Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (30.93 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TRẦN HỒNG ĐƠNG

ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN TRONG TRƯỜNG HỢP
TÀI SẢN BỊ THẤT LẠC HOẶC KHƠNG CỊN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN TRONG TRƯỜNG HỢP
TÀI SẢN BỊ THẤT LẠC HOẶC KHƠNG CỊN
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ HUỲNH TẤN DUY
Học viên: TRẦN HỒNG ĐƠNG
Lớp: Cao học Luật Khóa 1 – Sóc Trăng

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tác giả

Trần Hồng Đơng


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT

TỪ ĐẦY ĐỦ

3

BLHS

Bộ luật hình sự

1

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

4

CQĐT


Cơ quan điều tra

2

TTHS

Tố tụng hình sự

5

VKS

Viện Kiểm sát

STT


MỤC LUC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN LẦN ĐẦU ĐỐI VỚI TRƯỜNG HỢP
TÀI SẢN BỊ THẤT LẠC HOẶC KHƠNG CỊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH
SỰ........................................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động định giá tài sản đối với trường hợp tài
sản bị thất lạc hoặc khơng cịn trong tố tụng hình sự.................................... 6
1.1.1. Khái niệm định giá tài sản đối với trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc
khơng cịn trong tố tụng hình sự ...................................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm hoạt động định giá tài sản đối với trường hợp tài sản bị thất
lạc hoặc khơng cịn trong tố tụng hình sự ....................................................... 8
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về định giá tài sản lần đầu

trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc khơng cịn .................................... 9
1.2.1. Căn cứ định giá tài sản .......................................................................... 9
1.2.2. Hội đồng định giá tài sản ....................................................................11
1.2.3. Thời hạn định giá tài sản .....................................................................13
1.2.4. Tiến hành định giá tài sản ...................................................................14
1.2.5. Kết luận định giá tài sản......................................................................15
1.3. Thực tiễn hoạt động định giá lần đầu đối với trường hợp tài sản bị
thất lạc hoặc khơng cịn trong tố tụng hình sự .............................................16
1.4. Kiến nghị nâng cao chất lượng hoạt động định giá tài sản đối với
trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc khơng cịn trong tố tụng hình sự .......25
Kết luận Chương 1 .............................................................................................28
CHƯƠNG 2. ĐỊNH GIÁ LẠI TÀI SẢN ĐỐI VỚI TRƯỜNG HỢP TÀI
SẢN BỊ THẤT LẠC HOẶC KHƠNG CỊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
..............................................................................................................................29
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về định giá lại tài sản trong
trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc khơng cịn .............................................29


2.1.1. Căn cứ định giá lại tài sản ..................................................................29
2.1.2. Trình tự, thủ tục định giá lại tài sản ....................................................30
2.1.3. Kết luận định giá lại tài sản ................................................................31
2.2. Thực tiễn hoạt động định giá lại tài sản đối với trường hợp tài sản bị
thất lạc hoặc khơng cịn trong tố tụng hình sự .............................................32
2.3. Kiến nghị nâng cao chất lượng hoạt động định giá lại tài sản đối với
trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc khơng cịn trong tố tụng hình sự .......38
Kết luận Chương 2 .............................................................................................39
KẾT LUẬN .........................................................................................................40
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong BLHS có rất nhiều tội danh quy định yếu tố giá trị tài sản bị xâm
phạm (hư hỏng, hủy hoại, chiếm đoạt, chiếm giữ, sử dụng trái phép,...) là một
trong những dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Vì vậy, việc xác định giá
trị tài sản bị xâm phạm có ý nghĩa quan trọng và mang tính bắt buộc để xác định
một hành vi có phải là tội phạm hay khơng. Bên cạnh đó, việc định giá tài sản
cịn là căn cứ để xác định khung hình phạt; đánh giá tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội khi lượng hình và xác định mức bồi thường cho
người bị thiệt hại.
BLTTHS năm 2003 khơng có những quy định về việc định giá tài sản, do
đó trước đây các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ thực hiện trưng cầu giám định để
xác định giá trị của tài sản. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến kết quả điều tra,
xử lý các vụ án hình sự cần xác định giá trị của tài sản bị xâm hại. Nhằm khắc
phục hạn chế trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày
07/3/2018 Quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá
tài sản; trình tự thủ tục trong định giá tài sản. Có thể nói, Nghị định số
30/2018/NĐ-CP đã bước đầu thiết lập hành lang pháp lý cho công tác định giá
tài sản trong TTHS nhằm bảo đảm tính khách quan và nâng cao chất lượng hoạt
động này. Tuy nhiên, đến nay các quy định của Nghị định vẫn chưa thực sự đáp
ứng được yêu cầu của thực tiễn, nguyên nhân là do các quy định của pháp luật
chưa rõ ràng, chưa thống nhất về trình tự thủ tục; điều kiện của cơ quan tiến
hành định giá chưa đảm bảo yêu cầu về năng lực chun mơn, phương tiện; có
sự nhận thức khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng về một vấn đề trong
định giá tài sản; các cơ quan tố tụng vận dụng các quy định của pháp luật về định
giá tài sản ở từng nơi, từng địa phương cũng khác nhau, người tiến hành tố tụng
vẫn còn nhận thức chưa đúng về các quy định của Nghị định này.

Có thể nhận thấy về mặt lập pháp BLTTHS năm 2015 đã khắc phục được
các thiếu sót của BLTTHS năm 2003 thông qua việc bổ sung quy định điều
chỉnh những vấn đề liên quan đến hoạt động định giá tài sản. Tuy nhiên, quy
định trong BLTTHS năm 2015 về định giá tài sản chủ yếu được xây dựng và


