Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Giao kết hợp đồng bằng văn bản những vấn đề lý luận và thực tiễn (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG THỊ DIỆU VÂN

GIAO KẾT HỢP ĐỒNG BẰNG VĂN BẢN
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNHNHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ

Giáo viên hướng dẫn: THS. CHẾ MỸ PHƢƠNG ĐÀI

TP. HỒ CHÍ MINH - 8/2012


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành chương trình đại học cùng với khóa luận tốt nghiệp này, em đã
nhận được sự quan tâm, động viên rất nhiều từ quý thầy cô, bạn bè và người thân.
Trước hết, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô trường Đại học
Luật Tp. Hồ Chí Minh, đặc biệt là quý thầy cơ đã tận tình giảng dạy, trang bị kiến
thức và rèn luyện kĩ năng, đạo đức nghề nghiệp cho em trong suốt bốn năm học
qua.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Cô giáo Ths. Chế Mỹ Phương Đài- người
đã nhiệt tình hướng dẫn em thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
Nhân đây, em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đến Ba, Mẹ cùng những người thân
trong gia đình đã ln sát cánh, tạo mọi điều kiện để em có được thành quả ngày
hơm nay.
Mặc dù đã cố gắng hết sức để hồn thiện khóa luận này, tuy nhiên vì thời gian
khơng cho phép và với kiến thức cịn hạn chế nên sẽ khơng tránh được những sai
sót. Em rất mong q thầy cơ, bạn bè đóng góp ý kiến quý báu để đề tài được hoàn
thiện hơn.


Tp. Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2012
Tác giả
Đặng Thị Diệu Vân


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật Dân sự

GDĐT

Giao dịch điện tử

HĐDS

Hợp đồng dân sự

PICC

Bộ nguyên tắc Hợp đồng thương mại quốc tế của UNIDROIT


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ...........................................................................................................3
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HIỆN HÀNH VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG BẰNG VĂN BẢN ...........................7
Giao kết HĐDS: khái niệm, trình tự và thời điểm giao kết ......................7

1.1.


1.1.1. Khái niệm giao kết HĐDS ..........................................................................7
1.1.2

Trình tự tiến hành giao kết HĐDS ..............................................................9

1.1.2. Thời điểm giao kết HĐDS ........................................................................11
1.2.

Khái niệm giao kết hợp đồng bằng văn bản và các

hình thức hợp đồng bằng văn bản .........................................................................13
1.2.1. Khái niệm giao kết hợp đồng bằng văn bản ..............................................14
1.2.2. Các hình thức hợp đồng bằng văn bản theo quy định
của pháp luật .........................................................................................................15

1.3.

1.2.2.1.

Hợp đồng bằng văn bản thơng thường ..............................................16

1.2.2.2.

Hợp đồng bằng văn bản có cơng chứng, chứng thực ........................18

1.2.2.3.

Hợp đồng điện tử...............................................................................20


Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản và ý nghĩa của

việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản ...................................22
1.3.1. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản ..............................................22
1.3.1.1.

Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản thông thường ...............22

1.3.1.2.

Thời điểm giao kết hợp đồng văn bản có cơng chứng,

chứng thực .........................................................................................................25
1.3.1.3.

Thời điểm giao kết hợp đồng điện tử ................................................29

1.3.2. Ý nghĩa của việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng bằng
văn bản ..................................................................................................................31
CHƢƠNG 2. GIAO KẾT HỢP ĐỒNG BẰNG VĂN BẢNTHỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ........33
2.1.

Những bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật về

giao kết hợp đồng bằng văn bản ............................................................................33


2.1.1. BLDS không quy định về thời điểm để xác định bên
đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng .......................................33
2.1.2. Bất cập về giao kết hợp đồng bằng văn bản trong trường

hợp thư chấp nhận giao kết hợp đồng đến trễ hạn ................................................35
2.1.3. BLDS không quy định thời hạn mà bên được đề nghị
phải trả lời chấp nhận giao kết trong trường hợp bên đề nghị
không quy định ......................................................................................................36
2.1.4. Bất cập về thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản
trong trường hợp trả lời giao kết hợp đồng bằng điện thoại .................................37
2.1.5. Bất cập về thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản
trong trường hợp im lặng chấp nhận giao kết hợp đồng hoặc
chấp nhận giao kết bằng hành vi cụ thể ................................................................42
2.1.6. BLDS chưa quy định thời điểm giao kết hợp đồng bằng
văn bản có cơng chứng, chứng thực ......................................................................45
2.1.7. BLDS chưa quy định thời điểm giao kết hợp đồng điện tử ......................50
2.1.8. BLDS chưa quy định thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản
trong trường hợp các bên giao kết hợp đồng theo nhiều giai đoạn .......................52
2.2.

Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết

hợp đồng bằng văn bản...........................................................................................53
2.2.1. Sửa đổi, bổ sung Điều 397 BLDS về thời trả lời chấp nhận
giao kết hợp đồng ..................................................................................................53
2.2.2. Sửa đổi, bổ sung quy định về thời điểm giao kết hợp đồng
bằng văn bản .........................................................................................................54
2.2.3. Quy định thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản phải
công chứng, chứng thực ........................................................................................56
2.2.4. Quy định thời điểm giao kết hợp đồng bằng điện tử ................................57
KẾT LUẬN ..............................................................................................................63


Lời nói đầu


LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài:
Hợp đồng là một chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam, điều
chỉnh một trong những quan hệ phổ biến trong đời sống xã hội. Sự phát triển và
hồn thiện của chế định hợp đồng có ảnh hướng rất lớn đến sự phát triển của nền
kinh tế.
Để một hợp đồng có hiệu lực, trước hết phải tiến hành giao kết hợp đồng. Giao
kết hợp đồng có ý nghĩa pháp lý vô cùng quan trọng- là cơ sở để hợp đồng có hiệu
lực, từ đó phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng.
Giao kết hợp đồng dân sự (HĐDS) được quy định trong Bộ luật dân sự
(BLDS) năm 2005. Tuy nhiên, qua thực tiễn xét xử cũng như áp dụng pháp luật, các
quy định về giao kết HĐDS bộc lộ nhiều điểm bất cập. Đặc biệt là các quy định liên
quan đến giao kết hợp đồng bằng văn bản. Chính những bất cập trong quy định
pháp luật về giao kết hợp đồng bằng văn bản đã dẫn đến các giải quyết khác nhau
của Tòa án làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các bên giao kết. Đồng thời,
thơng qua các tình huống trong thực tiễn vận dụng các quy định về giao kết hợp
đồng cũng cho thấy những quy định này chưa thực sự hợp lý và cịn nhiều thiếu sót.
Điều này làm cản trở hoạt động giao kết hợp đồng, từ đó phần nào ảnh hưởng đến
sự phát triển của quan hệ hợp đồng.
Trong đời sống hàng ngày, hợp đồng bằng văn bản thường được các bên chủ
thể lựa chọn khi tiến hành giao kết những hợp đồng quan trọng, có đối tượng là
những tài sản có giá trị lớn. Từ khi BLDS 2005 ra đời mở rộng phạm vi điều chỉnh
của BLDS thì vai trị của hợp đồng bằng văn bản càng có vai trị quan trọng.
Học thuyết của chủ nghĩa Mác- Lênin về mối quan hệ giữa pháp luật và nền
kinh tế chỉ ra rằng đây là mối quan hệ giữa một yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng
và một yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng. Từ đó thấy rằng sự phát triển của nền kinh tế sẽ
dẫn đến sự thay đổi của pháp luật, cũng tức là sự phát triển của quan hệ giao lưu
dân sự sẽ dẫn đến sự phát triển của quy định pháp luật về hợp đồng. Ngược lại,


