Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

Giám định trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.16 MB, 144 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

TRẦN TÚ XUÂN

GIÁM ĐỊNH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2016 - 2020

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

TRẦN TÚ XUÂN

GIÁM ĐỊNH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2016 – 2020

Giảng viên hướng dẫn: Ths. Phạm Thị Thúy
Sinh viên thực hiện: Trần Tú Xuân
MSSV: 1653801012342
Lớp: DS41.4

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2020




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Phạm Thị Thúy, đảm bảo
tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2020
Tác giả

Trần Tú Xuân


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung
Luật GĐTP 2012

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật GĐTP 2012
trình Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến tại
Phiên họp thứ 41, Quốc hội Khóa XIV,
tháng 01/2020

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự


LSĐBSBLTTDS

Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự

Luật GĐTP

Luật Giám định tư pháp

Luật TTHC 2015

Luật Tố tụng hành chính

Nxb.

Nhà xuất bản

PLTTGQCTCLĐ

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động

PLTTGQCVADS

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

PLTTGQCVAKT

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế

Tp.


Thành phố

Tr.

Trang


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: HOẠT ĐỘNG GIÁM ĐỊNH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ................. 6
1.1 Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa hoạt động giám định trong tố tụng dân sự ......... 6
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm hoạt động giám định trong tố tụng dân sự ......................... 6
1.1.2 Ý nghĩa của hoạt động giám định tư pháp trong tố tụng dân sự ........................ 14
1.2. Nguyên tắc tiến hành hoạt động giám định trong tố tụng dân sự .................... 16
1.3 Trưng cầu giám định ............................................................................................. 20
1.3.1 Khái niệm trưng cầu giám định ......................................................................... 20
1.3.2. Chủ thể trưng cầu giám định ............................................................................. 20
1.3.3 Trình tự, thủ tục trưng cầu giám định ................................................................ 24
1.4. Yêu cầu giám định................................................................................................. 29
1.4.1. Khái niệm yêu cầu giám định ........................................................................... 29
1.4.2. Chủ thể yêu cầu giám định................................................................................ 29
1.4.3 Trình tự, thủ tục yêu cầu giám định ................................................................... 31
1.5 Thời hạn giám định ................................................................................................ 32
1.6 Kết luận giám định ................................................................................................. 36
1.7 Giám định bổ sung, giám định lại......................................................................... 39
1.8 Trưng cầu giám định chứng cứ bị tố cáo là giả mạo .......................................... 43
1.9 Chi phí giám định ................................................................................................... 44
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................................ 47
CHƯƠNG 2: NGƯỜI GIÁM ĐỊNH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ .......................... 48
2.1 Khái niệm, đặc điểm người giám định trong tố tụng dân sự ............................. 48

2.2 Điều kiện, thủ tục trở thành người giám định trong tố tụng dân sự ................. 50
2.2.1 Giám định viên tư pháp...................................................................................... 50
2.2.2. Người giám định tư pháp theo vụ việc ............................................................. 52
2.3 Quyền và nghĩa vụ của người giám định trong tố tụng dân sự ......................... 52
2.3.1 Quyền của người giám định trong tố tụng dân sự.............................................. 53
2.3.2 Nghĩa vụ của người giám định trong tố tụng dân sự ......................................... 57
2.4 Thay đổi người giám định trong tố tụng dân sự ................................................. 61
2.4.1 Những trường hợp không được làm người giám định ....................................... 61
2.4.2 Trình tự, thủ tục từ chối, thay đổi người giám định........................................... 66
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................................ 68
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 69


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giám định là một trong những biện pháp thu thập chứng cứ mang tính chính
xác và chun mơn cao trong tố tụng dân sự. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, giám định đã và đang trở thành một công cụ hiệu quả để làm rõ các tình
tiết, sự việc trong vụ việc dân sự. Nắm bắt được nhu cầu cũng như tầm quan trọng
của hoạt động giám định trong tố tụng dân sự nói riêng cũng như các ngành luật tố
tụng nói chung, Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã đề ra một số
nhiệm vụ phát triển hoạt động giám định: “Từng bước hoàn thiện các tổ chức giám
định tư pháp. Thành lập cơ quan giám định pháp y quốc gia. Sớm hoàn thiện pháp
luật về giám định tư pháp”; “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tư pháp.
Khẩn trương ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi).
Luật thi hành án, pháp lệnh giám định tư pháp và một số luật, pháp lệnh khác làm
cơ sở pháp lý cho hoạt động của các cơ quan tư pháp”; “Phát triển và kiện toàn
đội ngũ luật sư, giám định viên, cơng chứng viên có đủ năng lực và phẩm chất đạo
đức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; đến năm 2005 cơ bản có đủ cán bộ làm nhiệm vụ bổ
trợ tư pháp.” Để thực hiện được các nhiệm vụ này, ngày 15/6/2004, Quốc hội đã

thông qua BLTTDS 2004, đánh dấu sự ra đời của BLTTDS đầu tiên của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó, có quy định về hoạt động giám định.
Đồng thời, ngày 29/9/2004, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành PLGĐTP,
quy định khá đầy đủ về hoạt động giám định tư pháp.
Để tiếp tục khắc phục những hạn chế của hoạt động bổ trợ tư pháp, Nghị
quyết số 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động giám định là
“Hoàn thiện chế định giám định tư pháp. Nhà nước cần đầu tư cho một số lĩnh vực
giám định để đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt động tố tụng. Thực hiện xã
hội hóa đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường xuyên.
Quy định chặt chẽ, rõ ràng về trình tự, thủ tục, thời hạn trưng cầu và thực hiện
giám định. Ban hành quy chuẩn giám định phù hợp với từng lĩnh vực. Xác định rõ
cơ chế đánh giá kết luận giám định, bảo đảm đúng đắn, khách quan để làm căn cứ
giải quyết vụ việc.” Đây là cơ sở để các quy định về giám định tư pháp ngày càng
được hoàn thiện với sự ra đời LSĐBSBLTTDS được Quốc hội khóa XII thơng qua

1


vào ngày 29/3/2011, Luật GĐTP 2012 được Quốc hội khóa XIII thông qua vào
ngày 20/6/2012 và đặc biệt là BLTTDS 2015 được Quốc hội khóa XIII thơng qua
vào ngày 25/11/2015 với những quy định mới cho phép đương sự có quyền yêu cầu
giám định, tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy, Luật GĐTP 2012 đã bộc lộ một số hạn
chế, bất cập dẫn tới chưa tạo được cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động giám
định tư pháp trong tố tụng dân sự, khiến cho quá trình giải quyết vụ việc dân sự kéo
dài, chưa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Nhận thức được vấn đề
này, hiện nay các cơ quan có thẩm quyền đang tiến hành xây dựng Dự thảo Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật GĐTP 2012 với nội dung trọng tâm là “Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật giám định tư pháp nhằm liên thông, đồng bộ với

