Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Đổi mới tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐỔI MỚI TỔ CHỨC BỘ MÁY CƠ QUAN
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Đức Chính
Học viên: Trần Thị Bích Thủy

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2006


MỤC LỤC

Lời mở đầu.
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về tổ chức bộ máy cơ quan thi
hành án dân sự .................................................................................................... 1
1.1. Khái niệm thi hành án dân sự ....................................................................... 1
1.1.1 Khái niệm thi hành án ................................................................................. 1
1.1.2. Khái niệm thi hành án dân sự .................................................................... 3
1.2. Cơ quan thi hành án dân sự ......................................................................... 13
1.2.1. Vị trí ............................................................................................................. 13
1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ ............................................................................... 15
1.2.3. Bản chất ................................................................................................... 16
1.3. Sự hình thành và phát triển cơ quan thi hành án dân sự............................. 16
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1993 ........................................................................ 16
1.3.2. Giai đoạn 1993 – 2003 ............................................................................. 19
1.3.3. Giai đoạn 2004 đến nay ........................................................................... 22
1.3.3.1. Cơ quan thi hành án dân sự ................................................................... 22
1.3.3.2. Cơ quan quản lý thi hành án dân sự ...................................................... 25
1.3.3.3. Cán bộ công chức cơ quan thi hành án dân sự ...................................... 28


1.3.4. Vài nét về sự hình thành và phát triển cơ quan thi hành án dân sự Tp.Hồ
Chí Minh về mặt tổ chức ....................................................................................... 31
Chương 2: Thực trạng tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự ............ 33
2.1. Thực trạng về tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự ........................ 33


2.1.1. Thực trạng về cơ quan thi hành án dân sự ............................................... 33
2.1.2. Thực trạng về cơ quan quản lý thi hành án dân sự .................................. 42
2.2. Thực trạng mối quan hệ cơ quan THADS và các cơ quan hữu quan .......... 50
2.2.1. Cơ quan THA và cơ quan quản lý THA ................................................... 50
2.2.2. Quan hệ với Ủy ban nhân dân các cấp .................................................... 52
2.2.3. Quan hệ với Ban chỉ đạo thi hành án....................................................... 54
2.2.4. Quan hệ với cơ quan tiến hành tố tụng .................................................... 56
2.2.5. Quan hệ với Cảnh sát hỗ trợ tư pháp ....................................................... 58
2.3. Thực trạng về Chấp hành viên, cán bộ làm công tác thi hành án .............. 62
Chương3: Phương hướng đổi mới bộ máy cơ quan thi hành án dân sự ........ 67
3.1. Ý nghóa của việc đổi mới tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự ...... 67
3.2. Xác định rõ vị trí, chức năng của cơ quan THADS .................................... 69
3.3. Hoàn thiện tổ chức cơ quan THADS ........................................................... 70
3.3.1. Nhu cầu biên chế ..................................................................................... 70
3.3.2. Các đơn vị trực thuộc THADS cấp tỉnh .................................................... 72
3.3.3. Thành lập cơ quan THADS khu vực ....................................................... 76
3.3.4. Cán bộ công chức ..................................................................................... 78
3.4. Hoàn thiện cơ chế quản lý THADS .............................................................. 81
3.4.1. Phân cấp quản lý THADS cho UBND ..................................................... 82
3.4.2. Thống nhất hoạt động THADS ................................................................ 83
3.5 Đề cao cơ chế phối hợp trong THADS ........................................................... 85
3.6 Xã hội hóa một số nội dung hoạt động THADS .......................................... 87
Kết luận.



LỜI MỞ ĐẦU
Thi hành án dân sự là hoạt động quan trọng của nhà nước nhằm đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trên cơ sở thi hành những bản
án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án. Trong những năm qua, hoạt động
này đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ pháp chế của nhà nước, bảo vệ
quyền lợi chính đáng cho nhà nước và công dân. Tuy nhiên trong thực tiễn thi
hành, tổ chức cơ quan thi hành án dân sự còn bộc lộ những bất cập cần được
khắc phục, đổi mới trước yêu cầu của cơng cuộc cải cách hành chính, cải cách
tư pháp hiện nay. Đây là chủ trương quan trọng và nhất qn của Đảng và Nhà
nước đã đề ra trước xu thế hội nhập quốc tế và khu vực.
Quan tâm đến hoạt động thi hành án dân sự, một số bài báo và tạp chí
chuyên ngành đề cập đến công tác này nhưng nhìn chung chúng mới chỉ dừng
lại ở mức độ khai thác một khía cạnh, một góc độ nhất định về thi hành án
dân sự. Ở mức độ cao hơn, những công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ,
luận án tiến só mà tác giả được tham khảo như: chuyên đề “Xã hội hóa hoạt
động THADS. Một số vần đề lý luận và thực tiễn” của Viện nghiên cứu khoa
học pháp lý; đề tài cấp nhà nước “Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án
Việt Nam” do ông Nguyễn Đình Lộc thực hiện; luận án tiến só “Đổi mới tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam” của tác giả Trần Huy Liệu… cũng khai thác ở dạng
tương tự. Nhìn chung, các bài viết này chưa đi sâu vào tổ chức bộ máy cơ
quan thi hành án dân sự; hoặc nếu có chỉ là một mảng nhỏ trong đề tài; hoặc
theo hướng đề cập cả thi hành án dân sự và hình sự trong bài viết. Chính vì
thế, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài: “Đổi mới tổ chức bộ máy cơ quan thi
hành án dân sự” làm luận văn thạc só với mong muốn đóng góp phần nào
của mình trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành
án dân sự hiện nay và đưa ra một số giải pháp nhằm đổi mới tổ chức cơ quan
thi hành án ngày càng gọn nhẹ, hoạt động ngày càng có hiệu quả hơn.