2

phát triển từ các quy định tại Nghị định số 26/2005/NĐ-CP về Hội đồng định giá
tài sản trong tố tụng hình sự và bổ sung một số vấn đề để phù hợp với thực tiễn.
Trong những năm qua, Cơ quan điều tra các cấp tỉnh Sóc Trăng đã thực
hiện tương đối có hiệu quả các quy định của pháp luật về định giá tài sản để điều
tra, xử lý các vụ án hình sự. Theo thống kê của Phịng tham mưu Cơng an tỉnh
Sóc Trăng từ năm 2011 đến năm 2016, tồn tỉnh xảy ra 2.046 vụ án hình sự,
trong đó 564 vụ án có trưng cầu định giá tài sản, tập trung chủ yếu ở các vụ án
xâm phạm sở hữu. Hầu hết mục đích của hoạt động định giá tài sản là làm căn cứ
để khởi tố vụ án, định khung hình phạt và bồi thường thiệt hại.
Tuy vậy, đánh giá một cách tổng thể thì các quy định về định giá tài sản
trong BLTTHS, các Thông tư, Nghị định hướng dẫn vẫn còn nhiều bất cập và
chưa hợp lý, chưa khắc phục được một số hạn chế trước đó và về nhận thức, áp
dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng vẫn
chưa đầy đủ và thống nhất. Đặc biệt, định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị
thất lạc hoặc khơng cịn đang gặp nhiều khó khăn, vướng mắc dẫn đến định giá
tài sản không đảm bảo căn cứ, không định giá được tài sản, mỗi Hội đồng định
giá có những nhận thức và phương pháp định giá khác nhau ảnh hưởng rất lớn
đến kết quả xử lý tội phạm. Vì những lý do trên tơi chọn đề tài: “Định giá tài
sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc khơng cịn theo luật Tố tụng
hình sự Việt Nam” để làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các cơng trình nghiên cứu về định giá tài sản trong TTHS hiện nay rất hạn

chế và chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách chun sâu và tồn diện.
Qua q trình tìm hiểu, tác giả đã tiếp cận được các cơng trình nghiên cứu sau có
liên quan đến đề tài luận văn:
- Sách chuyên khảo:
+ TS. Phạm Mạnh Hùng (2016), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật. Tại cơng trình này tác giả chỉ mang tính
khái quát chung nhất về yêu cầu định giá tài sản, chưa đi nghiên cứu sâu về trình
tự, thủ tục tiến hành hoạt động định giá tài sản, nhất là định giá lại tài sản trong
trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc khơng cịn.


3

+ TS. Trần Văn Biên - ThS. Đinh Thế Hưng (2016), Bình luận khoa học
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb Hồng Đức, Hà Nội. Tại Cơng trình này
các tác giả bình luận các quy định về các quy định về BLTTHS năm 2015, trong
đó đưa ra cơ sở lý luận về hoạt động định giá tài sản, định giá tài sản trong
trường hợp bị thất lạc hoặc khơng cịn, định giá lại tài sản trong trường hợp bị
thất lặc hoặc khơng cịn nhưng chưa đi sâu, phân tích việc áp dụng các quy định
của pháp luật này trong thực tiễn.
+ Võ Khánh Vinh (2011), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự,
Nxb Tư pháp, Hà Nội. Tại cơng trình này tác giả bình luận các quy định của
BLTTHS năm 2003, trong đó có nói khái quát về hoạt động định giá tài sản.
Tuy nhiên tác giả chỉ đưa ra các vấn đề lý luận chứ chưa đề cập đến thực tiễn áp
dụng các quy định của pháp luật về định giá tài sản trong TTHS.
+ Trần Quang Tiệp (2011), Chế định chứng cứ trong luật Tố tụng hình
sự, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tại cơng trình này tác giả phân tích làm rõ
các vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự, trong đó có trình tự thu thập
chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự, khẳng định kết luận định giá tài sản là
một nguồn chứng cứ chứng minh tội phạm. Tuy nhiên tác giả chưa đi nghiên

cứu sâu về trình tự, thủ tục tiến hành hoạt động định giá tài sản, nhất là định giá
tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc khơng cịn.
- Bài viết khoa học:
Trần Thu Hiền (2018), Một số điểm mới về định giá tài sản tố tụng hình
sự theo Nghị định 30/2018/NĐ-CP, có hiệu từ ngày 01/5/2018, Tạp chí Cảnh sát
nhân dân, tháng 4/2018.
Có thể nói ở Việt Nam, cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu
chun biệt về định giá tài sản trong Tố tụng hình sự và càng khơng có sản phẩm
nghiên cứu về hoạt động định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc
khơng cịn. Do đó đây là một đề tài khá mới mẽ, ít có tài liệu tham khảo, nghiên
cứu rút kinh nghiệm.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Đề tài tập trung làm rõ những quy định của pháp luật về định giá tài sản
trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc khơng cịn trong TTHS, đồng thời


4

nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về định giá tài sản, sử
dụng kết luận định giá tài sản, từ đó tìm ra được những vấn đề vướng mắc của
Cơ quan điều tra khi tiến hành trưng cầu định giá tài sản trong trường hợp tài sản
bị thất lạc hoặc khơng cịn. Qua đó đưa ra những kiến nghị để hồn thiện pháp
luật, tìm ra hướng xử lý để Cơ quan điều tra giải quyết các trường hợp không
trưng cầu định giá tài sản được hoặc có những nhận thức khác nhau khi sử dụng
kết luận định giá tài sản, định giá lại trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc
khơng cịn… góp phần hạn chế việc kéo dài thời gian giải quyết vụ án hình sự.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam
về hoạt động định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc khơng cịn

trong tố tụng hình sự, đồng thời nghiên cứu thực tiễn tiến hành hoạt động tố tụng
này của Hội đồng định giá tài sản, quyết định trưng cầu định giá tài sản và vận
dụng các quy định của pháp luật về định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị
thất lạc hoặc khơng cịn của Cơ quan điều tra.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài chỉ nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, cụ thể là
BLTTHS sự năm 2015, trên cơ sở so sánh, đối chiếu với BLTTHS năm 2003 và
các văn bản pháp luật có liên quan đến định giá tài sản trong trường hợp tài sản
bị thất lạc hoặc khơng cịn. Đề tài khơng nghiên cứu so sánh với pháp luật của
các nước về vấn đề này. Về không gian, tác giả khảo sát, đánh giá thực tiễn tiến
hành hoạt động định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc khơng
cịn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra 03 tỉnh: Sóc
Trăng, Bạc Liêu và Hậu Giang từ năm 2013 đến năm 2017
5. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu có hiệu quả đề tài, tác giả sử dụng phương pháp phân tích,
so sánh, tổng hợp và bình luận án xuyên suốt quá trình thực hiện luận văn. Qua
đó phân tích quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về các vấn đề liên
quan đến hoạt động định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc


5

khơng cịn, chủ yếu là quy định tại BLTTHS hiện hành và các văn bản pháp luật
có liên quan. Ngồi ra tác giả sử dụng phương pháp bình luận án để đưa thực
tiễn hoạt động định giá tài sản vào cơng trình nghiên cứu. Phương pháp tổng hợp
được sử dụng song song với phương pháp phân tích để tổng hợp và khái quát kết
quả nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn là cơng trình chun khảo nghiên cứu có hệ thống về thực trạng
hoạt động định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn,

