm
đạt được những mục tiêu chính trị của thương mại hơn là dựa trên căn cứ kinh

tế.
Cũng như trợ cấp trong nước, trợ cấp xuất khẩu có thể gây bóp méo sự
phân bố nguồn lực xã hội khi khuyến khích ngành sản xuất và xuất khẩu vốn
khơng mang tính kinh tế nếu khơng có sự hỗ trợ của chính phủ. Trợ cấp xuất
khẩu cũng gây bất lợi cho ngành sản xuất khác khi thu hút nguồn nhân lực
khỏi ngành sản xuất phục vụ thị trường nội địa, ngăn cản cơ hội được đầu tư
phát triển của ngành khác. Dưới góc độ xã hội, trợ cấp xuất khẩu có thể kéo
theo nhiều hiện tượng khai khống, khai man lượng xuất khẩu hoặc cố tình
quay vịng lơ hàng xuất khẩu để được hưởng trợ cấp, tạo cơ hội cho hoạt động
vận động phát triển khi trợ cấp mang tính phân biệt đối xử, tức là chỉ dành
cho một hoặc một nhóm đối tượng sản phẩm hay địa phương nhất định.
Mặt khác, đối với thị trường của nước nhập khẩu sản phẩm được trợ
cấp, tại đó sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu sẽ phải chịu những bất lợi
trong việc cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu được trợ cấp, thậm chí có thể
bị thiệt hại vật chất hoặc có nguy cơ thiệt hại vật chất.
Nhờ có được trợ cấp từ chính phủ của nước xuất khẩu, hàng hóa của
quốc gia này sẽ tăng lên đáng kể về số lượng so với lượng sản xuất của nước
nhập khẩu, hoặc giá bán của hàng hố nhập khẩu đó giảm mạnh so với sản
phẩm tương tự được sản xuất ở nội địa của nước nhập khẩu, hoặc là hàng
nhập khẩu được trợ cấp sẽ chèn ép giá sản phẩm cạnh tranh trên thị trường nội
địa nước nhập khẩu hay ngăn không cho giá tăng khi mà đáng lẽ giá phải tăng


22

theo quy luật thị trường.
Sự ảnh hưởng của hàng nhập khẩu được trợ cấp từ nước ngoài đến sản
phẩm tương tự được sản xuất trong nước có thể biến động qua những chỉ số
kinh doanh của ngành sản xuất nội địa tại thị trường nước nhập khẩu theo
hướng bất lợi cho ngành này. Chẳng hạn như suy giảm sản lượng, doanh số

bán, lợi nhuận, năng suất, tỷ suất thu hồi vốn đầu tư, sự thu hẹp thị phần, hay
giảm khai thác sử dụng công suất, giảm luồng tiền mặt, lưu kho, công ăn việc
làm, lương,v.v…Những dấu hiệu này không nhất thiết phải xuất hiện đồng
thời với sự xâm nhập của hàng nhập khẩu được trợ cấp mới chứng tỏ được tác
hại đối với ngành sản xuất nội địa, mà nhiều trường hợp chỉ có thể là dấu hiệu
của sự tiềm tàng về việc suy giảm và thu hẹp chỉ số kinh tế liên quan cũng đủ
cơ sở để cho thấy sự ảnh hưởng nghiêm trọng của hàng hoá nhập khẩu được
trợ cấp.
Không những thế, trợ cấp xuất khẩu của một quốc gia cũng có thể làm
vơ hiệu hố thuế nhập khẩu đánh lên sản phẩm được trợ cấp. Khi đó tác động
bảo hộ thông qua công cụ thuế quan của nước nhập khẩu (công cụ bảo hộ
được WTO cho phép) sẽ bị triệt tiêu hoàn toàn hoặc phần lớn. Các ngành sản
xuất sản phẩm nội địa tương tự sẽ phải đối diện với đối thủ cạnh tranh có tiềm
lực tài chính quá mạnh, sẽ dẫn đến bị thiệt hại, thậm chí sẽ phá sản nếu tình
hình trợ cấp q lớn và kéo dài. Còn đối với những ngành tuy chưa đi vào
sản xuất, việc trợ cấp xuất khẩu của chính phủ nước ngoài sẽ làm cho sự ra
đời của những ngành này bị trở ngại, trì hỗn hay thậm chí bị “chết” từ trong
trứng nước.
Tuy nhiên, một thực tế cần phải thừa nhận rằng mặc dù các nhà sản
xuất sản phẩm nội địa tương tự bị thiệt hại lớn do việc sản phẩm xuất khẩu
được trợ cấp của chính phủ nước ngồi thì ngược lại người tiêu dùng hay các
ngành công nghiệp hạ nguồn (những ngành sử dụng sản phẩm đó làm đầu vào
trong q trình sản xuất) sẽ ủng hộ do mua được hàng hố rẻ hơn. Vì thế, tại
thị trường nội địa sẽ có sự mâu thuẫn khi nhóm thứ nhất thì phản đối kịch liệt
do bị thiệt hại, cịn nhóm thứ hai và người tiêu dùng lại ủng hộ bởi vì mua
được hàng hố giá rẻ. Mâu thuẫn lợi ích giữa các nhóm cùng có quyền lợi liên
quan đến loại hàng hố được nước ngồi trợ cấp, làm cho chính phủ nước
nhập khẩu phải có cân nhắc trước việc đặt quyền lợi của nhóm nào lên đầu,
làm sao để hài hồ quyền lợi của các nhóm.
Ngồi ra, trợ cấp xuất khẩu còn tác động đến các sản phẩm tương tự