Trên cơ sở sử dụng phương pháp đối chiếu, so sánh, thống kê số liệu
theo trình tự thời gian kết hợp với phương pháp khoa học duy vật biện chứng,
tác giả phân tích luận văn từ mức độ khái quát chung đến từng vấn đề cụ thể
có phân tích, đánh giá và tổng hợp. Nhưng do hạn chế trong khâu tìm số liệu
nên tác giả chỉ giới hạn đề tài từ thực tiễn tại Tp. Hồ Chí Minh. Luận văn
được xây dựng gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về tổ chức bộ máy cơ quan thi
hành án dân sự.
Chương 2: Thực trạng về tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự.
Chương 3: Phương hướng đổi mới tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự.
Cũng là người đang công tác trong ngành thi hành án dân sự, muốn góp
tiếng nói của mình trong công tác ở một mức độ nhất định góp phần khắc
phục những thiếu sót, hạn chế của pháp luật hiện hành cũng như trong thực
tiễn thi hành hiện nay. Mong nhận được sự đóng góp chân thành của Quý
thầy cô, bạn bè và đồng nghiệp để tác giả có thể hoàn thiện luận văn của
mình tốt hơn và có kiến thức vững vàng hơn trong công việc.
Trân trọng.
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2006.


1

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC BỘ
MÁY
CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm thi hành án dân sự.
1.1.1 Khái niệm thi hành án.
Thi hành án cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cần phải được nghiên
cứu một cách toàn diện. Mặc dù gần đây có những đề tài nghiên cứu khoa học đề

cập đến vấn đề này nhưng nhìn chung các đề tài đó mới chỉ đặt ra và giải quyết
một số khía cạnh của vấn đề thi hành án (THA) ở một mức độ nhất định. Về mặt
lý luận, hiện vẫn cịn nhiều vướng mắc chưa được giải quyết.


Thuật ngữ “thi hành án”.

Cụm từ ghép “thi hành án” thường được dùng chung với các từ khác như:
lĩnh vực THA, giai đoạn THA, đặc điểm THA, hoạt động THA... Nếu hiểu các
nhóm từ lĩnh vực, giai đoạn, hoạt động như là khái niệm “thi hành án” thì chưa
đúng. Bởi vì các cụm từ đó có nghĩa khơng giống nhau nên khi ghép với cụm từ
“thi hành án” cũng mang ý nghĩa khác nhau. Mặt khác, nếu sử dụng nhóm từ đó
với các từ khác như: bản chất, chức năng, đặc điểm… thì sự sai lệch càng tăng
thêm. Điều đó thể hiện ở chỗ những từ công tác, hoạt động, bản chất khơng cịn
ý nghĩa ban đầu mà chỉ thấy nổi rõ nghĩa của cụm từ “thi hành án”. Thông
thường, khái niệm thường được diễn đạt bằng danh từ hay cụm từ, trong đó danh
từ hay cụm từ là từ loại cịn tính từ chỉ kết hợp để hình thành khái niệm nhánh
trong trong từ loại đó [16]. Ví dụ, khái niệm quản lý nhà nước là sự tác động liên
tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý [23].
Do đó, để đảm bảo tính chặt chẽ của các khái niệm khoa học có liên quan
đến THA thì “thi hành án” cần được sử dụng như khái niệm độc lập [16], có
những khái niệm chỉ loại hình THA như THA hình sự, THA dân sự (THADS),
THA hành chính... Từ đó chúng ta mới có cách hiểu, cách nhìn nhận các vấn đề
cơ bản của THA như bản chất, chức năng, đặc trưng... ở những mức độ chung và
cụ thể theo từng loại hình và những cụm từ như công tác THA, hoạt động THA,
lĩnh vực THA sẽ được sử dụng theo đúng nghĩa của chúng.


2


Thi hành án (nói chung) trước năm 1993 vẫn do Tòa án nhân dân
(TAND) các cấp thực hiện được xem là giai đoạn tố tụng vì: “Có xét xử thì
phải có THA, thi hành án dựa trên cơ sở của công tác xét xử. Xét xử và THA
là hai mặt thống nhất của quá trình bảo vệ lợi ích của đương sự” [2] . Mỗi loại
hình THA có những đặc trưng riêng, chẳng hạn THA hình sự thể hiện tính
quyền lực nhà nước; còn THADS đặc trưng nổi bật là quyền tự định đoạt, tự
do thỏa thuận của đương sự. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc xác
định tính chất của mỗi loại hình THA.


Thi hành án hình sự.

Hoạt động THA hình sự có đặc thù riêng, thông qua những thủ tục chặt
chẽ, theo một trình tự nhất định. Mặc dù việc THA kết thúc nhưng các cơ
quan chức năng vẫn có nghóa vụ phải tiếp tục theo dõi các bị cáo đã mãn hạn
tù hay chưa để làm thủ tục xóa án do Chánh án TAND quyết định.
Theo PGS.TS Trần Đình Nhã, hoạt động này vẫn do cơ quan tiến hành tố
tụng thực hiện nên THA hình sự là một giai đoạn của tố tụng [29] bởi vì nếu
tách hoạt động này ra thì mục tiêu chung của toàn bộ quá trình tố tụng sẽ
không thực hiện được. Bản án của Tòa án mới chỉ dừng lại ở việc phán quyết
một người có tội hay vô tội trên văn bản, giấy tờ. Muốn nó được thực hiện
trên thực tế, cần phải có giai đoạn THA, phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả
của hoạt động THA. Vì vậy, THA hình sự là giai đoạn tiếp theo của quá trình
xét xử [29], là hoạt động gắn liền với quá trình xét xử.
Theo ông Nguyễn Công Bình, THA hình sự là một giai đoạn tố tụng
bởi vì:

[29]

,


- Hoạt động THA gắn liền với quá trình xét xử, tiếp theo sau quá trình xét xử
nhằm đảm bảo các phán quyết của Tòa án được thi hành.
- Thi hành án là hoạt động bảo vệ pháp luật khác với bản chất của hoạt động
hành chính là tổ chức và quản lý.


3

Mặt khác trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003, phần THA được dành phần
thứ năm (gồm 3 Chương) để quy định những nguyên tắc, thủ tục chung và một
số hình phạt cụ thể. Mặc dù tại Điều 33 của Bộ luật không xác định cơ quan
THA hình sự là cơ quan tiến hành tố tụng cũng như không xác định những
người có thẩm quyền trong cơ quan THA là người tiến hành tố tụng nhưng
trên thực tế sự tranh luận về tính chất của hoạt động này là giai đoạn tố tụng
hay Hành chính - Tư pháp không đáng kể. Hiện nay, vẫn xem THA hình sự là
giai đoạn tố tụng vì hoạt động này vẫn do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện
thông qua việc ra quyết định THA của Chánh án Tòa án.
Như vậy, thi hành án hình sự là giai đoạn tố tụng cuối cùng kết thúc một
vụ án được xét xử nhằm thực hiện phán quyết của Tòa án trên thực tế.


