Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Hành vi lôi kéo khách hàng bất chính trong luật cạnh tranh năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

VŨ NGUYỄN LINH

HÀNH VI LƠI KÉO KHÁCH HÀNG BẤT CHÍNH
TRONG LUẬT CẠNH TRANH NĂM 2018
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI

TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2020


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
-----

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

HÀNH VI LƠI KÉO KHÁCH HÀNG BẤT CHÍNH
TRONG LUẬT CẠNH TRANH NĂM 2018

SINH VIÊN THỰC HIỆN: VŨ NGUYỄN LINH
Khóa: 41 - MSSV: 1653801011153
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. LÊ VĂN TRANH

TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Lê Văn Tranh, đảm bảo


tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 08 tháng 06 năm 2020
Tác giả khóa luận

Vũ Nguyễn Linh


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

LCT

Luật Cạnh tranh

LTM

Luật Thương mại

LQC

Luật Quảng cáo

LBVNTD

Luật Bảo vệ người tiêu dùng

BLDS


Bộ luật Dân sự

LKKHBC

Lơi kéo khách hàng bất chính

CTKLM

Cạnh tranh không lành mạnh

CT&BVNTD

Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng

QLCT

Quản lý cạnh tranh

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

UBCTQG

Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI LƠI KÉO KHÁCH
HÀNG BẤT CHÍNH ............................................................................................. 6
1.1. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi lơi kéo khách hàng bất
chính ....................................................................................................................... 6
1.1.1. Khái quát về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ................................. 6
1.1.2. Bối cảnh của hành vi lôi kéo khách hàng bất chính nhằm cạnh tranh
khơng lành mạnh .............................................................................................. 10
1.2. Nhận diện về hành vi lơi kéo khách hàng bất chính.................................... 12
1.2.1. Khái niệm lơi kéo khách hàng bất chính ................................................. 12
1.2.2. Đặc điểm của hành vi lôi kéo khách hàng bất chính .............................. 15
1.2.3. Biểu hiện của hành vi lơi kéo khách hàng bất chính .............................. 18
1.3. Sự cần thiết điều chỉnh hành vi lơi kéo khách hàng bất chính trong pháp
luật cạnh tranh .................................................................................................... 29
1.3.1. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp .............................. 29
1.3.2. Bảo vệ quyền lợi của khách hàng............................................................ 29
1.3.3. Bảo vệ nền thị trường cạnh tranh bình đẳng, cơng bằng, lạnh mạnh .... 30
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 32
CHƯƠNG 2. PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ HÀNH VI LƠI KÉO KHÁCH
HÀNG BẤT CHÍNH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN ....... 33
2.1. Quy định về hành vi lôi kéo khách hàng bất chính ..................................... 33
2.1.1. Khái quát chung về pháp luật điều chỉnh hành vi LKKHBC .................. 33
2.1.2. Quy định về hành vi lơi kéo khách hàng bất chính trong Luật Cạnh tranh
2018 ................................................................................................................... 35
2.1.3. Quy định về biện pháp chế tài ................................................................. 39
2.2. Mối quan hệ giữa Luật Cạnh tranh 2018 với các luật chuyên ngành về
hành vi lôi kéo khách hàng bất chính ................................................................. 42
2.3. Thực trạng của các dạng hành vi lơi kéo khách hàng bất chính ................ 43
2.4. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hành vi lơi kéo khách hàng bất
chính ..................................................................................................................... 50
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 52

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 54


MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một trong những
quy luật cơ bản và là thuộc tính của kinh tế thị trường. Theo đó, cạnh tranh trên thị
trường luôn mang bản chất kinh tế và bản chất xã hội:
 Bản chất kinh tế thể hiện ở chỗ các chủ thể kinh doanh luôn cố gắng nâng cao
năng lực cạnh tranh, tạo nhiều lợi thế cạnh tranh cho bản thân, để từ đó thu hút
khách hàng, thu được lợi nhuận cao hơn, ngày càng mở rộng thị trường, và nâng cao
uy tín kinh doanh trong q trình cạnh tranh.
 Bản chất xã hội thể hiện ở chỗ đạo đức kinh doanh của các chủ hể kinh doanh
trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà nước, với người tiêu dùng và các
doanh nghiệp khác.
Về nguyên tắc, cạnh tranh có những mặt tích cực như thúc đẩy sự phát triển
của kinh tế, tạo môi trường thúc đẩy các doanh nghiệp tạo ra những sản phẩm mới,
tốt hơn, đẩy mạnh chất lượng dịch vụ. Song, cạnh tranh cũng là yếu tố mang lại hệ
quả tiêu cực cho kinh tế - xã hội. Cạnh tranh gay gắt có thể dẫn đến tình trạng hạn
chế cạnh tranh, độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh (CTKLM).
Sau hơn 30 năm chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã bắt kịp với
xu hướng tồn cầu hóa, tự do hóa thương mại đang phát triển mạnh mẽ bằng việc
gia nhập vào những tổ chức kinh tế quốc tế, cũng như tham gia các Hiệp định
thương mại tự do, mở ra cho nền kinh tế của Việt Nam vươn cao hơn, tạo ra nhiều
cơ hội và cả những thách thức cho các doanh nghiệp trong nước. Năm 2004, Việt
Nam đã ban hành Luật Cạnh tranh đầu tiên, tạo điều kiện để tạo lập và duy trì mơi
trường kinh doanh bình đẳng, lành mạnh cho các chủ thể kinh doanh trên thị trường.

Tuy nhiên, dưới sự tác động của cuộc cách mạng cơng nghệ 4.0 đang diễn ra
trên tồn thế giới, thị trường kinh doanh càng ngày càng sôi động và biến đổi khơng
ngừng, nhiều loại hình, phương thức kinh doanh mới xuất hiện, đòi hỏi các doanh
nghiệp trong nước lẫn các doanh nghiệp ngồi nước phải có những phương pháp thu
hút khách hàng, mở rộng thị phần, đứng vững trong thị trường thương mại. Điều
này đồng nghĩa với việc sẽ xuất hiện một số chủ thể vì muốn lôi kéo khách hàng sử
dụng sản phẩm, dịch vụ của mình mà thực hiện một số hành vi CTKLM. Trong khi
đó, Luật Cạnh tranh có vai trị quan trọng để điều chỉnh, xử lý các hành vi trên lại
bộc lộ những bất cập, hạn chế ở một số quy định về hành vi CTKLM, gây cản trở
khi áp dụng quy định vào thực tế.
Trước tình hình đó, ngày 12 tháng 06 năm 2018, trong kỳ họp thứ 5 của

1


Quốc hội khóa XIV đã cho thơng qua Luật Cạnh tranh (sửa đổi, bổ sung) năm 2018
(LCT 2018), có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2019 với nhiều nội dung
được sửa đổi, bổ sung so với luật cũ, trong đó có những thay đổi về nhóm hành vi
CTKLM. Để phù hợp với khái niệm về hành vi CTKLM được quy định tại LCT
2018, các nhà làm luật bổ sung hành vi lôi kéo khách hàng bất chính (LKKHBC)
đang có xu hướng xảy ra ngày càng phổ biến.
Vậy, những hành vi nào được xem là hành vi LKKHBC được quy định trong
LCT 2018? Quy định này khác biệt như thế nào so với LCT 2004? Khi áp dụng quy
định này vào thực tiễn có những ưu điểm và khuyết điểm nào? Và chế tài đối với
hành vi này như thế nào? Để trả lời các hỏi trên và hiểu rõ hơn về hành vi
LKKHBC, đưa ra những phân tích, lập luận về vấn đề này, tác giả đã mạnh dạn lựa
chọn đề tài: “Hành vi lôi kéo khách hàng bất chính trong Luật Cạnh tranh năm
2018” làm đề tài Khóa luận tốt nghiệp.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài

Từ hai nguyên nhân là hành vi LKKHBC là hành vi mới được bổ sung vào
LCT 2018 và khoảng thời gian kể từ ngày LCT 2018 chính thức có hiệu lực khá
ngắn, nên hiện nay chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu trực tiếp và cụ thể về hành
vi LKKHBC. Tính đến thời điểm hiện tại những cơng trình nghiên cứu về hành vi
LKKHBC tiêu biểu có:
 Trần Thăng Long, Nguyễn Ngọc Hân (2019), Hành vi lôi kéo khách hành bất
chính trong pháp luật Việt Nam, Nghiên cứu Lập pháp, số 20/2019;
 Đặng Quốc Chương (2019), Một số luận giải về hành vi lơi kéo khách hàng
bất chính trong Luật cạnh tranh 2018, Hội thảo những điểm mới của LCT 2018 và
góp ý cho dự thảo nghị định hướng dẫn LCT 2018;
 Hà Tiến Huy (2019), Hành vi lôi kéo khách hàng bất chính theo Luật Cạnh
tranh 2018, Khóa luận cử nhân Luật, Đại học Luật Tp. HCM;
 Phạm Trí Hùng (2019), Những điểm mới trong trong quy định của Luật Cạnh
tranh năm 2018 về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Hội thảo những điểm mới
của LCT 2018 và góp ý cho dự thảo nghị định hướng dẫn LCT 2018, cơng trình viết
về hành vi CTKLM và có đề cập đến hành vi LKKHBC trong đó.
Mặc dù là hành vi mới xuất hiện trong pháp luật cạnh tranh nhưng hành vi
LKKHBC vẫn có đặc trưng giống với hành vi quảng cáo nhằm CTKLM được quy
định tại LCT 2004 và một số luật chuyên ngành khác như Luật Thương mại 2005
(LTM 2005), Luật Quảng cáo 2012 (LQC 2012), Luật Bảo vệ người tiêu dùng 2010
(LBVNTD 2010),... Vì vậy, nếu khai thác ở góc độ nội dung của hành vi LKKHBC
thì đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về hành vi này:

2


Về sách chuyên khảo có Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012),
Giáo trình Pháp luật về cạnh tranh và giải quyết tranh chấp thương mại, Nhà xuất
bản Hồng Đức; Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật Cạnh tranh,
Nhà xuất bản Công an nhân dân; Trường Đại học Kinh tế - Luật (2010), Giáo trình

Luật Cạnh tranh, Nhà xuất bản Dân trí; Trường Đại học Ngoại thương (2009), Giáo
trình Luật Cạnh tranh, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam; Lê Danh Vĩnh, Hoàng
Xuân Bắc, Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, Nhà xuất
bản Tư pháp; Lê Anh Tuấn (2009), Pháp luật về chống cạnh tranh khơng lành
mạnh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia; Lê Hồng Oanh (2005), Bình luận khoa
học Luật Cạnh tranh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
Về khóa luận, luận án, luận văn tiêu biểu có Hồ Minh Nhật (2010), Pháp luật
về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh - Thực trạng và giải pháp, Khóa
luận cử nhân Luật, Đại học Luật Tp. HCM; Dương Thị Diễm (2011), Quảng cáo so
sánh trong pháp luật cạnh tranh Việt Nam - Thực trạng và hướng hồn thiện, Khóa
luận cử nhân Luật, Đại học Luật Tp. HCM; Trần Phương Thảo (2014), Pháp luật
cạnh tranh Việt Nam về quảng cáo so sánh - Thực trạng và hướng hồn thiện, Khóa
luận cử nhân Luật, Đại học Luật Tp. HCM; Nguyễn Lê Duy (2015), Pháp luật
chống hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh, Khóa luận cử nhân
Luật, Đại học Luật Tp. HCM; Phạm Thị Ngọc Quỳnh (2017), Pháp luật chống hành
vi quảng cáo nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh, Khóa luận cử nhân Luật, Đại học
Luật Tp. HCM; Phạm Thị Quỳnh Ngân (2018), Pháp luật chống hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh, Khóa luận cử nhân Luật, Đại học Luật Tp.
HCM; Đặng Quốc Chương (2011), Hoàn thiện pháp luật chống cạnh tranh không
lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo thương mại, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại
học Luật Tp. HCM; Nguyễn Châu Bảo Ngọc (2015), Pháp luật về chống cạnh tranh
không lành mạnh đối với quảng cáo so sánh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học
Luật Tp. HCM.
Về các bài báo khoa học có các bài viết sau: Phan Huy Hồng (2007), Quảng
cáo so sánh trong pháp luật cạnh tranh - Một nghiên cứu so sánh luật, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 01 (225)/2007; Trương Hồng Quang (2010), Một số vấn đề
về hành vi quảng cáo so sánh theo pháp luật Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, số 08 (268)/2010; Phạm Đức Hịa (2014), Quảng cáo nhằm cạnh tranh khơng
lành mạnh - Những vấn đề pháp lý liên quan, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số
chuyên đề 01/2014; Hồ Thị Duyên (2015), Hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh

không lành mạnh - Một số vấn đề lý luận, Tạp chí Thanh tra, số 05/2015; Hồ Thị
Duyên (2015), Những bất cập của pháp luật về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh

3


khơng lành mạnh ở Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 08 (281)/2015;
Phùng Bích Ngọc (2016), Cách nhìn mới về hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
khơng lành mạnh, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 05 (13)/2016; Hồng Thị Yến
(2017), Pháp luật chống cạnh tranh khơng lành mạnh trên thế giới và Việt Nam và
định hướng sửa đổi luật cạnh tranh, Thông tin khoa học pháp lý, số 03/2017.
Tổng thể hiện nay chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu trực tiếp về hành vi
LKKHBC. Đa số các công nghiên cứu về nội dung liên quan đến các dạng hành vi
tương tự thì chỉ khai thác ở một khía cạnh nhất định của hành vi như quảng cáo,
quảng cáo so sánh,... hoặc khai thác khát quát dưới góc độ lý thuyết về cạnh tranh.
3.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và các hình thức biểu hiện của hành
vi LKKHBC trong LCT 2018, từ đó đưa ra những phân tích, đánh giá các quy định
của pháp luật hiện hành về hành vi. Trên cơ sở đó, áp dụng những quy định này vào
thực tế nhằm nhận xét điểm tiến bộ của quy định cũng như tìm ra những vấn đề hạn
chế, bất cập trong quy định của pháp luật. Từ đó, kiến nghị một số giải pháp cơ bản
nhằm hoàn thiện pháp luật về hành vi LKKHBC và nâng cao hiệu quả khi áp dụng
quy định vào thực tiễn ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích nghiên cứu được đặt ra, khóa luận thực hiện các
nhiệm vụ sau đây:
Một là, làm rõ những vấn đề về mặt lý luận (khái niệm, đặc điểm, vai trò) và
những tác động của LKKHBC đối với sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.

Hai là, phân tích, đánh giá thực tiễn về quy định pháp luật về hành vi
LKKHBC và áp dụng quy định trong thực tế.
Ba là, đề xuất một số phương hướng, giải pháp cơ bản cho việc tiếp tục hoàn
thiện pháp luật về hành vi LKKHBC ở Việt Nam hiện nay.
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung vào các vấn đề lý luận và pháp luận của hành vi
LKKHBC.
 Những vấn đề lý luận về hành vi LKKHBC như đặc trưng cơ bản của hành vi,
biểu hiện của các dạng hành vi LKKHBC trên thực tế.
 Nhận diện hành vi LKKHCB qua các dấu hiệu như chủ thể thực hiện hành vi,
mục đích hành vi, các dạng hành vi và hậu quả do hành vi gây ra.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

4


Khóa luận tập trung nghiên cứu hành vi LKKHBC trong phạm vi điều chỉnh
của các quy phạm pháp luật liên quan, trong đó, tập trung vào các hành vi
LKKHBC được quy định trong pháp luật Việt Nam mà trọng tâm là trong LCT
2018. Phần thực tiễn chỉ đóng vai trị dẫn chứng để tăng tính thuyết phục cho phần
lý luận.
5.
Phương pháp tiến hành nghiên cứu
Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; quan điểm, chủ
trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước về xây dựng thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cùng với các nguồn tài liệu đã thu
thập được, để đạt được mục tiêu nghiên cứu, Khóa luận sử dụng các phương pháp

nghiên cứu cụ thể sau:
 Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng nhằm tổng hợp, phân tích các
số liệu, nhất là các số liệu trong các báo cáo tổng kết của cơ quan quản lý nhà nước
về cạnh tranh về thực tiễn thi hành pháp luật chống hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, các vụ kiện về hành vi có bản chất giống hành vi LKKHBC, các số liệu trong
các đề tài nghiên cứu khoa học nghiên cứu về hành vi tương tự để xây dựng cơ sở lý
luận ở Chương 1, đồng thời làm cơ sở đánh giá thực tiễn pháp luật về hành vi
LKKHBC ở Chương 2.
 Phương pháp so sánh luật học được sử dụng xuyên suốt Khóa luận nhằm đối
chiếu quy định pháp luật cũng như hiệu quả kiểm sốt hành vi LKKHBC, làm cơ sở
cho việc phân tích ở Chương 1, 2 và đề xuất giải pháp ở Chương 2 của Khóa luận.
6.
Bố cục tổng quát của khóa luận
Với mục đích, phạm vi nghiên cứu đã được xác định như trên, khóa luận
được xây dựng theo bố cục như sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về hành vi lơi kéo khách hàng bất chính
Chương 2. Pháp luật điều chỉnh về hành vi lôi kéo khách bất chính và một số
kiến nghị nhằm hồn thiện