đánh giá những vướng mắc, bất cập trong thực tiền khi vận dụng các quy định
của pháp luật vào hoạt động này và đề ra giải pháp khoa học nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động định giá tài sản trong trường hợp tài sản bị thất lạc
hoặc không cịn. Luận văn có giá trị và ý nghĩa để áp dụng trong hoạt động thực
tiễn của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; làm
cơ sở lý luận để học viên chuyên ngành pháp luật tố tụng hình sự nghiên cứu.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn được kết cấu như sau:
Chương 1: Định giá tài sản lần đầu đối với trường hợp tài sản bị thất lạc
hoặc khơng cịn trong tố tụng hình sự
Chương 2: Định giá lại tài sản đối với trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc
khơng cịn trong tố tụng hình sự


6

CHƯƠNG 1
ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN LẦN ĐẦU ĐỐI VỚI TRƯỜNG HỢP TÀI SẢN
BỊ THẤT LẠC HOẶC KHƠNG CỊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động định giá tài sản đối với trường
hợp tài sản bị thất lạc hoặc khơng cịn trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm định giá tài sản đối với trường hợp tài sản bị thất lạc
hoặc khơng cịn trong tố tụng hình sự
Ngày 27/11/2015, tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII, Quốc hội đã biểu
quyết thơng qua BLTTHS, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Từ Điều 215
đến Điều 222 BLTTHS quy định về định giá tài sản trong tố tụng hình sự.
Hiện nay, hoạt động định giá tài sản trong TTHS được thực hiện theo quy
định tại Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018 của Chính phủ Quy định
chi tiết việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản; trình tự thủ tục

trong định giá tài sản, thay thế Nghị định số 26/2005/NĐ-CP ngày 02/3/2005 của
Chính phủ về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự. Đánh giá chung cho
thấy từ khi ban hành đến nay, Nghị định số 26/2005/NĐ-CP được triển khai thực
hiện và đi vào cuộc sống thực tế ở tất cả các địa phương trong cả nước và đã đạt
được những kết quả nhất định, như xây dựng môi trường pháp lý quy định về việc
thành lập, quyền, nghĩa vụ và trình tự, thủ tục định giá tài sản của Hội đồng định
giá tài sản theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng được thống
nhất thực hiện từ Trung ương đến địa phương, tạo điều kiện để các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền các cấp, các cá nhân thực hiện đúng quyền hạn, trách nhiệm
của mình trong q trình thực hiện cơng vụ; trên cơ sở đó, đảm bảo xác định giá
trị của tài sản trong tố tụng hình sự phù hợp với giá thị trường, góp phần cùng cơ
quan tố tụng xét xử các vụ án đúng người, đúng tội, bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của các tổ chức, cá nhân liên quan trong quá trình xử lý vụ án hình sự…
Tuy nhiên, từ trước đến nay chưa có một khái niệm thống nhất về định giá
trong hoạt động tố tụng hình sự. Các quy định về định giá được diễn giải trong
pháp luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng chưa có một khái niệm cụ thể về định
giá tài sản. Các văn bản dưới luật có liên quan đến hoạt động định giá tài sản
trong tố tụng hình sự như Nghị định số 26/2005/NĐ-CP và Thông tư số 55 ngày


7

22/6/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số
26/2005/NĐ-CP chỉ quy định các vấn đề về trình tự thủ tục định giá tài sản về
hội đồng định giá tài sản và chưa nói rõ về khái niệm định giá tài sản trong tố
tụng hình sự. Đến Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018 của Chính phủ
cũng chưa thể hiện rõ khái niệm này. Do đó để hiểu đúng bản chất về định giá tài
sản chúng ta cần phải có khái niệm thế nào là định giá tài sản.
Định giá tài sản được xem là một hoạt động tố tụng do Hội đồng định giá
thực hiện, theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trong đó,

những người được trao thẩm quyền yêu cầu định giá tài sản là Thủ trưởng, Phó
Thủ trưởng cơ quan điều tra. Viện trưởng, Phó Viện trưởng, VKS, Chánh án,
Phó Chánh án Tịa án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Hiện nay, chủ thể tiến hành
hoạt động định giá tài sản chính là Hội đồng định giá tài sản được quy định tại
Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018 của Chính phủ. Việc xác định giá
của tài sản do Hội đồng định giá tài sản thực hiện theo quy định của pháp luật.
Mục đích là xác định giá của tài sản được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu
nhằm làm căn cứ giải quyết vụ án hình sự.
Trong khi đó, Điều 4 Luật giá năm 2012 giải thích từ “định giá” là việc cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh quy
định giá cho hàng hóa, dịch vụ.
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định từ Điều 215 đến Điều 222 BLTTHS
năm 2015, Luật Giá năm 2012, Nghị định 26 ngày 02/3/2005 của Chính phủ về
Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, Thơng tư số 55 ngày 22/6/2006
của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 26 ngày
2/3/2005 của Chính phủ về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, Nghị
định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018 của Chính phủ, tác giả đưa ra khái niệm
định giá tài sản trong TTHS như sau:
Định giá tài sản là hoạt động tố tụng hình sự do Hội đồng định giá tài sản
thực hiện nhằm xác định giá trị của tài sản theo yêu cầu của cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự.
Có nghĩa là, khi có vấn đề liên quan đến vụ án hình sự, cần xác định giá
để chứng minh nhưng ngoài khả năng và các biện pháp điều tra mà ĐTV được


8

phép tiến hành theo quy định của BLTTHS thì phải yêu cầu định giá tài sản.
Việc thực hiện định giá phải được tiến hành ngay sau khi cơ quan định giá hoặc
người định giá nhận được Quyết định yêu cầu và đồ vật cần định giá. Hội đồng