Thi hành án dân sự.
Hiện nay còn nhiều quan điểm khác nhau do hoạt động THADS đã được

chuyển giao sang các cơ quan thuộc Chính phủ quản lý. Có quan điểm cho
rằng: THADS là giai đoạn tố tụng; quan điểm khác cho rằng THADS là hoạt
động Hành chính - Tư pháp?
Để trả lời cho câu hỏi này, cần có sự xem xét toàn diện quy định của
pháp luật cũng như quan điểm chỉ đạo, đường lối của Đảng và Nhà nước

thông qua các Nghị quyết về hoạt động THADS phù hợp với vị trí, tính chất,
chức năng chủ yếu của hoạt động này.
1.1.2. Khái niệm thi hành án dân sự.


Là giai đoạn tố tụng.
Việc điều tra, hòa giải, xét xử vụ án mới chỉ là giai đoạn đầu của quá

trình bảo vệ quyền lợi của đương sự. Ở các giai đoạn này, Tòa án mới chỉ
quyết định giải quyết về nội dung vụ án, mới xác định các quyền và nghóa vụ
của các bên. Các quyết định của Tòa án muốn được trở thành hiện thực trong
cuộc sống phải thông qua hoạt động THA. Tổng hợp các hành vi pháp lý thực
hiện các quyết định của Tòa án trong bản án, quyết định được đưa ra thi hành


4

thành một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng dân sự. Giai đoạn này được
gọi là giai đoạn THA [24].
Là một khâu kế tiếp của quá trình tố tụng dân sự, THADS là một giai
đoạn nằm trong quá trình giải quyết vụ án, theo đó giai đoạn trước của giai
đoạn xét xử là giai đoạn chuẩn bị xét xử, còn THADS là giai đoạn hậu xét
xử, giai đoạn thực thi các phán quyết của Tòa án

[16]

, giai đoạn kết thúc quá

trình tố tụng dân sự. Ở giai đoạn này, các hành vi của cơ quan THA, những
người tham gia vào quá trình THA chỉ nhằm thực hiện các quyết định của Tòa

án trong bản án và được thực hiện theo những nguyên tắc do pháp luật quy
định.
Mặt khác, hoạt động THADS mang dấu hiệu đặc trưng của tố tụng dân
sự là quyền tự định đoạt của đương sự, các đương sự có quyền tự thỏa thuận
với nhau về thời gian, địa điểm và phương thức thanh toán không trái pháp
luật. Không giống như phương pháp được sử dụng trong THA hình sự hay hoạt
động quản lý hành chính mang tính quyền lực, mệnh lệnh, phục tùng. Chính
vì thế, các quyết định THA có thể đình chỉ theo sự thỏa thuận của các bên
hoặc được hoãn, tạm đình chỉ.
Ngoài ra, một hoạt động mang tính tố tụng không phụ thuộc hoàn toàn
vào hoạt động đó do cơ quan nào thực hiện (cơ quan hành pháp hay cơ quan
tư pháp) vì theo quan điểm của Đảng và Nhà nước, ở nước ta có 3 quyền là
quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp nhưng không có sự phân
chia rạch ròi giữa 3 quyền này. Có chăng chỉ là sự phân công, phối hợp để
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao mà thôi. Mặc dù, hoạt động
THADS do cơ quan thuộc Chính phủ quản lý nhưng vẫn được xem là giai
đoạn cuối cùng của tố tụng dân sự

[17]

và được quy định trong pháp luật thực

định.
Vì thế, Bộ luật tố tụng dân sự được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004
(có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 01/01/2005) cũng dành 2 Chương, 9 Điều để


5

quy định về THADS. Ngoài ra theo Điều 1 của Bộ luật thì: Bộ luật tố tụng

dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự thủ tục
khởi kiện để Tòa án giải quyết các vụ án dân sự, việc dân sự tại Tòa án; thi
hành án dân sự...
Cùng quan điểm này, theo thạc só Nguyễn Hoài Phương trong tập bài
giảng Luật tố tụng dân sự Việt Nam cho rằng: “THADS là một giai đoạn độc
lập trong tố tụng dân sự trong đó các bản án và quyết định đã có hiệu lực
pháp luật được đưa ra thi hành, giai đoạn kết thúc quá trình bảo vệ quyền lợi
của đương sự”.
Như vậy, theo quan điểm này THADS là một giai đoạn tố tụng nhằm làm
cho phán quyết của Tòa án có hiệu lực trên thực tế.


Là hoạt động Hành chính - Tư pháp.

THADS khơng phải là một hoạt động tố tụng, không phải là một hoạt động
để xác lập bản chất của vụ án, của vụ việc. Hoạt động chứng minh tranh chấp
đúng pháp luật hay không đúng pháp luật là hoạt động của cơ quan xét xử. Cịn
bản án đã có hiệu lực pháp luật thì cơ quan THA có trách nhiệm phải tơn trọng
và nghiêm chỉnh thi hành, những người liên quan phải thực hiện theo đúng quy
định của Tòa án đã tuyên. Trong Bộ luật tố tụng dân sự hiện nay, các quy định
về cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng, khơng nói đến cơ quan THA là
cơ quan tố tụng và Chấp hành viên (CHV) cũng không được xem là người tiến
hành tố tụng.
Quá trình tố tụng mà trọng tâm là việc xét xử của Tòa án chấm dứt khi
Tòa án ra phán quyết nhân danh Nhà nước và đã xác định quyền và nghóa vụ
của các bên. Còn việc thi hành phán quyết của Tòa án là một giai đoạn khác,
không phụ thuộc vào quá trình tố tụng [16,17].
Theo GS. TS Lê Minh Tâm, hoạt động THADS không phải là giai đoạn
tố tụng bởi vì nó có tính chất khác với tố tụng, có mục đích khác với mục đích
tố tụng: tố tụng là đi tìm sự thật các vụ việc đã diễn ra trên thực tế và giải



