Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại tòa án nhân dân (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

LÊ HỮU NGHĨA

HỊA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ HỮU NGHĨA

HỊA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số 60.38.0103

Người hướng dẫn khoa học: PGS-TS Nguyễn Thị Hồi Phương

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS-TS Nguyễn Thị
Hoài Phương. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong
luận văn này trung thực và chưa từng được cơng bố dưới bất kỳ hình thức
nào. Tơi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả

Lê Hữu Nghĩa


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật dân sự

: BLDS

Bộ luật tố tụng dân sự

: BLTTDS

Luật sửa đổi bổ sung một số điều Bộ luật tố tụng dân sự : LSĐBSBLTTDS
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

: PLTTGQCVADS

Tòa án nhân dân

: TAND

Tòa án nhân dân Tối cao


: TANDTC

Hội đồng xét xử

: HĐXX

Quyết định công nhận sự thỏa thuận

: QĐCNSTT


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI TRONG
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN ....................... 8
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại
Tòa án nhân dân .................................................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân .......... 8
1.1.2. Đặc điểm của hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân .. 11
1.2. Ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân .. 14
1.3. Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân theo pháp
luật Việt Nam trước ngày 01 tháng 01 năm 2005............................................... 16
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1946 đến năm 1960 ................................................................... 16
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1989 ................................................................... 17
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến trước ngày 01 tháng 01 năm 2005 ....................... 20
1.4. Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án theo pháp luật một số
nước trên thế giới ................................................................................................ 21
1.4.1. Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án trong pháp luật tố tụng
dân sự Trung Quốc ................................................................................................ 22

1.4.2. Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án trong pháp luật tố tụng
dân sự Nhật Bản .................................................................................................... 23
1.4.3. Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án trong pháp luật tố tụng
dân sự Pháp .......................................................................................................... 24
Kết luận chương 1 ............................................................................................... 26

CHƯƠNG 2. HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN
HÀNH ................................................................................................................. 27


2.1. Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm ................. 27
2.1.1. Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ
thẩm ...................................................................................................................... 27
2.1.2. Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại phiên tòa sơ thẩm ...................... 45
2.2. Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm .................. 48
2.2.1. Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự trước khi mở phiên tòa phúc thẩm... 48
2.2.2. Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại phiên tòa phúc thẩm .................. 50
Kết luận chương 2 ............................................................................................... 51

CHƯƠNG 3. THỰC TIẾN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HỒN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỊA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN ............................................................. 52
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự
tại Tòa án nhân dân............................................................................................. 52
3.1.1. Những kết quả hòa giải đạt được trong giải quyết vụ án dân sự của Tòa
án nhân dân một số Tỉnh, Thành phố và Tòa án nhân dân tối cao.............................. 52
3.1.2. Những vướng mắc trong quy định pháp luật về hòa giải trong giải quyết
vụ án dân sư tại Tòa án nhân dân .......................................................................... 55
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về hoạt động hòa

giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân .................................... 64
Kết luận chương 3 ............................................................................................... 70

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Có thể nói hồ giải là hình thức giải quyết tranh chấp dân sự đã xuất hiện rất
sớm, kể từ khi con người có tranh chấp thì họ đã biết cách áp dụng các biện pháp
thương lượng, hoà giải với nhau để giải quyết những mâu thuẫn nhằm chấm dứt
những bất đồng phát sinh giữa họ. Ngày nay cũng vậy, hịa giải khơng những
chiếm vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội nói chung mà nó cịn có vai trị
lớn lao trong khoa học pháp lí nói riêng, đặc biệt là vai trị khơng thể thiếu trong
hoạt động tố tụng giải quyết các tranh chấp dân sự tại Tòa án. Do hịa giải có tính
chất là tác động đến hai hay nhiều đối tượng đang có tranh chấp nhằm đạt đến sự
thỏa thuận thống nhất vì vậy pháp luật quy định hòa giải là một trong những thủ tục
tố tụng bắt buộc và vơ cùng quan trọng khi Tịa án giải quyết các vụ án dân sự. Bên
cạnh đó khi mà vụ án dân sự được giải quyết thông qua hịa giải thành giữa các
đương sự thì Tịa án sẽ khơng phải mở phiên tịa, tránh được việc xét xử vụ án nhiều
lần, tiết kiệm thời gian công sức, sự tốn kém cho người dân, cho nhà nước, đồng
thời vụ án sẽ giảm bớt được các giai đoạn tố tụng tiếp theo như phải mở các phiên
tòa sơ thẩm, phúc thẩm… từ đó vụ án sẽ được kết thúc nhanh chóng hơn.
Mặc khác thơng qua hịa giải, Thẩm phán có điều kiện tiếp xúc với người dân
để hướng dẫn, giải thích pháp luật cho họ, từ đó góp phần giáo dục và nâng cao ý