các quy định của pháp luật tố tụng liên quan về giám định tư pháp, nâng cao hiệu
quả hoạt động giám định tư pháp góp phần tích cực cho hoạt động tố tụng trong
giải quyết các vụ án được chính xác, khách quan, nhất là đối với các vụ án kinh tế,
tham nhũng lớn.”1
Nhằm tổng hợp và nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn của hoạt động
giám định trong tố tụng dân sự hiện nay, qua đó đóng góp tri thức nhằm hướng tới
xây dựng, hoàn thiện chế định này trong Dự thảo Luật sắp tới, tác giả đã lựa chọn
đề tài “Giám định trong tố tụng dân sự” để làm Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý hiện nay hầu như chưa có nhiều cơng trình, bài viết
nghiên cứu chun sâu về các vấn đề của giám định trong tố tụng dân sự. Các bài
viết thường tập trung nghiên cứu về giám định tư pháp nói chung hoặc phân tích
một số vấn đề đơn lẻ như trưng cầu, yêu cầu giám định và ý nghĩa của hoạt động
giám định trong tố tụng dân sự. Cụ thể:
Nguyễn Thị Hồi Phương (2016), Bình luận khoa học những điểm mới trong
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: Cuốn sách đã đưa ra những phân tích, đánh giá
đối với những quy định về trưng cầu giám định, yêu cầu giám định trong BLTTDS
2015, bên cạnh đó cũng đưa ra vướng mắc khi áp dụng quy định pháp luật vào thực
tiễn trong trường hợp đương sự từ chối trưng cầu giám định.

1

Tờ trình đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung Luật GĐTP của Bộ Tư pháp.

2


Tưởng Duy Lượng (2007), Bàn về giám định tư pháp trong tố tụng dân sự:
trong bài viết này, tác giả đã phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn áp

dụng quy định pháp luật về hoạt động giám định tư pháp trong tố tụng dân sự, đặc
biệt là các quy định về người giám định, kết luận giám định và vai trò của hoạt động
giám định trong tố tụng dân sự.
Lê Văn Sua (2017), Trưng cầu giám định, yêu cầu giám định trong tố tụng
dân sự; Nguyễn Minh Hằng - Bùi Xuân Trường (2016), Trưng cầu giám định, yêu
cầu giám định theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: Hai bài viết này
đã phân tích quy định về trưng cầu, yêu cầu giám định trong BLTTDS 2015 cùng
với những vướng mắc trong thực tiễn xét xử, qua đó kiến nghị một số hướng giải
quyết.
Trần Văn Độ (2013), Cơ chế đánh giá chứng cứ trong trường hợp các kết
luận giám định có kết quả khác nhau: Tác giả đã có những phân tích, đánh giá về
những yếu tố tác động đến kết luận giám định, qua đó đưa ra một số phương pháp
nhằm xác định giá trị chứng minh của kết luận giám định.
Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề 06 năm 2016 về
giám định tư pháp: Trong số tạp chí này đã cung cấp những bài viết về thực trạng,
bất cập trong công tác giám định tư pháp và một số ý kiến góp ý nhằm tháo gỡ
những khó khăn trong q trình thực hiện giám định, đặc biệt là giám định trong tố
tụng hình sự.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt
Nam; Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật tố tụng dân sự
Việt Nam: Hai cuốn giáo trình này đã cung cấp những kiến thức cơ bản về khái
niệm, quyền và nghĩa vụ của người giám định, trưng cầu, yêu cầu giám định trong
tố tụng dân sự.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ những quy định về người giám định
và hoạt động giám định trong pháp luật tố tụng dân sự. Qua đó, chỉ ra những vướng
mắc, bất cập trong quá trình áp dụng những quy định này trong thực tiễn, đồng thời,
cố gắng đưa ra một số kiến nghị cụ thể để góp phần hoàn thiện chế định này trong
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, giúp Tòa án giải quyết hiệu quả các vụ việc dân
sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự.


3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong Khóa luận này, tác giả tập trung nghiên cứu hai đối tượng là “người
giám định” và “hoạt động giám định” trong pháp luật tố tụng dân sự dưới khía cạnh
quy định pháp luật, thực tiễn áp dụng và có tham khảo quy định pháp luật nước
ngoài.
Nhằm nghiên cứu một cách chuyên sâu và có hệ thống hai đối tượng trên,
trong khn khổ Khóa luận này, tác giả tập trung phân tích, làm rõ những vấn đề
sau:
Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, các nguyên tắc cơ bản của hoạt động giám
định tư pháp trong tố tụng dân sự; Trưng cầu, yêu cầu giám định; Kết luận giám
định; Thời hạn giám định; Giám định bổ sung, giám định lại; Chi phí giám định
trong tố tụng dân sự. Khái niệm, đặc điểm, quyền và nghĩa vụ của người giám định,
trình tự, thủ tục từ chối, thay đổi người giám định trong tố tụng dân sự.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong q trình thực hiện Khóa luận, tác giả đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu để làm sáng tỏ những nội dung cần triển khai, cụ thể:
Thứ nhất, phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng xuyên suốt
Khóa luận để nhận thức từ chi tiết đến khái quát nội dung nghiên cứu;
Thứ hai, phương pháp phân loại, hệ thống hóa được sử dụng để phân tích,
trình bày các vấn đề trong đối tượng nghiên cứu theo một trình tự nhất định, hợp lý,
khoa học;
Thứ ba, phương pháp lịch sử được sử dụng để tìm hiểu về quá trình thay đổi,
bổ sung và phát triển của chế định giám định trong tố tụng dân sự nhằm nhận thức
đúng đắn bản chất của hoạt động giám định trong tố tụng dân sự trong từng giai
đoạn lịch sử.
Thứ tư, phương pháp liệt kê, chứng minh, bình luận được sử dụng để dẫn

chứng, đánh giá một số vướng mắc trong thực tiễn khi áp dụng các quy định pháp
luật liên quan đến hoạt động giám định trong tố tụng dân sự, qua đó, giúp tác giả
nhìn nhận và đưa ra những kiến nghị hoàn thiện phù hợp với nhu cầu, tình hình hiện
nay;
Thứ năm, phương pháp so sánh, đối chiếu được sử dụng để tìm hiểu những
điểm tương đồng, khác biệt giữa quy định pháp luật Việt Nam với quy định pháp
luật nước ngoài về một số nội dung trong chế định giám định như: thẩm quyền
trưng cầu giám định, hình thức của kết luận giám định,…
4


6. Kết cấu Khóa luận
Cơ cấu đề tài Khóa luận gồm: Phần mở đầu, Phần nội dung, Phần kết luận,
Danh mục tài liệu tham khảo. Trong đó Phần nội dung gồm có 02 chương:
Chương 1: Hoạt động giám định trong tố tụng dân sự;
Chương 2: Người giám định trong tố tụng dân sự.