6

quyết theo quy định của pháp luật. Trong khi đó THADS là quá trình tiến
hành các hoạt động nhằm thi hành các bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật. Năm (05) đặc điểm của giai đoạn tố tụng:
+ Mối quan hệ của các giai đoạn.
+ Tính chế ước (giai đoạn sau có quyền chế ước giai đoạn trước).
+ Nhiệm vụ của mỗi giai đoạn độc lập.
+ Là giải quyết sự kiện pháp lý nên còn tranh cãi.
+ Được quy định trong luật tố tụng.
Theo thạc só Nguyễn Thanh Thủy, tính chất tố tụng trong THADS chiếm
tỷ trọng rất nhỏ so với tính Hành chính - Tư pháp [29]. Khi thực hiện THA, tính
chấp hành được đề cao, có ý nghóa chủ đạo và có tính chất như thủ tục thi
hành chứ không mang tính tố tụng như trong thủ tục xét xử.
Tính chất hành chính của hoạt động THADS được thể hiện ở chỗ
THADS là hoạt động thi hành hay thực thi bản án, quyết định của Tòa án có
hiệu lực. Đó mới là: “điều kiện cần” và “điều kiện đủ” chính là nguyên tắc,
cách thức, thủ tục về THA

[17]

. Hoạt động chấp hành buộc người phải THA

chấp hành những quyết định mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật;
nếu không sẽ áp dụng biện pháp mệnh lệnh bắt buộc, cưỡng chế.
Mặt khác, chủ thể thực hiện hoạt động này là các cơ quan thuộc Chính
phủ nên THADS là hoạt động thực thi pháp luật. Theo quy định của pháp
luật, hoạt động Hành chính - Tư pháp gồm có: công chứng, hộ tịch, quốc tịch,

lý lịch tư pháp. Tuy nhiên, với chức năng, nhiệm vụ đặc thù về THA thì có
thể gọi THADS là hoạt động thực thi pháp luật, không phải là nhiệm vụ hành
chính đơn thuần.
Tính chất tư pháp của hoạt động THADS thể hiện ở chỗ đây là hoạt động
bảo vệ pháp luật, đảm bảo cho quyền, lợi ích của công dân, Nhà nước được
thực hiện trên thực tế và do cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện. Bản án,


7

quyết định của Tòa án có hiệu lực là cơ sở để thi hành, trong khuôn khổ pháp
luật quy định. Một quyết định THA vượt ra ngoài bản án là quyết định vi
phạm pháp luật.
Đề tài cấp nhà nước: “Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án Việt
Nam” do ông Nguyễn Đình Lộc thực hiện vào tháng 04/2005 cho rằng: cần hiểu
thống nhất THADS là hoạt động Haønh chính - Tư pháp chứ khơng phải là một
giai đoạn của tố tụng tư pháp.
Có thể thấy rằng, các quan điểm nêu trên đều có những cơ sở riêng và yếu
tố hợp lý nhất định. Tuy nhiên, nếu q tách bạch, quy THADS veà một trong
những hoạt động thuần túy như đã nêu trên thì sẽ vấp phải những mâu thuẫn
khơng thể lý giải được [17].
Ví dụ: Nếu cho rằng THADS là hoạt động hành chính thì lý giải như thế
nào về thẩm quyền kháng nghị của Viện kiểm sát trong THA? Tại sao việc xâm
phạm hoạt động THA lại bị xem là tội xâm phạm hoạt động tư pháp? (Điều 292
Bộ luật hình sự).
Hoặc nếu đặc trưng phổ biến của hoạt động hành chính là phương pháp
phục tùng, mệnh lệnh thì trong THADS nguyên tắc tự định đoạt, tự thỏa thuận
của đương sự mới là yếu tố đặc trưng. Nếu cho rằng hoạt động THADS là hoạt
động Hành chính -Tư pháp vì hoạt động này do cơ quan thuộc Bộ Tư pháp thực
hiện là cơ quan hành chính thì đó là một sự nhầm lẫn bởi vì bản chất hoạt động

đó như thế nào khơng phụ thuộc vào chủ thể thực hiện.
Nếu cho rằng hoạt động tố tụng sẽ kết thúc khi Tịa án ra phán quyết nhưng
liệu khơng có hoạt động THA thì phán quyết đó có được hiện thực hóa hay
khơng?
Nhìn chung, giữa hoạt động hành chính và hoạt động THADS có những
đặc trưng riêng cần được phân biệt để làm sáng tỏ bản chất của hoạt động
THADS trên cơ sở so sánh giữa 2 hoạt động naøy.


8

Đặc trưng hoạt động THADS

Đặc trưng hoạt động hành chính.
- Là hoạt động chấp hành, điều hành.

- Bản án của Tòa án là cơ sở để thi hành.

- Hoạt động của công chức chỉ mang tính

- CHV thực hiện nhiệm vụ theo quy định

tư vấn, chưa tạo ra nghóa vụ pháp lý.
- Cơ quan cấp trên có thể ra lệnh cho cơ
quan cấp dưới.
- Phương pháp mệnh lệnh, quyền uy, phục

pháp luật, tạo ra nghóa vụ pháp lý.
- Hoạt động này mang tính độc lập tương
đối.

- Tôn trọng quyền tự định đoạt của đương
sự.

tùng.

Khi thực hiện nhiệm vụ của mình, cơ quan THADS và CHV phải thi
hành theo đúng bản án, quyết định của Tòa án chứ không thể dựa vào mệnh
lệnh hành chính hay chỉ đạo hành chính của các cơ quan hành chính cấp trên.
Vì vậy, các cơ quan THA cấp trên cũng không có quyền yêu cầu cơ quan
THA phải tạm dừng việc THA khi không có cơ sở pháp lý theo quy định của
pháp luật. Những trường hợp hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ THA là tuân theo cơ
sở pháp lý và theo trình tự pháp luật quy định chứ không phải tuân theo bất
cứ một mệnh lệnh hành chính nào.
Theo quy định của Pháp lệnh THADS năm 2004 (sau đây gọi là Pháp
lệnh 2004) và những văn bản pháp luật liên quan trong hoạt động THADS thì
chỉ có CHV là người được nhà nước giao trách nhiệm tổ chức THADS. Khi thi
hành nhiệm vụ, CHV chỉ tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp
luật, buộc người phải THA, người được THA phải nghiêm chỉnh thi hành.
Điều đó cho thấy hoạt động THADS của CHV mang tính độc lập. Chỉ có tính
độc lập tương đối thì các bản án, quyết định của Tòa án mới đảm bảo nguyên
tắc hiến định: “Các bản án, quyết định của TAND có hiệu lực pháp luật phải
được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ
trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng, những người và đơn vị hữu quan
phải nghiêm chỉnh thi hành”.


