Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Đối tượng của hoạt động nhượng quyền thương mại – lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (560.19 KB, 61 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
--------

TRƯƠNG THỊ KIM THƯƠNG

ĐỐI TƯỢNG CỦA HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG
MẠI – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP. HỒ CHÍ MINH – 2009


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến tập thể giảng viên Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh, với sự tận tình hướng dẫn của thầy Phạm Trí Hùng, đã giúp
tơi hồn thành khố luận này.
Tơi cũng chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và tập thể lớp Thương mại 30B đã
hỗ trợ tôi trong q trình học tập và rèn luyện, giúp tơi có được kết quả này.


LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên là Trương Thị Kim Thương, sinh viên khoa Thương mại trường Đại học
Luật Tp. Hồ Chí Minh, Mã số sinh viên: 3020171. Tôi xin cam đoan bản khố luận
này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các dữ liệu, kết quả nêu trong khố luận
là hồn tồn trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.


Tác giả

Trương Thị Kim Thương


Mục Lục
Trang
Lời nói đầu ................................................................................................

1

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nhượng quyền thương mại, hợp
đồng nhượng quyền thương mại và đối tượng của hợp đồng nhượng
quyền thương mại .....................................................................................

4

1.1 Nhượng quyền thương mại ................................................................

4

1.1.1 Khái niệm và đặc điểm nhượng quyền thương mại ...................

4

1.1.1.1. Khái niệm nhượng quyền thương mại .........................

4

1.1.1.2. Đặc điểm của nhượng quyền thương mại ....................


7

1.1.2 Phân loại nhượng quyền thương mại ...........................................

8

1.1.3 Phân biệt nhượng quyền thương mại với một số hình thức kinh
doanh khác ....................................................................................

10

1.2 Hợp đồng nhượng quyền thương mại ..............................................

12

1.2.1 Khái niệm và đặc điểm hợp đồng nhượng quyền thương mại ...

12

1.2.1.1 Khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại ...........

12

1.2.1.2 Đặc điểm của hợp đồng nhượng quyền thương mại .....

13

1.2.2 Phân loại hợp đồng nhượng quyền thương mại .........................


17

1.2.3 Phân biệt hợp đồng nhượng quyền với các loại hợp đồng khác .

21

1.3 Một số vấn đề lý luận về đối tượng hợp đồng nhượng quyền
thương mại ...............................................................................................

22

1.3.1 Khái niệm ....................................................................................

22

1.3.2 Phân loại đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại...

26

Chương 2: Thực trạng pháp luật quy định về đối tượng của nhượng
quyền thương mại - Thực tiễn áp dụng và kiến nghị ............................

29

2.1 Thực trạng quy định pháp luật về đối tượng của hợp đồng

29


nhượng quyền thương mại ......................................................................

2.1.1 Quy định pháp luật về quyền thương mại cơ bản .......................

31

2.1.2 Quy định pháp luật về quyền thương mại chung hay quyền
nhượng lại quyền thương mại cơ bản ...........................................

33

2.1.3 Quy định pháp luật về quyền thương mại thứ cấp ......................

35

2.1.4 Quy định pháp luật về quyền phát triển quyền thương mại .......

35

2.2 Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về đối tượng của hợp đồng
nhượng quyền thương mại và kiến nghị ................................................

39

2.2.1. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về đối tượng của hợp
đồng nhượng quyền thương mại ...............................................................

39

2.2.2. Kiến nghị ..................................................................................

44


Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

47


Lời nói đầu
I. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, cụm từ nhượng quyền thương mại thường được nhắc
đến bởi các nhà kinh doanh ở Việt Nam. Trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế hiện
nay, nhượng quyền thương mại được xem như một phương thức kinh doanh để giảm
thiểu rủi ro nhưng mang lại lợi nhuận ổn định cho những ai muốn khởi nghiệp an
tồn. Về phía các doanh nghiệp đang sở hữu những tài sản trí tuệ có giá trị trên thị
trường, nhượng quyền thương mại là một cách thức mở rộng và nâng cao uy tín
thương hiệu, cũng như được hưởng lợi từ hoạt động này. Hợp đồng nhượng quyền
thương mại là văn bản được ký kết bởi các bên trong quan hệ nhượng quyền, quy
định về quyền và nghĩa vụ của các bên khi tiến hành nhượng quyền. Trong hợp đồng
nhượng quyền thương mại, điều khoản cực kỳ quan trọng là điều khoản về đối tượng
của hợp đồng, trong đó quy định mục đích hướng tới của các bên khi tham gia ký kết
hợp đồng nhượng quyền. Luật Thương mại 2005 lần đầu tiên quy định về nhượng
quyền thương mại đã tạo cơ sở pháp lý để các chủ thể tiến hành kinh doanh theo
phương thức này.
Năm 2009 được hi vọng là năm khởi sắc của hoạt động nhượng quyền thương
mại. Nguyên nhân chủ yếu là do những cam kết của Việt Nam trong việc mở rộng thị
trường thương mại bán lẻ cho các thương nhân nước ngồi khi gia nhập WTO sẽ có
hiệu lực từ 01/01/2009. Hoạt động nhượng quyền thương mại gắn liền với 90% hoạt
động thương mại, dịch vụ. Về khung pháp lý của Việt Nam, ngoài Luật thương mại
2005 lần đầu tiên luật hoá hoạt động thương mại này, Nghị định 35/2006/NĐ-CP của
Chính phủ được ban hành để quy định chi tiết hoạt động này. Thông tư 09/2006/TTBTM của Bộ thương mại hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại.

Đến 17/11/2008, Bộ Tài chính mới có quyết định số 106/2008/QĐ-BTC về mức lệ
phí thương nhân dự kiến nhượng quyền phải nộp khi đăng ký hoạt động nhượng
quyền thương mại. Tuy còn nhiều vướng mắc cần tháo gỡ nhưng đây là động thái của
nhà nước về việc hoàn thiện cơ chế pháp lý để các thương nhân có thể thuận lợi tiến
hành hoạt động nhượng quyền thương mại.
II. Mục đích nghiên cứu
Đề tài khơng chỉ nhằm mục đích nghiên cứu về đối tượng của hợp đồng nhượng
quyền thương mại ở khía cạnh lý luận mà cịn đi vào phân tích, đánh giá những quy
1