5


CHƯƠNG 1
HOẠT ĐỘNG GIÁM ĐỊNH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1 Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa hoạt động giám định trong tố tụng dân sự
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm hoạt động giám định trong tố tụng dân sự
Theo Từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ giám định là “việc xem xét và kết luận về
một sự vật, hiện tượng mà cơ quan nhà nước cần tìm hiểu và xác định”2, trong Từ
điển Bách khoa toàn thư, giám định được định nghĩa là “kiểm tra và kết luận về một
hiện tượng hoặc một vấn đề mà cơ quan nhà nước cần tìm hiểu và xác định… GĐ
pháp lí là GĐ do luật tố tụng điều chỉnh nhằm làm sáng tỏ những vấn đề, tình tiết
liên quan đến vụ án.”3

Theo “Giáo trình Khoa học điều tra hình sự” của Đại học Luật Hà Nội thì
“Bản chất của giám định là việc sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa
học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan theo
yêu cầu của cơ quan, cá nhân, tổ chức.”4
Xuất phát từ bản chất của thế giới vật chất, đó là “vật chất khi đã được sinh
ra thì khơng bao giờ mất đi mà nó chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác. Do
đó khi một hành vi được thực hiện, một sự việc đã xảy ra thì bao giờ cũng để lại
dấu vết trong thế giới vật chất”5, dựa theo đặc tính này, con người có thể nghiên
cứu, tìm hiểu về những dấu vết được để lại trong thế giới vật chất, trong nhiều
trường hợp việc phát hiện và phân tích các “dấu vết” này địi hỏi phải sử dụng các
kiến thức, phương pháp, thành tựu trong các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, hoạt động
này được gọi là hoạt động “giám định”.
Có thể thấy rằng: giám định là một thuật ngữ có nội hàm rộng, bao gồm hoạt
động giám định trên nhiều lĩnh vực và chịu sự điều chỉnh của nhiều ngành luật khác
nhau như: giám định thương mại, giám định bảo hiểm y tế, giám định xây dựng…
Tuy nhiên, tất cả hoạt động giám định đều được tiến hành với mục đích kiểm tra,
kết luận về một vấn đề cần làm rõ.

2

Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 389.
Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005), Từ điển Bách khoa
Việt Nam (tập 2), Nxb. Từ điển Bách khoa, tr. 110.
4
Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Khoa học điều tra hình sự, Bùi Kiên Điện, Nxb.
Cơng an nhân dân, tr. 187.
5
Phan Hữu Thư (2001), Kỹ năng hành nghề luật sư (tập 4), Nxb. Công an nhân dân, tr. 17.
3


6


Trong q trình tố tụng nói chung và tố tụng dân sự nói riêng, để xác định sự
thật khách quan và giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự,
địi hỏi các chủ thể có nghĩa vụ chứng minh phải thu thập, cung cấp, kiểm tra, đánh
giá toàn bộ chứng cứ. Cùng với việc ứng dụng những kiến thức chuyên môn trong
lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, giám định được xem là một trong những biện pháp thu
thập chứng cứ quan trọng và hiện đại hiện nay. Theo đó, hoạt động giám định được
tiến hành nhằm thu thập chứng cứ, xác định tình tiết, sự kiện khách quan của vụ án
hình sự, hành chính, vụ việc dân sự và chịu sự điều chỉnh của luật tố tụng là hoạt
động giám định tư pháp. Bên cạnh đó, giám định tư pháp đóng vai trị là hoạt động
bổ trợ tư pháp quan trọng và đã được hệ thống hóa thành quan hệ pháp luật đặc thù
chịu sự điều chỉnh của luật chuyên ngành. Trong các văn bản pháp luật tố tụng đều
quy định giám định tư pháp là biện pháp thu thập chứng cứ, kết luận giám định là
nguồn chứng cứ.6 Tuy nhiên, kết luận giám định chỉ được xem là nguồn chứng cứ
khi hoạt động giám định đó được tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định.7
Trong pháp luật phong kiến Việt Nam, tuy chưa có sự phân ngành giữa pháp
luật hình sự và pháp luật dân sự dẫn đến không phân biệt tố tụng hình sự với tố tụng
dân sự, khoa học - kỹ thuật chưa phát triển, nhưng các chế định giám định đã được
quy định trong một số cổ luật. Cụ thể, vào thời Lê sơ, Thiên nam dư hạ tập quy định
việc kiểm nghiệm (giám định) thương tích trong việc đánh nhau giao cho quan xã
trưởng hay quan huyện8 hay trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, chương
Hình luật cho biết “Niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 15 (1719), Ngự sử đài sức cho nha
môn Thừa hiến và phủ huyện: Phàm khi mới nhận được tin báo nên hỏi rành mạch
về duyên cớ… Khám vết thương xem do đánh bằng chân tay hay khí giới, gậy gộc.
Hết thảy phải ghi cho chính xác để lấy chỗ dựa khi xét xử”. Vào thời nhà Nguyễn,
theo quy định trong Hoàng Việt luật lệ, các nha môn trước hết phải khám nghiệm
thương tích (Điều 235 Lệ 7) của can phạm khi thẩm vấn9, xác định thương tích về

thể chất cho người bị hại để quyết định biện pháp trách nhiệm pháp lý (Điều 272).
6

Điểm d khoản 1 Điều 87 BLTTHS 2015, khoản 5 Điều 94 BLTTDS 2015, khoản 5 Điều 81 Luật
TTHC 2015.
7
Điều 86 BLTTHS 2015, khoản 6 Điều 95 BLTTDS 2015, khoản 6 Điều 82 Luật TTHC 2015.
8
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Lịch sử Nhà nước và Pháp luật Việt
Nam, Nguyễn Thị Thương Huyền, Nxb. Hồng Đức, tr. 296.
9
Huỳnh Công Bá (2017), Định chế pháp luật và tố tụng triều Nguyễn, Nxb. Thuận Hóa, tr. 552.

7


Qua đó, ta nhận thấy, chủ thể tiến hành hoạt động kiểm nghiệm (giám định) trong
thời kỳ phong kiến chính là những người trực tiếp thực hiện hoạt động xét xử như
quan xã trưởng, quan huyện, nha môn,… Bên cạnh đó, xuất phát từ thực tiễn xét xử
và những kinh nghiệm học hỏi từ các bộ sách nổi tiếng của Trung Quốc như Tẩy
oan lục thời Tống, Vô oan lục thời Minh,… từ thời nhà Lê đã xuất hiện những bộ
sách về giám định pháp y như Công án tra nghiệm bí pháp, Nhân mạng tra nghiệm
pháp,…10 Qua đó, cho thấy trong xã hội Việt Nam thời kỳ phong kiến, các vấn đề
chuyên môn của hoạt động giám định đặc biệt là giám định pháp y đã được nghiên
cứu và hệ thống hóa để phục vụ cho cơng tác xét xử.
Cùng với sự phát triển của trình độ lập pháp, các quan hệ tố tụng ngày càng
được phân định rõ ràng giữa tố tụng dân sự và tố tụng hình sự. Đối với hoạt động
giám định, từ một chế định mờ nhạt, thông qua sự phát triển của khoa học - kỹ
thuật, đã ngày càng hoàn thiện và trở thành chế định pháp luật độc lập, cũng như trở
thành một phương thức thu thập chứng cứ hiệu quả trong tố tụng dân sự nói riêng

và hoạt động tố tụng nói chung.
Giám định tư pháp lần đầu tiên được quy định thống nhất trong Nghị định số
117-HĐBT ngày 21/7/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về giám định tư pháp, tại Điều
1 của Nghị định này, giám định tư pháp được định nghĩa như sau: “Giám định tư
pháp là sử dụng những kiến thức, phương pháp khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ
chuyên mơn để kết luận về vấn đề có liên quan đến các vụ án hình sự, dân sự, hơn
nhân và gia đình, các tranh chấp lao động theo quyết định trưng cầu giám định của
cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân (trong văn bản này gọi
chung là cơ quan tiến hành tố tụng) nhằm phục vụ công tác điều tra, truy tố và xét
xử.” Theo đó, trong lĩnh vực tố tụng dân sự, giám định tư pháp được áp dụng để
“kết luận về vấn đề có liên quan đến các vụ án dân sự, hơn nhân và gia đình, các
tranh chấp lao động theo quyết định trưng cầu giám định của cơ quan Công an,
Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân.” Tuy nhiên, trong Nghị định này không
quy định về quyền tự mình yêu cầu giám định của đương sự mà chỉ có trưng cầu
giám định của cơ quan tiến hành tố tụng.
Đồng thời, “trưng cầu giám định” cũng được quy định trong các Pháp lệnh
quy định về thủ tục tố tụng dân sự như PLTTGQCVADS được ban hành ngày
10