5


CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI LƠI KÉO KHÁCH
HÀNG BẤT CHÍNH
1.1. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi lôi kéo khách hàng bất
chính
1.1.1. Khái qt về hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh
Đề tài nghiên cứu về hành vi lôi kéo khách hàng bất chính, song tác giả nhận
thấy việc tìm hiểu quy định về cạnh tranh không lành mạnh (CTKLM) là cần thiết.
Bởi hành vi này là một dạng biểu hiện cụ thể của hành vi CTKLM, và về nguyên

tắc chỉ có thể xác định là LKKHBC khi mà hành vi này mang đầy đủ, dấu hiệu của
một hành vi CTKLM nói chung và dấu hiệu của LKKHBC nói riêng. Vì thế, nội
dung của Mục này sẽ là cơ sở để giải quyết các nội dung tiếp theo của khóa luận.
Theo đó, như chúng ta biết nền kinh tế thị trường đa dạng về thành phần
cùng xu hướng tự do kinh doanh, các chủ thể kinh doanh khơng ngừng tìm kiếm các
phương thức để thu hút khách hàng, mở rộng thị trường, gia tăng thị phần, củng cố
năng lực cạnh tranh và tạo lợi thế cho bản thân trong quá trình cạnh tranh, từ đó
nâng cao vị thế của mình trong thị trường kinh doanh. Bên cạnh những khía cạnh
được sử dụng để cạnh tranh như chất lượng, mẫu mã sản phẩm, giá cả, chế độ chăm
sóc khách hàng, khả năng kinh doanh,... thì một số chủ thể kinh doanh sử dụng các
biện pháp cạnh tranh khơng chính đáng, trái pháp luật nhằm cản trở và gây thiệt hại
cho đối thủ. Do đó, dựa vào mục đích và tính chất của các phương thức thực hiện
hành vi cạnh tranh mà có thể chia thành hai loại: Cạnh tranh lành mạnh thể hiện cho
mặt tích cực của cạnh tranh và cạnh tranh khơng lành mạnh là mặt tiêu cực của cạnh
tranh.
Nhìn chung, nền kinh tế ở các quốc gia trên thế giới ln có sự khác biệt
nhưng các quốc gia đều ln muốn có một mơi trường cạnh tranh lành mạnh và
ngăn chặn hành vi CTKLM gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng, tác
động xấu đến môi trường kinh doanh. Do vậy, pháp luật mỗi nước có cách gọi khác
nhau đối với hành vi này nhưng nhìn chung đều phân ra thành cạnh tranh lành mạnh
và cạnh tranh không lành mạnh.
Khái niệm CTKLM có tính chất tương đối và luôn thay đổi do các hành vi
cạnh tranh luôn biến đổi một cách phức tạp và đa dạng theo sự vận động của nền
kinh tế thị trường. Theo Điều 10bis Công ước Paris 1883 về bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp (được bổ sung vào Công ước năm 1990 và được sửa đổi lần cuối theo
Văn bản Stockholm năm 1967) định nghĩa hành vi CTKLM rằng: “Hành vi cạnh
tranh không lành mạnh là mọi hành vi đi ngược lại các tập quán trung thực trong

6



lĩnh vực công nghiệp hoặc thương mại”1. Tuy nhiên, tùy thuộc vào quan niệm, điều
kiện văn hóa, kinh tế, lịch sử và xã hội mà mỗi quốc có cách xác định hành vi cạnh
tranh khơng lành mạnh khác nhau. Vì vậy, về mặt lập pháp, thay vì đưa ra định
nghĩa cụ thể “cạnh tranh khơng lành mạnh là gì”, đa số pháp luật của các quốc gia
thường đưa ra định nghĩa khái quát về hành vi CTKLM và liệt kê các hành vi
CTKLM cụ thể2.
Ví dụ, theo Luật về bảo vệ cạnh tranh của Liên bang Nga định nghĩa
CTKLM: “Cạnh tranh không lành mạnh là bất kỳ hành vi nào của chủ thể kinh
doanh (nhóm chủ thể) nhằm mục đích có được những ưu thế trong hoạt động
thương mại, trái với pháp luật, tập quán thương mại, không phù hợp với yêu cầu
trung thực, hợp lý và công bằng mà gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại cho các
chủ thể kinh doanh khác, đối thủ cạnh tranh hoặc làm tổn hại hay có thể làm tổn
hại đến uy tín thương mại của đối thủ”3. Sau đó, Luật về bảo vệ cạnh tranh của Nga
liệt kê các hành vi cụ thể được xem là hành vi CTKLM tại Điều 14 của luật này.
Ở Việt Nam cũng không là ngoại lệ khi cũng đưa ra định nghĩa trước và liệt
kê hành vi sau. LCT 2004 đã định nghĩa về hành vi CTKLM dựa trên tinh thần của
Công ước Paris như sau: “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh
tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông
thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu
dùng”, kèm theo 10 hành vi được quy định cụ thể bằng cách liệt kê. Mặc dù vậy
nhưng khái niệm về hành vi CTKLM của LCT 2004 đã bộc lộ những điểm hạn chế
trong quá trình thực thi. Xét về từ ngữ, cụm từ “các chuẩn mực thơng thường về
đạo đức” cịn mang tính trừu tượng, chung chung, chưa rõ ràng gây khó khăn khi
xác định hành vi CTKLM trong quá trình thực thi quy định. Trong khi, ở khái niệm
của Công ước Paris đã sử dụng hai tiêu chí “trung thực” và “thiện chí” để đánh giá
tính chất lành mạnh hay khơng lành mạnh của hành vi cạnh tranh, còn khái niệm
của pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam lại không nêu cụ thể những tiêu chí cần thiết
để xác định hành vi dẫn đến khó khăn khi vừa xem xét đâu là hành vi CTKLM, vừa

phải xác định đâu là những chuẩn mực đạo đức kinh doanh bị xâm phạm. Ngoài ra,
về hậu quả, LCT 2004 quy định hậu quả của hành vi CTKLM ảnh hưởng đến “lợi
ích của Nhà nước” là khơng cần thiết. Vì bản chất pháp lý của hành vi CTKLM là
1

Bộ Công thương (2017), Báo cáo tổng kết 12 năm thi hành Luật Cạnh tranh, Hà Nội, tr. 14
Trường Đại học Luật Kinh tế - Luật (2010), Giáo trình Luật Cạnh tranh, Nxb. Dân trí, tr. 170
3
Khoản 9 Điều 4 Luật về bảo vệ cạnh tranh của Liên bang Nga năm 2006 (Federal Law on Protection of
competition No. 135-FZ of July 26, 2006),
truy cập ngày
03/06/2020
2

7


mọi hành vi trái với các chuẩn mực trung thực và lành mạnh trong quan hệ thương
mại, gây thiệt hại đến doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan
và hoạt động cạnh tranh bình thường trên thị trường4. Theo đó thì chủ thể phổ biến
bị tác động tiêu cực bởi hành vi CTKLM là các chủ thể kinh doanh là đối thủ của
nhau, còn phạm vi hậu quả liên quan đến “lợi ích của Nhà nước” khơng phải mang
tính tiêu biểu, khơng xuất hiện nhiều và khó có thể nhận ra. Chưa kể đến một số quy
định về hành vi CTKLM bị chồng chéo với quy định của các luật khác về nội dung
lẫn hình thức. Điểu hình là sự mâu thuẫn với LTM 2005 và LQC 2012 về hành vi
quảng cáo nhằm CTKLM hay với Luật Sở hữu trí tuệ 2005 về hành vi chỉ dẫn gây
nhầm lẫn và xâm phạm bí mật kinh doanh.
Xuất phát từ những hạn chế đó, LCT 2018 đã sửa đổi trong quy định về khái
niệm của hành vi CTKLM theo hướng phù hợp hơn, theo đó “hành vi cạnh tranh
không lành mạnh là hành vi của doanh nghiệp trái với nguyên tắc thiện chí, trung

thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh, gây thiệt hại
hoặc có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác”.
Đồng thời, LCT 2018 đã loại bỏ các hành vi CTKLM như chỉ dẫn gây nhầm lẫn,
quảng cáo nhằm CTKLM, khuyến mãi nhằm CTKLM, phân biệt đối xử của hiệp
hội, bán hàng đa cấp bất chính và bổ sung các hành vi CTKLM mới là lơi kéo khách
hàng bất chính và bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến
hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp khác, để phù hợp hơn với chuyển
biến của thị trường và nắm bắt được các phương thức kinh doanh mới đang dần phổ
biến trên thị trường.
Dựa vào bản chất của hành vi CTKLM, có thể xác định các đặc điểm pháp lý
của hành vi như sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi là doanh nghiệp. Theo LCT 2018,
“Doanh nghiệp” là một khái niệm quy ước, dùng để chỉ tất cả các tổ chức, cá nhân
kinh doanh bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ cơng
ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước,
đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. So
với LCT 2004, luật mới hiểu khái niệm “doanh nghiệp” theo nghĩa rộng hơn, tức là
không chỉ các chủ thể được thành thành lập theo quy định của pháp luật như doanh
nghiệp tư nhân và các loại hình cơng ty, mà còn áp dụng đối với cả các chủ thể kinh
doanh khác được phép tiến hành các hoạt động kinh doanh tại Việt Nam5, bao gồm
hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, hộ kinh doanh, hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư
4