định pháp luật hiện hành có liên quan, tìm ra những ưu, khuyết điểm, những bất cập
và biện pháp giải quyết để hoàn thiện hành lang pháp lý để cho hoạt động nhượng
quyền thương mại thực sự là một phương thức kinh doanh có hiệu quả.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lý luận về đối tượng của hợp đồng nhượng
quyền thương mại, quy định pháp luật có liên quan cũng như thực trạng áp dụng pháp
luật nhằm đưa ra những kiến nghị đối với pháp luật thực định về đối tượng của hợp
đồng nhượng quyền thương mại.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào đối tượng của hợp đồng nhượng
quyền thương mại cụ thể trên thực tế. Đề tài nghiên cứu về:
1. Các quyền thương mại được chuyển giao trong hợp đồng nhượng quyền.
2. Sự khác nhau về đối tượng trong từng loại hợp đồng nhượng quyền.
3. Các xung đột có thể phát sinh liên quan đến đối tượng của hợp đồng nhượng
quyền.
IV. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các nghiên cứu trước đây thiên về những vấn đề pháp lý đối với hoạt động
thương mại này, bao gồm việc phân tích các quy định của Luật thương mại, Luật
Cạnh tranh, Luật Sở hữu trí tuệ, và Luật chuyển giao công nghệ đối với điều kiện về
chủ thể của hợp đồng nhượng quyền, quyền và nghĩa vụ của các bên, các thoả thuận

hạn chế cạnh tranh… Các nghiên cứu và bài viết trước đây cũng đề cập đến nhượng
quyền thương mại nhưng ở góc độ khái quát, tổng thể. Đứng ở góc độ của Luật Cạnh
tranh, các thoả thuận nhượng quyền thương mại cũng là đối tượng nghiên cứu của
các tác giả quan tâm đến các thoả thuận có thể làm ảnh hưởng đến cạnh tranh trên thị
trường, nhất là những thoả thuận hạn chế cạnh tranh. Các nghiên cứu chuyên về hợp
đồng nhượng quyền thương mại cũng như các vấn đề pháp lý liên quan phải kể đến
Luận văn thạc sĩ Hồ Vĩnh Long – “Hợp đồng nhượng quyền thương mại theo pháp
luật Việt Nam” (2006) đi sâu phân tích các quy định pháp luật đối với nội dung của
hợp đồng nhượng quyền thương mại, Luận văn thạc sĩ Vũ Hương Giang – “Pháp luật
nhượng quyền thương mại ở Việt Nam – thực trạng và định hướng hoàn thiện”
(2006), Khoá luận tốt nghiệp Nguyễn Thị Thanh Huyền – “Chế độ pháp lý về
2


nhượng quyền thương mại theo Luật Thương mại 2005” (2006) với các đánh giá tổng
thể và kiến nghị về pháp luật nhượng quyền thương mại. Bên cạnh đó, một số bài viết
được đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: “Hoàn thiện khung pháp lý về nhượng
quyền thương mại” của tác giả Bùi Ngọc Cường đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập
pháp số 8 (105) T8/2007. “Một số vấn đề pháp lý về chủ thể của Hợp đồng nhượng
quyền thương mại” của tác giả Vũ Đặng Hải Yến đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số (120), 4/2008. Nghiên cứu gần đây về đối tượng của hoạt động nhượng
quyền thương mại là Khoá luận tốt nghiệp cử nhân Luật của Lê Thanh Thuấn, Đối
tượng của hoạt động nhượng quyền thương mại – Lý luận và thực tiễn, 2008. Với
mục đích thu hẹp phạm vi nghiên cứu, đề tài đi sâu vào nghiên cứu đối tượng của
nhượng quyền thương mại để đánh giá và đề xuất hướng hoàn thiện cho pháp luật
quy định về vấn đề này.
V. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên phương pháp duy vật biện chứng, so sánh, phân tích, tổng hợp.
Trên cơ sở tham khảo các tài liệu chuyên ngành (sách, tạp chí chuyên ngành) và một
số hợp đồng NQTM cụ thể cùng các ý kiến, đánh giá của chun gia có kinh nghiệm,

phân tích, đánh giá nhằm đề ra những biện pháp hoàn thiện quy chế pháp lý về
nhượng quyền thương mại ở Việt Nam nói chung và đối tượng của nhượng quyền
thương mại nói riêng.
VI. Bố cục đề tài
Đề tài được phân bố thành 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nhượng quyền thương mại, hợp đồng
nhượng quyền thương mại và đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Chương 1 trình bày về một số vấn đề lý luận về hợp đồng nhượng quyền thương
mại để từ đó đi sâu phân tích khái niệm đối tượng của hợp đồng nhượng quyền
thương mại, đồng thời khảo sát những quan điểm trong nội dung này.
Chương 2: Thực trạng pháp luật quy định về đối tượng của hợp đồng nhượng
quyền thương mại, thực tiễn áp dụng và kiến nghị.
Chương 2 nêu ra thực trạng pháp luật đối với đối tượng của hợp đồng nhượng
quyền thương mại cũng như việc áp dụng pháp luật thể hiện qua việc xác định đối
3


tượng của một số hợp đồng nhượng quyền thương mại cụ thể, đề xuất những kiến
nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về đối tượng của hợp đồng nhượng quyền
thương mại.

4


CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI,
HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA
HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI.
1.1.


Nhượng quyền thương mại

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm nhượng quyền thương mại
Nhượng quyền thương mại (franchise) ra đời đầu tiên Châu Âu nhưng được du
nhập và khởi sắc ở Hoa Kỳ, phát triển do nhu cầu của các thương nhân để chống lại
sự cạnh tranh của các cơng ty hoạt động theo mơ hình chi nhánh. Sau chiến tranh thế
giới thứ hai, hoạt động franchise khởi sắc, đa dạng nhất là trong lĩnh vực đồ ăn
nhanh.
Bắt đầu từ việc nhượng quyền các trạm xăng dầu, con số các doanh nghiệp
nhượng quyền ở Mỹ hiện nay đã tăng lên gần 550.000, với lợi nhuận chiếm đến 44%
doanh số bán lẻ. Con số này ở Châu Âu là 100 tỉ EUR/năm với hơn 4000 hệ thống
nhượng quyền và 167.000 cửa hàng. Nhượng quyền thương mại du nhập vào
Australia, các nước châu Á, trong đó có Philipines, Singapore, Trung Quốc,
Maylaysia…Các nước này có các chiến lược quốc gia về phát triển nhượng quyền
thương mại. Thị trường Việt Nam không là ngoại lệ với xu hướng này.
1.1.1.1. Khái niệm nhượng quyền thương mại
Nhượng quyền thương mại là khái niệm mới trong kinh tế cũng như trong pháp
luật Việt Nam. Cụm từ “Nhượng quyền thương mại” được dịch ra từ thuật ngữ
“Franchise” hay “Franchising”. Thuật ngữ “Franchise” bắt nguồn từ “franc” trong
tiếng Pháp, có nghĩa là tự do. Theo Từ điển Webster của Anh, “franchise” là một đặc
quyền được trao cho một người hay một nhóm người để phân phối hay bán sản phẩm,
dịch vụ của một chủ thương hiệu trong một khu vực địa lý nhất định1. Theo định
nghĩa của Từ điển Anh Việt của Viện Ngôn ngữ học thì franchise có nghĩa là nhượng
quyền kinh doanh hay cho phép ai đó chính thức được bán hàng hố hay dịch vụ của
một công ty ở một khu vực cụ thể nào đó. Nói cách khác, franchise là một phương
1