9

Trong THADS, các đương sự có quyền thỏa thuận với nhau về thời gian,
địa điểm và phương thức THA. Cơ quan THA phải tôn trọng sự thỏa thuận của

họ, chỉ khi họ không tự nguyện thi hành đúng nội dung thỏa thuận thì cơ quan
THA mới thi hành theo nội dung bản án, quyết định. Ngoài ra, trong hoạt động
THA phụ thuộc rất nhiều vào các bên THA nhất là bên được THA vì trong bất
kỳ giai đoạn nào nếu bên được THA tự nguyện khơng u cầu THA thì hoạt
động THA có thể bị đình chỉ.
Nhìn chung, các ý kiến cho rằng THADS là giai đoạn tố tụng hay hoạt
động Hành chính - Tư pháp mới chỉ dừng lại ở một mức độ nhất định, chưa đủ
cơ sở thuyết phục vì chưa xem xét khái niệm THADS một cách tổng thể trên
cở sở pháp luật thực định. Để đưa ra một khái niệm THADS cần được đặt
trong mối quan hệ với các văn bản pháp luật về THADS.
Theo nghóa hẹp, THADS chỉ thi hành những vụ việc liên quan đến tài
sản và nhân thân phi tài sản phát sinh trong giao lưu dân sự. Theo quy định tại
Điều 1 của Pháp lệnh THADS năm 1993 (sau đây gọi là Pháp lệnh 1993),
những bản án, quyết định dân sự của Tòa án bao gồm: bản án, quyết định về
dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, quyết định về tài sản trong bản án,
quyết định hình sự và bản án, quyết định khác do pháp luật quy định .
Có thể nhận thấy theo Pháp lệnh 1993, bản án, quyết định dân sự được
quy định ở nghóa hẹp (hợp đồng dân sự, hôn nhân gia đình và một số loại án
khác có tính chất dân sự). Sau khi Pháp lệnh 1993 ra đời, nhiều văn bản pháp
luật khác đã được ban hành. Đó là Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt
Nam bản án, quyết định của Trọng tài nước ngoài; Pháp lệnh công nhận và
thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài; Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động, hành chính, kinh tế… và thành lập
các Tòa chuyên trách. Nhà nước đã giao thêm trách nhiệm tổ chức thi hành
các bản án, quyết định khác về phá sản, kinh tế, hành chính và của Trọng tài
nước ngoài… Như vậy, trên thực tế, bản án, quyết định dân sự theo Pháp lệnh
1993 đã được mở rộng hơn rất nhieàu.


10


Theo nghóa rộng, THADS theo Điều 2 Pháp lệnh 2004 là hoạt động thi
hành những bản án, quyết định về dân sự, kinh tế, lao động, hành chính liên
quan đến phần tài sản, phần dân sự trong bản án hình sự được thi hành gồm:
 Những bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật:
- Bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
- Bản án, quyết định phúc thẩm.
- Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, của Trọng tài nước ngoài
được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành.
 Những bản án, quyết định dân sự chưa có hiệu lực nhưng được thi hành
ngay:
- Bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm về cấp dưỡng, trả lương, trả
công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã hội hoặc
bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, nhận người lao động trở lại làm
việc.
- Quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án.
So với Pháp lệnh 1993, Pháp lệnh 2004 đã bổ sung những bản án, quyết
định mới của hoạt động THADS, đó là:
- Bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài
nước ngoài được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;
- Quyết định tuyên bố phá sản;
- Quyết định của Trọng tài thương mại Việt Nam;
- Quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính.
Ngoài ra, phần tài sản trong bản án, quyết định hình sự theo Pháp lệnh
2004 được quy định rõ ràng, cụ thể hơn so với trước đây, gồm: quyết định về


11


dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật chứng, tài sản, truy thu tiền, tài
sản thu lợi bất chính, án phí trong bản án, quyết định của Tòa án về hình sự.
Như vậy, đối tượng, phạm vi của hoạt động THADS đã được mở rộng rất
nhiều, không chỉ dừng lại trong phạm vi hẹp của nghĩa dân sự, mà ở đây bao
gồm cả vấn đề án kinh tế, án lao động, án phá sản, án hành chính phần tài sản
và ngay cả phần dân sự của án hình sự cũng thuộc hoạt động THADS. Điều đó
cũng đồng nghóa với khối lượng công việc mà cơ quan THADS phải thi hành
ngày càng nhiều.


Là hoạt động tư pháp.

Từ năm 1945 đến năm 1993, cơng tác THADS do Tòa án thực hiện và từ
01/07/1993 đến nay, công tác THADS được chuyển sang các cơ quan thuộc
Chính phủ. Dù do Tòa án hay Chính phủ đảm nhiệm thì cơ chế quản lý, tổ chức
hoạt động của các cơ quan THADS vẫn phải đáp ứng được u cầu đặt ra hàng
đầu là: bảo đảm cho các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
được tơn trọng và thi hành nghiêm chỉnh, đầy đủ và kịp thời.
Căn cứ theo quy định của các văn bản pháp luật hiện hành thì THADS là
hoạt động tư pháp. Đặc tính này thể hiện ở những cơ sở sau:
Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm cơng tác tư pháp trong thời gian tới đề ra chủ trương tiếp
tục cải cách, đổi mới tổ chức hoạt động các cơ quan tư pháp, đã nhấn mạnh:
“Thành lập cảnh sát tư pháp trên cơ sở tổ chức và lực lượng hiện có ở ngành
Công an để hỗ trợ trong công tác THA hình sự, dân sự…, khẩn trương ban
hành Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sư,ï Luật thi hành án… làm
cơ sở pháp lý cho hoạt động của các cơ quan tư pháp”.
Ngoài ra, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 cũng nêu: “Chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở
vật chất để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác

THA. Từng bước thực hiện việc xã hội hóa, giao cho tổ chức không phải là cơ


12

quan Nhà nước thực hiện một số công việc THA… Xây dựng lực lượng cảnh
sát hỗ trợ tư pháp chính quy, đáp ứng kịp thời cho hoạt động xét xử, THA…”
Theo khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp được nêu tại Điều
292 Bộ luật hình sự năm 1999 thì: “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là
những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm
sát, xét xử và THA trong việc bảo vệ quyền lợi của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, công dân”. Quan trọng hơn là Điều 137 Hiến pháp
1992 sửa đổi quy định: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất…”.
Theo khoản 5 Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát năm 2002 quy định:
“Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiể m sát việc tuân
theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết định của TAND”. Ngoài ra,
Chương V quy định về kiểm sát việc THA.
Mặt khác, nguyên tắc, thủ tục cơ bản trong THADS được Bộ luật tố
tụng dân sự quy định tại Điều 1 và 9 Điều tại phần thứ bảy của Bộ luật.
Bên cạnh đó, theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta thì Nhà nước có ba
quyền, đó là: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Tương ứng với
các quyền đó sẽ có các cơ quan thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Ngồi ra cịn có các cơ quan hỗ trợ để giúp các cơ quan này hoàn thành
nhiệm vụ được giao. Như vậy, nếu cho rằng cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và
THA là các cơ quan hoạt động trong lĩnh vực tư pháp thì phải khẳng định Tòa án
là trung tâm của hoạt động tư pháp [14]. Các cơ quan khác giữ vai trò quan trọng
trong hoạt động xét xử của Tòa án, kết quả xét xử được thi hành trên thực tế. Do
đó, có thể xem THADS là hoạt động tư pháp bởi vì hoạt động THA không thể

tách rời hoạt động xét xử của Tòa án nhằm đảm bảo cho bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật được thi hành trên thực tế.
Nói đến chức năng chủ yếu của Tịa án là chức năng xét xử cũng như chức
năng, nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan THADS là thi hành và đảm bảo cho các bản


13

án, quyết định của Tịa án được thực hiện. Các hoạt động mang tính chất hành
chính như tổ chức, quản lý nhân sự của cơ quan THADS không phải là hoạt
động chính mà nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ chính
là hoạt động tư pháp [14].
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định THADS là hoạt động tư pháp, có
mục đích nhằm “phục vụ tốt nhiệm vụ xét xử của Tòa án” như Nghị quyết Hội
nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa VII đã nêu. Mục đích
của THA là làm cho các quyết định của Tịa án có hiệu lực trên thực tế. Chính vì
thế, từ điển Luật học đã nêu: “Thi hành án, giai đoạn kết thúc trình tự tố tụng, là
khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử nhằm làm cho phán quyết của
Tòa án nhất định có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, bản án sau khi có hiệu lực thi
hành phải được thi hành nghiêm chỉnh” [26].
Mặc dù cơ quan THADS chưa được thừa nhận chính thức là cơ quan tiến
hành tố tụng nhưng theo tinh thần các văn bản pháp luật hiện hành của nước
ta như đã phân tích ở trên, cơ quan THADS đã gián tiếp được thừa nhận là cơ
quan Tư pháp. Do vậy, hệ thống cơ quan THADS phải xây dựng một cách độc
lập, ngang tầm vị trí với những cơ quan Tư pháp khác như Tịa án, Viện kiểm
sát …
Tóm lại, Thi hành án dân sự là một trong những hoạt động tư pháp của
nhà nước nhằm thi hành các bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân gia đình,
lao động, quyết định khác về tài sản trong bản án, quyết định về hình sự và
bản án, quyết định khác do pháp luật quy định.

 Vai trị của hoạt động thi hành án dân sự.
Là quá trình diễn ra sau quá trình xét xử, bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở để tiến hành hoạt động THA. Đây là một
hoạt động liên quan đến những lợi ích thiết thân của con người, quyết định
hiệu lực và hiệu quả của hoạt động xét xử trước đó. Dù bản án của Tòa án có
khách quan, tuyên “đúng người đúng tội” thì mới chỉ là lời tuyên trên giấy.
Phải thông qua hoạt động THA thì phán quyết của Tòa án mới đi vào thực tế


14

cuộc sống, trả lại công bằng, lẽ phải. Như một người bị chiếm đoạt ngôi nhà
mình đang sinh sống, sau nhiều năm đi kiện đòi công lý và cuối cùng người
này được tuyên lấy lại được căn nhà. Thế nhưng, không phải qua lời tuyên
của bản án mà người này có toàn quyền trong việc định đoạt ngôi nhà . Nếu
như chỉ có hoạt động xét xử của Tòa án mà không có hoạt động THA thì phán
quyết của Tòa án chỉ là lời khẩu hiệu, quyền, lợi ích hợp pháp của con người
chưa được bảo đảm trên thực tế.
Hoạt động THADS có vai trò giáo dục rất lớn. Điều dễ nhận thấy là tổ
chức cưỡng chế những vụ án phức tạp, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính
trị của địa phương. Nếu được sự quan tâm, ủng hộ của dư luận, cộng đồng và
được thi hành nghiêm chỉnh, triệt để, được người dân “tâm phục khẩu phục”
sẽ thay đổi nhận thức của nhân dân, tác động vào ý thức chấp hành và tn thủ
pháp luật, tin tưởng vào sự công bằng của chế độ xã hội chủ nghóa.
Hoạt động THADS khơng chỉ đơn thuần là một hoạt động nghiệp vụ của
CHV và cán bộ THA mà cịn có ý nghĩa xã hội rộng lớn vì tuy bản án, quyết
định có nghiêm khắc nhưng khơng được thực hiện nghiêm thì cũng khơng tạo
niềm tin của nhân dân vào chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Một
bản án có tính khả thi cùng với sự nghiêm chỉnh thi hành của những cá nhân,
cơ quan, tổ chức hữu quan góp phần đảm bảo pháp chế, duy trì kỉ cương, công

bằng xã hội.
Hoạt động THA còn củng cố kết quả công tác xét xử, kiểm tra được
công tác xét xử của Tòa án đối với từng vụ án cụ thể. Trên cơ sở đó, tổng kết,
rút kinh nghiệm nâng cao chất lượng xét xử, đề cao trách nhiệm của Tòa án
trong việc ra những bản án không có tính khả thi.