Bộ Công thương, tlđd (1), tr. 14
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình pháp luật về cạnh tranh và giải quyết tranh chấp
thương mại, Nxb. Hồng Đức, tr. 71
5

8



nghiệp, làm muối và những người bán hàng rong, quà vặt, bn chuyến, kinh doanh
lưu động, làm dịch vụ có thu nhập thấp 6... Trên phạm vi rộng lớn hơn, các quy định
về CTKLM cịn có thể áp dụng đối với hành vi của các nhóm DN hoạt động có tổ
chức (hiệp hội) và các cá nhân hành nghề tự do (bác sĩ, luật sư, kiến trúc sư, nhiếp
ảnh gia...)7. Đặc biệt, LCT 2018 còn áp dụng đới với cả các đơn vị sự nghiệp công
lập, suy ra, bất kỳ hành vi nào gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường cạnh tranh và
trái với quy định của pháp luật đều phải bị xử lý mà không phụ thuộc vào vấn đề
chủ thể thực hiện hành vi có tham gia hoạt động kinh doanh hoặc nhằm mục đích
lợi nhuận hay khơng8.
Thứ hai, mục đích của hành vi nhằm cạnh tranh trong kinh doanh. Trong nền
kinh tế thị trường hiện nay, nhu cầu của khách hàng luôn luôn tăng, yêu cầu về chất
lượng và số lượng của hàng hóa, dịch vụ ngày càng tăng cao. Đứng trước xu hướng
này, các doanh nghiệp cần phải củng cố năng lực phát triển nhằm cạnh tranh với các
đối thủ trong thị trường kinh doanh khốc liệt. Việc cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp thường tranh giành về lợi ích kinh tế cụ thể, có thể biểu hiện ở dạng sản
phẩm hữu hình (doanh số, thị phần, lợi nhuận) hoặc vơ hình (uy tín) và về lợi thế
cạnh tranh. Những điều này giúp cho doanh nghiệp vươn lên, không bị đào thải ra
khỏi thị trường kinh doanh, tạo nên “chỗ đứng” vững chắc cho doanh nghiệp khi
cạnh tranh với những hàng hóa, dịch vụ trong và ngoài nước. Trong một số trường
hợp, khi thực hiện hành vi vi phạm, doanh nghiệp không tác động trực tiếp lên đối
thủ cạnh tranh mà khách hàng lại là đối tượng bị tác động trực tiếp từ hành vi vi
phạm, từ đó gián tiếp ảnh hưởng đến đối thủ cạnh tranh.
Thứ ba, hành vi có tính chất trái với ngun tắc thiện chí, trung thực, tập
quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh doanh. Nguyên tắc thiện chí,
trung thực là nguyên tắc nền tảng của mọi giao dịch dân sự, bởi lẽ một giao dịch
dân sự dù đơn giản hay phức tạp, mức độ dù lớn hay nhỏ thì khi thực hiện các
quyền và thi hành các nghĩa vụ, sự trung thực, thiện chí ln được đặt lên vị trí
hàng đầu. Nguyên tắc này xuất hiện nhiều trong pháp luật dân sự lẫn pháp luật
thương mại trong mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau và giữa doanh

nghiệp với người tiêu dùng. Thêm vào đó, tập quán thương mại cũng được ghi nhận
rõ ràng và phổ biến trong các văn bản pháp luật về dân sự và thương mại. Tuy
nhiên, tính chất của hành vi CTKLM đi ngược lại, đối lập với các nguyên tắc đạo
đức, kinh doanh tốt đẹp trong pháp luật dân sự và thương mại. Đây là điểm thay đổi
6

Khoản 2 Điều 66 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp
Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật Cạnh tranh, Nxb. Công an nhân dân, tr. 295
8
Từ Thanh Thảo (2019), Luật Cạnh tranh 2018: Những điểm tiến bộ và hạn chế, Tài liệu hội thảo Những
điểm mới của Luật Cạnh tranh 2018 và Góp ý cho dự thảo nghị định hướng dẫn Luật Cạnh tranh 2018, Khoa
Luật Thương mại, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr. 4
7

9


tiến bộ hơn LCT 2004 khi xác định cụ thể hành vi vi phạm phải “trái với nguyên
tắc thiện chí, trung thực” hay “tập quán thương mại” khắc phục được nhược điểm
trước đó khi xem xét về hành vi CTKLM.
Thứ tư, hậu quả của hành vi là gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến
quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác. Trong các cơ chế, chính sách cạnh
tranh, cần quy định về hậu quả của hành vi để bảo đảm quyền lợi của doanh nghiệp.
Bởi vì các doanh nghiệp có vị trí quan trọng góp phần điều hồ cung cầu hàng hố
trên thị trường. Các doanh nghiệp là chiếc cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, sản
xuất phân phối hàng hóa, đảm bảo cho quá trình sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu
của người tiêu dùng. Thông qua hoạt động quảng bá, xúc tiến thương mại... các
doanh nghiệp phân phối sản phẩm, khơi dậy nhu cầu của khách hàng và giúp người
tiêu dùng biết đến sản phẩm của doanh nghiệp. Từ đó góp phần phát triển nền kinh
tế của đất nước. Quy định này có thể được hiểu là những thiệt hại đã xảy ra trên

thực tế hoặc những thiệt hại có thể ước tính trước khi xảy ra ảnh hưởng đến quyền,
lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Có thể thấy, LCT 2018 đã thay đổi hậu quả của
hành vi CTKLM để phù hợp hơn với bản chất của hành vi LKKHBC và môi trường
cạnh tranh.
Tóm lại, những sự thay đổi trên là phù hợp và cần thiết, đáp ứng được sự
thống nhất, loại bỏ những mâu thuẫn với các luật chuyên ngành, giải quyết được
những vấn đề pháp lý chưa xử lý được. Đặc biệt sự bổ sung hành vi LKKHBC đã
thể hiện sự tiến bộ trong quá trình ban hành LCT 2018 và bắt kịp xu hướng phát
triển của các hình thức kinh doanh mới trên thị trường hiện nay.
1.1.2. Bối cảnh của hành vi lơi kéo khách hàng bất chính nhằm cạnh tranh
không lành mạnh
Cùng với sự phát triển của các phương tiện truyền thông, việc khai thác sử
dụng công cụ thông tin càng ngày càng đa dạng, ấn tượng hơn, nhằm thu hút được
nhiều đối tượng khách hàng quan tâm đến doanh nghiệp và sản phẩm. Có thể thấy,
hành vi LKKHBC và hành vi quảng cáo nhằm CTKLM có đặc trưng giống nhau là
sử dụng, khai thác thông tin như công cụ thực hiện hành vi vi phạm. Hành vi này đã
xuất hiện rất sớm từ thời kì cổ đại và trung đại thơng qua hình thức truyền miệng. Ở
thời kì này, các thương nhân thường trả tiền cho những người rao hàng công cộng
để rao thông tin về hàng hóa đến với người dân tại các thị trấn9. Nhưng phải cho
đến khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và lần thứ hai diễn ra từ nửa cuối
thế kỉ 18 đến cuối thế kỉ 19. Với sự ra đời của máy móc thay cho sức lao động của
con người và sự xuất hiện của các nhà máy lớn sản xuất theo dây chuyền, số lượng
9

Đặng Quốc Chương (2011), Hồn thiện pháp luật chống cạnh tranh khơng lành mạnh trong lĩnh vực quảng
cáo thương mại, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Tp. HCM, tr. 5