Trang 3


Lời nói đầu

pháp luật về hợp đồng phải theo kịp với nền kinh tế và thúc đẩy nền kinh tế phát
triển.
Tác giả nhận thấy việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về giao kết hợp
đồng bằng văn bản là điều cần thiết, nhất là trong bối cảnh dự án sửa đổi, bổ sung
BLDS 2005 đang được triển khai thực hiện. Do đó, tác giả đã chọn “Giao kết hợp
đồng bằng văn bản- Những vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài nghiên cứu của
khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật tại trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài:
Cho đến nay, các vấn đề liên quan đến giao kết hợp đồng đã được đề cập đến
trong nhiều cơng trình nghiên cứu của nhiều tác giả.
Ngày 05/12/2009, trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh tổ chức Hội thảo
khoa học dân sự chuyên đề: “Thời điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng theo quy định của BLDS 2005”. Tại hội thảo này, nhiều tác giả đề cập đến
những bất cập trong các quy định của pháp luật về thời điểm giao kết hợp đồng như
Thạc sĩ- Luật sư Trương Thị Hịa trình bày đề tài nghiên cứu: “Thời điểm giao kết
và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của BLDS 2005 còn đó nhiều
điều chưa đầy đủ”. Trong nghiên cứu này, Luật sư chỉ mới nêu lên những điểm
chưa hoàn thiện của thời điểm giao kết hợp đồng (Điều 404 BLDS) nhưng chưa đề
xuất kiến nghị hoàn thiện cụ thể. Cũng tại hội thảo, nghiên cứu sinh Lê Minh Hùng
có đề cập đến những bất cập và kiến nghị liên quan đến Điều 404 BLDS. Nhưng
thời điểm giao kết hợp đồng cũng chưa phải là một đề tài độc lập mà chỉ là một
phần trong những kiến nghị nhằm hoàn hoàn thiện quy định của pháp luật về thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng.
Năm 2010, Nghiên cứu sinh Lê Minh Hùng bảo vệ luận án tiến sĩ với đề tài
“Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam”. Trong đó cập đến

bất cập và kiến nghị hồn thiện thời điểm giao kết hợp đồng tại chương 3 của đề tài
như một phần của các giải pháp hoàn thiện quy định về thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng.
Ngoài các đề tài trên, tác giả Nguyễn Văn Phái, cũng có bài nghiên cứu về vấn

Trang 4


Lời nói đầu

đề “Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng trong Bộ luật dân sự” đăng trên tạp chí nghiên cứu lập pháp số 9, tháng
5/2011. Tác giả Ngô Huy Cương với đề tài nghiên cứu “Hiệu lực của chấp nhận
giao kết hợp đồng theo BLDS 2005- Nhìn từ góc độ Luật so sánh” đăng trên tạp chí
nghiên cứu lập pháp số 24 tháng 12/2010. Với đề tài này, tác giả đánh giá các quy
định về hiệu lực của chấp nhận giao kết thông qua việc so sánh với các hệ thống
pháp luật trên thế giới.
Tìm hiểu tình hình nghiên cứu của đề tài, tác giả nhận thấy các đề tài nghiên
cứu hầu hết đều đề cập đến giao kết hợp đồng nói chung mà chưa có sự phân tích
trên một hình thức hợp đồng cụ thể. Đồng thời, các đề tài cũng không đề cập đến tất
cả các vấn đề của giao kết hợp đồng mà chỉ nghiên cứu theo một khía cạnh cụ thể
như chấp nhận giao kết hoặc thời điểm giao kết hợp đồng.
Theo những tài liệu mà tác giả tìm hiểu được, giao kết hợp đồng và đặc biệt
giao kết hợp đồng bằng văn bản cho đến nay chưa có một đề tài nghiên cứu độc lập.
Trong nhiều năm trở lại đây, giao kết hợp đồng bằng văn bản là đề tài nghiên cứu
hoàn toàn mới trong các khóa luận tốt nghiệp tại trường Đại học luật Tp. Hồ Chí
Minh.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Mục đích đặt ra khi thực hiện đề tài này chính làm nhằm làm rõ các quy định
về giao kết hợp đồng nói chung và giao kết hợp đồng bằng văn bản nói riêng, nêu ra

những bất cập trong việc áp dụng pháp luật về giao kết hợp đồng bằng văn bản để
từ đó kiến nghị những biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng.
Với mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả chọn đối tượng nghiên cứu là những
quy định của pháp luật điều chỉnh các những vấn đề cơ bản trong việc giao kết hợp
đồng mà chủ yếu là quy định trong BLDS năm 2005.
Ngồi ra, tác giả cịn có sự liên hệ, so sánh với các quy định khác trong BLDS
năm 1995, Luật Thương mại năm 2005, Luật Thương mại năm 1997, Luật Giao
dịch điện tử (GDĐT) năm 2005, Luật Công chứng năm 2006...Đặc biệt, tác giả

Trang 5


Lời nói đầu

chọn một số quy định của pháp luật nước ngoài để đối chiếu, so sánh nhằm nêu lên
những kiến nghị hoàn thiện pháp luật cho phù hợp với thơng lệ quốc tế.
Tác giả nhận thấy hình thức hợp đồng bằng văn bản là hình thức hợp đồng rất
phổ biến trong đời sống xã hội. Do đó, tác giả khơng đi vào phân tích tất cả các hình
thức hợp đồng mà chỉ chọn hình thức hợp đồng bằng văn bản làm tiêu biểu để
nghiên cứu các vấn đề về giao kết HĐDS.
Mặc khác, do khả năng còn hạn chế và thời gian không cho phép, tác giả
không tham vọng nghiên cứu hết các khía cạnh của giao kết hợp đồng bằng văn bản
mà tác giả giới hạn phạm vi đề tài trong các quy định về chấp nhận giao kết hợp
đồng và thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản. Do đó, những bất cập và kiến
nghị mà tác giả nêu ra trong đề tài này hầu hết liên quan đến chấp nhận giao kết hợp
đồng và thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này, tác giả chọn phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phân
tích. Tác giả đi sâu vào phân tích các quy định của pháp luật kết hợp các bản án,
tình huống thực tiễn để làm rõ những bất cập trong việc áp dụng pháp luật.