của nước thứ ba tại thị trường nước nhập khẩu và ngăn cản hàng hoá của nước
khác vào thị trường này. Với lợi thế cạnh tranh “không công bằng” nhờ được
trợ cấp, dẫn đến những sản phẩm này có thể được đẩy xuống ở mức giá rất
thấp, hàng hố xuất khẩu của nước trợ cấp có thể đẩy lùi các đối thủ cạnh
tranh trên thị trường nước thứ ba một cách dễ dàng và chiếm được “thị phần


23

vượt mức hợp lý trong thương mại xuất khẩu thế giới” 11, khiến cho lợi ích
thương mại của các nước xuất khẩu cạnh tranh khác bị tổn hại. Hậu quả dễ
thấy do trợ cấp xuất khẩu của một nước là gây tổn hại đến ngành sản xuất sản
phẩm tương tự khơng chỉ của nước nhập khẩu mà cịn thiệt hại đối với sản
phẩm cạnh tranh của nước thứ ba trên thị trường nước nhập khẩu.
1.1.3 Phân loại trợ cấp
1.1.3.1 Trợ cấp chung và trợ cấp riêng.
Căn cứ trên tính chất của trợ cấp, chúng ta có thể phân loại trợ cấp
thành trợ cấp chung và trợ cấp riêng.
Trợ cấp chung (hay cịn gọi là trợ cấp khơng mang tính riêng biệt) là:
Trợ cấp sử dụng các tiêu chí hoặc điều kiện khách quan để tự động xác định
đối tượng được hưởng trợ cấp và giá trị trợ cấp. Những tiêu chí hoặc điều
kiện khách quan có nghĩa là những tiêu chí hoặc điều kiện khơng phân biệt
đối xử giữa các doanh nghiệp, không ưu đãi doanh nghiệp này hơn so với
doanh nghiệp khác và là những tiêu chí, hoặc điều kiện mang tính kinh tế,
được áp dụng đồng loạt, chẳng hạn như số lượng nhân công, quy mô doanh
nghiệp,v.v… Trợ cấp chung này được áp dụng với tất cả các doanh nghiệp
thuộc mọi ngành nghề, thành phần kinh tế (Ví dụ: Chính phủ giảm giá bán
điện, bù lỗ cho giá xăng dầu…). Trong trường hợp này, ảnh hướng của sự trợ
cấp đối với giá hàng hóa liên quan là khơng có vì tất cả các doanh nghiệp đều
cùng được hướng mức trợ cấp như nhau. Khi đó, sự phân bố nguồn lực trong