/>
5



thức kinh doanh phân phối sản phẩm hay dịch vụ dựa trên mối quan hệ của hai bên
đối tác, một bên là franchisor (bên nhượng quyền) và một bên là franchisee (bên
nhận quyền hay bên mua franchise) với những thoả thuận dưới hình thức một hợp
đồng franchise. Quan hệ nhượng quyền “franchise” được xem xét như một mối
quan hệ theo hợp đồng kinh tế. Trước đây, tại Việt Nam, khi franchise mới bắt đầu
hình thành, thuật ngữ này được dịch ra là nhượng quyền thương mại, nhượng quyền
kinh doanh hay nhượng quyền thương hiệu. Cụm từ “Nhượng quyền kinh doanh”
thường được các nhà kinh tế trước đây sử dụng, nhấn mạnh đến yếu tố tiến hành hoạt
động một mơ hình kinh doanh theo công thức kinh doanh được định sẵn. Nhượng
quyền thương mại tuy được sử dụng rộng rãi nhưng thực ra, thuật ngữ này khơng
hồn tồn chính xác. Nó chỉ đề cập đến một yếu tố quan trọng của franchise là
thương hiệu, các đối tượng vơ hình làm nên giá trị của một hệ thống nhượng quyền.
Franchise hiện nay được pháp luật cũng như thực tiễn Việt Nam thừa nhận với thuật
ngữ “nhượng quyền thương mại”.
Hiệp hội nhượng quyền thương mại Quốc tế (The International Franchise
Association - IFA) là hiệp hội lớn nhất nước Mỹ và thế giới đã nêu ra Khái niệm
nhượng quyền thương mại như sau: "Nhượng quyền thương mại là mối quan hệ theo
hợp đồng, giữa Bên giao và Bên nhận quyền, theo đó Bên giao đề xuất hoặc phải duy
trì sự quan tâm liên tục tới doanh nghiệp của Bên nhận trên các khía cạnh như: bí
quyết kinh doanh (know-how), đào tạo nhân viên; Bên nhận hoạt động dưới nhãn
hiệu hàng hóa, phương thức, phương pháp kinh doanh do Bên giao sở hữu hoặc kiểm
soát; và Bên nhận đang, hoặc sẽ tiến hành đầu tư đáng kể vốn vào doanh nghiệp
bằng các nguồn lực của mình". Theo đó “franchise” được xem là mối quan hệ hợp
đồng giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền nhằm chuyển giao quyền sử dụng
các đối tượng sở hữu trí tuệ khi bên nhận quyền tiến hành hoạt động kinh doanh.
Trong quyển “Hướng dẫn nhượng quyền thương mại tại Malaysia” tác giả
Awalan Abdul Aziz đã đưa ra định nghĩa “franchise là một phương thức tiếp thị và
phân phối sản phẩm hay dịch vụ dựa trên mối quan hệ giữa hai đối tác: một bên được
gọi là franchisor, và một bên gọi là franchisee. Bên mua được cấp phép sử dụng

thương hiệu của bên bán franchise để kinh doanh tại một địa điểm hay khu vực nhất

6


định, trong một khoản thời gian nhất định”. Đây là một cách thức tiếp cận chú trọng
đến hoạt động phân phối hàng hố theo một mơ hình đã được kiểm chứng2.
Theo Nguyễn Thanh Tâm, “Franchising được định nghĩa như một phương pháp
hợp tác giữa hai hay nhiều doanh nghiệp, một bên là bên nhượng quyền (franchisor),
bên kia là bên nhận quyền (franchisee), theo đó bên nhượng quyền, chủ sở hữu hoặc
có quyền kiểm sốt đối với tên thương mại hoặc tên pháp lý quen thuộc, các ký hiệu,
các biểu tượng, nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu thương mại hoặc nhãn hiệu dịch vụ,
một bí quyết đặc biệt, trao cho người khác quyền sử dụng một tập hợp các sản phẩm
hoặc dịch vụ, nguyên gốc hoặc đặc biệt, để độc quyền khai thác chúng, một cách bắt
buộc và hoàn toàn theo cách thức thương mại đã được thử nghiệm, được chỉnh sửa
và hồn thiện định kỳ, để có được ảnh hưởng tốt nhất đối với thị trường, và để đạt
được sự phát triển tăng tốc của hoạt động thương mại của doanh nghiệp liên quan,
để đổi lấy tiền bản quyền hoặc một lợi thế; theo hợp đồng, có thể có sự hỗ trợ về sản
xuất, thương mại hoặc tài chính, để bên nhận quyền hội nhập vào hoạt động thương
mại của bên nhượng quyền và bên nhượng quyền có thể tiến hành một số kiểm soát
bước đầu đối với bên nhận quyền về việc thực hiện một phương pháp độc đáo hoặc
một bí quyết đặc biệt, để duy trì hình ảnh của nhãn hiệu dịch vụ hoặc sản phẩm bán
ra và phát triển khách hàng với giá rẻ nhất, với khả năng sinh lợi lớn nhất của cả hai
bên, theo đó, hai bên vẫn độc lập hoàn toàn về mặt pháp luật”3.
Franchise, theo quan điểm này, là một phương thức hợp tác giữa hai chủ thể có
mối quan tâm về quan hệ nhượng quyền. Định nghĩa này tuy có vẻ dài dòng như
đang tập hợp đến những yếu tố đặc trưng của franchise.
Nói chung, theo các quan điểm trên, franchise là mối quan hệ giữa hai chủ thể
trong hợp đồng cấp quyền kinh doanh, bao gồm quyền phân phối sản phẩm có sử
dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ của bên nhượng quyền nhằm thu một khoản phí,

gọi là phí nhượng quyền. Mối quan hệ này đòi hỏi sự tuân thủ chặt chẽ của bên nhận
quyền khi sử dụng nhãn hiệu, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, theo quy trình
của bên nhượng quyền.

2

Lý Quý Trung, (2007), Mua Franchise – Cơ hội mới cho các doanh nghiệp Việt Nam, Nxb. Trẻ, tr. 12
Nguyễn Thanh Tâm, (2007), Quyền sở hữu công nghiệp trong hoạt động thương mại, Nxb. Lao động xã hội,
tr.128, 129.
3

7


Trong pháp luật Việt Nam, hoạt động nhượng quyền thương mại được chính thức
thừa nhận từ Nghị định 11/2005/NĐ-CP của chính phủ quy định chi tiết về hoạt động
“cấp phép đặc quyền kinh doanh”. Theo đó, bên nhận sử dụng tên thương mại, nhãn
hiệu hàng hố và bí quyết của Bên giao để tiến hành hoạt động kinh doanh trong lĩnh
vực dịch vụ thương mại4. Khái niệm này còn sơ khai và phạm vi điều chỉnh hẹp, chỉ
trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
Đến Luật Thương mại 2005, hoạt động nhượng quyền thương mại đã được định
nghĩa tại Điều 284 như sau:
“Nhượng quyền thương mại là hoạt động thưong mại theo đó bên nhượng quyền
cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung
ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
1. Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ
chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng
hố, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh
doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền.
2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm sốt và trợ giúp cho bên nhận quyền trong

việc điều hành công việc kinh doanh.”
Khái niệm theo Điều 284 Luật thương mại xác định nhượng quyền thương mại là
một hoạt động thương mại nhằm thiết lập một cơ sở kinh doanh mới, với hàng hoá
dịch vụ mang nhãn hiệu của bên nhượng quyền, đồng thời, bên nhận quyền sẽ sử
dụng các yếu tố sở hữu trí tuệ khác (gồm cả hoạt động quảng cáo để tự mình tiến
hành hoạt động kinh doanh). Khái niệm này chưa bao qt hết các mơ hình nhượng
quyền có thể được thực hiện tại Việt Nam. Một điểm nữa là khái niệm trên khơng
nhắc gì đến phí nhượng quyền, một yếu tố rất quan trọng không thể bỏ qua khi nhắc
tới nhượng quyền thương mại.
1.1.1.2. Đặc điểm của nhượng quyền thương mại
Franchise là một phương thức kinh doanh hàng hố, dịch vụ được phát triển do
sự địi hỏi của việc mua bán hàng hố khơng theo hình thức chi nhánh, khi mà chủ sở