1.2. Cơ quan thi hành án dân sự.
1.2.1. Vị trí.


15

CHÍNH PHỦ

UBND tỉnh

BỘ TƯ PHÁP

CỤC THADS
UBND Q, H

SỞ TƯ PHÁP

THADS TỈNH
PHỊNG TƯ PHÁP
THADS Q, H

Hoạt động THADS đã được chuyển giao từ Tòa án sang các cơ quan của
Chính phủ hơn 10 năm nhưng hiệu quả hoạt động THADS chưa cao mà tình
trạng án tồn đọng đang báo động. Có thể do rất nhiều nguyên nhân nhưng

biểu hiện rõ nhất là vị trí, vai trò của cơ quan THADS chưa được đề cao, chưa
có một chỗ đứng nhất định trong hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước nói
chung, trong hệ thống các cơ quan tư pháp nói riêng.
Theo quy định của Pháp lệnh 1993 và các văn bản hướng dẫn thi hành,
cơ quan THADS gồm có Phòng THA thuộc Sở Tư pháp và Đội THA thuộc
Phòng Tư pháp. Trong khi đó, cơ quan THADS hưởng lương từ ngân sách
Trung ương, có con dấu riêng và tài khoản riêng nhưng lại thuộc các cơ quan
tư pháp địa phương. Vì thế, vị trí của cơ quan THADS được xem như một
phòng, ban của cơ quan tư pháp, không có sự độc lập. Ngoài ra, trong hoạt


16

động cơ quan THADS chịu nhiều sự thanh tra, kiểm tra của các cơ quan liên
quan mà phạm vi, giới hạn chưa được xác định rõ ràng, cụ thể.
Mặt khác, Tòa án đã chuyển giao công tác THADS thì cũng có nghóa là
cơ quan THADS là một loại cơ quan thực hiện công đoạn tiếp theo của hoạt
động xét xử là thi hành phán quyết của Tòa án. Thế nhưng, vị trí của cơ quan
này còn rất mờ nhạt và còn nhầm lẫn là cơ quan Tòa án. Cho nên, trong một
thời gian dài chỉ tồn tại một tên gọi cơ quan Tòa án vừa xét xử vừa THA mà
bên cạnh nó đã có sự hiện diện của cơ quan THA với chức năng chủ yếu là
thi hành bản án của Tòa án.
Không chỉ quy định của pháp luật trước đây mà theo quy định hiện hành,
vị trí của cơ quan THADS cũng chưa được xác định một cách rõ ràng, cụ thể.
Có chăng chỉ là sự gián tiếp thừa nhận tính chất hoạt động THADS là hoạt
động tư pháp và cơ quan THADS là cơ quan tư pháp nhưng vẫn chưa tạo được
vị trí độc lập, chưa phù hợp với tính chất tư pháp của cơ quan THADS so với
những cơ quan tư pháp khác.
Sơ đồ nêu trên chỉ có tính chất minh họa, chưa nhìn được một cách tổng
quan cơ quan THADS đứng ở vị trí nào trong 3 loại cơ quan lập pháp, hành

pháp và tư pháp. Điều đó cũng lý giải cho tình trạng yếu kém của công tác
THADS xuất phát từ quy định của pháp luật THA về tổ chức bộ máy cơ quan
THADS như: tên gọi, tính chất của cơ quan này. Nếu xét trong mối quan hệ
với cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp thì cơ quan THADS phải được
xây dựng trong cơ quan tư pháp ngang hàng với cơ quan tư pháp khác như Tòa
án và Viện kiểm sát. Có như vậy, mới tạo nên vị trí độc lập của cơ quan
THADS và CHV trong hoạt động thực thi bản án của Tòa án. Hiệu quả hoạt
động THADS phụ thuộc rất lớn vào vị trí, tính chất cũng như mô hình tổ chức
của cơ quan này. Cơ quan THADS được tổ chức phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ được giao đòi hỏi phải xác định được vị trí của nó một cách ngang
tầm và tương xứng.
1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ.


17

Nói đến Tịa án là nói đến chức năng xét xử. Đây là chức năng chủ yếu
của cơ quan này và được ghi nhận trong Bộ luật tố tụng dân sự cũng như trong
Luật tổ chức TAND. Đối với cơ quan THADS, cũng như tên gọi của nó là “thi
hành án” nghóa là tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu
lực pháp luật và giới hạn ở những bản án, quyết định “dân sự” của Tòa án.
Đây không phải là một chức năng mang tính độc lập tuyệt đối của cơ quan
này, hiệu quả của hoạt động THADS phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng xét
xử của Tòa án. Một bản án tuyên không khả thi, không thuyết phục, không
hợp lòng dân thì chức năng thi hành của cơ quan THA khó có thể thực hiện.
Nếu như chỉ có chức năng xét xử của Tịa án mà không có chức năng THA
của cơ quan THADS thì quyền và lợi ích hợp pháp của công dân không được
đảm bảo, trật tự, kỉ cương xã hội sẽ không còn, không có thiết chế để bảo
đảm. Liệu bản án của Tòa án có được tôn trọng hay không?.
Mỗi cơ quan có một chức năng chủ yếu do pháp luật quy định. Bên

cạnh chức năng chính còn có những chức năng phụ mang tính hỗ trợ cho việc
hoàn thành nhiệm vụ được giao. Những hoạt động mang tính chất hành chính
như hoạt động phối hợp, quản lý cán bộ, tổ chức nhân sự chỉ nhằm đảm bảo
phục vụ có hiệu quả cho chức năng chính của cơ quan THA là tổ chức THA
theo quy định của pháp luật.
Nhìn chung, việc xác định tính chất của hoạt động THA gắn với việc
xác định bản chất cơ quan THADS có ý nghóa quan trọng vì mỗi cơ quan có
một ngun tắc tổ chức hoạt động riêng để từ đó chúng ta có thể xác định mô
hình tổ chức của cơ quan THA, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
hệ thống tổ chức cơ quan THA, cơ quan quản lý THA, các chức danh trong hệ
thống của cơ quan này một cách phù hợp.
1.2.3. Bản chất.
Như đã phân tích ở phần trên, theo quy định của pháp luật hiện hành như
Hiến pháp 1992, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân
sự, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân… cũng như tinh thần Nghị quyết 08,
Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị thì THADS là hoạt động tư pháp và cơ quan
THADS là cơ quan tư pháp.