định giá có thể tiến hành định giá tại cơ quan định giá hoặc tại hiện trường vụ án.
Trong quá trình định giá, ĐTV và KSV có quyền tham gia nhưng phải báo cho
người định giá biết trước. Quá trình tiến hành định giá kết thúc, Hội đồng định
giá trả lời cho Cơ quan yêu cầu định giá bằng bản kết luận định giá tài sản.
1.1.2. Đặc điểm hoạt động định giá tài sản đối với trường hợp tài sản bị
thất lạc hoặc khơng cịn trong tố tụng hình sự
Tài sản bị thất lạc hoặc khơng cịn là tài sản khơng cịn thuộc quyền quản
lý của chủ sở hữu và có căn cứ xác định tài sản đó khơng biết ở đâu hoặc đã bị
hư hỏng, hủy hoại hoàn toàn. Việc định giá tài sản được thực hiện khơng trực
tiếp, khơng nhìn thấy tài sản cần định giá mà được thực hiện trên cơ sở các tài
liệu, chứng cứ có liên quan đến nguồn gốc, giá trị tài sản. Đây là điểm khác biệt
giữa định giá tài sản cịn nhìn thấy với tài sản bị thất lạc hoặc khơng cịn. Ví dụ:
tài sản đã bị người phạm tội trộm cắp khơng tìm thấy, tài sản bị hủy hoại, đốt
cháy... Do đó, việc định giá tài sản này có những có đặc điểm chung nhất như
các tài sản khác và có những đặc trưng nhất định như:
- Định giá tài sản là sự ước tính giá trị tài sản tại thời điểm và nơi tài sản
bị xâm phạm.
- Giá trị tài sản được biểu hiện chủ yếu bằng hình thái tiền tệ.
- Định giá tài sản được thực hiện theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng.
- Định giá tài sản phải tuân thủ theo những tiêu chuẩn và phương pháp
định giá theo quy định của pháp luật
- Phải có đầy đủ căn cứ xác định tài sản bị thất lạc hoặc khơng cịn. Tài sản
bị thất lạc hoặc khơng còn phải là những tài sản được quy định trong danh mục có
thể định giá được và có căn cứ xác định tại thời điểm định giá tài sản đó đã bị thất
lạc hoặc khơng cịn. Đây là vấn đề cốt lõi để định giá, khác với việc định giá tài sản
dễ nhìn thấy, có thể nhìn, cầm nắm, xem xét, dùng các biện pháp khoa học kỹ thuật


9


để định giá, nhưng định giá tài sản bị thất lạc hoặc khơng cịn là việc định giá tài sản
“vơ hình”, khơng nhìn thấy tài sản định giá. Do đó, khi tiến hành định giá cần xác
định rõ tài sản đó đã bị thất lạc hoặc khơng cịn, thơng qua các tài liệu, chứng cứ
trong quá trình điều tra vụ án hình sự (từ kết quả khám nghiệm hiện trường, lời khai
người làm chứng, bị hại, người có liên quan và các tài liệu khác...).
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về định giá tài sản lần
đầu trong trường hợp tài sản bị thất lạc hoặc không còn
1.2.1. Căn cứ định giá tài sản
Khi cần xác định giá của tài sản để giải quyết vụ án hình sự, cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng ra văn bản yêu cầu định giá tài sản. Như vậy, cơ sở
pháp lý để Hội đồng định giá tài sản thực hiện nhiệm vụ của mình chính là quyết
định u cầu định giá tài sản của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Văn
bản yêu cầu định giá tài sản có các nội dung1:
a) Tên cơ quan yêu cầu định giá; họ tên người có thẩm quyền yêu cầu
định giá;
b) Tên Hội đồng định giá tài sản được yêu cầu;
c) Thông tin và đặc điểm của tài sản cần định giá;
d) Tên tài liệu có liên quan (nếu có);
đ) Nội dung yêu cầu định giá tài sản;
e) Ngày, tháng, năm yêu cầu định giá tài sản, thời hạn trả kết luận định
giá tài sản.
Sau khi nhận được văn bản yêu cầu định giá tài sản, Chủ tịch Hội đồng
định giá tài sản có trách nhiệm tiếp nhận văn bản yêu cầu định giá tài sản và lựa
chọn những người có kiến thức chun mơn và kinh nghiệm về loại tài sản cần
định giá tham gia định giá tài sản theo quy định.
Để xác định được giá của tài sản, Hội đồng định giá phải dựa trên các căn
cứ sau :
2


1

Điều 215, BLTTHS năm 2015.
Khoản 2, Điều 3, Thông tư số 43/2018/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn một số điều của Nghị định số
30/2018/NĐ-CP.
2


10

a) Giá thị trường của tài sản là giá giao dịch phổ biến trên thị trường của
tài sản cần định giá hoặc tài sản tương tự với tài sản cần định giá tại thời điểm
định giá và địa điểm định giá được yêu cầu định giá.
Giao dịch phổ biến trên thị trường là hoạt động mua, bán tài sản được tiến
hành hợp pháp và công khai trên thị trường. Một tài sản được coi là có giao dịch
phổ biến khi có ít nhất 03 tài sản tương tự có giao dịch mua, bán trên thị trường.
Mức giá giao dịch phổ biến được thu thập là giá mua, bán thực tế của giao dịch
thành công; giá niêm yết của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ; giá chào bán, giá chào mua; giá kê khai; giá trúng thầu; giá ghi trên hóa
đơn, hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ…
b) Giá do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, quyết định là
mức giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định hoặc quyết định đang có
hiệu lực áp dụng tại thời điểm được yêu cầu định giá. Trường hợp cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quy định giá tối đa, giá tối thiểu, khung giá thì áp dụng mức
giá cụ thể do cơ quan hoặc đơn vị sản xuất kinh doanh quy định tại thời điểm
được yêu cầu định giá;
c) Giá do doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp là giá được xác định theo
kết quả thẩm định giá tại Chứng thư thẩm định giá và Báo cáo kết quả thẩm định
giá của doanh nghiệp thẩm định giá còn hiệu lực đối với tài sản được thuê thẩm
định giá;

d) Giá trong tài liệu, hồ sơ hợp pháp về loại tài sản đó do các cơ quan có
thẩm quyền hoặc cơ quan yêu cầu định giá cung cấp;
đ) Các căn cứ khác về giá hoặc giá trị của tài sản cần định giá là những
thông tin, tài liệu giúp xác định giá của tài sản cần định giá, như mức độ sử dụng
tốt nhất có khả năng mang lại giá trị cao nhất, hiệu quả nhất của tài sản; quan hệ
cung cầu về tài sản; ý kiến đánh giá về giá trị của tài sản của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền hoặc các tổ chức, cá nhân có kiến thức, hiểu biết về tài sản;
lời khai và hồ sơ tài liệu của các bên liên quan đến tài sản; giá của tài sản tương
tự với tài sản cần định giá trong vụ án khác và đã được Hội đồng định giá tài sản
thực hiện định giá trước đó; giá của tài sản tương tự với tài sản cần định giá thu
thập được trên các trang thơng tin điện tử chính thức của các cơ quan, tổ chức