4

Khoản 6, Điều 4 Nghị định 11/2005/NĐ-CP

8


hữu thương hiệu “chia sẻ” những tài sản vơ hình cho một chủ thể khác để đổi lại một
khoảng phí. Bản chất của nhượng quyền thương mại là cho người khác sử dụng
chung mơ hình kinh doanh, cách thức kinh doanh hàng hoá, dịch vụ dưới cùng một
thương hiệu chứ không phải là bán thương hiệu. Thương hiệu được hiểu là tên
thương mại của thương nhân trong hoạt động thương mại5. Thương hiệu chỉ có thể
cho thuê hoặc bán cùng với việc bán cơ sở kinh doanh. Nói cách khác, chỉ có thể bán
cơ sở kinh doanh cùng với tên thương mại của nó hoặc bán cơ sở kinh doanh mà
không bán tên thương mại chứ không thể chỉ bán tên thương mại mà không bán cơ sở
kinh doanh. Thương hiệu nổi tiếng của thương nhân là do chất lượng sản phẩm hàng
hoá, dịch vụ của thương nhân quyết định chứ khơng phải ngược lại6. Nhượng quyền

thương mại là hình thức cho phép bên nhận quyền có cơ sở kinh doanh mang tên
thương mại của bên nhượng quyền (đối với khách hàng) nhưng nhân danh mình với
tên thương mại khác trong mối quan hệ quản lý kinh tế với nhà nước.
Dưới góc độ pháp lý, franchise có các đặc điểm sau:
- Bên nhận tự mình thực hiện hoạt động kinh doanh dưới sự cho phép của bên
nhượng quyền trong việc sử dụng tập hợp các yếu tố sở hữu trí tuệ gắn với hàng hoá,
dịch vụ. Hai chủ thể trong mối quan hệ này có địa vị pháp lý độc lập trong mối quan
hệ hợp tác để nhân rộng việc tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu của bên
nhượng quyền. Bên nhượng quyền thường là thương nhân mang tư cách pháp nhân.
Trong thực tế, đa số các bên tham gia quan hệ nhượng quyền là thương nhân.
- Đối tượng của hoạt động nhượng quyền là tổ hợp những quyền liên quan đến
sở hữu trí tuệ của bên nhượng quyền. Các yếu tố sở hữu trí tuệ, được xem như “phần
vốn góp” của bên nhượng quyền, là đối tượng mà bên nhận quyền muốn nhận được
để tiến hành kinh doanh ít rủi ro và nhanh chóng có lợi nhuận.
- Có sự kiểm tra, giám sát của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền để
đảm bảo hoạt động kinh doanh đáp ứng yêu cầu đã đề ra khi được cấp phép.
- Bên nhận quyền phải trả một khoản phí cho bên nhượng quyền. Khoản phí
này bao gồm nhiều loại, gọi chung là phí nhượng quyền. Bên nhận quyền phải trả phí
5

/>d=118:ctc20075&Itemid=110
6
Nguyễn Thị Khế, Bùi Thị Khuyên, (2007), Luật thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại. Nxb, Tài
chính, tr. 238.

9


nhượng quyền ban đầu (initial fee), sau đó là phí định kì (royalty fee/ monthly fee),
và chi phí quảng cáo của hệ thống (marketing fee) (nếu có).

Dựa trên các định nghĩa và đặc điểm đã trình bày, theo tác giả khái niệm nhượng
quyền thương mại nên được định nghĩa như sau: “Nhượng quyền thương mại là một
mối quan hệ theo hợp đồng giữa bên nhượng quyền (franchisor) và bên nhận quyền
(franchisee), theo đó, bên nhận quyền cấp cho bên nhận quyền quyền tiến hành hoạt
động kinh doanh hàng hoá, hoặc dịch vụ gắn với nhãn hiệu, và yếu tố sở hữu trí tuệ
của bên nhượng quyền, trong một thời gian nhất định tại một lãnh thổ xác định, để
đổi lấy một khoản phí trực tiếp hoặc gián tiếp từ bên nhận quyền”.
1.1.2. Phân loại nhượng quyền thương mại
Án lệ Pronuptia de Paris lần đầu tiên tại Pháp công nhận hiệu lực của hợp đồng
franchise, từ đó, căn cứ vào mục đích của nhượng quyền thương mại thì nhượng
quyền thương mại bao gồm:
 Nhượng quyền sản xuất (Processing franchise) Bên nhượng quyền cho phép
bên nhận quyền sản xuất và bán các sản phẩm gắn nhãn hiệu của bên nhượng quyền,
theo sự chỉ đạo của bên nhượng quyền. Hợp đồng franchise sản xuất bao hàm li-xăng
nhãn hiệu hoặc sáng chế kèm theo một mơ hình sản xuất và chính sách thương mại
chung. Yếu tố chuyển giao quan trọng trong hợp đồng này là bí quyết. Các lĩnh vực
như sản xuất xăng dầu, đồ uống, thức ăn nhanh thường áp dụng loại hình nhượng
quyền này.
 Nhượng quyền dịch vụ (Service franchise) Bên nhận quyền được quyền sử
dụng nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng, bí quyết của bên nhượng quyền để cung
cấp dịch vụ cho khách hàng, theo sự chỉ đạo của bên nhượng quyền. Hợp đồng dạng
này phổ biến trong kinh doanh đồ dăn nhanh, nhà hàng, giặt là, khách sạn. Ở
Australia, loại hợp đồng franchise dịch vụ được gọi là “business format franchise”.
 Nhượng quyền phân phối (Distribution franchise) Bên nhận quyền chỉ có
quyền bán sản phẩm gắn nhãn hiệu sản phẩm tại cửa hàng mang tên thương mại hoặc
biểu tượng của bên nhượng quyền. Thông thường, loại nhượng quyền này xuất hiện
trong tiêu thụ nhiên liệu ôtô của một hãng nào đó, hàng hố của các hãng mỹ phẩm,
hàng may mặc của các hãng thời trang nổi tiếng.
10