Trần Thị Kim Anh, “Chế độ khám nghiệm pháp y thời Lê: Hai văn bản hướng dẫn khám nghiệm
pháp y thời Lê”, truy cập ngày 13/4/2020.

8


07/12/1989, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/199011; ngồi việc quy định về
quyền chủ động ra quyết định trưng cầu giám định của Tòa án, Pháp lệnh này còn
quy định về quyền u cầu Tồ án hoặc tự mình trưng cầu giám định hoặc điều tra,
xác minh những vấn đề cần làm sáng tỏ trong vụ án của Viện kiểm sát.12
PLTTGQCVAKT ngày 16/3/1994 và PLTTGQCTCLĐ ngày 11/4/1996 cũng

quy định về trưng cầu giám định là một biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ. Quy
định về trưng cầu giám định trong hai Pháp lệnh này được mở rộng, bên cạnh quyền
tự mình ra quyết định trưng cầu giám định khi cần thiết thì Tịa án, Viện kiểm sát
cịn ra quyết định trưng cầu giám định theo yêu cầu của đương sự.13
Sau đó, nhằm thực hiện chủ trương cải cách lĩnh vực tư pháp được định
hướng trong Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị,
BLTTDS 2004 và PLGĐTP 2004 được ban hành, các nội dung về giám định tư
pháp được quy định cụ thể, rõ ràng hơn so với PLTTGQCVADS,
PLTTGQCVAKT, PLTTGQCTCLĐ như: Quyền và nghĩa vụ của người giám định
trong tố tụng dân sự14; từ chối, thay đổi người giám định15; xác định kết luận giám
định và nguồn chứng cứ16; chi phí giám định17,… Tuy nhiên, về trưng cầu giám
định, BLTTDS 2004 quy định Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định theo sự
thoả thuận lựa chọn của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên
đương sự18, khơng có quyền chủ động ra quyết định trưng cầu giám định của Tòa án
và Viện kiểm sát. Sự thay đổi này nhằm quán triệt nguyên tắc chủ động thu thập
chứng, chứng minh của đương sự, đồng thời, thể hiện rõ chức năng kiểm sát hoạt
động tố tụng của Viện kiểm sát. Tuy nhiên trong nhiều vụ việc dân sự mà kết luận
giám định là nguồn chứng cứ mang tính quyết định nhưng các đương sự lại không
đạt được thỏa thuận về lựa chọn giám định tư pháp hoặc các đương sự không yêu
cầu Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định, gây khó khăn trong q trình thu
11

Điểm d khoản 1 Điều 38 PLTTGQCVADS “Để chuẩn bị cho việc hoà giải, xét xử, tuỳ trường
hợp, Toà án tiến hành những việc sau đây: d) Trưng cầu giám định”.
12
Khoản 2 Điều 38 PLTTGQCVADS.
13
14

Khoản 1 Điều 24 PLTTGQCVAKT và khoản 1 Điều 25 PLTTGQCTCLĐ.

Điều 68 BLTTDS 2004.

15

Điều 71, Điều 72 BLTTDS 2004.
Điều 82 BLTTDS 2004.
17
Điều 135 BLTTDS 2004.
18
Điều 90 BLTTDS 2004.
16

9


thập, đánh giá chứng cứ và giải quyết vụ việc của Tịa án, ảnh hưởng đến quyền, lợi
ích hợp pháp của các đương sự.
Sau một thời gian thi hành, thực tiễn cho thấy nhiều quy định của BLTTDS
2004 vẫn còn bất cập, để khắc phục tình trạng này, LSĐBSBLTTDS được ban hành
ngày 29/3/2011, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012, đa số các quy định về
giám định được giữ nguyên, tuy nhiên, về vấn đề giám định lại, LSĐBSBLTTDS
2011 quy định: “Người đã thực hiện việc giám định trước đó khơng được thực hiện
giám định lại. Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó, người quy định tại các
khoản 1, 2 và 3 Điều 46 của Bộ luật này không được thực hiện việc giám định”19
thay cho quy định “Việc giám định lại có thể do người đã tiến hành giám định
trước đó thực hiện hoặc do tổ chức chuyên môn khác thực hiện theo quy định của
pháp luật”20 của BLTTDS 2004 nhằm đảm bảo sự vô tư, khách quan trong hoạt
động giám định.
Khi Luật GĐTP 2012 được ban hành, tại khoản 1 Điều 2 Luật này có quy
định: “Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức,

phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chun mơn
những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu
giám định theo quy định của Luật này”. Theo đó, nhà làm luật đã bổ sung quyền tự
yêu cầu giám định tư pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, từ đó, dẫn đến sự
chưa thống nhất giữa Luật GĐTP 2012 và BLTTDS 2004 được sửa đổi, bổ sung
theo LSĐBSBLTTDS 2011. Chính vì vậy, khi BLTTDS 2015 được ban hành, đã
thay đổi một số quy định về giám định trong tố tụng dân sự, cụ thể: Bổ sung quyền
tự mình u cầu giám định khi bị Tịa án từ chối của đương sự và quyền chủ động
ra quyết định trưng cầu giám định của Tòa án tại khoản 1, khoản 2 Điều 102
BLTTDS 2015. Sự thay đổi này đã thống nhất quy định pháp luật tố tụng dân sự với
quy định pháp luật giám định tư pháp, đồng thời, khắc phục những bất cập trong
BLTTDS 2004 sửa đổi, bổ sung theo LSĐBSBLTTDS 2011, qua đó, tạo cơ sở vững
chắc giúp Tịa án, đương sự có thể chủ động trưng cầu, yêu cầu giám định để thu
thập chứng cứ.
19
20

Điều 19 LSĐBSBLTTDS 2011.
Khoản 3 Điều 90 BLTTDS 2004.