10



hàng hóa được sản xuất ngày càng nhiều, giá thành rẻ, làm cho cung vượt qua cầu,
theo đó, tình hình cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh càng khốc liệt hơn, vấn đề
đạt được lợi nhuận mong muốn gặp nhiều khó khăn. Từ đây, các hoạt động nhằm
giới thiệu, quảng bá sản phẩm, thu hút khách hàng có điều kiện phát triển qua các
phương tiện như báo chí, áp phích,... và các hành vi khai thác sử dụng thơng tin
nhằm CTKLM như hành vi LKKHBC cũng bắt đầu xuất hiện nhiều hơn. Hành vi
LKKHBC phát triển mạnh mẽ hơn từ đầu thế kỉ 20, khi có các tiến bộ về hạ tầng
điện tử, máy tính và cơng nghệ kĩ thuật số trên nền tảng là sự phát triển của chất bán
dẫn, siêu máy tính (thập niên 1960), máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980),
Internet và công nghệ thông tin, mạng xã hội 10. Phương tiện truyền thông đa dạng
hơn, nền kinh tế cạnh tranh khốc liệt hơn khiến cho các doanh nghiệp không ngần
ngại sử dụng các cách thức không lành mạnh để “hạ bệ” đối thủ, trong đó thơng tin
trở thành “cơng cụ đắc lực” cho các doanh nghiệp này thực hiện hành vi vi phạm.
Trước năm 1986, nền kinh tế Việt Nam vẫn đang trong thời kì bao cấp. Ở
thời kì này, kinh tế tư nhân bị xóa bỏ, nhường chỗ cho kinh tế do nhà nước chỉ huy.
Hàng hóa được phân phối theo chế độ “tem phiếu” do nhà nước nắm toàn quyền
điều hành, ngăn cấm việc mua bán trên thị trường hoặc vận chuyển tự do hàng hóa
từ địa phương này sang địa phương khác. Nhà nước độc quyền phân phối hàng hóa,
hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ khẩu được thiết lập trong thời kỳ này để
phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu người, tiêu biểu nhất là sổ gạo ấn định số
lượng và mặt hàng được phép mua. Do đó, các hoạt động truyền tải thơng tin về
hàng hóa, dịch vụ đến khách hàng khơng được quan tâm. Sau Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI vào tháng 12 năm 1986, Việt Nam chuyển đổi từ nền kinh tế bao
cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Lúc này, Việt
Nam chính thức bước vào thời kì mới, thời kì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước với nhiều chính sách mở cửa thị trường tạo nên tính cạnh tranh cho thị trường
kinh doanh ở Việt Nam. Thêm vào đó, năm 2006, Việt Nam gia nhập vào Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) đã mang lại nhiều cơ hội cũng như thách thức cho các
chủ thể kinh doanh tại Việt Nam khi mà không chỉ cạnh tranh ở thị trường trong
nước, các chủ thể kinh doanh còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài

đến Việt Nam đầu tư. Trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, áp lực bị đào thải ra
khỏi thị trường, hành vi CTKLM nói chung và hành vi có biểu hiện của LKKHBC
nói riêng đã được các doanh nghiệp sử dụng nhiều hơn với mục đích hạ thấp lợi thế
cạnh tranh và gây thiệt hại cho đối thủ kinh doanh, giảm bớt áp lực cho chủ thể kinh
10

Bách khoa tồn thư mở Wikipedia, “Cách mạng Cơng nghiệp”,
truy
cập ngày 22/05/2020

11


doanh và kiếm được lợi nhuận như dự định.
Sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghệ đã tác động mạnh đến sự phát
triển của nền kinh tế Việt Nam nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung. Các
phương tiện truyền tải thông tin ngày đa dạng hơn, góp phần thúc đẩy sự phát triển
của một số lĩnh vực như lĩnh vực truyền thơng, quảng cáo,... Trong đó internet
chiếm một vị trí nhất định khi số lượng người dùng internet này càng tăng cao, kéo
theo đó là mức độ phổ biến mạng xã hội cũng tăng cao 11, đã tạo một “thị trường ảo”
cho các chủ thể kinh doanh dễ dàng quảng cáo, tiếp thị hàng hóa, dịch vụ đến khách
hàng hơn, hình thành những hình thức kinh doanh mới như bán hàng trực tuyến qua
các trang web, mạng xã hội… 12 Hoạt động kinh doanh bằng các phương tiện truyền
thơng càng trở nên sơi nổi thì hành vi LKKHBC càng được sử dụng phổ biến hơn
với mức độ biến hóa tinh vi và phức tạp hơn về hình thức thực hiện hành vi vi, dẫn
đến những tác động tiêu cực đến môi trường cạnh tranh tự do, lành mạnh, bình đẳng
của doanh nghiệp.
1.2. Nhận diện về hành vi lơi kéo khách hàng bất chính
1.2.1. Khái niệm lơi kéo khách hàng bất chính
Trong kinh doanh, khách hàng ln là một trong những nhân tố quan trọng.

Bởi vì khách hàng là người mua hoặc là người có sự quan tâm, theo dõi một loại
hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó mà sự quan tâm này có thể dẫn đến hành động mua.
Khách hàng là đối tượng doanh nghiệp phục vụ, là yếu tố quyết định sự thành công
hay thất bại của doanh nghiệp và là bộ phận không thể tách rời trong mơi trường
cạnh tranh. Vì thế, lơi kéo khách hàng là một trong những phương thức giúp các
doanh nghiệp phát triển và tạo chỗ đứng trên thị trường. Dưới góc độ cạnh tranh, lơi
kéo khách hàng là cách thức doanh nghiệp thực hiện nhằm vào khách hàng, người
tiêu dùng bằng cách đưa ra lý do để khách hàng lựa chọn sản phẩm của mình, tin
tưởng những thơng tin về hàng hóa, dịch vụ của mình, từ đó tác động một cách trực
tiếp hoặc gián tiếp đến thái độ và quyết định mua của khách hàng, người tiêu
dùng13.
Hiện nay, cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt nên chiến lược thu hút khách
hàng đóng vai trị quyết định sống còn của một doanh nghiệp. Các doanh nghiệp
11

Riêng Việt Nam, năm 2019, mạng xã hội vẫn vẫn tiếp tục phát triển với 62 triệu người dùng (chiếm 64%
dân số Việt Nam, tăng đến 7% so với năm 2018). Xem thêm “Các số liệu thống kê Internet Việt Nam 2019”,
truy cập ngày 22/05/2020
12
Theo dự báo chi phí quảng cáo của Zenith Media được công bố hồi đầu tháng 10, chi phí quảng cáo cho
các trang mạng xã hội như Facebook, Twitter và Instagram sẽ tăng 20% trong năm 2019, đạt 84 tỷ USD.
Trong khi chi tiêu quảng cáo cho báo in và tạp chí giảm 6% xuống cịn 69 tỷ USD. Xem thêm Viết Quân,
“Quảng cáo trên mạng xã hội: Bùng nổ nhưng có hiệu quả?”, truy cập ngày 22/05/2020
13
Trần Thăng Long, Nguyễn Ngọc Hân (2019), “Hành vi lôi kéo khách hàng bất chính trong pháp luật Việt
Nam”, Tạp chí Nghiên cứu pháp luật, số 20/2019, tr. 49-50

12



luôn cố gắng đổi mới, sản xuất những sản phẩm mới, cung cấp những dịch vụ tốt
nhất để có thể thu hút người tiêu dùng quan tâm và sử dụng hàng hóa, dịch vụ của
mình. Nhằm tăng hiệu quả cạnh tranh, các doanh nghiệp không ngừng tạo sự khác
biệt về sản phẩm của mình, đưa ra các phương pháp thu hút khách hàng mới như
tăng cường quảng cáo, tiếp thị; đưa ra hình thức giảm giá phù hợp; tận dụng lợi thế
của mạng xã hội;… Về bản chất, lôi kéo khách hàng là quyền của các doanh nghiệp,
các doanh nghiệp được phép tự do thực hiện nhưng một khi hành vi này bị “lạm
dụng” thì sẽ trở thành hành vi bất chính. Từ “bất chính” được hiểu là khơng chính
đáng, trái với đạo đức, pháp luật14, tức là hành vi lôi kéo khách hàng khi bị áp dụng
quá đà sẽ có biểu hiện khơng lành mạnh, trái với các ngun tắc thiện chí, trung
thực, các tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong hoạt động kinh doanh.
Vì vậy, pháp luật cạnh tranh khơng khuyến khích và cấm các doanh nghiệp thực
hiện hành vi này.
Mặc dù hành vi LKKHBC là dạng hành vi phổ biến, xuất hiện nhiều trong
hoạt động kinh doanh, cũng như được điều chính trong pháp luật của nhiều quốc gia
nhưng LCT 2004 khơng có quy định về hành vi này. Cho đến khi LCT 2018 ban
hành thì hành vi LLKHBC mới được thêm vào quy định của pháp luật. Theo đó,
LCT 2018 quy định về hành vi LKKHBC tại khoản 5 Điều 45 như sau:
“Lôi kéo khách hàng bất chính bằng các hình thức sau đây:
a) Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về doanh
nghiệp hoặc hàng hóa, dịch vụ, khuyến mại, điều kiện giao dịch liên quan đến hàng
hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp nhằm thu hút khách hàng của doanh
nghiệp khác;
b) So sánh hàng hóa, dịch vụ của mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của
doanh nghiệp khác nhưng không chứng minh được nội dung”.
Hiện nay, LCT 2018 khơng có khái niệm về hành vi LKKHBC nhưng từ quy
định này, có thể thấy hành vi LKKHBC là hành vi của doanh nghiệp truyền tải
thông tin sai lệch, gian dối về mình nhằm tác động đến ý thức khách hàng của
doanh nghiệp khác, từ đó lơi kéo khách hàng của doanh nghiệp đó nhưng có bản
chất khơng lành mạnh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại cho doanh nghiệp

khác.
Bản chất không lành mạnh của hành vi LKKHBC thể hiện ở chỗ hành vi đi
ngược với nguyên tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và những chuẩn
mực tốt đẹp khác trong hoạt động kinh doanh. Trong thực tế, có rất nhiều các hình
thức lơi kéo khách hàng khác nhau, điển hình là hình thức quảng cáo. Những hành
14

Hoàng Phê (Chủ biên) (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 50.