Đây là cách phân loại phổ biến trên thế giới, đặc biệt là các nước thuộc khối EU.
Theo phân loại của John Hamilton Pratt có các loại nhượng quyền sau:
+ Nhượng quyền nghề nghiệp (Job Franchise): người chủ là người điều hành
việc kinh daonh nhượng quyền.
+ Nhượng quyền phân phối và bán hàng (Sale and Distribution Franchise): bên
nhận quyền là cá nhân tự hoạt động kinh doanh nhượng quyền.
+ Nhượng quyền bán lẻ (Outlet Franchise): bên nhận quyền thành lập cơ sở bán
lẻ và bán hàng hoá trực tiếp cho người tiêu dùng.
+ Nhượng quyền quản lý (Management Franchise): thường là hệ thống nhượng
quyền lớn và lâu dài, việc quản lý do người có chun mơn thực hiện.
+ Nhượng quyền đầu tư (Investment Franchise): đòi hỏi vốn lớn và nhà đầu tư
không trực tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh.
+ Nhượng quyền phân đoạn (Fractional Franchise): Bên nhượng quyền sẽ lựa
chọn những bên nhận quyền đang hoạt động kinh doanh.
+ Nhượng quyền kết hợp (Combination Franchise): Bên nhượng quyền bán
hàng hố và dịch vụ của mình lại cho một đơn vị của bên nhượng quyền khác.
+ Nhượng quyền chuyển đổi (Conversion Franchise): khi một người tự chuyển
mình sang tình trạng bên nhận quyền trong cùng môt lĩnh vực hoạt động kinh doanh7.
Việc chia nhỏ các hình thức nhượng quyền theo Hamilton Pratt có thể gây khó
khăn trong việc xác định loại nhượng quyền vì có những lĩnh vực bao hàm các loại
hình nhượng quyền này.
1.1.3. Phân biệt nhượng quyền thương mại với một số hình thức kinh doanh
khác
Nhượng quyền thương mại có các yếu tố của hoạt động chuyển giao công nghệ,
li-xăng, và hợp tác kinh doanh. Nhưng nhượng quyền thương mại khơng phải là hình
7

Luận văn thạc sĩ, Hồ Vĩnh Long, Hợp đồng nhượng quyền thương mại theo pháp luật Việt Nam, 2006, tr.15.


11


thức cộng gộp cơ bản các đặc tính của các hoạt động này. Hoạt động thương mại này
có những nét khác biệt mà nếu khơng nhìn nhận kỹ rất dễ bị nhầm lẫn.
Thứ nhất, phân biệt với hoạt động chuyển giao công nghệ:
Chuyển giao công nghệ là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một
phần hoặc toàn bộ cơng nghệ từ bên có quyền chuyển giao cơng nghệ sang bên nhận
cơng nghệ8. Về tính chất, đây là một hình thức chuyển giao quyền sử dụng hoặc
quyền sở hữu cơng nghệ để ứng dụng vào quy trình sản xuất, kinh doanh. Còn
nhượng quyền thương mại là phương thức mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh bằng
một thoả thuận cho phép thương nhân khác được sử dụng nhãn hiệu, quy trình kinh
doanh, cơng nghệ…của bên nhượng quyền.
Bên nhận sử dụng cơng nghệ sản xuất ra sản phẩm có thể mang bất cứ nhãn hiệu,
kiểu dáng, tên thương mại nào. Đối với bên nhận quyền thương mại, sản phẩm kinh
doanh phải mang nhãn hiệu, tên thương mại của bên nhượng quyền, đồng thời phải
đảm bảo được chỉ tiêu về chất lượng, mẫu mã do bên nhượng quyền quy định.
Nhượng quyền thương mại hình thành nên một mạng lưới kinh doanh các sản phẩm
mang cùng một nhãn hiệu và các yếu tố nhận diện. Chuyển giao cơng nghệ khơng
nhằm mục đích hình thành mạng lưới này.
Đối tượng của chuyển giao cơng nghệ là “chuyển giao các kiến thức tổng hợp của
công nghệ hoặc cung cấp các máy móc, thiết bị, dịch vụ, đào tạo,… kèm theo các
kiến thức công nghệ cho bên mua. Đối tượng của nhượng quyền thương mại là tổ
hợp các quyền về sở hữu trí tuệ, được giao trọn gói cho bên nhận quyền kèm theo
những chỉ dẫn, hỗ trợ, đào tạo trong suốt quá trình kinh doanh. Về việc hỗ trợ bên
nhận chuyển giao, bên chuyển giao cơng nghệ chỉ có trách nhiệm hướng dẫn, đào tạo
ban đầu. Sau khi quá trình chuyển giao kết thúc, bên giao sẽ khơng cịn nghĩa vụ này
nữa (trừ các nghĩa vụ bảo hành, huấn luyện sử dụng công nghệ).
Thứ hai, phân biệt với hoạt động hợp tác kinh doanh:
Tuy cũng là một hình thức hợp tác giữa các chủ thể độc lập nhưng nhượng quyền

thương mại rất khác với hợp tác kinh doanh (Joint - Ventures). Các bên hợp tác đóng
góp tiền mặt, mặt bằng, hoặc có thể bằng bí quyết kinh doanh, nhãn hiệu… để thành
8

Khoản 8 Điều 3 Luật chuyển giao công nghệ 2006

12


lập một pháp nhân mới. Trong khi bên nhận quyền sẽ đứng ra chịu mọi phí tổn để
thành lập một cơ sở kinh doanh nhượng quyền thuộc sở hữu của bên nhận quyền
nhưng lại phải hoạt động theo các tiêu chuẩn được định sẵn và bị kiểm soát bởi bên
nhượng quyền, đồng thời phải trả cho bên nhượng quyền phí nhượng quyền để gia
nhập hệ thống.
Thứ ba, phân biệt với hoạt động li-xăng (license):
Hoạt động li-xăng là việc cấp phép, tương tự như nhượng quyền sản xuất, vì chủ
thương hiệu/bên cấp li-xăng không quan tâm đến hoạt động hàng ngày của bên được
cấp li-xăng mà chỉ chủ yếu quan tâm tới khoản phí mà họ sẽ thu hàng tháng hoặc
hàng năm, và liệu giấy phép có được sử dụng đúng mục đích khơng. Bên nhận quyền
tuy được cấp phép nhưng khơng được tự ý thay đổi mơ hình hoạt động nếu khơng có
sự đồng ý của bên nhượng quyền.
Về đối tượng được chuyển giao, hoạt động li-xăng chỉ dừng lại ở việc chuyển
giao các đối tượng sở hữu công nghiệp. Đối tượng nhượng quyền là việc chuyển giao
một tổ hợp quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp do bên nhượng quyền
sở hữu hoặc kiểm sốt.
Về mục đích của q trình chuyển giao, mục đích bên nhận li-xăng hướng đến là
nhãn hiệu hàng hố, kiểu dáng cơng nghiệp, sáng chế, giải pháp hữu ích nhằm xác
định hình thức, nội dung sản phẩm. Còn đối với nhượng quyền thương mại, mục đích
chính là hướng tới phát triển một hệ thống kinh doanh, một mơ hình, trong đó các đối
tượng của quyền sở hữu trí tuệ cũng như sản phẩm được sản xuất và kinh doanh chỉ

là một bộ phận9.
Các yếu tố của chuyển giao công nghệ, li-xăng và hợp tác kinh doanh có thể được
tìm thấy trong hoạt động nhượng quyền thương mại. Tuy nhiên, phạm vi và mức độ
của đối tượng chuyển giao trong nhượng quyền thương mại sâu rộng hơn chuyển
giao công nghệ và li-xăng.