10


Từ những phân tích trên, có thể kết luận rằng: Giám định trong tố tụng dân
sự là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương
pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chun mơn những vấn đề có
liên quan đến giải quyết vụ việc dân sự theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định

theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự và giám định tư pháp.
Như vậy, từ định nghĩa trên và các quy định của Luật GĐTP và BLTTDS
hiện hành, có thể nhận thấy rằng, hoạt động giám định trong tố tụng dân sự chính là
hoạt động giám định tư pháp.
Về khía cạnh nghiên cứu so sánh, thuật ngữ giám định tư pháp có nghĩa
tương đương trong thuật ngữ tiếng Anh là “judicial expertise”, cịn người giám định
có nghĩa tương đương với từ “expert”21. Các thuật ngữ như “expert opinion” “expert
witness” hoặc “expert testimony” được sử dụng rộng rãi trong BLTTDS của nước
ngoài được hiểu là “ý kiến chuyên môn hay ý kiến chuyên gia” và trong tiếng Việt
các thuật ngữ này có thể được hiểu rằng có ý nghĩa tương đương như chế định
người giám định trong pháp luật tố tụng.22 Các quy định về hoạt động giám định và
người giám định ở mỗi quốc gia là khác nhau, tuy nhiên, việc tiến hành thực hiện
giám định đều nhằm thu thập chứng cứ để làm rõ sự thật khách quan, từ đó, có căn
cứ để chấp nhận hay bác bỏ yêu cầu của các bên trong vụ việc dân sự.
Từ khái niệm giám định trong tố tụng dân sự nêu trên, có thể thấy, để được
coi là hoạt động giám định trong tố tụng dân sự phải có đầy đủ 03 đặc điểm sau:
Một là, chủ thể tiến hành hoạt động giám định phải là người giám định tư
pháp, theo quy định bao gồm: giám định viên tư pháp và người giám định tư pháp
theo vụ việc (khoản 5 Điều 2 Luật GĐTP 2012). Trong tố tụng dân sự, các chủ thể
này được gọi là “người giám định” (Điều 79 BLTTDS 2015). Chỉ những cá nhân
đầy đủ tiêu chuẩn theo quy định của Luật GĐTP 2012 và được bổ nhiệm là giám
định viên tư pháp hoặc có tên trong danh sách giám định viên theo vụ việc được lập
bởi cơ quan có thẩm quyền mới có thể trở thành người giám định tư pháp. Trong
trường hợp các cá nhân có kiến thức chun mơn và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn
về lĩnh vực cần giám định nhưng chưa được bổ nhiệm hoặc khơng có tên trong danh

21

Nguyễn Thế Kỳ (1991), Từ điển Pháp luật Anh - Việt, Nxb. Khoa học xã hội, tr. 160.
Lê Quang Vinh (2018), “Một số vấn đề pháp lý liên quan đến giám định SHTT và giải pháp hồn

thiện”, Tạp chí Khoa học - Cơng nghệ Việt Nam, số 04, tr. 01.

22

11


sách thì khơng phải là người giám định tư pháp, đồng thời các hoạt động giám định
do chủ thể đó thực hiện cũng không phải là hoạt động giám định tư pháp. Bên cạnh
đó, nếu các cá nhân trên cho ý kiến về những vấn đề có liên quan đến quá trình giải
quyết vụ việc dân sự thì ý kiến trên không thể trở thành nguồn của chứng cứ mà chỉ
đóng vai trị là tài liệu tham khảo. Bởi vì, ý kiến đó khơng phải là kết quả từ hoạt
động giám định tư pháp cũng như không tuân thủ đúng trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định.
Hai là, đối tượng cần giám định là những vấn đề có liên quan đến hoạt động
giải quyết vụ việc dân sự do Tịa án đang giải quyết. Ví dụ, trong tranh chấp về thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng, trong trường hợp các bên khởi kiện để Tòa án giải quyết
tranh chấp và Tịa án đã thụ lý, sau đó, hoạt động giám định hàng hóa được tiến
hành và hoạt động giám định này là hoạt động giám định tư pháp trong tố tụng dân
sự. Tuy nhiên, trường hợp các bên tự giải quyết tranh chấp với nhau, khơng khởi
kiện để Tịa án giải quyết tranh chấp, lúc này hoạt động giám định hàng hóa được
thực hiện nhưng khơng phải là hoạt động giám định trong tố tụng dân sự vì đối
tượng giám định không liên quan đến hoạt động giải quyết vụ việc dân sự do Tòa án
giải quyết.
Ba là, hoạt động giám định trong tố tụng dân sự được tiến hành theo trưng
cầu của người trưng cầu giám định23 hoặc yêu cầu của người yêu cầu giám định24,
mà cụ thể là theo trưng cầu của Tòa án hoặc yêu cầu của đương sự theo quy định tại
Điều 102 BLTTDS 2015. Trong trường hợp hoạt động giám định được tiến hành do
có yêu cầu từ cá nhân, tổ chức nhưng không phải chủ thể trưng cầu, yêu cầu giám
định tại Điều 102 BLTTDS 2015 thì khơng phải hoạt động giám định tư pháp trong

tố tụng dân sự.
Qua nghiên cứu các quy định về giám định trong pháp luật tố tụng, có thể
nhận thấy rằng hoạt động giám định trong tố tụng dân sự cũng có những đặc điểm
tương đồng với hoạt động giám định trong tố tụng hình sự, tố tụng hành chính, cụ
thể: là một biện pháp thu thập chứng cứ, được tiến hành bởi người giám định tư
pháp theo trưng cầu giám định của cơ quan, người tiến hành tố tụng hoặc yêu cầu
giám định của người yêu cầu. Tuy nhiên, xuất phát từ sự khác nhau về tính chất
quan hệ pháp luật, phạm vi điều chỉnh của pháp luật nội dung, dẫn đến hoạt động
23
24

Khoản 2 Điều 2 Luật GĐTP 2012.
Khoàn 3 Điều 2 Luật GĐTP 2012.

12


giám định tư pháp trong tố tụng dân sự có những nét khác biệt so với 02 ngành luật
tố tụng cịn lại, cụ thể:
Trong tố tụng hình sự, hoạt động giám định trong tố tụng hình sự là biện
pháp thu thập chứng cứ để chứng minh các nội dung sau: Có hành vi phạm tội xảy
ra hay khơng, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; Ai
là người thực hiện hành vi phạm tội; Có lỗi hay khơng có lỗi, do cố ý hay vơ ý; Có
năng lực trách nhiệm hình sự hay khơng; Mục đích, động cơ phạm tội; Những tình
tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân
thân của bị can, bị cáo; Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;
Nguyên nhân và điều kiện phạm tội; Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ
trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt. Điều này xuất phát
từ bản chất của tố tụng hình sự là trình tự, thủ tục để xem xét, đánh giá một hành vi
cụ thể có phải là tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự hay không. Với khả

năng truy nguyên chủ thể của hành vi phạm tội, hoạt động giám định trong tố tụng
hình sự là biện pháp thu thập chứng cứ quan trọng và trong nhiều trường hợp pháp
luật bắt buộc phải tiến hành giám định để chứng minh sự thật khách quan của vụ án,
cụ thể: Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực
trách nhiệm hình sự của họ; Tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại
khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những
tình tiết của vụ án,... (Điều 206 BLTTHS 2015).
Trong tố tụng hành chính, với bản chất là trình tự, thủ tục để xem xét, đánh
giá tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan, quyết
định kỷ luật buộc thôi việc, danh sách cử tri, quyết định giải quyết khiếu nại về
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, quyết định xử lý kỷ luật buộc thơi việc của cá
nhân có thẩm quyền. Chính vì vậy, đối tượng giám định trong tố tụng hành chính
chủ yếu thuộc lĩnh vực giám định tài liệu (giám định chữ ký, giám định kỹ thuật tài
liệu,…) còn những lĩnh vực như giám định ADN, giám định hàng hóa, giám định cổ
vật, di vật, bản quyền tác giả hầu như không xảy ra.
Trong tố tụng dân sự, xuất phát từ tính chất của các quan hệ dân sự là bình
đẳng, tự nguyện và nghĩa vụ chủ động cung cấp tài liệu chứng cứ, chứng minh
thuộc về đương sự nên hiện nay trong BLTTDS 2015 không quy định những trường
hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định như trong BLTTHS 2015. Đồng thời, các
quan hệ tranh chấp và yêu cầu trong tố tụng dân sự rất đa dạng nên đối tượng cần
giám định trong tố tụng dân sự có thể ở mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội, ví dụ:
13