Bên cạnh đó, tác giả cũng kết hợp khai thác những phương pháp khác như liệt
kê, so sánh, đánh giá, tổng hợp các ý kiến của các tác giả trên các sách chuyên khảo,
tạp chí, báo cáo,… để đề tài có tính khách quan và hồn thiện hơn.
5. Bố cục đề tài:
Với mục đích nghiên cứu đã đề ra, đề tài được trình bày thành 2 chương theo
bố cụ và nội dung như sau:
-

Chương 1: Lý luận và quy định của pháp luật hiện hành về giao kết hợp đồng
bằng văn bản.

-

Chương 2: Giao kết hợp đồng bằng văn bản- Thực tiễn áp dụng pháp luật và
kiến nghị hoàn thiện.

Trang 6


Chương 1

CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ
GIAO KẾT HỢP ĐỒNG BẰNG VĂN BẢN
1.1.

Giao kết HĐDS: khái niệm, trình tự và thời điểm giao kết
1.1.1. Khái niệm giao kết HĐDS
Hợp đồng là chế định có lịch sử lâu đời trong hệ thống pháp luật dân sự. Khi

nền kinh tế càng phát triển, các giao dịch dân sự được đẩy mạnh để đáp ứng nhu cầu

đời sống vật chất và tinh thần của con người, chế định hợp đồng ngày càng được
hoàn thiện.
Để một HĐDS được xác lập, trước hết, các bên phải tiến hành giao kết hợp
đồng. Chỉ khi được giao kết thì hợp đồng mới có thể phát sinh hiệu lực ràng buộc
quyền và nghĩa vụ của các bên.
BLDS năm 2005 không quy định thế nào là giao kết hợp đồng mà chỉ quy
định về trình tự trong quá trình giao kết hợp đồng.
Từ điển luật học định nghĩa: “Giao kết hợp đồng là việc các bên chủ thể bày
tỏ ý chí với nhau để cùng xác lập hợp đồng thông qua sự bàn bạc, trao đổi, thương
lượng với nhau theo các nguyên tắc và trình tự do luật định nhằm xác lập, thay đổi,
chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”1
Như vậy để tiến hành giao kết HĐDS, trước hết phải có ít nhất hai bên chủ thể
cùng tiến hành các hoạt động để đi đến sự thống nhất về nội dung hợp đồng. Dĩ
nhiên, các bên cũng có thể tự mình tuyên bố ý chí đơn phương bày tỏ sự mong
muốn cùng bên kia xác lập hợp đồng với các nội dung cụ thể. Sự tuyên bố này sẽ
ràng buộc quyền và nghĩa vụ của chính bên đề nghị đối với nội dung mà họ đã đưa
ra. Tuy nhiên, đây chỉ là ý chí của một bên. HĐDS, trên hết phải được thiết lập trên
cơ sở sự thỏa thuận và thống nhất ý chí của tất cả các bên. Do đó, sự tuyên bố đơn
phương này chưa đủ để hình thành một hợp đồng trên thực tế. Từ sự tuyên bố đơn
phương của một bên, khi có sự gặp gỡ, trao đổi về ý chí với bên kia, và khi có được
sự đồng thuận từ các bên thì hợp đồng mới có thể được coi là đã giao kết.

1

Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Từ điển Luật học, NXB Khoa học pháp lý- NXB từ điển Bách khoa,
2006, trang 276.

Trang 7



Chương 1

Giao kết HĐDS chỉ được coi là có giá trị pháp lý khi việc giao kết tuân thủ
theo đúng các nguyên tắc do pháp luật quy định. Điều 389 BLDS năm 2005 về
nguyên tắc giao kết HĐDS quy định:
Việc giao kết HĐDS phải tuân theo các nguyên tắc sau:
1. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội;
2. Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.
Tự do chính là một quyền cơ bản của con người được Hiến pháp ghi nhận và
cũng là nguyên tắc nền tảng trong BLDS. Tự do ở đây chính là chủ thể có quyền tự
định đoạt ý chí của mình mà khơng phải chịu sự tác động hay ràng buộc từ bất kì
chủ thể nào khác. Tự do giao kết hợp đồng thể hiện bằng việc chủ thể có tồn quyền
quyết định việc mình có tham gia giao kết hợp đồng hay khơng. Chủ thể cũng có
quyền quyết định loại hợp đồng để tiến hành giao kết sao cho phù hợp với hoàn
cảnh và nhu cầu của bản thân. Quyền tự do cịn được thể hiện bằng việc chủ thể có
quyền lựa chọn người tiến hành giao kết, hình thức hợp đồng và nội dung của hợp
đồng sẽ tiến hành giao kết.
Tuy nhiên, tự do nhưng cũng phải trong khuôn khổ của pháp luật và đạo đức
xã hội. Một hợp đồng được tiến hành dựa trên sự tự do thể hiện ý chí nhưng nếu trái
với các quy định của pháp luật và đi ngược lại với truyền thống đạo đức tốt đẹp của
xã hội thì cũng khơng được thừa nhận.
Bên cạnh quyền tự do định đoạt thì giao kết hợp đồng phải được thực hiện trên
cơ sở tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng. Tự nguyện
là việc chủ thể tự thể hiện ý chí của mình, tự định đoạt việc tham gia giao kết hợp
đồng phù hợp với nhu cầu của bản thân, thể hiện ở việc chủ thể không bị nhầm lẫn,
lừa dối, ép buộc, đe dọa khi tiến hành giao kết hợp đồng.
Bình đẳng là sự ngang bằng nhau về địa vị pháp lý. Khi tiến hành giao kết hợp
đồng, các chủ thể có quyền và nghĩa vụ như nhau, khơng có sự phân biệt về trình
độ, giới tính, tơn giáo, địa vị xã hội.
Nguyên tắc thiện chí, hợp tác, trung thực, ngay thẳng là nguyên tắc không thể