9

/>
13


1.2. Hợp đồng nhượng quyền thương mại
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm hợp đồng nhượng quyền thương mại
1.2.1.1.

Khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại

Hợp đồng nhượng quyền thương mại sự thoả thuận giữa các bên chủ thể độc lập
mong muốn hợp tác với nhau thông qua nhượng quyền thương mại.
Theo Hiệp ước EEC, “Hợp đồng nhượng quyền thương mại là một thỏa thuận
trong đó, một bên là bên nhượng quyền cấp phép cho một bên khác là bên nhận
quyền khả năng được khai thác một “quyền thương mại” đối với một loại sản phẩm
hoặc dịch vụ đặc thù để đổi lại một cách trực tiếp hay gián tiếp một khoản tiền nhất
định. Hợp đồng này phải quy định các nghĩa vụ tối thiểu của các bên liên quan đến:
việc sử dụng tên thông thường hoặc dấu hiệu của cửa hàng hoặc một cách thức
chung; việc trao đổi công nghệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền; việc tiếp
tục thực hiện nhiệm vụ của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền trong việc trợ
giúp, hỗ trợ thương mại cũng như kỹ thuật trong suốt thời gian hợp đồng nhượng
quyền thương mại còn hiệu lực”10. Trong khái niệm này, ngồi khái qt hố đối

tượng của hợp đồng nhượng quyền là “quyền thương mại”, những điều khoản bắt
buộc trong hợp đồng cũng được nêu ra. Ngồi ra, franchise cịn được định nghĩa là
một tổ hợp các quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương hiệu, nhãn hiệu, bảng hiệu,
kiểu dáng, thiết kế, bản quyền, bí quyết kinh doanh hay sáng chế, được khai thác để
bán lại sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng cuối cùng.
Hội đồng Thương mại liên bang Hoa Kỳ (Federal Trade Commission) định nghĩa
franchise như sau: “Franchise là một hợp đồng hay thoả thuận giữa ít nhất hai
người, trong đó: Người mua franchise được cấp quyền bán hay phân phối sản phẩm,
dịch vụ theo cùng một kế hoạch hay hệ thống tiếp thị của người chủ thương hiệu.
Hoạt động kinh doanh của người mua franchise phải triệt để tuân theo kế hoạch hay
hệ thống tiếp thị này gắn liền với nhãn hiệu, thương hiệu, biểu tượng, khẩu hiệu, tiêu
chí, quảng cáo và những biểu tượng thương mại káhc của chủ thương hiệu. Người
mua frachise phải trả một khoản phí, trực tiếp hay gián tiếp, gọi là phí franchise”.

10

Vũ Đặng Hải Yến, Một số vấn đề pháp lý về chủ thể của Hợp đồng nhượng quyền thương mại, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp (04), tr. 41-62.

14


Theo định nghĩa như trên, “quyền thương mại” được chuyển giao còn bao gồm quyền
phân phối sản phẩm, dịch vụ của bên nhượng quyền. Sản phẩm hay dịch vụ đó có thể
do bên nhượng quyền cung cấp hoặc bên thứ ba được bên nhượng quyền chỉ định,
nhưng cũng có thể do bên nhận quyền sản xuất hoặc tự mình cung cấp theo kế hoạch,
quy trình do bên nhượng quyền chuyển giao. Thêm nữa, việc tiếp thị trong kinh
doanh của bên nhận quyền do bên nhượng quyền quyết định hoặc cho phép thực
hiện.
Án lệ Pronuptia de Paris ngày 20 tháng 4 năm 1978, trong đó, nội dung tranh

chấp chính liên quan đến các thỏa thuận của một hợp đồng nhượng quyền từ một
hãng bán áo cưới nổi tiếng của Pháp và bà Schillgalis với tư cách là bên nhận quyền.
Khi giải quyết tranh chấp này, Tòa án tư pháp Châu Âu đã lần đầu tiên công nhận
hiệu lực của hợp đồng nhượng quyền thương mại với tính chất khơng phải một dạng
hợp đồng phân phối sản phẩm mà là hợp đồng, theo đó, một bên có thể mở rộng
mạng lưới, kiếm tìm lợi nhuận mà khơng cần đầu tư bằng tiền của chính mình.
Ở Đức khơng có khái niệm pháp lý về hợp đồng nhượng quyền thương mại. Theo
các nhà làm luật Đức, hợp đồng nhượng quyền thương mại đơn thuần chỉ là một thoả
thuận theo chiều dọc giữa nhà sản xuất và người phân phối, là thoả thuận hợp tác để
phân phối sản phẩm, do đó, là đối tượng của pháp luật cạnh tranh. Trong hợp đồng
nhượng quyền, quan hệ cung ứng hàng hố, dịch vụ từ phía bên nhượng quyền cho
bên nhận quyền không nhất thiết phải tồn tại với lý do bên nhận quyền có thể tự mình
sản xuất ra sản phẩm. Bên nhượng quyền trao toàn bộ quyền thương mại dưới một
thể thống nhất cho bên nhận quyền. Bên nhận quyền là một chủ thể độc lập, có tên
thương mại riêng, mặc dù dịch vụ hoặc hàng hố mà bên này cung cấp trên thị trường
lại khơng mang tên thương mại đã đăng ký với nhà nước. Nhưng Hiệp hội nhượng
quyền thương mại nước này cũng đã đưa ra một khái niệm chính thức về hoạt động
nhượng quyền thương mại11.
Mỗi quốc gia đưa ra các định nghĩa khác nhau về hợp đồng nhượng quyền thương
mại tuỳ theo mục đích điều chỉnh thoả thuận này.

11

Vũ Đặng Hải Yến, tlđd.

15


1.2.1.2.