Giám định kỹ thuật hình sự (Giám định đường vân, chữ ký, chữ viết, âm thanh, hình
ảnh,…) để xác định tính chính xác của chứng cứ, tài liệu được cung cấp, giám định
xây dựng để xác định nguyên nhân, hậu quả thiệt hại, tình trạng hiện tại của cơng
trình xây dựng, giám định tổn thương cơ thể để xác định trách nhiệm bồi thường
ngồi hợp đồng, giám định hàng hóa để xác định mức độ vi phạm nghĩa vụ trong
hợp đồng mua bán hàng hóa, giám định sở hữu trí tuệ,… Từ đó, có thể nhận thấy

rằng, lĩnh vực giám định trong tố tụng dân sự đa dạng hơn trong tố tụng hành chính.
1.1.2 Ý nghĩa của hoạt động giám định tư pháp trong tố tụng dân sự
Hoạt động giám định được ghi nhận là một hoạt động bổ trợ tư pháp, là một
trong những biện pháp thu thập chứng cứ hiệu quả và được tiến hành phổ biến trong
hoạt động tố tụng nói chung và tố tụng dân sự nói riêng25. Điều này có ý nghĩa quan
trọng đối với các tổ chức, cá nhân khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự,
hơn nhân gia đình, lao động, kinh doanh thương mại,… đồng thời, thể hiện sự đảm
bảo của Nhà nước trong công cuộc cải cách tư pháp và bảo vệ quyền con người,
quyền công dân ở Việt Nam.
Thứ nhất, hoạt động giám định tư pháp góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự thông qua việc thu thập và cung cấp các chứng cứ một cách
khách quan, khoa học, chính xác. Theo đó, chứng cứ là một trong những vấn đề cốt
lõi của hoạt động tố tụng, đây là cơ sở để các chủ thể tố tụng tiến hành hoạt động
chứng minh nhằm làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự, đồng thời làm
cho mọi người “thấy rõ là có thật, là đúng”.26 Khi tiến hành hoạt động giám định,
Tịa án sẽ có thêm căn cứ để giải quyết vụ việc, trong thực tiễn, có nhiều vụ việc
dân sự mà kết luận giám định là nguồn chứng cứ quan trọng, quyết định đến toàn bộ
vụ việc như xác định cha mẹ con (giám định ADN) hay xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng (giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể), tuyên bố một
người mất/hạn chế năng lực hành vi dân sự (giám định pháp y tâm thần),… từ đó
bảo đảm được quyền lợi của đương sự trong quan hệ pháp luật dân sự mà họ tham
gia.
25

Theo Báo cáo số 47/BC-TANDTC ngày 02/10/2018 của TANDTC từ ngày 01/01/2013 đến ngày
31/8/2018 Tòa án các cấp đã trưng cầu giám định trong 14.848 vụ việc các loại, trong đó có 12.528
vụ việc Tịa án trưng cầu theo yêu cầu đương sự (chiếm 84,4%), đương sự tự yêu cầu giám định
2.320 vụ việc (chiếm 15,6%).
26
Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nguyễn Cơng

Bình, Nxb. Cơng an nhân dân, tr. 134.

14


Thứ hai, khi quyền lợi được bảo vệ, sẽ tạo động lực cho các cá nhân, cơ
quan, tổ chức trong xã hội tích cực tham gia giao lưu dân sự, kinh doanh, thương
mại, thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Theo đó, pháp luật là một trong những yếu tố
của kiến trúc thượng tầng, có quan hệ mật thiết với kinh tế - yếu tố thuộc về cơ sở
hạ tầng. Trong đó, kinh tế giữ vai trị quyết định đối với sự ra đời, tồn tại và phát
triển với pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật cũng có sự độc lập và sẽ tác động trở lại tới
sự phát triển kinh tế theo hai hướng kìm hãm hoặc thúc đẩy.27 Như vậy, để thúc đẩy
sự phát triển kinh tế, đòi hỏi hệ thống pháp luật khơng những phải có những quy
định về quyền, nghĩa vụ của các chủ thể một cách thống nhất, khoa học, xây dựng
hành lang pháp lý an tồn, rõ ràng, minh bạch, tạo mơi trường cạnh tranh lành
mạnh, mà bản thân hệ thống pháp luật phải có những cơ chế hiệu quả để các chủ thể
chủ động bảo vệ quyền, lợi ích của họ một cách tối đa. Vì vậy mà hoạt động giám
định tư pháp với cơ chế tự yêu cầu giám định được quy định rõ ràng, cụ thể là một
công cụ hiệu quả để giúp các chủ thể trong quan hệ tranh chấp hạn chế thiệt hại,
chống lại các hành vi xâm phạm một cách hiệu quả.
Thứ ba, hoạt động giám định hỗ trợ cho Tòa án trong giải quyết vụ việc dân
sự. Trong tố tụng dân sự, đương sự là chủ thể có nghĩa vụ chủ động thu thập, cung
cấp chứng cứ và chứng minh u cầu của mình là có căn cứ. Tuy nhiên, có trường
hợp các đương sự đưa ra lời khai, tài liệu, vật chứng,… mâu thuẫn nhau, cũng như
khó có thể tiếp cận, phân tích, đánh giá bằng các phương pháp thơng thường, điều
này gây khó khăn cho Tịa án khi đánh giá chứng cứ và làm rõ các tình tiết, sự thật
khách quan của vụ việc. Theo đó, với việc áp dụng kiến thức chuyên môn, phương
pháp khoa học - kỹ thuật, hoạt động giám định giúp Tòa án thu thập được nguồn
chứng cứ có giá trị chứng minh cao, đồng thời, xác định được giá trị chứng minh
các chứng cứ khác, tạo cơ sở vững chắc để giải quyết vụ việc dân sự.

Thứ tư, hoạt động giám định bảo đảm được sự công khai, minh bạch, khách
quan khi giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án, góp phần bảo vệ cơng lý. Cụ thể,
hoạt động giám định được tiến hành bởi người giám định - chủ thể thứ ba, hoàn
toàn độc lập với các bên đương sự, cơ quan, người tiến hành tố tụng. Chính vì vậy,
kết luận giám định là sự phản ánh khách quan, khoa học về nội dung, đối tượng
được tiến hành giám định. Bên cạnh đó, tính khách quan cịn thể hiện ở việc giám
27

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015), Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Phạm Văn Sinh - Phạm Quang Phan, tr. 139 - 141.