18

Hoạt động THADS sẽ không có hiệu quả nếu không có sự phối hợp, hỗ
trợ của các cơ quan hữu quan. Ở một mức độ nào đó, cơ quan THADS ít nhiều
bị chi phối trong tổ chức hoạt động. Thế nhưng với vị trí là cơ quan tư pháp,
cơ quan THADS phải được xây dựng tương xứng với những cơ quan tư pháp
khác, đảm bảo trong quá trình thi hành bản án, quyết định của Tòa án, CHV
và cán bộ THA thể hiện tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
1.3. Sự hình thành và phát triển cơ quan thi hành án dân sự [1, 14].
Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, tổ chức bộ máy THADS có sự khác
nhau, có thể chia làm 3 giai đoạn chính:



Giai đoạn trước năm 1993.



Giai đoạn 1993 - 2003.



Giai đoạn 2004 đến nay.

1.3.1. Giai đoạn trước năm 1993.
Trước Cách mạng Tháng tám, hệ thống tư pháp ở Việt Nam được tổ chức
theo hệ thống của nước Cộng hòa Pháp. Những nhiệm vụ tương tự như THA
hiện nay đều do Thừa phát lại đảm trách dưới các tên gọi khác nhau như Mõ
tòa, Thừa phát lại nhưng chúng đều có chung nguồn gốc từ tiếng Pháp là
“Huissier” (bắt nguồn từ chữ Huissiry tức là người gác cửa, trưởng tòa) [28].
Nếu so sánh với cơ quan THA hiện nay thì Thừa Phát lại có một điểm
giống nhau cơ bản đó là đều có chức năng thi hành các phán quyết của Tòa
án, nhưng Thừa phát lại có nhiều điểm khác với THA hiện nay:
 Về tổ chức nhân sự.
Thừa phát lại không phải là cơ quan Nhà nước, không được tổ chức theo
đơn vị hành chính. Thừa phát lại được bổ nhiệm nhưng họ là công lại, nhiệm
lại không phải là công chức hưởng lương Nhà nước.
 Về phạm vi hoạt động.


19


Thừa phát lại hoạt động trong phạm vi Tòa án quản hạt, nơi họ được chỉ
định đăït trụ sở.
 Về nhiệm vụ,ï quyền hạn.
Thừa phát lại có nhiệm vụ, quyền hạn rất rộng, không chỉ thi hành các
bản án của Tòa án mà thực hiện cả những công việc “tiền Tòa án” như lập
các vi bằng làm chứng cho Tòa án xem xét và ngay cả khi Tòa án xét xử,
Thừa phát lại có nhiệm vụ tiến hành các nghi thức thủ tục tại Tòa án...
Sau Cách mạng Tháng tám, chế định Thừa phát lại tiếp tục được duy trì.
Theo Sắc lệnh số 13 ngày 20/11/1946 của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán thì ngoài tổ
chức Thừa phát lại, Ban Tư pháp xã cũng được THADS. Như vậy, tổ chức
THADS đã được hình thành ngay trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng
tám thành công và tồn tại dưới hai hình thức là: Thừa phát lại và Ban Tư pháp
xã.
Theo Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/05/1950 về “cải cách bộ máy tư pháp
và luật tố tụng” thì việc THADS do Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã thực
hiện trước đây được thay thế bằng Thẩm phán Tòa án cấp huyện dưới sự chỉ
đạo trực tiếp của Chánh án.
Trên cơ sở Hiến pháp 1959, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức TAND
năm 1960. Luật này đã xác định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ của nhân viên
chấp hành án. Ngày 13/10/1972 Chánh án TAND tối cao đã ban hành Quyết
định số 186/TC về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của CHV. Tên gọi “Chấp
hành viên” ra đời từ đó và tồn tại cho đến ngày nay. Chấp hành viên được đặt
tại các TAND Thành phố thuộc tỉnh, huyện, thị xã, khu phố và tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương do Chánh án TAND cấp tỉnh quyết định bổ nhiệm
và ấn định số lượng.
Nhìn chung, trong thời gian này, Nhà nước không tổ chức cơ quan
THADS độc lập mà chỉ đặt ra các CHV tại TAND địa phương để chuyên



20

trách việc THA. CHV thực hiện nhiệm vụ dưới sự chỉ đạo của Chánh án
TAND cùng cấp và không có quyền chỉ đạo công tác của CHV Tò a án cấp
dưới. Chánh án TAND địa phương có trách nhiệm quản lý, chỉ đạo CHV của
Tòa án mình và có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra, hướng dẫn công tác THA
của TAND cấp dưới.
Như vậy, tổ chức và hoạt động THA trong thời gian này là một giai đoạn
khép kín trong Tòa án và tùy thuộc rất nhiều vào sự chỉ đạo của Chánh án
TAND địa phương. Cơ chế quản lý và tổ chức THA chưa tạo được vị trí cho
CHV tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Mặt khác, vai trò của TAND
tối cao (tiếp đó là Bộ Tư pháp từ năm 1981 đến năm 1992) trong việc quản lý
Tòa án địa phương mới dừng lại ở vai trò quản lý chung, còn thực chất việc
quản lý đội ngũ cán bộ Tòa án, cũng như việc xây dựng đảm bảo cơ sở vật
chất cho hoạt động xét xử, THA do chính quyền địa phương đảm nhiệm.
Nhiều năm liền mối quan tâm chú trọng của Tòa án vẫn dành cho công tác
xét xử, còn THA hầu như ít quan tâm. Điều này dẫn đến tình trạng án đã xét
xử nhưng không được thi hành chiếm tỉ lệ ngày càng lớn.
Ngày 28/08/1989, Pháp lệnh THADS được ban hành đặt cơ sở pháp lý
cho việc tăng cường hoàn thiện tổ chức và hoạt động THADS. Trên cơ sở đó,
Quy chế CHV được ban hành kèm theo Nghị định số 68/HĐBT ngày
06/03/1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Theo đó, chỉ có CHV là người được nhà
nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án; trình tự,
thủ tục THA, quyền, nghóa vụ của các bên đương sự, biện pháp cưỡng chế
THA… được quy định một cách chặt chẽ, cụ thể. Đây là một bước phát triển
mới trong lónh vực THADS, đặt cơ sở pháp lý cho việc tăng cường, hoàn thiện
tổ chức và hoạt động THADS. Cùng với sự đổi mới cơ chế THA, đội ngũ cán
bộ làm công tác THA đã được chuyên môn hóa, có chức danh, tiêu chuẩn
riêng.
1.3.2. Giai đoạn 1993 - 2003.



×