thiếu khi tiến hành giao kết HĐDS. Bởi vì bản chất của HĐDS là sự thỏa thuận một

Trang 8


Chương 1

cách tự nguyện của các bên. Khi tham gia vào quan hệ hợp đồng, quyền lợi và nghĩa
vụ của các bên gắn liền với nhau. Do đó, các bên phải thực sự mong muốn tham gia
giao kết hợp đồng mà khơng vì bất kỳ sự lừa dối nào vì mục đích vụ lợi, phải hợp
tác và cung cấp thơng tin một cách chính xác, đầy đủ cho phía bên kia, khơng có sự
gian dối, đe dọa ép buộc giao kết hợp đồng. Nếu không tuân thủ nguyên tắc này,
quan hệ hợp đồng sẽ không đúng với bản chất của nó và hợp đồng sẽ bị tun vơ
hiệu theo quy định của pháp luật.
1.1.2 Trình tự tiến hành giao kết HĐDS
Trình tự giao kết hợp đồng là quá trình thỏa thuận giữa các bên bao gồm các
bước nhất định, trong đó các bên cùng bày tỏ ý chí bằng cách thống nhất ý chí với
nhau để cùng nhau thiết lập một HĐDS2.
Theo quy định của BLDS thì giao kết HĐDS được tiến hành theo hai bước cơ
bản: đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Điều 390 khoản 1 BLDS quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể
hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề
nghị đối với bên đã được xác định cụ thể.”
Có thể nói rằng đề nghị giao kết hợp đồng là hành vi đơn phương của một bên,
làm cơ sở để tiến đến giao kết hợp đồng. Đề nghị thể hiện bằng ý chí của bên gửi đề
nghị là muốn được giao kết hợp đồng với bên được đề nghị. Lời đề nghị sẽ có giá trị
ràng buộc đối với chính bên đưa ra lời đề nghị đối với những nội dung được bên đó
đưa ra cho bên được đề nghị. Đề nghị giao kết hợp đồng có ba điều kiện như sau:
- Thứ nhất, người đề nghị có tư cách giao kết, xác lập hợp đồng. Để có thể
tham gia giao kết hợp đồng trong lĩnh vực nào, chủ thể tiến hành giao kết hợp đồng

phải có đủ năng lực chủ thể và tư cách thủ thể để tham gia vào quan hệ pháp luật
trong lĩnh vực đó. Ví dụ, một người khơng được pháp luật Việt Nam cho phép có
quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì khơng thể trở thành chủ thể giao kết hợp đồng
cho thuê nhà ở tại Việt Nam.
2

Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Tập bài giảng “Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng”, trang 162.

Trang 9


Chương 1

- Thứ hai, đề nghị giao kết hợp đồng phải cụ thể, rõ ràng và thể hiện rõ ý định
giao kết hợp đồng. Tức là một lời đề nghị được đưa ra phải được thể hiện dưới một
hình thức nhất định và được chuyển đến cho một hoặc một số người cụ thể xác
định. Đây là đặc điểm nhằm phân biệt một lời đề nghị giao kết hợp đồng với các tờ
rơi chào hàng thông thường hoặc một lời quảng cáo.
- Thứ ba, đề nghị giao kết hợp đồng có giá trị ràng buộc đối với bên đưa ra lời
đề nghị. Theo đó, trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời
hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn
chờ bên kia trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà khơng
được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh.3
Sau khi lời đề nghị được đưa đến bên kia, giai đoạn tiếp theo là trả lời chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng từ phía bên được đề nghị. Đây có thể xem như là
điều kiện đủ để tiến hành việc giao kết. Vì chỉ khi bên được đề nghị trả lời chấp
nhận lời đề nghị thì hợp đồng mới được coi là giao kết.
Điều 396 BLDS quy định: “Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời
của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của

đề nghị”. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng sẽ có tính ràng buộc về mặt pháp lý
đối với các nội dung đã được nêu trong hợp đồng cho cả bên đề nghị và bên được
đề nghị. Từ đây, các bên có trách nhiệm phải thực hiện các nghĩa vụ được quy định
để hợp đồng có hiệu lực.
Tuy nhiên, để một chấp nhận đề nghị giao kết có hiệu lực pháp lý thì nó phải
thỏa mãn các u cầu như sau:
- Một là, người chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng phải có năng lực chủ thể
khi tham gia xác lập quan hệ hợp đồng.
- Hai là, trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng phải được đưa ra trong
một thời hạn nhất định. Thời hạn này có thể là thời hạn do bên đề nghị ấn định hoặc
do các bên thỏa thuận. Nếu như trả lời chấp nhận đề nghị được đưa ra khi đã hết
thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi như lời đề nghị mới của bên chậm trả
3

Khoản 2 Điều 390 BLDS năm 2005.

Trang 10


Chương 1

lời. Trong trường hợp thơng báo đến chậm vì lý do khách quan mà bên đề nghị biết
hoặc phải biết về lý do khách quan đó thì thơng báo chấp nhận giao kết hợp đồng
vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý với chấp
nhận đó của bên được đề nghị.4
Đối với trường hợp giao kết trực tiếp, bên đề nghị phải đưa ra câu trả lời ngay
chấp nhận hay không chấp nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận về thời hạn trả lời.5
- Ba là, trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng phải chấp nhận toàn bộ
nội dung của đề nghị giao kết hợp đồng. BLDS đã quy định trường hợp bên được đề
nghị chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng đưa ra điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị thì

được coi như người này đã đưa ra lời đề nghị mới.6
Giao kết hợp đồng hợp pháp là giao kết hợp đồng được thực hiện theo đúng
nguyên tắc và trình tự do pháp luật quy định.
1.1.2. Thời điểm giao kết HĐDS
BLDS năm 2005 không nêu cụ thể khái niệm thời điểm giao kết HĐDS mà chỉ
quy định thời điểm giao kết hợp đồng trong từng trường hợp cụ thể.
Giao kết hợp đồng là việc các bên chủ thể bày tỏ ý chí với nhau bằng cách bàn
bạc, trao đổi, thương lượng theo các nguyên tắc và trình tự do luật định nhằm xác
lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. HĐDS chỉ được coi là đã giao kết
khi thỏa mãn các điều kiện về nguyên tắc giao kết hợp đồng và trình tự giao kết hợp
đồng như đã phân tích ở phần trên.
Thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm hợp đồng được coi là đã giao kết
xong. Tức là vào thời điểm hợp đồng được giao kết, các bên đã hoàn thành các trình
tự của quá trình giao kết hợp đồng và đi đến những thỏa thuận thống nhất.
Dựa theo quy định của pháp luật, trình tự giao kết HĐDS hồn thành khi:
- Các bên thỏa thuận xong nội dung cơ bản của hợp đồng trong trường hợp
giao kết trực tiếp bằng lời nói hay qua điện thoại;

4

Khoản 1 Điều 397 BLDS năm 2005
Khoản 2 Điều 397 BLDS năm 2005.
6
Điều 395 BLDS năm 2005
5