15


định được tiến hành dựa trên kiến thức chuyên môn về khoa học, kỹ thuật hay kinh
nghiệm thực tiễn của người giám định và người giám định chỉ tiến hành kết luận về
vấn đề chuyên môn theo trưng cầu, yêu cầu giám định. Đồng thời, giám định là biện
pháp hiệu quả để phát hiện các chứng cứ giả mạo, đảm bảo được tính chính xác,
trung thực của các chứng cứ khác trong vụ việc dân sự. Qua đó, giúp cho quá trình
đánh giá chứng cứ, giải quyết vụ việc của Tịa án được khách quan, minh bạch, từ
đó hạn chế tình trạng án bị hủy, bị sửa, nâng cao hiệu quả và chất lượng của hoạt
động tố tụng dân sự; góp phần xây dựng sự tin tưởng của người dân đối với hệ
thống pháp luật cũng như góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền.
1.2 Nguyên tắc tiến hành hoạt động giám định trong tố tụng dân sự
Nguyên tắc được hiểu là “điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong
một loạt việc làm”28. Theo đó, khi thực hiện bất kỳ hoạt động nào, nếu muốn đạt
được kết quả cao thì địi hỏi các chủ thể có liên quan phải xác định các nguyên tắc
cơ bản và tuân thủ triệt để nó. Hoạt động giám định trong tố tụng dân sự là một
dạng của hoạt động thực tiễn, mang tính khoa học, chịu sự điều chỉnh của pháp luật
tố tụng dân sự và pháp luật giám định tư pháp, vì vậy, các chủ thể phải tuân thủ

những nguyên tắc của pháp luật tố tụng dân sự và giám định tư pháp.
Đối với các nguyên tắc của pháp luật giám định tư pháp, những nguyên tắc
tại Điều 3 Luật GĐTP 2012 đều nhằm đảm bảo cho hoạt động giám định được tiến
hành một cách khách quan, khoa học, chính xác:
Một là, tuân thủ pháp luật, tuân thủ theo quy chuẩn chuyên môn (khoản 1
Điều 3 Luật GĐTP 2012).
“Quy chuẩn chun mơn là tổng hợp của quy trình và tiêu chuẩn khoa học
được cơ quan có thẩm quyền ban hành theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật, là căn
cứ pháp lý để người giám định tư pháp thực hiện và kết luận giám định. Mỗi lĩnh
vực giám định có quy chuẩn chun mơn riêng, do cơ quan có thẩm quyền ban hành
hoặc hướng dẫn áp dụng.”29 Nguyên tắc này nhằm đảm bảo tính chính xác, khoa
học và thống nhất trong quá trình thực hiện giám định, yêu cầu người giám định
phải thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình được pháp luật quy định, khơng
được bỏ sót bất kỳ giai đoạn nào trong suốt quá trình giám định từ tiếp nhận trưng

28

Viện Ngôn ngữ học (2003), tlđd (02), tr. 694.
Phương Nam, “Nguyên tắc thực hiện giám định tư pháp”, truy cập ngày 15/4/2020.
29

16


cầu, yêu cầu giám định, thực hiện giám định, xây dựng bản kết luận giám định đến
việc trả kết luận giám định, lưu hồ sơ và những hoạt động liên quan khác. Đồng
thời, yêu cầu người giám định phải thực hiện đầy đủ, chính xác về trình tự, thủ tục
thực hiện giám định cũng như việc áp dụng tiêu chuẩn khi kết luận giám định.
Hai là, trung thực, chính xác, khách quan, vô tư, kịp thời (khoản 2 Điều 3
Luật GĐTP 2012).

Đây là nguyên tắc quan trọng cũng chính là những tiêu chí cơ bản để đánh
giá kết luận giám định đó có giá trị chứng minh trong vụ việc dân sự hay khơng,
nếu các tiêu chí trên khơng được đảm bảo sẽ ảnh hưởng đến chất lượng giám định
cũng như kết quả hoạt động của cơ quan, người tiến hành tố tụng. Cụ thể:
“Trung thực, chính xác, khách quan” yêu cầu người giám định chỉ căn cứ
vào những tình tiết, nội dung tài liệu có thật để tiến hành thực hiện giám định,
khơng tự suy diễn theo ý chí chủ quan của mình nhằm đảm bảo tính đúng đắn, khoa
học trong tất cả quá trình từ tiếp nhận nội dung giám định, thu thập, nghiên cứu tài
liệu đến tổng hợp, đánh giá và đưa ra kết luận.
“Vơ tư” địi hỏi người giám định trong quá trình tiến hành giám định khơng
vì lợi ích nào đó mà chi phối đến hoạt động chun mơn, hồn tồn độc lập trong
suy nghĩ, hành động.
“Kịp thời” đòi hỏi hoạt động giám định phải được tiến hành ngay khi được
tiếp nhận nhằm tránh sự biến đổi tự nhiên của đối tượng giám định và phải trả kết
luận giám định theo đúng thời hạn trong quyết định trưng cầu giám định hoặc thời
hạn thỏa thuận với người yêu cầu giám định.
Ba là, chỉ kết luận về chuyên môn những vấn đề trong phạm vi được yêu cầu
(khoản 3 Điều 3 Luật GĐTP 2012).
Nguyên tắc này yêu cầu người giám định phải tập trung giải quyết những vấn
đề về mặt chuyên môn, khoa học, kỹ thuật trong phạm vi yêu cầu trong quyết định
trưng cầu giám định hay văn bản yêu cầu giám định, không được kết luận về những
vấn đề pháp lý. Nguyên tắc này giúp đảm bảo tính khách quan, độc lập khi Tịa án
đánh giá chứng cứ và giải quyết vụ án, vụ việc
Bốn là, chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận giám định (khoản 4
Điều 3 Luật GĐTP 2012).
Theo đó, kết luận giám định là nguồn chứng cứ khoa học, quan trọng có ảnh
hưởng đến q trình giải quyết vụ việc dân sự. Thế nên, việc yêu cầu người giám
định phải chịu trách nhiệm về kết luận giám định là hoàn toàn cần thiết, giúp đảm
17