thức pháp luật trong nhân dân. Khi được tiếp xúc với việc giải thích pháp luật, các
đương sự sẽ hiểu thêm pháp luật và chính sách của Nhà nước, đồng thời đương sự
còn được thể hiện quyền tự định đoạt và sự tự nguyện thỏa thuận với nhau của mình
về việc giải quyết tồn bộ nội dung vụ án phù hợp quy định của pháp luật. Như vậy,
hịa giải có thể nói là giải pháp quan trọng để giải quyết các tranh chấp, làm giảm
bớt mâu thuẫn, căng thẳng trong nội bộ nhân dân, củng cố và tăng cường sự đoàn
kết của quần chúng nhân dân, giúp ngăn ngừa phần nào số vụ phạm tội có thể phát
sinh từ các tranh chấp dân sự.
Nhận thức được tầm quan trọng này, pháp luật nước ta đã ban hành các văn
bản pháp luật đầu tiên quy định về hòa giải như Sắc lệnh số 13/SL ngày 21/1/1946
của Chủ tịch nước quy định về “tổ chức Tòa án”, sau đó hịa giải được kế thừa và
phát triển trong một loạt các văn bản pháp luật bao gồm: Sắc lệnh 85/SL ngày


2

22/5/1950 của Chủ tịch nước quy định về “cải cách bộ máy tư pháp và luật tố
tụng”; Luật Tổ chức Tịa án nhân dân năm 1960; Thơng tư số 25-TATC của Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn việc “hòa giải trong tố tụng dân sự”; Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án dân sự; Bộ luật tố tụng dân sự và Luật sửa đổi bổ sung Bộ luật
tố tụng dân sự… Với hàng loạt quy định về hòa giải, xem hòa giải là một nguyên
tắc bắt buộc trong thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại TAND, trừ một số ít vụ việc
khơng được hịa giải hoặc khơng hịa giải được.
Thật sự có ý nghĩa về nhiều mặt và nhất là trong giải quyết các vụ án dân sự,
nếu số lượng các vụ án dân sự được Tòa án giải quyết bằng con đường hòa giải
thành ngày càng nhiều thì điều đó chẳng những góp phần bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của các đương sự mà cịn bảo đảm cả lợi ích của Nhà nước từ đó góp
phần ổn định trật tự xã hội. Bởi hịa giải thành sẽ có tác dụng làm cho các bên tranh
chấp tự nguyện, tự giác thi hành, tránh việc phải sử dụng những biện pháp cưỡng
chế của Nhà nước trong q trình thi hành án.

Song song đó, khơng phải lúc nào các trường hợp hịa giải đều thành cơng,
thơng thường thì số vụ hịa giải khơng thành tại Tịa án chiếm tỉ lệ cao. Khi đó, mặc
dù mâu thuẫn chưa được giải quyết hoàn toàn nhưng các bên tranh chấp thơng qua
buổi hịa giải khơng thành sẽ có cơ hội hiểu rõ hơn nội dung tranh chấp, có cơ hội
bày tỏ ý chí của mình với đối phương và cũng được nghe ý kiến của đối phương về
vụ tranh chấp. Từ đó, hai bên có thể có phần nào tìm được tiếng nói chung và làm
giảm đi mức độ mâu thuẫn. Đối với Thẩm phán thì xác định được những vấn đề mà
các đương sự đã thỏa thuận được và khơng thỏa thuận được với nhau, từ đó có
hướng thu thập chứng cứ giải quyết vụ án tại các giai đoạn tiếp theo một cách chính
xác, phù hợp với quy định của pháp luật.
Tuy hịa giải có những thuận lợi nhất định nhưng thực tiễn áp dụng pháp luật
về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND những năm vừa qua cho thấy
một số quy định của pháp luật về hịa giải nói chung và BLTTDS nói riêng đã bộc
lộ những hạn chế, bất cập; có những quy định mang tính chung chung, chưa đầy đủ,
thiếu rõ ràng và cịn có những cách hiểu khác nhau…, nhiều quy định chưa phù hợp
hoặc khơng cịn phù hợp với thực tiễn áp dụng nên rất cần phải được sửa đổi, bổ
sung ngay. Ngồi ra trong q trình hịa giải Tòa án ở một số địa phương còn mắc
phải những sai sót đáng tiếc về nội dung lẫn hình thức hịa giải nên cịn nhiều quyết
định cơng nhận hịa giải thành của Tòa án đã bị Tòa án hoặc Viện kiểm sát cấp trên