Trang 11


Chương 1


- Bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng hợp lệ từ bên
được giao kết trong trường hợp giao kết hợp đồng gián tiếp.
Từ đó có thể định nghĩa thời điểm giao kết HĐDS là thời điểm mà ý chí của
các bên gặp nhau và đi đến sự thống nhất các nội dung của hợp đồng sau khi đã
hồn tất các trình tự trong quá trình giao kết hợp đồng.
Thời điểm giao kết HĐDS được quy định cụ thể tại Điều 404 BLDS năm
2005:
1. HĐDS được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận
giao kết.
2. HĐDS cũng được xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận
được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận
giao kết.
3. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận
về nội dung của hợp đồng.
4. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm nên sau cùng ký vào
văn bản.
BLDS năm 2005 quy định thời điểm giao kết HĐDS dựa vào hình thức của
hợp đồng được giao kết. Cụ thể:
- Trường hợp hợp đồng được giao kết bằng lời nói, có thể là đối thoại trực tiếp
hoặc bằng điện thoại thì thời điểm giao kết là thời điểm các bên thỏa thuận xong nội
dung của hợp đồng.
- Nếu hợp đồng được giao kết bằng văn bản thì thời điểm giao kết là thời điểm
bên sau cùng ký vào văn bản.
- Nếu hợp đồng được giao kết gián tiếp thơng qua thư tín hoặc các phương tiện
khác thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời
chấp nhận giao kết hợp đồng của bên được đề nghị.
- Trong trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định im lặng
là đồng ý giao kết hợp đồng thì thời điểm giao kết hợp đồng là khi hết thời hạn trả
lời mà bên được đề nghị vẫn im lặng. Chẳng hạn tại Điều 460 khoản 1 BLDS về


Trang 12


Chương 1

mua bán khi sử dụng thử quy định: “trong thời hạn dùng thử, bên mua có thể trả lời
mua hoặc không mua; nếu hết thời hạn dùng thử mà bên mua khơng trả lời thì coi
như đã chấp nhận mua theo các điều kiện đã thỏa thuận trước khi nhận vật dùng
thử”. Theo quy định tại điều này thì thời điểm giao kết hợp đồng là khi đã hết thời
hạn dùng thử mà bên mua vẫn im lặng không trả lời là mua hay không mua.
Điều 404 BLDS năm 2005 không quy định thời điểm giao kết hợp đồng bằng
phương tiện điện tử, nhưng trong điều kiện khoa học kĩ thuật tiến bộ như hiện nay,
hình thức giao kết hợp đồng này đã trở nên rất phổ biến và đã được ghi nhận trong
Luật GDĐT 2005.
Thời điểm giao kết hợp đồng bằng phương tiện điện tử được quy định tại các
Điều 18, Điều 19, Điều 20, khoản 2 Điều 36 Luật GDĐT 2005 và Điều 11 khoản 2
Nghị định số 57/2006/NĐ-CP ngày 09/06/2006. Theo đó, thời điểm giao kết hợp
đồng bằng phương tiện điện tử là thời điểm thông điệp điện tử mang nội dung chấp
nhận giao kết hợp đồng đến được địa chỉ điện tử do bên đề nghị cung cấp. Việc xác
định thời điểm giao kết hợp đồng bằng phương tiện điện tử sẽ được phân tích cụ thể
tại phần sau.
Có thể thấy, tùy theo hình thức của hợp đồng và mà pháp luật xác định thời
điểm giao kết HĐDS tương ứng. Như vậy, pháp luật Việt Nam xác định thời điểm
giao kết hợp đồng dựa trên nguyên tắc tuyên bố ý chí, tức là dựa vào hình thức cơng
bố ý chí thể hiện sự thỏa thuận.7 Xung quanh vấn đề này còn nhiều điểm bất cập đã
được nhiều tác giả đề cập đến trong các công trình nghiên cứu hay sách chuyên
khảo. Tuy nhiên, trong nội dung đề tài nghiên cứu này tác giả chỉ đề cập đến bất cập
trong việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản.
1.2.


Khái niệm giao kết hợp đồng bằng văn bản và các hình thức hợp đồng
bằng văn bản

7

Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh,Tập bài giảng “Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng”, trang 187.

Trang 13


Chương 1

1.2.1. Khái niệm giao kết hợp đồng bằng văn bản
Từ điển luật học định nghĩa hình thức hợp đồng là “cách thức thể hiện sự thỏa
thuận giữa các bên”8.
Theo cách hiểu này thì hình thức của hợp đồng chính là sự biểu hiện ra bên
ngồi ý chí của các bên giao kết hợp đồng, là dạng vật chất chứa đựng nội dung của
hợp đồng. Trong quan hệ hợp đồng, tùy theo tính chất của hợp đồng các chủ thể có
thể lựa chọn hình thức hợp đồng tương ứng. Đó có thể là hợp đồng bằng lời nói,
hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.
Trong đời sống kinh tế hiện nay, hình thức hợp đồng bằng văn bản là hình
thức thơng dụng khi tiến hành giao kết hợp đồng. Bằng việc thỏa thuận giao kết hợp
đồng bằng văn bản, các bên giao kết thể hiện ý chí của mình trên văn bản cụ thể.
Nếu hợp đồng được giao kết theo quy định của pháp luật phải lập thành văn bản
cơng chứng, chứng thực hoặc đăng ký thì các bên phải tiến hành theo đúng thủ tục
đó9.
Từ đó có thể đưa ra khái niệm: Giao kết hợp đồng bằng văn bản là việc các
bên chủ thể thỏa thuận với nhau về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền

và nghĩa vụ trong hợp đồng và sự thỏa thuận này được thể hiện ra bên ngồi bằng
hình thức văn bản theo trình tự thủ tục phù hợp với quy định của pháp luật.
Giao kết hợp đồng bằng văn bản được thực hiện bằng hai cách thức chủ yếu:
- Giao kết trực tiếp: Là phương thức giao kết mà các bên trực tiếp gặp gỡ
nhau, cùng tiến hành đàm phán về từng điều khoản trong hợp đồng. Việc giao kết
thực hiện xong khi điều khoản cuối cùng trong hợp đồng được thống nhất. Bằng
cách thức giao kết này, các bên có thể nhanh chóng đi đến thống nhất mọi vấn đề
trong hợp đồng bằng cách bàn bạc kĩ lưỡng từng vấn đề, tránh sai sót đồng thời
tránh được sự hiểu lầm ý định của nhau. Cách thức này rất tiện lợi cho các bên chủ
thể có địa chỉ thường trú, hoặc trụ sở kinh doanh gần nhau.
- Giao kết hợp đồng gián tiếp (hay giao kết hợp đồng vắng mặt): Là cách thức

8
9

Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Sđd, trang 363.
Khoản 1 Điều 401 BLDS năm 2005.