11

trong khu vực và trên thế giới khi Hội đồng tiến hành mở rộng thu thập giá tại
khu vực và thế giới.
Những quy định trên là căn cứ để xác định giá của tài sản nói chung, riêng
đối với những tài sản đã thất lạc hoặc khơng cịn thì việc xác định giá chủ yếu
căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến tài sản cần định giá, bao gồm:
- Lời khai của chủ sở hữu: là chủ tài sản nên biết rõ đặc điểm, tình trạng
của tài sản tại thời điểm cần định giá. Mặc dù tài sản đã thất lạc hoặc khơng cịn
nhưng lời khai của chủ sở hữu có ý nghĩa quan trọng nhằm xác định nguồn gốc,
xuất xứ tài sản, giá trị tài sản để cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể
từ đó làm căn cứ để thu thập các tài liệu có liên quan, phục vụ việc định giá.
- Lời khai người làm chứng: là lời trình bày của người biết được tài sản đã
bị thất lạc hoặc khơng cịn về tình trạng, đặc điểm tại thời điểm định giá hoặc
biết được nguồn gốc, xuất xứ của tài sản phục vụ cho việc thu thập chứng cứ để
định giá.
- Các hóa đơn, chứng từ có liên quan đến tài sản: đây là một nguồn tài

liệu, chứng cứ rất quan trọng, có tính quyết định đối với việc định giá tài sản
trong trường hợp bị thất lạc hoặc không cịn, vì các tài liệu, chứng từ thường ghi
chính xác nguồn gốc xuất xứ, giá trị của tài sản, đặc điểm, tình trạng của tài sản
như: hóa đơn mua bán tài sản, giấy bảo hành, giấy xuất xưởng, giấy xác nhận
đưa tài sản vào sử dụng, vận hành hoặc lưu thông, giấy đăng kiểm... Các tài liệu,
chứng từ tạo thuận lợi cho việc định giá tài sản bị thất lạc hoặc khơng cịn, kết
luận định giá thường khá chính xác.
1.2.2. Hội đồng định giá tài sản
Từ Điều 215 đến Điều 222 BLTTHS năm 2015 quy định về định giá tài
sản trong TTHS, trong đó khoản 2 Điều 217 BLTTHS quy định: “Chính phủ quy
định chi tiết việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản; trình tự,
thủ tục định giá tài sản”. Như vậy BLTTHS không quy định về Hội đồng định
giá tài sản.
Trước đây, Hội đồng định giá tài sản quy định tại Điều 5, Chương 2, Nghị
định số 26/2015/NĐ-CP. Hiện nay, tại Chương 2, Nghị định số 30/2018/NĐ-CP


12

ngày 07/3/2018 quy định chi tiết về việc thành lập và hoạt động của Hội đồng
định giá tài sản.
Về thành lập Hội đồng định giá tài sản ở 03 cấp, trong đó ở địa phương,
Hội đồng định giá tài sản cấp huyện, cấp tỉnh do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
huyện, cấp tỉnh quyết định thành lập theo đề nghị của cơ quan tài chính cùng cấp
khi có u cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng là phù hợp và đáp
ứng kịp thời với yêu cầu của công tác tố tụng.
Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018 quy định chi tiết về việc
thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản, được quy định bằng việc
thành lập Hội đồng định giá theo vụ việc và Hội đồng định giá thường xuyên.
Tuy nhiên quy định này còn tùy trường hợp cụ thể ở từng địa phương mà vận

dụng để thành lập Hội đồng. Do chưa có hướng dẫn cụ thể nên từng địa phương
sẽ có cách áp dụng khác nhau. Tuy nhiên, quy định này là phù hợp với thực tiễn
hiện nay.
Về thành lập Hội đồng định giá tài sản ở Trung ương, Nghị định số
26/2005/NĐ-CP chưa quy định cách xác định tài sản có giá trị đặc biệt lớn để cấp
Trung ương có thẩm quyền tiến hành định giá, điều này đã gây khó khăn trong
việc định giá. Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018 đã quy định chi tiết
về việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản ở cấp Trung ương
cũng như xác định rõ phạm vi định giá, các lĩnh vực định giá. Ngoài ra, Nghị định
cũng nêu rõ Hội đồng định giá ở Trung ương thực hiện việc định giá lại lần thứ
hai trong trường hợp có mâu thuẫn giữa kết luận định giá lần đầu của Hội đồng
định giá cấp tỉnh và kết luận định giá lại của Hội đồng định giá cấp tỉnh.
Quy định như trên hiện nay là phù hợp, khắc phục tình trạng hầu hết sau
hai lần định giá, các vụ án đều bị “đẩy” lên Hội đồng định giá tài sản ở Trung
ương. Thậm chí có vụ án giá trị tài sản rất nhỏ và trong nhiều trường hợp, kết
quả định giá khác nhau giữa hai Hội đồng chủ yếu do thực hiện chưa đúng quy
trình, nguyên tắc định giá.
Về quyền của Hội đồng định giá tài sản, Điều 10 Nghị định số
30/2018/NĐ-CP quy định: “Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết cho việc định giá; Thuê tổ chức giám định


13

để thực hiện giám định tình trạng kinh tế - kỹ thuật, tỷ lệ chất lượng của tài sản;
thuê doanh nghiệp thẩm định giá để thực hiện thẩm định giá tài sản. Việc thuê tổ
chức giám định, doanh nghiệp thẩm định giá được tiến hành trong các trường
hợp cần thiết do Hội đồng định giá tài sản quyết định; Từ chối thực hiện định
giá tài sản trong trường hợp thời gian không đủ để tiến hành định giá; không đủ
các điều kiện cần thiết để tiến hành định giá; các tài liệu cung cấp khơng đầy đủ