13


vi quảng cáo không chỉ đơn thuần chứa đựng các thơng tin gây nhầm lẫn cho khách
hàng, mà cịn bao hàm cả nội dung quảng cáo không trung thực, được doanh nghiệp
thực hiện một cách có chủ đích (hành động cố ý) nhằm đánh lừa khách hàng, lôi kéo
họ thực hiện các giao dịch mà ở đó, khách hàng đã bị nhầm lẫn và phải tiếp nhận
những thông tin và dữ liệu khơng chính xác liên quan đến hàng hố, dịch vụ. Điển
hình như quảng cáo của sản phẩm mì khoai tây Omachi là những vắt mì chống nóng
làm từ khoai tây và trứng khiến người xem lầm tưởng những sợi mì của Omachi
được làm bởi trứng và khoai tây nguyên chất, nhưng đọc “mỏi mắt” mới thấy trong
vô số thành phần tạo nên mì Omachi thì khoai tây, trứng chỉ chiếm tỷ lệ cực nhỏ.15
Hay những quảng cáo so sánh với các cụm từ như sản phẩm này là “tốt nhất”,
“siêu bền”, “chưa từng có” làm cho khách hàng bị nhầm tưởng về thơng tin của
hàng hóa, dịch vụ được quảng cáo và quyết định sử dụng hàng hóa, dịch vụ của
doanh nghiệp vi phạm thay vì sử dụng hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp khác,
qua đó có thể gây thiệt hại cho những doanh nghiệp khác. Những hành vi quảng cáo
trên đều có biểu hiện trái với ngun tắc thiện chí, trung thực khi truyền tải những
thơng tin không đúng sự thật đến khách hàng, khiến cho khách hàng thực hiện giao
dịch mua – bán khơng có lợi cho mình, đồng thời cũng vi phạm các tập quán thương
mại, những chuẩn mực kinh doanh được công nhận trên thị trường, tác động xấu

đến các doanh nghiệp khác, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường cạnh tranh lành
mạnh, cơng bằng. Vì thế, cần có quy định pháp luật xử lý những hành vi này để bảo
vệ doanh nghiệp bị hại và quyền lợi của khách hàng.
Ở mỗi ngành, mỗi lĩnh vực khác nhau thì hành vi LKKHBC lại được biểu
hiện khơng giống nhau. Ví dụ: Trong lĩnh vực ngân hàng, hành vi quảng cáo sai sự
thật có thể được thể hiện như tổ chức tín dụng quảng cáo sai sự thật về khả năng tài
chính, số lượng chi nhánh, mạng lưới phục vụ, chất lượng và số lượng dịch vụ, đội
ngũ nhân viên… cũng có thể là hành vi so sánh dịch vụ mình cung cấp với dịch vụ
của các tổ chức tín dụng khác theo hướng làm giảm uy tín của tổ chức tín dụng
khác, gây nhầm lẫn cho khách hàng để nhằm làm giảm lượng khách hàng của các tổ
chức tín dụng này. Hoặc trong ngành hàng không thường liên quan đến những tuyên
bố về giá máy bay, các hãng thường đưa những thông tin về giá máy bay rẻ, nhưng
thường lờ đi về những khoản tiền khác mà khách phải trả như: thuế, số lượng hàng
hoá, khung giờ áp dụng, chặng bay, điều kiện áp dụng…
Nghiên cứu pháp luật của các quốc gia khác cho thấy, tại Nhật Bản có quy
định về hành vi “lơi kéo khách hàng một cách gian dối” khá tương đồng so với quy
định của LCT 2018 của Việt Nam. Cụ thể, theo khoản 9 Điều 2 của Luật chống độc
15

“Quảng cáo mì Omachi nghi 'đánh tráo khái niệm'”, truy cập ngày 05/06/2020

14


quyền Nhật Bản quy định về “các hành vi thương mại không lành mạnh” định
nghĩa hành vi “lôi kéo khách hàng một cách gian dối” như sau: “dẫn dụ khách
hàng của các đối thủ cạnh tranh giao dịch với mình bằng cách khiến họ nhầm lẫn
về tính chất của hàng hóa hoặc dịch vụ của mình, hoặc nhầm lẫn về các điều khoản
thương mại, hoặc nhầm lẫn về các vấn đề khác có liên quan đến giao dịch này là tốt
hơn nhiều hoặc ưu đãi hơn nhiều so với giao dịch trên thực tế hoặc so với các đối

thủ cạnh tranh”16.
Trong pháp luật về cạnh tranh của một số quốc gia khác thì hành vi
LKKHBC khơng được quy định trực tiếp nhưng các dạng hành vi vi phạm của hành
vi này vẫn được đề cập. Ví dụ, tại Liên bang Nga, những quy định về các dạng hành
vi lôi kéo khách hàng bất chính nằm chủ yếu ở Luật về bảo vệ cạnh tranh (2006).
Cụ thể, tại khoản 1 Điều 14 luật này về những hành vi cạnh tranh không lành mạnh
bị cấm có quy định17:
 Tạo ra sự nhầm lẫn về đặc tính, phương thức, nơi sản xuất, đặc tính sử dụng,
chất lượng và số lượng của với hàng hóa hoặc nhà sản xuất.
 So sánh khơng trung thực của một chủ thể kinh doanh về hàng hóa do chính
mình tiêu thụ hoặc sản xuất với hàng hóa do chủ thể kinh doanh khác tiêu thụ hoặc
sản xuất.
Vậy, hành vi LKKHBC có thể được hiểu là hành vi của doanh nghiệp đưa ra
các thông tin gian dối, sai lệch về hàng hóa, dịch vụ của mình, tác động đến ý chí
khách hàng nhằm lơi kéo khách hàng của doanh nghiệp khác nhưng trái với nguyên
tắc thiện chí, trung thực, tập quán thương mại và các chuẩn mực khác trong kinh
doanh gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến doanh nghiệp khác.
1.2.2. Đặc điểm của hành vi lôi kéo khách hàng bất chính
Thứ nhất, về chủ thể thực hiện hành vi LKKHBC
Bởi vì hành vi LKKHBC là một trong các hành vi CTKLM nên chủ thể thực
hiện hành vi là doanh nghiệp, tức là các tổ chức, cá nhân kinh doanh theo quy định
tại khoản 1 Điều 2 LCT 2018. Bên cạnh đó, doanh nghiệp có thể tự mình thực hiện
hành vi hoặc “thuê” chủ thể khác thực hiện hành vi LKKHBC. Ví dụ:
 Doanh nghiệp mỹ phẩm A đã phân công nhân viên của doanh nghiệp trực
tiếp phát tờ rơi hoặc quảng bá sản phẩm có chứa đựng các thông tin “gian dối, gây
16

Bộ Công thương (2017), Báo cáo kinh nghiệm quốc tế “So sánh pháp luật cạnh tranh một số nước trên thế
giới: Bài học kinh nghiệm và đề xuất một số nội dung cơ bản quy định trong Dự thảo Luật Cạnh tranh (sửa
đổi) của Việt Nam”, Hà Nội, tr. 104

17
Khoản 1 Điều 14 Luật về bảo vệ cạnh tranh của Liên bang Nga năm 2006, (Federal Law on Protection of
competition No. 135-FZ of July 26, 2006),
truy cập ngày
03/06/2020

15


nhầm lẫn” hoặc “so sánh với hàng hoá dịch vụ cùng loại bất hợp pháp” đến khách
hàng của doanh nghiệp mỹ phẩm B khi khách hàng chuẩn bị vào cửa hàng để mua
sản phẩm nhằm thu hút khách hàng của đối thủ là danh nghiệp B.