Trang 14


Chương 1

giao kết mà các bên chủ thể không gặp gỡ trực tiếp đàm phán mà gửi văn bản qua
phương tiện điện tử hoặc đường bưu điện để thể hiện ý chí của mình với bên kia.
Việc giao kết bằng phương thức này có thể diễn ra một cách nhanh chóng bằng một
cái “click” chuột vào ơ “đồng ý” trên màn hình đối với những hợp đồng mua bán
hàng hóa đơn giản trên website điện tử. Đối với những hợp đồng phức tạp, số lượng
hàng hóa lớn nhưng các bên có trụ sở kinh doanh xa nhau, khơng tiện để gặp gỡ
trực tiếp thì có thể tiến hành qua nhiều giai đoạn đàm phán gián tiếp cho đến khi tất

cả các điều khoản được thống nhất.
Khi quan hệ hợp đồng ngày càng phát triển, giao kết hợp đồng bằng văn bản
có ý nghĩa vơ cùng to lớn:
- Trước hết, giao kết hợp đồng bằng văn bản là cơ sở để hợp đồng bằng văn
bản có hiệu lực trên thực tế;
- Giao kết hợp đồng bằng văn bản giúp chủ thể thể hiện cụ thể ý chí cũng như
nội dung các điều khoản trong hợp đồng;
- Giao kết hợp đồng bằng văn bản tạo cơ sở vững chắc, đảm bảo độ bền vững
của việc xác lập hợp đồng, đặc biệt là đối với hợp đồng kinh tế hoặc hợp đồng mà
đối tượng là tài sản có giá trị lớn;
- Việc chứng minh sự tồn tại của hợp đồng giao kết bằng văn bản dễ dàng hơn
so với các hình thức khác. Từ đó tạo tâm lý an tâm cho các bên khi tham gia vào
quan hệ hợp đồng với những đối tác mới, điều này góp phần thúc đẩy quan hệ hợp
đồng phát triển;
- Đối với Nhà nước, giao kết hợp đồng bằng văn bản giúp cho cơ quan có
thẩm quyền quản lý và giám sát các giao dịch trong nền kinh tế, đồng thời xác định
nghĩa vụ nộp thuế và các nghĩa vụ tài chính khác. Thơng qua đó, Nhà nước kiểm
soát việc giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, hạn chế các giao dịch ảnh hưởng
đến lợi ích cơng cộng.
1.2.2. Các hình thức hợp đồng bằng văn bản theo quy định của pháp luật
Điều 404 BLDS quy định về hình thức của HĐDS như sau:

Trang 15


Chương 1

1. HĐDS có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi
cụ thể, khi pháp luật khơng quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết
bằng một hình thức nhất định.

2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng
văn bản có cơng chứng hoặc chứng thực, đăng kí hoặc xin phép thì phải tn
theo các quy định đó.
Hợp đồng khơng bị vơ hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
Như vậy, BLDS đã quy định hình thức hợp đồng theo hướng: Hình thức hợp
đồng là sự biểu hiện ra bên ngoài nội dung của hợp đồng, bao gồm tổng hợp các
cách thức, thủ tục, phương tiện để thể hiện và cơng bố ý chí của các bên, ghi nhận
nội dung hợp đồng và biểu hiện cho sự tồn tại của hợp đồng10.
Về khái niệm văn bản, cho đến nay có rất nhiều định nghĩa văn bản được đưa
ra. Tùy theo các góc độ, phạm vi và đối tượng nghiên cứu, văn bản có thể hiểu theo
nhiều các khác nhau. Ở đây, nghiên cứu về thời điểm giao kết hợp đồng nên chúng
ta chỉ tìm hiểu khái niệm văn bản theo hướng nhấn mạnh về mặt hình thức.
Theo Từ điển tiếng Việt định nghĩa:
“Văn bản là bản viết hoặc in, mang nội dung là những gì cần được ghi để lưu
lại làm bằng”.11
Như vậy hợp đồng bằng văn bản chính là hợp đồng mà các nội dung của nó
được thể hiện ra trên một bản in hay bản viết cụ thể, bao gồm cả các cách thức, thủ
tục để xác lập hợp đồng.
Trong đời sống xã hội, hợp đồng bằng văn bản truyền thống được các chủ thể
lựa chọn để tiến hành giao kết có hai loại chính là hợp đồng bằng văn bản thơng
thường và hợp đồng bằng văn bản phải công chứng, chứng thực.
1.2.2.1.

10
11

Hợp đồng bằng văn bản thông thƣờng

ĐH Luật Tp.HCM, Sđd, trang 120.

Viên Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng- Trung tâm từ điển học, 2006, trang 1100.

Trang 16


Chương 1

Trong lịch sử phát triển của quan hệ hợp đồng thì hợp đồng bằng văn bản
thơng thường ra đời từ rất sớm. Trước đây, hình thức hợp đồng này đơn giản chỉ là
một tờ giấy viết tay do các bên dùng bút viết trực tiếp trên giấy trắng. Khi khoa học
phát triển, giấy viết tay cũng được biết đến với hình thức đánh chữ hoặc bản in từ
máy tính. Cùng với hình thức hợp đồng bằng lời nói, hợp đồng bằng văn bản thông
thường cũng được sử dụng khá phổ biến, nhất là trong hoạt động thương mại hoặc
giao dịch mua bán, cầm cố, cho vay tài sản có giá trị lớn.
Hình thức hợp đồng này được sử dụng phổ biến trong trường hợp các bên giao
kết hợp đồng mà pháp luật không quy định phải tuân theo một hình thức nhất định
nhưng các bên muốn đảm bảo độ xác thực về nội dung mà họ đã cam kết. Trên thực
tế, cũng có nhiều trường hợp pháp luật quy định hợp đồng phải được giao kết theo
những thủ tục công chứng, chứng thực nhưng các bên vẫn sử dụng hợp đồng viết
tay thông thường để nắm giữ một “vật làm tin”, đồng thời tránh những thủ tục rườm
rà theo quy định của pháp luật.
Giao kết hợp đồng bằng văn bản thông thường là giao kết hợp đồng mà nội
dung của các thỏa thuận được ghi nhận trên một bản giấy viết tay hoặc đánh máy.
Cuối văn bản hợp đồng là chữ kí của các bên giao kết (nếu người giao kết hợp đồng
khơng biết chữ thì có thể điểm chỉ vào văn bản hợp đồng) nhằm xác nhận ý chí của
các bên.
Hiện nay có rất nhiều loại hợp đồng dân sự pháp luật quy định phải tuân theo
hình thức văn bản. Cụ thể như: hợp đồng mua bán tài sản thông qua đấu giá (khoản
2 Điều 458 BLDS 2005); hợp đồng ủy quyền trong trường hợp pháp luật có quy
định (khoản 2 Điều 142 BLDS); các hợp cầm cố tài sản (Điều 327 BLDS 2005),

hợp đồng thế chấp tài sản (Điều 343 BLDS); hợp đồng đặt cọc (khoản 1 Điều 358
BLDS), hợp đồng bảo lãnh (Điều 362 BLDS), hợp đồng bảo đảm trong đó dùng
một tài sản để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ (khoản 2 Điều 234 BLDS).
Luật Thương mại 2005 cũng định một số hợp đồng thương mại bắt buộc phải
được lập thành văn bản như: hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định
phải lập thành văn bản (khoản 2 Điều 24); hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế

Trang 17


Chương 1

(khoản 2 Điều 27); hợp đồng dịch vụ mà pháp luật quy dịnh phải được lập thành
văn bản (khoản 2 Điều 74); hợp đồng khuyến mại (Điều 90); hợp đồng dịch vụ
quảng cáo thương mại (Điều 110); hợp đồng dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa,
dịch vụ (Điều 124); hợp đồng dịch vụ tổ chức, tham gia hội chợ, triển lãm thương
mại (khoản 2 Điều 130); hợp đồng đại diện cho thương nhân (Điều 142); hợp đồng
ủy thác mua bán hàng hóa (Điều 159); hợp đồng đại lý (Điều 168); hợp đồng gia
công (Điều 179); hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hóa (Điều 203); hợp đồng
dịch vụ quá cảnh (Điều 151); hợp đồng nhượng quyền thương mại (Điều 285)…
So với hình thức hợp đồng bằng lời nói hay bằng hành vi cụ thể thì hợp đồng
bằng văn bản thông thường thể hiện cụ thể hơn, đầy đủ hơn ý chí của các bên giao
kết, và tất nhiên có giá trị chứng cứ cao hơn, hạn chế tranh chấp về quyền và nghĩa
vụ của các bên giao kết hợp đồng.
1.2.2.2.

Hợp đồng bằng văn bản có cơng chứng, chứng thực

Trong cuộc sống đời thường cũng như trong quan hệ dân sự, thương mại, khi
có tranh chấp xảy ra, các bên đương sự thường có xu hướng tìm kiếm chứng cứ

bênh vực cho lý lẽ của mình và bác bỏ lập luận của đối phương. So với văn bản tay
thơng thường, thì văn bản được cơng chứng hoặc chứng thực có giá trị chứng cứ
cao hơn bởi vì nó đã được sự xác nhận của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Văn
bản cơng chứng hoặc chứng thực là công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ, phòng ngừa tranh chấp, tạo sự ổn định trong quan hệ dân sự.
Pháp luật bắt buộc thủ tục công chứng, chứng thực đối với những hợp đồng có
tính chất phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp và đối tượng của nó là những tài sản mà
Nhà nước cần phải quản lý, kiểm soát. Đối với loại hợp đồng này, các bên phải bên
phải lập thành văn bản và đem đến tổ chức được nhà nước giao chức năng tiến hành
hoạt động công chứng, chứng thực.
Công chứng là thủ tục pháp lý mà theo đó các bên đến tổ chức công chứng để
xác nhận về nội dung hợp đồng đã giao kết. Thông qua hoạt động công chứng, công
chứng viên sẽ kiểm tra được hợp đồng giao kết có tuân theo các nguyên tắc giao kết
hợp đồng hay khơng, chủ thể giao kết hợp đồng có đủ năng lực hành vi dân sự hay

Trang 18


Chương 1

khơng và xác nhận chính chủ thể giao kết hợp đồng đã ký tên lên văn bản hợp đồng
được giao kết.
Chứng thực cũng tương tự như việc tiến hành công chứng. Chỉ khác là được
tiến hành tại Ủy ban nhân dân trong việc chứng thực chữ ký, chứng thực bản sao
của hợp đồng. Thông qua hoạt động chứng thực, cơ quan nhà nước sẽ kiểm tra tính
hợp pháp của hợp đồng được giao kết.
Theo quy định của BLDS năm 2005, các hợp đồng phải lập thành văn bản có
cơng chứng, chứng thực bao gồm: hợp đồng mua bán nhà ở- trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác12 (Điều 450); hợp đồng tặng cho bất động sản hoặc động sản
có đăng ký quyền sở hữu-trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (Điều 466,

467); hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản có công
chứng, chứng thực- trừ trường hợp hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất giữa hộ gia
đình, cá nhân thì có thể lựa chọn lập theo thủ tục chứng nhận tại phịng cơng chứng
hoặc chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất (khoản 2 Điều
689).
Luật Đất đai năm 2003 cũng quy định các hợp đồng phải công chứng, chứng
thực và phải đăng ký gồm: hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất (điểm b, khoản
1 Điều 126); hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (điểm b, khoản 1 Điều
127); hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất (điểm b, khoản 1 Điều 128); hợp đồng
thế chấp quyền sử dụng đất (điểm a, khoản 1 Điều 130); hợp đồng góp vốn bằng
quyền sử dụng đất (điểm a khoản 1 Điều 131).
Bên cạnh đó, đối với những hợp đồng mà pháp luật không quy định nhưng chủ
thể thấy cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích của mình, đảm bảo bằng chứng khi có
tranh chấp xảy ra thì cũng có thể lựa chọn giao kết hợp đồng theo thủ tục công
chứng, chứng thực.

12

Theo quy định tại khoản 3 Điều 93 luật Nhà ở 2005 thì “những hợp đồng về nhà ở phải có chứng nhận của
công chứng hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp huyện đối với nhà ở tại đô thị, chứng thực của Ủy
ban nhân dân cấp xã đối với nhà ở tại nông thôn, trừ trường hợp sau đây: a) Cá nhân cho thuê nhà ở dưới
sáu tháng; b) Bên bán, bên cho thuê nhà ở là tổ chức có chức năng kinh doanh nhà ở; c) Thuê mua nhà ở xã
hội, d) Bên tặng cho nhà ở là tổ chức.”

Trang 19


Chương 1

1.2.2.3.