Đặc điểm của hợp đồng nhượng quyền thương mại

Từ những định nghĩa trên, có thể tóm tắt các đặc điểm của hợp đồng nhượng
quyền thương mại như sau:
- Hợp đồng nhượng quyền là hợp đồng song vụ ghi nhận sự thỏa thuận của bên
nhượng quyền và bên nhận quyền trong việc chuyển giao quyền kinh doanh các đối
tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ của bên nhượng quyền để tiến hành hoạt động kinh
doanh, đổi lại, bên nhận quyền có nghĩa vụ trả phí nhượng quyền.
- Đối tượng của hợp đồng được gọi chung là quyền kinh doanh hay quyền thương
mại được cấp bởi bên có quyền kiểm sốt, có thể là chủ thương hiệu, hoặc người
được chủ thương hiệu cho phép nhượng quyền lại. Tuỳ từng loại hợp đồng mà quyền
kinh doanh có nội hàm rộng hẹp khác nhau. Quyền kinh doanh có thể chỉ là quyền
phân phối sản phẩm hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu của bên nhượng quyền. Hoặc
trường hợp nhượng quyền mơ hình hoạt động của bên nhượng quyền, mối quan hệ sẽ
phức tạp hơn, ngồi quyền phân phối cịn là việc chuyển giao bí quyết kinh doanh,
cách thức quản lý, chiến lược maketing…
- Hợp đồng nhượng quyền có hiệu lực trong thời gian dài, để bên nhận quyền thu
có thời gian hoạt động và thu lợi nhuận. Khác với những hợp đồng thương mại khác,
mối quan hệ giữa hai bên trong hợp đồng nhượng quyền khá chặt chẽ, mang tính phụ
thuộc. Nếu sự hợp tác diễn ra tốt đẹp, các đối tác thường có xu hướng gia hạn hợp
đồng hoặc ký kết hợp đồng mới.
- Bên nhận quyền được tiến hành hoạt động kinh doanh trong một khu vực lãnh
thổ xác định, hai bên có nghĩa vụ khơng cạnh tranh với nhau. Bên nhận quyền mong
muốn được kinh doanh trong một khu vực độc quyền. Khu vực độc quyền có thể
được xác định bằng số khách hàng tiềm năng, khu vực địa lý hay giới hạn trong một
con đường, một khu phố. Bên nhượng quyền phải đảm bảo rằng không cấp phép cho
bên nhượng quyền nào khác trong khu vực đó, trừ khi có thuận rằng, bên nhượng
quyền có thể nếu bên nhận quyền không khai thác được lợi nhuận cần thiết trong khu
vực lãnh thổ độc quyền. Trong một số trường hợp, bên nhận quyền có quyền nhận
một khoản phí từ bên mới gia nhập hệ thống tiến hành kinh doanh trên lãnh thổ độc

quyền của mình.

16


- Hợp đồng ghi nhận sự hỗ trợ của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền khi
tiến hành kinh doanh. Sự hỗ trợ này bao gồm cung cấp các thông tin cần thiết trong
Cẩm nang hoạt động (Franchise Operating Manual), các chương trình đào tạo và
những tham vấn đối với các vấn để xảy ra hàng ngày khi tiến hành hoạt động kinh
doanh. Đồng thời với sự hỗ trợ này là quyền được kiểm soát của bên nhượng quyền
đối với hoạt động kinh doanh của bên nhận quyền, bao gồm cả kiểm kê về sổ sách kế
toán, bảo đảm bí mật kinh doanh…
Hợp đồng nhượng quyền là một văn bản điều chỉnh mối quan hệ giữa bên nhượng
quyền và bên nhận quyền. Chúng ta thường nghe nhắc đến Bản Giới Thiệu Về
Nhượng Quyền Thương Mại (Uniform Franchise Offering Circular – UFOC) của
Mỹ. Đây là tài liệu bắt buộc bên nhượng quyền phải gửi cho bên nhận quyền trước
khi tiến hành đàm phán và đi đến kí kết hợp đồng để ràng buộc nghĩa vụ của hai bên.
Bản giới thiệu cung cấp một cách chi tiết về chủ thương hiệu, hệ thống franchise,
những quyền được chuyển giao, phí franchise, quyền và nghĩa vụ của các bên… kèm
theo hợp đồng franchise mẫu do bên nhượng quyền soạn thảo.
Tóm lại, có thể nói: “Hợp đồng nhượng quyền thương mại là một tập hợp các
thoả thuận của các bên chủ thể, trong đó các bên phải đề cập đến ít nhất một số vấn
đề chủ yếu liên quan đến: một là, sự chuyển giao các yếu tố của quyền sở hữu công
nghiệp, sở hữu trí tuệ từ bên nhượng quyền sang bên nhận quyền nhằm khai thác thu
lợi nhuận; hai là, nghĩa vụ tài chính cũng như các nghĩa vụ đối ứng khác của bên
nhận quyền đối với bên nhượng quyền; ba là, sự hỗ trợ của bên nhượng quyền đối
với bên nhận quyền trong suốt q trình thực hiện hợp đồng”.
Mục đích của hợp đồng nhượng quyền là thúc đẩy việc tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ
của bên nhượng quyền trên thị trường bằng cách xây dựng, thành lập một công ty
kinh doanh/cơ sở kinh doanh thương mại mới của bên nhận quyền giống với công

ty/cơ sở của bên nhượng quyền.
Hợp đồng nhượng quyền giống như một hợp đồng cho thuê, “mua một cơ hội hữu
hạn”12. Hợp đồng nhượng quyền đề cao đến phí nhượng quyền, thời hạn, gia hạn, kết
thúc hợp đồng và các yếu tố thường thấy trong hợp đồng thuê. Các yếu tố chính trong
một hợp đồng nhượng quyền bao gồm:
12

Mary E. Tomzack, (2008), Mua franchise thủ thuật và cạm bẫy, Nxb Thanh niên, tr.8.

17


i) Chủ thể của hợp đồng: Hợp đồng nhượng quyền thương mại ghi nhận sự thoả
thuận của hai chủ thể độc lập, bên nhượng quyền và bên nhận quyền. Bên nhượng
quyền có thể là bên nhượng quyền sơ cấp (bên nhượng quyền ban đầu) hoặc bên
nhượng quyền thứ cấp (bên được quyền cấp phép lại). Bên nhận quyền cũng phân
thành bên nhận quyền sơ cấp và bên nhận quyền thứ cấp.
 Bên nhượng quyền (Franchisor): Là một bên trong hợp đồng, có thẩm
quyền chuyển giao các quyền kinh doanh cho một hoặc nhiều bên để tiến hành kinh
doanh, phân phối hàng hoá, dịch vụ dựa trên quyền sử dụng các đối tượng sở hữu trí
tuệ. Quyền chuyển giao các đối tượng sở hữu trí tuệ này xuất phát từ quyền sở hữu
đối với các đối tượng này hoặc được chủ sở hữu quyền thương mại cho phép cấp lại
cho bên thứ ba.
 Bên nhận quyền (Franchisee): là bên được cấp phép sử dụng quyền kinh
doanh, có nghĩa vụ chính là trả phí nhượng quyền.
Các bên trong hợp đồng phải thoả mãn các điều kiện do pháp luật quy định để có
thể tiến hành nhượng quyền thương mại. Đối với bên nhượng quyền, các điều kiện có
phần khắt khe hơn như quy định về thời hạn đã hoạt động kinh doanh trước khi
nhượng quyền, các nghĩa vụ về đăng ký nhượng quyền và các tài liệu bắt buộc phải
giao cho bên nhận quyền trước khi đàm phán, ký kết hợp đồng. Bên nhận quyền