hoặc khơng có giá trị để định giá; nội dung yêu cầu định giá vượt q phạm vi
hiểu biết chun mơn của mình; Được bảo đảm về tài chính đầy đủ, kịp thời và
các cơ sở vật chất cần thiết để tiến hành định giá tài sản theo quy định của pháp
luật; Các quyền khác theo quy định của pháp luật”.
Về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng định giá tài sản mặc
dù BLTTHS năm 2015 không quy định chi tiết, việc cụ thể hóa quyền của Hội
đồng định giá vào Nghị định số 30/2018/NĐ-CP của Chính phủ đảm bảo việc áp
dụng trong thực tiễn đạt hiệu quả trong định giá tài sản, nhất là xác định được
phạm vi quyền hạn để thực hiện, tránh việc sử dụng quyền hạn trong định giá
khơng có căn cứ, ảnh hưởng đến kết quả định giá. Ngoài ra, điều này cũng tạo sự
phối hợp tốt với cơ quan có thẩm quyền yêu cầu định giá tài sản.
1.2.3. Thời hạn định giá tài sản
Việc định giá tài sản, trả kết luận định giá tài sản thực hiện theo thời hạn
nêu trong văn bản yêu cầu định giá tài sản. Trường hợp việc định giá tài sản không
thể tiến hành trong thời hạn yêu cầu, Hội đồng định giá tài sản phải kịp thời thông
báo bằng văn bản, nêu rõ lý do cho cơ quan, người đã yêu cầu định giá biết3.
Như vậy, thời hạn định giá tài sản không được quy định trong BLTTHS
năm 2015 cũng như các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, vì vậy cịn
mang tính tùy nghi, khơng được áp dụng thống nhất trong thực tiễn hoạt động tố
tụng. Thời hạn do cơ quan có thẩm quyền yêu cầu đề ra và được ghi trong văn
bản yêu cầu định giá tài sản. Căn cứ quy định này thì thời hạn định giá tài sản
không được xác định cụ thể là bao lâu mà phụ thuộc vào ý chí của cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng ra văn bản yêu cầu định giá tài sản. Theo đó, tùy
thuộc vào tính chất của vụ án hình sự, đặc điểm của tài sản cần định giá mà cơ
3

BLTTHS năm 2015, Điều 216.


14


quan ra văn bản yêu cầu định giá tài sản sẽ chủ động cân nhắc, xác định thời hạn
hợp lý để định giá tài sản.
1.2.4. Tiến hành định giá tài sản
Thực tiễn hoạt động định giá tài sản cho đến nay chưa có một hệ thống
phương pháp định giá tài sản chung để xác định giá của tài sản. Chính vì lẽ đó, ở
những địa phương khác nhau sẽ có những phương pháp định giá tài sản khác nhau.
BLTTHS năm 2015 và Nghị định số 30/2018/NĐ-CP không quy định phương pháp
định giá tài sản chung mà chỉ quy định về khảo sát giá, nên trong thực tế có thể dẫn
đến từng thành viên của Hội đồng tiếp cận việc định giá theo những cách khác
nhau, do đó dẫn kết quả khác nhau, khó tạo được sự đồng thuận khi họp Hội đồng
để thống nhất kết luận định giá tài sản. Chính điều này đã gây khó khăn cho cơ quan
tiến hành tố tụng khi phải giải thích với tổ chức, cá nhân có liên quan khiếu nại về
kết luận định giá; một số trường hợp làm ảnh hưởng đến công tác phối hợp giữa cơ
quan tiến hành tố tụng và Hội đồng định giá tài sản các cấp.
Đối với tài sản bị thất lạc hoặc khơng cịn, việc sử dụng phương pháp để
định giá phù hợp là những thách thức, khó khăn đối với Hội đồng định giá tài
sản. Điều này xuất phát từ lý do: tài sản đã bị thất lạc, khơng cịn nên rất khó để
khẳng định chính xác giá trị của tài sản cần định giá, các đặc điểm, đặc tính của
tài sản được thu thập từ lời khai, các tài liệu chứng cứ hỗ trợ khác do đó dễ mang
tính chủ quan trong việc người khai trình bày về giá trị của tài sản, các thơng tin
về tài sản trong tài liệu đôi khi chỉ mang tính tương đối. Thực tế người bị hại
thường trình bày chất lượng tài sản của mình cao hơn thực tế, ngược lại người
thực hiện hành vi phạm tội thường trình bày tài sản mình chiếm đoạt, hủy hoại...
có chất lượng thấp. Bên cạnh đó các tài liệu, chứng từ có liên quan đến xuất xứ,
trị giá của tài sản cũng rất khó để xác định trị giá của tài sản tại thời điểm xảy ra
tội phạm. Hội đồng định giá chỉ căn cứ vào các tài liệu để định giá sẽ dễ mang
tính chủ quan, chưa kể một số tài sản đã được người bị hại, người thực hiện hành
vi phạm tội sửa chữa, thay đổi đặc tính, tình trạng của tài sản…
Xuất phát từ những hạn chế, vướng mắc về phương pháp định giá tài sản

tại Nghị định số 30/2018/NĐ-CP quy định: “Tài sản bị mất, thất lạc; tài sản bị
hủy hoại, hư hỏng tồn bộ và khơng có khả năng khơi phục lại tình trạng của tài


15

sản trước khi bị hủy hoại, hư hỏng: Hội đồng định giá xác định giá của tài sản
theo hồ sơ của tài sản trên cơ sở các thông tin, tài liệu thu thập được về tài sản
cần định giá”.
Qua nghiên cứu thực tiễn, để xác định giá của tài sản đã bị thất lạc, khơng
cịn, Hội đồng định giá thường sử dụng các phương pháp sau đây:
- Phương pháp so sánh:
Phương pháp này dựa trên cơ sở giá đã được niêm yết trên thị trường của
các tài sản có nhiều đặc điểm tương đối giống với tài sản thuộc đối tượng xem
xét định giá, để ước tính giá trị thực của tài sản đó. Đây là phương pháp sử dụng
rộng rãi và phổ biến nhất hiện nay. Ưu điểm của phương pháp này là tiến hành
nhanh chóng, dễ thực hiện, nhưng vẫn có hạn chế, đó là địi hỏi người cung cấp
thơng tin về tài sản phải chính xác, rõ ràng, nếu khơng việc so sánh sẽ khơng
khách quan, chính xác.
- Phương pháp thu thập tài liệu
Trên cơ sở cơ quan tiến hành tố tụng đã thu thập các tài liệu chứng cứ sau
đó gửi Hội đồng định giá tài sản thực hiện việc định giá. Căn cứ các tài liệu đã có,
Hội đồng định giá tiếp tục thu thập các tài liệu chứng cứ cần thiết để đối chiếu, so
sánh đưa ra giá trị của tài sản. Thông thường các tài liệu thu thập được để định giá
tài sản bị thất lạc hoặc khơng cịn là lời khai, hóa đơn, chứng từ... Các thơng tin
trên lời khai, hóa đơn chứng từ sẽ được kiểm tra, đối chiếu với tài sản cùng loại đã
được niêm yết giá trên thị trường. Phương pháp này có ưu điểm là tài sản định giá
sẽ chính xác về trị giá của tài sản, nhưng hạn chế lớn nhất chính là việc thu thập
các tài liệu chứng từ có liên quan đến tài sản sẽ gặp nhiều khó khăn.
Tùy thuộc vào loại tài sản và đặc tính của nó, Hội đồng định giá tài sản có

thể kết hợp nhiều phương pháp để xác định giá của tài sản.
1.2.5. Kết luận định giá tài sản
Kết luận định giá tài sản là một trong những nguồn chứng cứ có ý nghĩa
quan trọng, là căn cứ để cơ quan tiến hành tố tụng vụ án đó xem xét áp dụng quy
định của BLTTHS, BLHS trong điều tra, truy tố và xét xử đảm bảo đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.