Hợp đồng điện tử

Ngày nay, với sự bùng nổ của khoa học kĩ thuật, đời sống xã hội chấp nhận
một hình thức giao kết hợp đồng mới là giao kết hợp đồng bằng phương tiện điện
tử. Giao kết hợp đồng điện tử được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như: “hợp
đồng điện tử”, “hợp đồng trực tuyến” hay “hợp đồng phi giấy tờ”,… Tuy nhiên,
“hợp đồng điện tử” vẫn là thuật ngữ phổ biến và thường được sử dụng trong các văn
bản pháp lý hay các công trình nghiên cứu.
So với các hình thức giao kết hợp đồng khác, giao kết hợp đồng điện tử giúp
cho các chủ thể có thể tiết kiệm được rất nhiều thời gian, tiền bạc đặc biệt trong
trường hợp hai bên không có điều kiện để gặp gỡ, đàm phán trực tiếp. Do đó, trong
q trình tồn cầu hóa hiện nay, hợp đồng điện tử là cơng cụ hữu ích để chủ thể tiến
hành giao kết hợp đồng với các đối tác nước ngồi mà khơng cần tốn cơng sức, tiền
bạc đến tận nơi đàm phán.
Điều 33 Luật GDĐT 2005 đã đưa ra định nghĩa về hợp đồng điện tử như sau:
“Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu”.
Thông điệp dữ liệu ở đây là “là những thông tin được tạo ra, được gửi đi, được
nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử”13 và “được thể hiện dưới hình thức
trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các
hình thức khác tương tự”14.
Có thể nói hợp đồng điện tử có những điểm tương đối khác so với hình thức
hợp đồng bằng vản bản. Hợp đồng điện tử không thể hiện ra trên giấy tờ mà sử
dụng thông điệp dữ liệu. Các bên giao kết không cần gặp trực tiếp mà ký kết trong
mơi trường ảo, vào bất kì thời điểm nào và bất kì nơi nào có máy tính mạng và có
thể truy cập để gửi hoặc nhận thông điệp. Hợp đồng điện tử chứa dựng nguy cơ rủi
ro cao hơn vì trong môi trường ảo các bên không thể xác nhận đầy đủ thơng tin như
tính chất hàng hóa, chất lượng hàng hóa,…
Mặc dù có điểm khác với hợp đồng bằng văn bản thông thường, nhưng tác giả


13
14

Khoản 12, Điều 14 Luật GDĐT.
Điều 10, Luật GDĐT.

Trang 20


Chương 1

vẫn đưa hợp đồng điện tử vào đối tượng nghiên cứu của giao kết hợp đồng bằng văn
bản vì hợp đồng điện tử có đầy đủ các đặc tính cơ bản của một văn bản thơng
thường15:
- Khả năng có thể đọc được: Rõ ràng khi giao kết hợp đồng bằng điện tử thì cả
các bên tham gia giao kết đều có thể đọc được nội dung hợp đồng mà các bên gửi
cho nhau.
- Không bị thay đổi nội dung theo thời gian: khoản 1 Điều 13 Luật GDĐT quy
định: “Nội dung của thông điệp dữ liệu được bảo đảm toàn vẹn kể từ khi được khởi
tạo lần đầu tiên dưới dạng một thơng điệp dữ liệu hồn chỉnh” và “nội dung của
thơng điệp dữ liệu được xem là tồn vẹn khi nội dung đó chưa bị thay đổi, trừ
những thay đổi về hình thức phát sinh trong quá trình gửi, lưu trữ hoặc hiển thị
thông điệp dữ liệu”. Như vậy cũng giống như văn bản truyền thống, thông điệp điện
tử cũng được bảo tồn về mặt nội dung, khơng bị sửa chửa, thay đổi, cắt xén, thêm
thông tin khác vào.
- Cho phép tái tạo một tài liệu sao cho mỗi bên đều có bản sao của tài liệu ban
đầu: Một khi một thông điệp dữ liệu được gửi lên khơng gian mạng, thơng điệp đó
sẽ được lưu trữ và có thể truy cập để tái tạo nội dung hồn chỉnh theo quy định của
pháp luật (khoản 2 Điều 13 và Điều 14 Luật GDĐT).
- Cho phép xác thực tài liệu bằng chữ ký: Chữ ký trong GDĐT “được tạo lập

dưới dạng từ, chữ, số, ký hiệu, âm thanh hoặc các hình thức khác bằng phương tiện
điện tử, gắn liền hoặc kết hợp một cách lơ-gíc với thơng điệp dữ liệu, có khả năng
xác nhận người ký thơng điệp dữ liệu và xác nhận sự chấp thuận của người đó đối
với nội dung thông điệp dữ liệu được ký”16. Tương tự như chữ ký trong văn bản
truyền thống chữ ký điện tử cũng là căn cứ để xác định chính chủ thể đó là người đã
gửi thơng điệp dữ liệu, và chỉ có chủ thể đó mới sử dụng chữ ký điện tử của chính
mình.

15

Vũ Đình Thành, “Hành lang pháp lý cho hợp đồng điện tử”, trích trong Báo cáo thương mại điện tử Việt
Nam 2004, trang 30.
16
Khoản 1 Điều 21 Luật GDĐT

Trang 21


Chương 1

- Được cơ quan nhà nước và Tòa án chấp nhận làm bằng chứng khi xảy ra
tranh chấp: Theo Điều 14 Luật GDĐT quy định thì thơng điệp dữ liệu không thể bị
phủ nhận giá trị làm chứng cứ chỉ vì đó là một thơng điệp dữ liệu.
Ngun nhân của sự khác nhau giữa hợp đồng điện tử và hợp đồng viết truyền
thống là hợp đồng điện tử xác lập thơng qua hình thức thơng điệp dữ liệu bằng
phương tiện điện tử, từ đó làm phát sinh những vấn đề khác biệt trong q trình
giao kết hợp đồng cịn về bản chất, hợp đồng điện tử vẫn đầy đủ các đặc điểm như
một hợp đồng văn bản truyền thống.
Do đó pháp luật hiện hành cũng thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử
như là hợp đồng bằng văn bản. Điều 124 BLDS quy định: “Giao dịch dân sự thơng

qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch
bằng văn bản”. Điều 12 Luật GDĐT 2005 cũng quy định: “Trường hợp pháp luật
yêu cầu thông tin phải được thể hiện bằng văn bản thì thơng điệp dữ liệu được xem
là đáp ứng yêu cầu này nếu thông tin chứa trong thơng điệp dữ liệu đó có thể truy
cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết”. Tương tự, Điều 15 Luật Thương
mại 2005 quy định: “Trong hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng
các điều kiện tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì được thừa nhận có
giá trị pháp lý tương đương văn bản”.
Từ những phân tích trên, trong phạm vi nghiên cứu về thời điểm giao kết hợp
đồng bằng văn bản, tác giả xác định hợp đồng bằng văn bản gồm hợp đồng bằng
văn bản viết thông thường, hợp đồng bằng văn bản phải công chứng, chứng thực và
hợp đồng điện tử.
1.3.

Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản và ý nghĩa của việc xác
định thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản

1.3.1. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản
1.3.1.1.

Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản thông thƣờng

Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản thông thường được quy định tại
khoản 4 Điều 404 BLDS năm 2005:

Trang 22


×