nội bộ nền kinh tế sẽ không hề khác với khi khơng có các khoản trợ cấp
chung (và do đó chỉ mang tính danh nghĩa). Đây cũng chính là lý do tại sao
chỉ có trợ cấp riêng mới là đối tượng điều chỉnh trong Hiệp định SCM của
WTO. Tuy nhiên, ngay cả một chính sách trợ cấp chung trên văn bản lại có
thể có ảnh hưởng riên đối với ngành hoặc doanh nghiệp cụ thể trên thực tế (Ví
dụ: Việc cho phép áp dụng phương pháp khấu hao nhanh có thể có lợi cho
những ngành phải sử dụng nhiều tư liệu sản xuất).
Trợ cấp riêng (hay còn gọi là trợ cấp mang tính riêng biệt) là trợ cấp
dành riêng cho một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp cụ thể, hay
trợ cấp dành riêng cho một ngành sản xuất hoặc một nhóm ngành sản xuất
nhất định.
Trợ cấp riêng theo luật ( de jure specificity) là: Trợ cấp mà cơ quan trợ
cấp có quy định rõ trong luật hoặc văn bản dưới luật là chỉ dành trợ cấp đó
cho một số đối tượng nhất định được hưởng. Chẳng hạn, chương trình cho
vay với lãi suất ưu đãi theo luật chỉ dành cho ngành sản xuất thép là một ví dụ
về trợ cấp riêng theo luật.
Trợ cấp riêng trên thực tế (de factor specificity) là: Trợ cấp mà mặc dù
cơ quan cấp trợ cấp (hoặc văn bản pháp lý điều chính việc trợ cấp) khơng đặt
11

Điều XVI GATT 1994 đoạn 3 phần B.


24

ra điều kiện nào về đối tượng nhận trợ cấp nhưng việc quản lý hoặc áp dụng
chương trình trợ cấp đó lại dẫn đến kết quả là một hoặc vào nhóm đối tượng
nhận trợ cấp nhất định được nhận nhiều lợi ích hơn một cách đáng kể so với
các đối tượng khác cùng được nhận trợ cấp (Ví dụ: Trợ cấp cho một vùng
nhất định tuy có mục đích cơng khai là trợ giúp phát triển vùng nhưng thực tế

là trợ cấp cho các nhà máy sản xuất, hàng xuất khấu tại vùng đó trong khi các
doanh nghệp khác khơng được hoặc nhận được rất ít trợ cấp).
1.1.3.2 Trợ cấp nơng nghiệp và phi nơng nghiệp
Dưới góc độ lĩnh vực kinh tế, người ta chia trợ cấp thành trợ cấp nông
nghiệp và trợ cấp phi nông nghiệp.
Theo cách hiểu thông thường, trợ cấp nông nghiệp là trợ cấp dành cho
các sản phẩm nông nghiệp và cho các hoạt động trong lĩnh vực nơng nghiệp
(Ví dụ: Trợ cấp nghiên cứu giống cây, giống con; trợ cấp nông dân trồng lúa;
trợ cấp đầu vào cho sản xuất nông nghiệp; thường theo kim ngạch xuất khấu
nông sản; áp dụng cước phi vận tải ưu đãi với nông sản xuất khẩu; v.v…).
Trợ cấp công nghiệp (phi nông nghiệp) là trợ cấp dành cho các sản
phẩm công nghiệp và cho các hoạt động trong lĩnh vực cơng nghiệp (Ví dụ:
thuế nhập khấu ưu đãi với sản phẩm cơ khí thực hiện chương trình nội địa
hóa; áp dụng lãi suất cho vay ưu đãi với các dự án phát triển sản phẩm công
nghiệp trọng điểm v.v…)
Các hiệp định của WTO cũng tạm chia ra điều chỉnh trợ cấp theo các
loại: trợ cấp nông nghiệp (gồm hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khấu nông
sản), trợ cấp phi nông sản, và trợ cấp trong lĩnh vưc dịch vụ .
Hiệp định Nông nghiệp điều chỉnh trợ cấp cho các sản phẩm nông
nghiệp từ chương 1 đến chương 24 của biểu mã HS (trừ cá và các sản phẩm
cá), và trợ cấp cho một số sản phẩm khác ngoài các chương này như tinh dầu
các loại (HS 3301), da sống (HS từ 4101- 4103), da lông loại thô (HS 430),
kén tằm và tơ sống, phế liệu tơ (HS từ 5001- 5003), lông cừu và lông động
vật (HS từ 5201 – 5203), lanh thô (HS 5301), v.v…Hiệp định SCM tạm thời
hoặc hiểu là điều chỉnh về trợ cấp phi nơng sản (tức là các sản phẩm ngồi
phạm vi Hiệp định Nơng nghiệp). Ngồi ra, trong dịch vụ cũng có khái niệm
về trợ cấp ( điều XV của Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (QATS).
1.1.3.3 Trợ cấp trong nước và trợ cấp xuất khẩu
Dưới góc độ thương mại quốc tế thì trợ cấp chia thành hai loại: trợ cấp
trong nước và trợ cấp xuất khấu.