16

Điều 20 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP quy định: Kết luận định giá tài sản
thực hiện theo các quy định tại Điều 101 và Điều 221 BLTTHS. Căn cứ kết quả
biểu quyết theo đa số về giá của tài sản cần định giá tại Biên bản phiên họp định giá
tài sản quy định tại Điều 19 Nghị định này, Hội đồng định giá lập kết luận định giá
tài sản bằng văn bản. Kết luận về giá tài sản được tính bằng đồng Việt Nam.
Kết luận định giá được gửi cơ quan yêu cầu định giá tài sản trong thời hạn
24 giờ kể từ khi Hội đồng định giá tài sản lập kết luận định giá tài sản.
Điều luật này cũng quy định kết luận định giá tài sản phải có các nội dung
chính sau đây: “Tên cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu định giá
tài sản; Tên Hội đồng định giá tài sản được yêu cầu; họ, tên Chủ tịch Hội đồng
định giá tài sản và các thành viên của Hội đồng; Số của văn bản yêu cầu định
giá và ngày nhận văn bản yêu cầu định giá; Quyết định thành lập Hội đồng định
giá tài sản; Tên tài sản cần định giá; Thông tin, tài liệu có liên quan đến tài sản
cần định giá; Kết luận về giá của tài sản; Chữ ký của các thành viên của Hội
đồng có mặt tại phiên họp định giá tài sản và dấu của cơ quan có thẩm quyền
thành lập Hội đồng hoặc cơ quan của Chủ tịch Hội đồng. Kết luận định giá tài
sản được lập thành ít nhất 03 bản, 02 bản lưu trong Hồ sơ định giá tài sản và 01
bản gửi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu định giá tài sản”.
Như vậy, về kết luận định giá tài sản theo Điều 221 BLTTHS năm 2015
khơng có quy định cụ thể về nội dung và hình thức của một bản kết luận định giá

tài sản mà chỉ quy định chung: “kết luận định giá tài sản phải ghi rõ kết luận về
giá của tài sản theo nội dung, yêu cầu định giá và các nội dung khác theo quy
định của pháp luật”. Nghị định số 30/2018/NĐ-CP đã cụ thể hóa quy định trên
của BLTTHS năm 2015. Tuy nhiên, đây vẫn là quy định chung về bố cục, hình
thức văn bản, tùy thuộc vào từng vụ việc định giá cụ thể mà Hội đồng định giá
tài sản ra bản kết luận định giá tài sản phù hợp đảm bảo đúng về nội dung và
hình thức theo yêu cầu định giá của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
1.3. Thực tiễn hoạt động định giá lần đầu đối với trường hợp tài sản
bị thất lạc hoặc khơng cịn trong tố tụng hình sự
Thứ nhất, hiện nay lĩnh vực định giá rất rộng, trong khi năng lực định giá
của Hội đồng định giá còn những hạn chế nhất định, đòi hỏi cần phải thuê thẩm


17

định giá. Thực tiễn cho thấy căn cứ để xác định giá còn do các doanh nghiệp cung
cấp cho cơ quan thẩm định giá, sau đó Hội đồng định giá ký hợp đồng và thuê
thẩm định giá. Hiện nay vấn đề thuê thẩm định giá rất phổ biến, nhất là đối với các
loại tài sản có tính đặc thù, bản thân Hội đồng định giá khơng thể một mình thực
hiện được. Việc thuê thẩm định giá dẫn đến việc chi phí trả cho việc định giá rất
cao, nhiều vụ việc kéo dài do khơng có chi phí trả cho việc định giá tài sản. Điển
hình như Cơ quan điều tra Cơng an tỉnh Sóc Trăng đã thực hiện việc u cầu định
giá tài sản trong vụ án tham ô tài sản xảy ra từ năm 2010 đến năm 2013 tại Ban
quản lý các Khu công nghiệp tỉnh và phải trả phí định giá gần cả trăm triệu đồng
đối với việc định giá đối với tài sản là các loại hóa chất xử lý nước thải.
Thứ hai, đối với các căn cứ để tính khấu hao tài sản trong định giá, cần có
quy định thống nhất. Hiện nay tại một số địa phương, Hội đồng định giá căn cứ
vào Thông tư số 45/2013/TT-BTC ngày 25/4/2013 của Bộ Tài chính Hướng dẫn
chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định; Thông tư số
162/2014/TT-BTC ngày 06/11/2014 Quy định chế độ quản lý, tính hao mịn tài

sản cố định, nhưng có Hội đồng lại căn cứ Thơng tư số 162/2014/TT-BTC nên
dẫn đến có sự khác nhau trong việc tính khấu hao tài sản. Thông thường Hội
đồng định giá tài sản tính hao mịn tài sản theo thời gian sử dụng (tính theo năm)
tương ứng với phần trăm hao mịn. Do đó có một số bất cập là có một số chủng
loại tài sản còn giá trị sử dụng rất tốt nhưng do cách tính hao mịn trong định giá
nên kết luận định giá xác định tài sản đó khơng cịn phần trăm giá trị sử dụng, tài
sản khơng có giá. Vì vậy, các cơ quan tố tụng rất lúng túng trong xử lý, nếu căn
cứ vào kết luận định giá tài sản thì khơng thể xử lý hành vi phạm tội. Đặc biệt
đối với tài sản bị thất lạc hoặc khơng cịn thì việc tính hao mịn rất khó khăn, vì
khơng thể nhìn thấy tài sản nên khơng biết được tình trạng như thế nào, tài sản
đã hao mịn, hư hỏng ra sao, do đó căn cứ để tính hao mịn tài sản rất cảm tính và
kết luận định giá đơi lúc khơng chính xác. Thực trạng này được phản ánh qua
các vụ án sau:
Vụ án thứ nhất: Tại Bản án số 27/ 2018/HSST ngày 23/10/2018 Tòa án
nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng xét xử vụ án trộm cắp tài sản đối với
bị cáo Châu Đ và Lâm T. Nội dung vụ án: vào khoảng 23h ngày 31/01/2018, Đ
và T rủ nhau đi tìm kiếm tài sản lấy trộm để bán lấy tiền tiêu xài. Khi đến khu