Giám đốc doanh nghiệp A đã thuê một doanh nghiệp cung ứng dịch vụ

quảng cáo nhằm quảng cáo sản phẩm có chứa đựng các thơng tin “gian dối, gây
nhầm lẫn” hoặc “so sánh với hàng hoá dịch vụ cùng loại bất hợp pháp” đến khách
hàng của doanh nghiệp đối thủ.
Thứ hai, về hình thức thực hiện hành vi LKKHBC
Hành vi LKKHBC có đặc trưng sử dụng công cụ thông tin để thực hiện hành
vi vi phạm nên đối tượng thông tin được sử dụng để truyền tải thông tin gồm những
thông tin gian dối, gây nhầm lẫn hoặc không chứng minh được nội dung về doanh
nghiệp, về hàng hóa, dịch vụ, khuyến mại, điều kiện giao dịch liên quan đến hàng
hóa, dịch vụ. Có thể nhìn thấy, hành vi LKKHBC có đặc trưng giống với hành vi
quảng cáo nhằm CTKLM là dùng thông tin làm công cụ vi phạm, cụ thể, theo quy
định của LCT 2018, hành vi LKKHBC có các hình thức thực hiện sau: Hành vi đưa
thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hành và hành vi so sánh hàng hóa,
dịch vụ cùng loại nhưng khơng chứng minh được nội dung.
Những thông tin được sử dụng là những thông tin về doanh nghiệp, về hàng

hóa, dịch vụ, khuyến mại, điều kiện giao dịch liên quan đến hàng hóa, dịch vụ của
doanh nghiệp cung cấp thơng tin. Tùy vào theo hình thức vi phạm mà loại thơng tin
được sử dụng có thể khác nhau giữa hành vi đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm
lẫn và hành vi so sánh hàng hóa, dịch vụ cùng loại nhưng khơng chứng minh được
nội dung.
Các loại thông tin được các chủ thể sử dụng để thực hiện hành vi LKKHBC
chủ yếu tác động tiêu cực đến khách hàng, chứ không hướng trực tiếp vào các đối
thủ trên thị trường. Khi khách hàng tiếp nhận được những thơng tin được truyền tải
có chủ ý của các doanh nghiệp, sẽ tạo cho khách hàng những nhận thức sai lệch về
doanh nghiệp, hàng hóa, dịch vụ, khuyến mại, điều kiện giao dịch liên quan đến
hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp đó. Từ đó, những thơng tin có định hướng này
tác động tới tâm lý, nhu cầu và quyết định mua hàng của những khách hàng của
doanh nghiệp đối thủ cũng như các khách hàng tiềm năng mua hàng hóa, sử dụng
dịch vụ của doanh nghiệp vi phạm, khách hàng sẽ thực hiện giao dịch với doanh
nghiệp vi phạm trong khi những hàng hóa, dịch vụ này không phù hợp với mong
muốn của khách hàng, dẫn đến các doanh nghiệp đối thủ bị mất khách, doanh số lẫn
doanh thu đều giảm, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp đối thủ.
Bên cạnh đó, các loại thơng tin được truyền tải phải là những thông tin thuộc

16


về chính doanh nghiệp thực hiện hành vi LKKHBC. Đây là yếu tố đặc trưng phân
biệt hành vi LKKHBC với các hành vi CTKLM khác có sử dụng thơng tin làm công
cụ thực hiện hành vi vi phạm.
Thứ ba, về mục đích thực hiện hành vi LKKHBC
Đặc trưng về mục đích của hành vi LKKHBC thể hiện mặt chủ quan của
hành vi vi phạm. Hành vi LKKHBC có mục đích nhằm lôi kéo khách hàng của
doanh nghiệp khác, cụ thể là các doanh nghiệp đối thủ trên thị trường. Trong khi
mục đích thực hiện của các hành vi CTKLM khác hoặc hành vi hạn chế cạnh tranh

không chỉ nhắm đến các khách hàng của đối thủ cạnh tranh mà còn hướng đến các
khách hàng khơng sử dụng hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp đối thủ, thì phạm vi
mục đích hành vi LKKHBC chỉ gồm những khách hàng của đối thủ cạnh tranh. Để
có thể chứng minh được mục đích lôi kéo khách hàng của doanh nghiệp khác của
doanh nghiệp khi thực hiện hành vi là việc khó khăn, vì mục đích xuất hiện trong
suy nghĩ, chỉ được biểu hiện ra bên ngoài dưới dạng hành động và kết quả mong
muốn, cụ thể là mong muốn thu hút khách hàng của doanh nghiệp đối thủ. Tuy
nhiên, việc dựa vào hậu quả của hành vi để chứng minh mục đích thực hiện hành vi
rất khó, vì nhiều trường hợp hành vi LKKHBC đang thực hiện thì bị phát hiện nên
khơng có yếu tố kết quả để xác định mục đích, thêm vào đó, trong một số trường
hợp, khách hàng của doanh nghiệp khác bị thu hút bởi doanh nghiệp vi phạm nhưng
khơng phải vì bị tác động bởi thơng tin mà doanh nghiệp cố ý cung cấp, hoặc đối
tượng khách hàng mà doanh nghiệp truyền tải thơng tin có chủ ý có cả khách hàng
của đối thủ cạnh tranh lẫn khách hàng tiềm năng của chính doanh nghiệp vi phạm 18.
Trong khi các thị trường cụ thể ln có tính giới hạn, nói cách khác, lượng khách
hàng trong một thị trường ln có tính "ổn định tương đối" thì việc doanh nghiệp
cung cấp thông tin cho khách hàng nhằm thực hiện hành vi LKKHBC đã bao hàm
luôn khả năng làm cho đối thủ cạnh tranh khác bị mất khách hàng 19. Vì vậy, theo
một số ý kiến cho rằng, mục đích của hành vi LKKHBC nên được xác định theo
quy tắc suy đoán mặc nhiên, tức là khi yếu tố khách quan của hành vi LKKHBC
được thực hiện thì mục đích của hành vi sẽ được xem là đã hoàn thành.
Thứ tư, về hậu quả của hành vi LKKHBC
Hậu quả của hành vi LKKHBC là gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại cho
doanh nghiệp khác. Khác với cấu thành về hậu quả của các hành vi như … , cấu
thành hậu quả của hành vi LKKHBC là cấu thành hình thức, tức là thiệt hại khơng
18

Hà Tiến Huy (2019), Hành vi lơi kéo khách hàng bất chính theo Luật Cạnh tranh 2018, Khóa luận cử nhân
Luật, Trường Đại học Luật Tp. HCM, tr. 13-14
19

Đặng Quốc Chương (2019), Một số luận giải về hành vi lôi kéo khách hàng bất chính trong Luật cạnh
tranh 2018, Tài liệu hội thảo Những điểm mới của Luật Cạnh tranh 2018 và Góp ý cho dự thảo nghị định
hướng dẫn Luật Cạnh tranh 2018, Khoa Luật Thương mại, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr. 30

17


là dấu hiệu bắt buộc mà có thể suy đốn nếu hành vi tiếp tục được thực hiện. Mặc
dù những thông tin được sử dụng là những thông tin hướng về doanh nghiệp thực
hiện hành vi, thế nhưng, hành vi LKKHBC mang tính chất cơng kích 20 của một
hành vi CTKLM nên đối tượng chịu hậu quả cuối cùng vẫn là các doanh nghiệp đối
thủ của doanh nghiệp thực hiện hành vi vi phạm do bị hành vi LKKHBC tấn cơng
trực tiếp, làm mất uy tín, bị suy giảm hoặc triệt tiêu các lợi thế cạnh tranh trong thị
trường kinh doanh.
Tóm lại, khi xác định một hành vi cạnh tranh có phải là hành vi LKKHBC
hay khơng, cần thỏa mãn các đặc điểm trên để không bị nhầm lẫn với các hành vi
CTKLM khác. Nếu thiếu một trong các đặc điểm sẽ làm mất đi bản chất của hành vi
LKKHBC.
1.2.3. Biểu hiện của hành vi lôi kéo khách hàng bất chính
Hành vi LKKHBC có thể được xem là một quy định mới xuất hiện trong
pháp luật cạnh tranh. Tuy nhiên, về mặt nội dung của quy định thì khơng hồn tồn
mới vì đặc trưng sử dụng thơng để thực hiện hành vi CTKLM cũng đã xuất hiện
trong LCT 2004 tại quy định về quảng cáo nhằm CTKLM và quy định về khuyến
mại nhằm CTKLM. Ngoài ra, hành vi vi phạm này cũng được quy định trong các
luật chuyên ngành khác như LTM 2005, LQC 2012, LBVNTD 2010,… nhưng mỗi
luật đều có phạm vi và đối tượng điều chỉnh khác nhau nên khi áp dụng vào lĩnh
vực cạnh tranh sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết
tình huống cụ thể. Vì vậy, khi ban hành LCT 2018, các nhà làm luật đã bổ sung
hành vi LKKHBC và liệt kê các dạng hành vi đưa thông tin gian dối hoặc gây nhằm
lẫn cho khách hàng và so sánh hàng hóa, dịch vụ cùng loại nhưng khơng chứng