Trợ cấp trong nước: Được hiểu là trợ cấp với đối tượng nhận trợ cấp
là các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa trước tiên hoặc chủ yếu là để phục vụ
thị trường trong nước, hay nói cách khác, hàng hóa được trợ cấp phải là hàng


25

hóa được tiêu thụ tại thị trường nội địa của nhà sản xuất12. Doanh nghiệp
được trợ cấp không nhất thiết phải là doanh nghiệp 100% vốn trong nước (Ví
dụ chính phủ cung ứng điện với giá thấp cho ngành sản xuất phân bón trong
nước, trong đó bao gồm cả các doanh nghiệp có vốn trong nước và doanh
nghiệp có vốn nước ngồi). Tuy nhiên, trợ cấp trong nước có thể có tác động
gián tiếp tới hoạt động xuất khấu nếu sản phẩm do doanh nghiệp nhận trợ cấp
sản xuất ra cuối cùng lại được bán ra thị trường nước ngoài (xuất khẩu).
Trong trường hợp đó trợ cấp trong nước của một nước sẽ được nhìn nhận như
một dạng “trợ cấp xuất khẩu” dưới góc độ của nước nhập khẩu hàng hóa được
trợ cấp. Như vậy, mặc dù mục đích thực chất ban đầu của trợ cấp này không
phải nhằm khuyến khích xuất khẩu nhưng ảnh hưởng hay tác động của trợ cấp
đối với những sản phẩm được xuất khẩu lại giống với trợ cấp xuất khẩu, và do
vậy mà có thể bị nước nhập khẩu điều tra để đánh thuế chống trợ cấp.
Trợ cấp xuất khấu: Được hiểu theo nghĩa thông thường là trợ cấp chỉ
dành riêng cho hoặc liên quan tới hoạt động xuất khẩu, hay mục đích của trợ
cấp là đẩy mạnh xuất khẩu. Do đó, căn cứ để trợ cấp thơng thường là lượng
hàng hóa xuất khẩu thực sự hoặc dự kiến xuất khẩu (Ví dụ: chương trình xuất
khẩu của Chính phủ theo đó doanh nghiệp được thưởng 100 đồng cho mỗi sản
phẩm xuất khẩu được). Tuy nhiên, việc chính phủ đơn thuần trợ cấp cho
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu không thể nghiễm nhiên dẫn
đến kết luận là trợ cấp xuất khẩu mà còn cần xem xét đến một số yếu tố khác.
Trợ cấp xuất khẩu thường có hệ quả là hàng xuất khẩu được bán ra trên thị
trường nước ngoài với giá trị thấp hơn giá bán trên thị trường nội địa của

nước xuất khẩu.
1.1.3.4 Trợ cấp bị cấm, trợ cấp có thể dẫn tới hành động và trợ cấp không dẫn
tới hành động
Hiệp định SCM chia trợ cấp thành ba loại, dựa trên mức độ ảnh hướng
đến thương mại của chúng:
Trợ cấp bị cấm áp dụng (trợ cấp đèn đỏ) bao gồm trợ cấp xuất khẩu và
trợ cấp khuyến khích sử dụng hàng nội địa thay thể hàng nhập khẩu. Hai dạng
trợ cấp này bị cấm sử dụng vì tác động tiêu cực tới thương mại và ảnh hưởng
bất lợi đến lợi ích của nước thành viên WTO khác.
Trợ cấp xuất khẩu là trợ cấp phụ thuộc hoàn toàn hoặc một phần, dù
theo luật (de jure) hay thực tế (de factor), vào việc thực hiện hoạt động xuất
khẩu (export performance)13.
12

Tuy nhiên, cũng có tác giả cho rằng trợ cấp trong nước là trợ cấp dành cho một ngành sản xuất căn cứ trên
toàn bộ sản xuất một sản phẩm nhất định của ngành đó, bất kể việc sản phẩm do ngành đó sản xuất có được
xuất khẩu hay khơng. (Các vấn đề pháp lý trong quan hệ kinh tế, của John H Jackson William).
13
Riêng các biện pháp trợ cấp xuất khẩu nông sản tuân thủ các quy định của Hiệp định Nơng nghiệp của
WTO thì sẽ khơng bị coi là trợ cấp bị cấm theo quy định của SCM và chỉ phải cam kết cắt gảm dần trợ cấp
xuất khẩu này theo lộ trình và mức độ thỏa thuận trong WTO.


×