18

vực nhà bà Trần Thị Lai thuộc khóm Đai Rụng, phường 2 thị xã Vĩnh Châu thì
phát hiện một chiếc xe môtô loại xe Dream Trung Quốc biển số 83 H5- 9474
đang đậu bên hông nhà bà Lai nhưng không có ai trơng coi nên T đứng ngồi
canh đường, cịn Đ đi vào dẫn chiếc xe biển số 83H5-9474 ra ngồi đường một
đoạn, rồi dùng tay bứt dây điện khóa xe để T nổ máy xe chở Đ chạy đi. Sau đó,
T chạy xe chở Đ đến nhà của Phương thuộc khóm Vĩnh Bình, Phường 2 để bán
xe vừa lấy trộm với giá 800.000 đồng, lấy tiền chia nhau tiêu xài hết.
Tại bản kết luận định giá số 10/KL-HĐĐGTS, ngày 23/4/2018 của Hội
đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân thị xã Vĩnh Châu kết luận: chiếc xe môtô

biển số 83H5 - 9474 giá trị còn lại là 2.500.000 đồng. Theo Biên bản định giá tài
sản ngày 23/4/2018. Hội đồng định giá đã khảo sát theo giá xe tại thời điểm hiện
hành, mặc dù xe môtô của bị hại đã được đưa vào sử dụng nhiều năm (10 năm)
nhưng hội đồng đã khơng khấu hao, tính hao mịn theo quy định mà định giá
theo giá mới là không đúng.
Trong quá trình điều tra cũng như tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm, các bị
cáo đã khai nhận tồn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của các bị
cáo là phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, lời khai người bị hại...
nên đủ cơ sở kết luận các bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản quy định tại Điều 173
BLHS năm 2015. Vì vậy Tòa án tuyên phạt bị cáo Châu Đ 02 năm tù giam và bị
cáo Lâm T 01 năm tù giam.
Tuy nhiên, các bị cáo kháng cáo và trên cơ sở đó, Tịa án cấp phúc thẩm
đã xét xử và tuyên hủy bản án sơ thẩm trên để điều tra lại và yêu cấu cấp sơ thẩm
phải làm rõ các căn cứ để xác định giá của tài sản được định giá.
Vụ án thứ hai: Tại bản án số 34/2018 ngày 19/11/2018 của Tòa án nhân
dân tỉnh Bạc Liêu xét xử bị cáo Lê Minh D sinh năm 1987 tại huyện Hịa Bình,
tỉnh Bạc Liêu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Nội dung: vào năm 2017, bị cáo
Lê Minh D là cán bộ công an nhân dân công tác tại phòng an ninh điều tra.
Trong thời gian này bị cáo nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của người khác
bằng cách lợi dụng mối quan hệ quen biết nên giả vờ thuê mượn xe ô tô và xe
mơ tơ sau đó mang đi cầm cố lấy tiền chi xài cá nhân. Với thủ đoạn này trong
khoảng thời gian từ ngày 21/7/2017 đến ngày 21/10/2017 bị cáo D đã thực hiện


19

nhiều lần lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác. Ngày 04/9/2017 bị cáo Lê
Minh D trực tiếp gặp anh H thông tin gian dối là cần xe môtô cho bạn bè đi lại
nhằm mục đích lấy xe đi cầm. Anh H đồng ý, hai bên thỏa thuận làm hợp đồng
thuê xe mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade biển số 94K1-316.23 từ ngày

04/9/2017 đến ngày 06/9/2017 với giá 750.000 đồng. Sau khi nhận được xe,
cùng ngày bị cáo D gọi điện thoại cho Nguyễn Đăng K ra quán cà phê Ngọc
Thuận uống nước, tại đây bị cáo D nói cần tiền gấp để lo chuyển bệnh cho con
của bị cáo từ Cần Thơ lên Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị cầm xe mô tô biển số
94K1-316.23 với số tiền 12.000.000 đồng, K đồng ý. Khi hết hạn hợp đồng thuê
xe với anh H, để che giấu việc cầm xe, bị cáo D liên hệ anh H xin gia hạn hợp
đồng đến ngày 21/10/2017, sau đó thì bị cáo đưa ra lý do đi công tác hoặc công
việc đột xuất để né tránh việc trả xe cho anh H. Ngày 14/12/2017 anh H làm đơn
tố giác hành vi phạm tội của bị cáo D.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 45 ngày 11/12/2017 của Hội đồng
định giá tài sản tỉnh Bạc Liêu, Hội đồng đã căn cứ vào Thông tư số 55/2006/TTBTC ngày 22/6/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số điều của Nghị định số
26/2005/NĐ-CP quy định: đối với tài sản bị xâm phạm đã qua sử dụng hoặc đã
có thay đổi về kết cấu cơ bản của tài sản thì Hội đồng định giá tài sản và tiến
hành kiểm định đánh giá chất lượng tài sản hàng hóa cần định giá sau khi đã tính
đến khấu hao phần đã sử dụng để xác định giá trị cịn lại của tài sản đó.
Căn cứ theo Thơng tư số 126/2014/TT-BTC ngày 06/11/2014 của Bộ Tài
chính “quy định chế độ quản lý, tính hao mịn tài sản cố định trong các cơ quan
nhà nước, đơn vị sự nghiệp cơng lập và các tổ chức có sử dụng ngân sách nhà
nước”; Tại bản phụ lục số 01 của Thơng tư, việc tính khấu hao tài sản cố định
đối với xe mô tô gắn máy là 10% /năm.
Đối với chiếc xe môtô trên là xe đã qua sử dụng không thu hồi được nên
căn cứ Thông tư số 55/2006: đối với tài sản bị xâm phạm khơng cịn nữa thì hội
đồng định giá phải lấy lời khai và hồ sơ tài liệu (nếu có) của người bị hại, người
làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan đến vụ án, người có hành vi xâm phạm tài sản, để xác định tài sản bị xâm
phạm là tài sản gì, chủng loại, mẫu mã, nhãn mác, chất lượng.


×