bảo tính minh bạch, chính xác của kết luận giám định cũng như nâng cao tinh thần
trách nhiệm của người giám định.
Đối với các nguyên tắc của luật tố tụng dân sự, những nguyên tắc cơ bản
được quy định từ Điều 3 đến Điều 25 của BLTTDS 2015 là những ngun tắc mang
tính định hướng chung cho tồn bộ ngành luật tố tụng dân sự, còn hoạt động giám
định là một phương thức thu thập chứng cứ, chính vì vậy, theo quan điểm của tác
giả, có một số nguyên tắc định hướng trực tiếp đến hoạt động giám định trong tố
tụng dân sự, cụ thể:
Thứ nhất, nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong tố tụng dân sự (Điều 3
BLTTDS 2015).
Tuân thủ pháp luật là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước, có tác dụng đảm bảo cho quá trình giải quyết vụ việc dân sự được
khách quan, đúng đắn, qua đó, bảo vệ tốt nhất cho quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể tham gia.30 Nguyên tắc này đòi hỏi tất cả các hoạt động liên quan đến
giám định của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, người giám định và
các cá nhân, tổ chức khác trong tố tụng dân sự đều phải tuân theo quy định của pháp
luật.
Thứ hai, cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng (Điều 6 BLTTDS
2015).
Chứng cứ và chứng minh mang tính chất quyết định đối với kết quả giải
quyết vụ việc dân sự, theo đó, Tịa án chỉ có thể giải quyết vụ việc dân sự một cách
khách quan, chính xác khi đã làm rõ các tình tiết vụ việc và có đầy đủ chứng cứ.
Đối với hoạt động giám định, BLTTDS 2015 quy định đương sự có quyền yêu cầu
Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định hoặc tự mình u cầu giám định khi đã đề
nghị Tịa án ra quyết định trưng cầu giám định nhưng đã bị từ chối. Tịa án cũng có
thể ra quyết định trưng cầu giám định nếu xét thấy cần thiết. Có thể thấy được vai
trò chủ động của đương sự trong việc đề nghị, u cầu giám định, Tịa án có trách
nhiệm hỗ trợ đương sự nhưng trong nhiều trường hợp, Tịa án có thể từ chối hoặc tự
mình ra quyết định trưng cầu. Bên cạnh đó, giám định là hoạt động thu thập chứng

cứ địi hỏi có sự can thiệp của bên thứ ba là người giám định sử dụng kiến thức
chun mơn để xác định những vấn đề, tình tiết cần làm rõ, đôi khi việc tiến hành
30

Trường Đại học Kinh tế - Luật (2017), Giáo trình Luật tố tụng dân sự, Nguyễn Thị Hồng Nhung,
Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, tr. 13.

18


giám định sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của một số chủ thể có liên quan trong vụ
việc dân sự, vì vậy mà sự hỗ trợ của Tịa án sẽ giúp cho hoạt động giám định được
tiến hành hiệu quả, chính xác, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên tham gia tố
tụng.
Thứ ba, nguyên tắc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền (Điều 7 BLTTDS 2015)
Trong vụ việc dân sự, chứng cứ có thể do cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ.
Để giúp cho vụ việc dân sự được giải quyết khách quan, chính xác, nguyên tắc này
đặt ra yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có trách nhiệm phải cung
cấp chứng cứ tài liệu, chứng cứ. Theo đó, khi tiến hành giám định, người giám định
có trách nhiệm cung cấp chứng cứ đầy đủ, đúng thời hạn quy định khi có yêu cầu
của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật đối
với kết luận giám định đó, trong trường hợp khơng cung cấp được phải thông báo
bằng văn bản nêu rõ lý do.
Thứ tư, nguyên tắc bảo đảm sự vô tư, khách quan trong tố tụng dân sự (Điều
16 BLTTDS 2015).
Có thể thấy rằng, nguyên tắc này khá tương đồng với nguyên tắc “Trung
thực, chính xác, khách quan, vơ tư, kịp thời” trong Luật GĐTP 2012. Theo đó,
người giám định tham gia tố tụng với vai trò giúp Tòa án làm rõ các vấn đề của vụ
việc dân sự, đặc biệt trong nhiều trường hợp, kết luận giám định chính là nguồn

chứng cứ cốt lõi, quyết định toàn bộ vụ việc. Đặc biệt, đối với việc giải quyết các vụ
việc dân sự thì kết luận giám định, ý kiến của người giám định còn ảnh hưởng đến
hành vi, sự lựa chọn của các bên đương sự.31 Do đó, nếu người giám định khơng vơ
tư, khách quan trong quá trình tiến hành giám định thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến
việc giải quyết vụ việc dân sự. Vì vậy, nguyên tắc này đã xác định người giám định
khơng được tham gia tố tụng nếu có lý do chính đáng để cho rằng họ có thể không
vô tư, khách quan trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Từ các phân tích trên, có thể nhận thấy rằng các nguyên tắc trong pháp luật
tố tụng dân sự có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất với các nguyên tắc của pháp luật
giám định tư pháp nhằm phát huy được hiệu quả khi tiến hành hoạt động giám định

31

Tưởng Duy Lượng (2007), “Bàn về giám định tư pháp trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Kiểm sát,
số 04, tr. 30.

19


để thu thập chứng cứ, giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên khi tham gia tố
tụng.
1.3 Trưng cầu giám định
1.3.1 Khái niệm trưng cầu giám định
Thuật ngữ “trưng cầu” có nghĩa là “hỏi ý kiến số đơng người một cách có tổ
32
chức”. Hiện nay, trong các văn bản pháp luật chưa có định nghĩa cụ thể về cụm từ
“trưng cầu giám định”, qua nghiên cứu, có thể hiểu bản chất của “trưng cầu giám
định” là việc hỏi ý kiến chuyên gia về những vấn đề cần xem xét, kết luận của cơ
quan tiến hành tố tụng. Trưng cầu giám định là hoạt động tố tụng của cơ quan,
người tiến hành tố tụng. Cụ thể, trong tố tụng dân sự, trưng cầu giám định là hoạt

động của Tòa án khi có những vấn đề, nội dung cần được làm rõ thơng qua giám
định trong q trình giải quyết vụ việc dân sự, đây cũng là căn cứ phát sinh hoạt
động giám định tư pháp.
1.3.2 Chủ thể trưng cầu giám định
Đối với trưng cầu giám định, Tòa án sẽ ra quyết định trưng cầu giám định
nếu thuộc 02 trường hợp: (i) Đương sự yêu cầu hoặc (ii) Khi xét thấy cần thiết.
(i) Trong vụ việc dân sự, đương sự là “người trong cuộc”, là người nắm bắt,
hiểu rõ nhất những tình tiết, sự kiện xảy ra. Tuy nhiên, có những tình tiết, sự kiện
do xảy ra đã lâu, hoặc do lời khai của các các đương sự có mâu thuẫn hoặc bản thân
các đương sự cũng không biết được tính chính xác của những tình tiết, sự kiện đó…
vì vậy, cần có sự giám định của chủ thể thứ ba có chun mơn, nghiệp vụ. Để làm
rõ tình tiết, sự kiện nhằm giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn, bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của đương sự, đồng thời, tránh lãng phí thời gian, tiền bạc của các
bên cũng như của tổ chức giám định, người giám định, pháp luật đã quy định đương
sự có quyền u cầu Tịa án trưng cầu giám định. Theo đó, khi nhận được yêu cầu,
Tòa án sẽ tiến hành xem xét có chấp thuận u cầu đó hay khơng.
(ii) Tuy nhiên, trong trường hợp mà Tòa án xem xét “cần thiết” phải giám
định nhưng đương sự khơng có u cầu thì Tịa án vẫn có quyền ra quyết định trưng
cầu giám định. Đây là điểm mới được quy định trong BLTTDS 2015. Theo quan
điểm của các nhà lập pháp, quy định này nhằm “bảo đảm giải quyết vụ việc dân sự

32

Viện Ngôn ngữ học (2003), tlđd (02), tr. 1055.

20


×