minh được nội dung với mục đích bảo đảm tính hiệu quả và phù hợp của quy định
pháp luật với thực tiễn.
1.2.3.1. Đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng
Ngày nay, trước khi mua sắm hay sử dụng một hàng hóa, dịch vụ bất kỳ,
người tiêu dùng ln tìm hiểu về các thơng tin của sản phẩm như giá cả, chất lượng,
nhà cung cấp/sản xuất, khuyến mại,… Đây thường là những yếu tố tác động đến
quyết định của khách hàng, người tiêu dùng mua, sử dụng một hàng hóa, dịch vụ cụ
thể. Vì vậy, một số chủ thể kinh doanh đã cung cấp cho khách hàng những thơng tin
gian dối, sai lệch hoặc có thể nhầm lẫn nhằm mục đích lơi kéo khách hàng của các
đối thủ, tăng doanh thu, uy tín cho doanh nghiệp của mình. Tuy nhiên, hành vi này
khơng những gây một số thiệt hại nhất định cho các doanh nghiệp khác, làm mất đi
20

Biểu hiện của các hành vi CTKLM có thể chia làm 3 nhóm sau: Các hành vi mang tính chất trục lợi, lợi
dụng; Các hành vi mang tính chất cơng kích; Các hành vi lừa dối, lơi kéo khách hàng. Xem thêm Trường Đại
học Luật Hà Nội, tlđd (7), tr. 299

18


tính cơng bằng trong mơi trường cạnh tranh, mà cịn ảnh hưởng đến quyền lợi của
khách hàng.
Quy định cấm thực hiện hành vi đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn
cho khách hàng xuất hiện rất nhiều trong pháp luật về cạnh tranh của các quốc gia
trên thế giới.
Pháp luật Hoa Kỳ cũng có những quy định tương tự nhằm chống lại hành vi
quảng cáo gian dối và gây nhầm lẫn cho khách hàng. Cụ thể, Ủy ban Thương mại
liên bang Hoa Kỳ (USFTC) trong Tuyên bố chính sách về hành vi gian dối đã xác
định 3 yếu tố cần xem xét trong một vụ việc gian dối rằng21:
 Phải có một diễn giải, một thiếu sót hoặc một hành động có thể gây nhầm lẫn

cho người tiêu dùng.
 Người tiêu dùng có nhận thức và ứng xử hợp lý trong hoàn cảnh tiếp nhận
quảng cáo.
 Diễn giải, thiếu sót hoặc hành động phải có tác động về mặt vật chất, có nghĩa
là có thể dẫn người tiêu dùng đến quyết định hoặc hành động mua hàng. Khi có tác
động vật chất, mới dẫn đến khả năng gây thiệt hại cho người tiêu dùng, do người
tiêu dùng có thể đã có lựa chọn khác nếu khơng có gian dối.
Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh năm 1934 của Nhật Bản quy định
rằng: “Hành vi đưa thông tin sai lệch về sản phẩm hoặc dịch vụ, hoặc một quảng
cáo, hoặc trong một văn bản hay thư tín sử dụng trong một giao dịch có liên quan,
theo cách có khả năng gây nhầm lẫn cho công chúng về xuất xứ, chất lượng, hàm
lượng, quy trình sản xuất, cách sử dụng hoặc về số lượng của hàng hóa; hoặc gây
nhầm lẫn về chất lượng, nội dung, mục đích và số lượng dịch vụ; hoặc hành vi
chuyển giao, phân phối, trưng bày với mục đích chuyển giao, phân phối, xuất khẩu,
nhập khẩu hoặc cung cấp thông qua kênh truyền thông điện tử hàng hóa hoặc dịch
vụ có những dấu hiệu nói trên”.22
Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh của Trung Quốc cũng quy định cấm
về hành vi đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng như sau: “Nhà
điều hành không được sử dụng quảng cáo hoặc các phương tiện khác để cung cấp
thông tin sai lệch, gây hiểu lầm về chất lượng, thành phần, hiệu suất, sử dụng, nhà

21

US Federal Trade Commission (1983), FTC Policy Statement on Deception, Washington D.C, trích từ
Nguyễn Lê Dung (2015), Pháp luật chống hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh, Khóa luận
tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Tp. HCM, tr. 32-33
22
Báo cáo rà soát các quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam, năm 2015, tr. 189-190, trích từ Phùng Bích
Ngọc (2016), “Cách nhìn mới về hành vi quảng cáo so sánh nhằm cạnh tranh không lành mạnh”, Tạp chí
Khoa học Kiểm sát, số 05(13)/2016, tr. 58


19


sản xuất, thời hạn sử dụng, nguồn gốc, v.v. của hàng hóa”.23
Bởi vì “trung thực trong kinh doanh là ngun tắc cơ bản, quan trọng nhất
mà pháp luật cạnh tranh khuyến khích và bảo vệ” 24 nên LCT 2018 đã quy định tại
điểm a khoản 5 Điều 45 rằng cấm hành vi “đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm
lẫn cho khách hàng về doanh nghiệp hoặc hàng hóa, dịch vụ, khuyến mại, điều kiện
giao dịch liên quan đến hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp nhằm thu hút
khách hàng của doanh nghiệp khác”. Quy định này không giới hạn về cách thức
cung cấp thông tin nên bất kỳ hình thức cung cấp thơng nào, kể cả thực hiện thơng
qua quảng có cũng thuộc phạm vi của quy định này và thông tin được cung cấp
không chỉ về hàng hóa, dịch vụ mà cịn có khuyến mại, điều kiện giao dịch liên
quan đến hàng hóa, dịch vụ.
Khi xác định hành vi đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách
hàng nhằm thu hút khách hàng của doanh nghiệp khác cần đáp ứng các dấu hiệu sau
đây:
Thứ nhất, dấu hiệu quan trọng để xác định hành vi là tính gian dối hoặc gây
nhầm lẫn của thơng tin về doanh nghiệp hoặc hàng hóa, dịch vụ, khuyến mại, điều
kiện giao dịch liên quan được doanh nghiệp cung cấp. Điều này xuất phát từ quyết
định của khách hàng. Trong thực tế, khách hàng, người tiêu dùng dễ bị “dao động”
trước những hàng hóa, dịch vụ đáp được nhu cầu của họ về giá, chất lượng,… hay
về những chương trình khuyến mại, ưu đãi đặc biệt, làm thay đổi quyết định mua
hay sử dụng hàng hóa, dịch vụ của khách hàng, người tiêu dùng. Một số doanh
nghiệp lợi dụng điểm này, tung ra thị trường tiêu dùng những thông tin mập mờ,
không trung thực để tranh giành, chèo kéo khách hàng đã và đang sử dụng hàng
hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp đối thủ chuyển sang sử dụng hàng hóa, dịch vụ
của mình. Pháp luật cạnh tranh hiện nay khơng giải thích rõ hành vi cung cấp thơng
tin gian dối là những hành vi nào, như thế nào là cung cấp thơng tin gây nhầm lẫn.

Ví dụ tại các cửa hàng thời trang thường dán poster với nội dung “Giảm giá tất cả
sản phẩm đến 70%”. Khi nhận được thông tin này, rất nhiều người đến xem và mua
hàng nhưng chỉ có một số ít sản phẩm là giảm giá 70%, thậm chí những sản phẩm
này là hàng tồn kho khó bán chứ khơng phải sản phẩm mới. Cịn đa số sản phẩm
khác trong cửa hàng là giảm giá 20%, có sản phẩm được giảm 10% và có những sản
phẩm thì khơng.
23

Điều 9 Luật Chống cạnh tranh khơng lành mạnh của Trung Quốc năm 1993 (Law Against Unfair
Competition of the People’s Republic of China on September 2, 1993),
truy cập ngày 06/05/2020
24
Nguyễn Như Phát (2001), “Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh”, Cạnh tranh và xây dựng pháp
luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 264, trích từ Hồ Nhật Minh (2010),
Pháp luật về quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh – Thực trạng và giải pháp, Khóa luận tốt nghiệp
cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Tp. HCM, tr. 45

20


×