thường chỉ cần thoả mãn điều kiện có đăng ký kinh doanh ngành nghề dự kiến nhận
quyền.
ii) Đối tượng hợp đồng: Đối tượng của hợp đồng nhượng quyền là quyền thương
mại mà bên nhượng quyền chuyển nhượng cho bên nhận quyền trong một thời gian
nhất định tại một khu vực địa lý nhất định. Yếu tố này sẽ được phân tích kỹ ở phần
sau.
iii) Thời hạn hợp đồng: Bên nhận quyền chỉ có thể sử dụng quyền thương mại
do bên nhượng quyền cấp trong thời hạn được thoả thuận trong hợp đồng. Thời hạn
của hợp đồng nhượng quyền thường kéo dài vì bên nhận quyền cần có thời gian để
tiến hành hoạt động kinh doanh cũng như tìm kiếm lợi nhuận so với chi phí đã bỏ ra
ban đầu. Thời hạn thông thường là 2, 3, 5 hay 10 năm.
iv) Phí nhượng quyền: Đây là khoản phí mà bên nhận quyền phải trả cho bên
nhượng quyền, đổi lại, họ được nhận quyền thương mại cũng như sự hỗ trợ của bên
18


nhượng quyền. Phí nhượng quyền bao gồm 2 loại: phí nhượng quyền ban đầu (initial
fee) và phí hàng tháng (loyalty/monthly fee). Phí nhượng quyền ban đầu thơng
thường được trả một lần, khi ký hợp đồng, được xem như là khoản phí ban đầu để gia
nhập vào hệ thống nhượng quyền thương mại (franchise network). Phí hàng tháng
được trả hàng tháng tính theo phần trăm của doanh thu mỗi tháng của cửa hàng
nhượng quyền. Ngồi ra, có thể có thêm phí tiếp thị (marketing fee) đóng góp vào chi
phí cho việc quảng bá thương hiệu của toàn hệ thống.
v) Quyền và nghĩa vụ của các bên: Nội dung của hợp đồng nhượng quyền
thương mại là phần quan trọng trong một hợp đồng nhượng quyền. Các nghĩa vụ chủ
yếu của bên nhượng quyền là hỗ trợ bên nhận quyền trong hoạt động kinh doanh; bảo
đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm, dịch vụ; đối xử công bằng với các bên
nhận quyền trong hệ thống,… Đối với bên nhận quyền, nghĩa vụ quan trọng và chủ
yếu là trả đủ phí nhượng quyền, tuân thủ theo sự chỉ dẫn của bên nhượng quyền, đảm
bảo sự đồng bộ trong hệ thống, bảo vệ bí mật kinh doanh…

Một điểm quan trọng cần lưu ý, nhượng quyền thương mại được tiến hành trong
một thời hạn lâu dài và nghĩa vụ pháp lý của các bên cũng phải được quy định chặt
chẽ, nên hình thức pháp lý của hợp đồng được pháp luật các nước thống nhất phải
bằng văn bản.
1.2.2. Phân loại hợp đồng nhượng quyền thương mại
Hợp đồng nhượng quyền là một loại hợp đồng đặc biệt, khơng có hợp đồng mẫu
cho thoả thuận này. Các thoả thuận trong hợp đồng có sự khác biệt đối với mỗi hình
thức nhượng quyền. Có hai hình thức nhượng quyền cơ bản: (i)Nhượng quyền phân
phối sản phẩm (product distribution franchise) và (ii)Nhượng quyền sử dụng công
thức kinh doanh (business format franchise).Tương ứng với hai hình thức này có 2
loại hợp đồng chính: Hợp đồng nhượng quyền phân phối và Hợp đồng nhượng quyền
công thức kinh doanh .
i) Hợp đồng nhượng quyền phân phối: Đối với nhượng quyền phân phối, hợp
đồng là sự thỏa thuận của bên nhượng quyền và bên nhận quyền, theo đó, bên nhận
quyền được phép sử dụng nhãn hiệu (trade mark), tên thương mại (trade name), biểu
tượng (logo), khẩu hiệu (slogan) và phân phối sản phẩm hay dịch vụ của chủ thương

19


hiệu trong một khu vực và thời hạn nhất định13. Do có liên quan đến quyền sử dụng
chủ yếu về nhãn hiệu, hợp đồng nhượng quyền loại này thường kèm theo một hợp
đồng li-xăng nhãn hiệu: người nhận quyền phải được quyền phân phối các sản phẩm
dưới nhãn hiệu của bên nhượng quyền. “Dấu hiệu để tập hợp khách hàng” ở đây là
nhãn hiệu hàng hoá, các dấu hiêu nhận diện như logo, biểu tượng… được trưng bày
tại cơ sở kinh doanh của bên nhận quyền. Các dấu hiệu này giúp phân biệt được một
có sở kinh doanh/doanh nghiệp với các cơ sở kinh doanh/các doanh nghiệp là đối thủ
cạnh tranh. Các dấu hiệu này cấu thành hệ thống nhượng quyền14.
Bên nhượng quyền tự quản lý công việc kinh doanh của mình và ít bị ràng buộc
bởi các chỉ thị của bên nhượng quyền, hay họ ít được sự hỗ trợ của bên nhượng

quyền. Hình thức này gần giống với hợp đồng cấp phép, khi mà chủ thương hiệu chỉ
quan tâm đến vấn đề phân phối sản phẩm mà không giành cho mình quyền kiểm sốt
hoạt động hàng ngày hay tiêu chuẩn về hình thức của cửa hàng nhượng quyền. Phổ
biến tại phương Tây đối với mối quan hệ này là các trạm xăng dầu, các đại lý bán ôtô
(Công ty sản xuất ôtô Ford), các công ty sản xuất nước giải khát đóng chai, điển hình
là Coca – Cola hay Pepsi, hệ thống cửa hàng bán mỹ phẩm như VICHY, L’OREAL.
Có các loại franchise phân phối khác nhau, dựa vào chủ thể của bên nhượng quyền,
có thể chia thành 2 loại: franchise phân phối trong đó bên nhượng quyền là nhà sản
xuất, và franchise phân phối trong đó bên nhượng quyền là nhà phát hành.
ii) Hợp đồng nhượng quyền công thức kinh doanh: Đối với nhượng quyền công
thức kinh doanh, hợp đồng nhượng quyền ngoài quyền sử dụng các đối tượng sở hữu
trí tuệ như trên, cịn bao gồm việc chuyển giao kỹ thuật kinh doanh và công thức điều
hành quản lý. Mạng lưới nhượng quyền được bảo đảm thống nhất, đòi hỏi mối liên
hệ và hợp tác giữa bên mua và bên bán franchise phải rất chặt chẽ và liên tục. Bên
nhận quyền phải chịu sự giám sát, kiểm tra hoạt động hàng ngày cũng như về tài
chính của bên nhượng quyền. Ngược lại, bên nhượng quyền cũng phải thực hiện
nghĩa vụ hỗ trợ kỹ thuật cũng như trợ giúp bên nhận quyền giải quyết các vấn đề phát
sinh trong quá trình kinh doanh. Hợp đồng dạng này thường phải kèm theo một hợp
đồng li-xăng bí mật kinh doanh: hợp đồng nhượng quyền căn cứ trên một sự chuyển
giao các kiến thức kỹ thuật, các phương thức kinh doanh, các bí quyết. Hợp đồng li –
13

Lý Quý Trung, (2007), tlđd, tr. 57 đến tr.59
Bùi Ngọc Cường, Hoàn thiện pháp luật về nhượng quyền thương mại, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số
8(105) T8/2007, tr.32.
14

20



×