3

kháng nghị dẫn đến bị hủy và vụ việc tranh chấp phải xử đi xử lại nhiều lần, gây tốn
kém về nhiều mặt của các bên đương sự cũng như của nhà nước, điều này sẽ gây ảnh
hưởng không tốt đến việc bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự cũng như
làm giảm uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Hòa giải trong giải quyết vụ án dân
sự tại Tòa án nhân dân” để làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành luật Dân
sự và Tố tụng dân sự của mình. Thơng qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả hy vọng

kết quả của việc nghiên cứu sẽ góp phần hồn thiện hơn pháp luật về hòa giải trong
giải quyết vụ án dân sự tại TAND ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua khảo sát, thời gian qua đã có một số cơng trình nghiên cứu khoa học có
liên quan đến đề tài này như sau:
- Viện nghiên cứu khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao (2002), Thực
tiễn thi hành chế định hịa giải trong q trình giải quyết vụ án dân sự - những tồn
tại, vướng mắc và kiến nghị, đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, số đăng ký
2001-38-045, Hà Nội. Đề tài đã nêu lên những kết quả đạt được trong quá trình thực
thi PLTTGQCVADS, những tồn tại vướng mắc và đưa ra một số kiến nghị nhằm
hồn thiện hơn pháp luật về hịa giải tại Tòa án. Tuy vậy, đề tài chủ yếu nêu các vấn
đề về thực tiễn, ít đi sâu nghiên cứu về lý luận cũng như quy định của pháp luật về
hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân.
- Trần Văn Quảng (2004), Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam - Cơ sở lí luận và thực tiễn, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội. Do đây
cũng là thời điểm mà BLTTDS chưa có hiệu lực vì vậy cơ sở lý luận và thực tiễn
của đề tài này chủ yếu nghiên cứu hòa giải theo quy định của PLTTGQCVADS và
dự thảo BLTTDS, tuy vậy đã phần nào khái lược được các quy định về trình tự thủ
tục hịa giải vụ án dân sự tại TAND.
- Đào Thị Xuân Lan (2004), Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế
tại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội. Đề tài này có sự phân biệt giữa
tranh chấp dân sự và tranh chấp kinh tế và chủ yếu nghiên cứu hòa giải trong giải
quyết các tranh chấp kinh tế đồng thời nghiên cứu về hòa giải trong và ngồi tố
tụng, chủ thể tiến hành hịa giải khơng chỉ là Tịa án mà có thể là chủ thể khác như
tổ chức trọng tài.


4

- Bùi Đăng Huy (1996), Hòa giải trong tố tụng dân sự - Thực tiễn và hướng

hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Hà Nội. Cơng trình này cũng cứu về hịa
giải trước khi có BLTTDS vì vậy việc nghiên cứu ở đây mặc dù nghiên cứu hòa giải
trong tố tụng dân sự nhưng chủ yếu là nghiên cứu dựa trên những quy định của
PLTTGQCVADS và có nêu lên được một số khó khăn vướng mắc và hướng hồn
thiện về hịa giải trong tố tụng.
- Nguyễn Hồi Sơn (2004), Giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương
thức thương lượng, hịa giải- những vấn đề lí luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Hà Nội. Mặc dù có nghiên cứu liên quan đến hòa giải tại Tòa án nhưng
hòa giải ở đây chủ yếu là các tranh chấp thương mại đồng thời chủ yếu nghiên cứu
hịa giải ngồi tố tụng, chưa đi sâu nghiên cứu hòa giải các tranh chấp dân sự tại
Tòa án nhân dân.
- Huỳnh Tất Ngọc Trân (2009), Hòa giải vụ án kinh doanh thương mại tại
Tòa án, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Thành Phố Hồ Chí Minh. Cơng trình này có
nghiên cứu liên quan đến hòa giải tại Tòa án, nêu lên được một số quy định trong
BLTTDS nhưng chủ yếu nghiên cứu chuyên biệt về hòa giải các vụ án kinh doanh
thương mại tại Tịa án.
Ngồi ra hịa giải tại Tịa án cịn được nghiên cứu chun biệt thơng qua
những bài nghiên cứu khoa học được đăng tải trên các tạp chí TAND, tạp chí dân
chủ và pháp luật,… như: Trần Đình Hảo (2000), “Hòa giải, thương lượng trong việc
giải quyết hợp đồng kinh tế”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (01); Nguyễn Thị
Hoa (2002),“Vấn đề khơng hịa giải được trong tố tụng kinh tế”, Tạp chí Tịa án
nhân dân, (03); Trần Ngọc Dũng (2004), “Giải quyết tranh chấp kinh tế theo
phương thức thương lượng, hịa giải”, Tạp chí Luật học, (01); Nguyễn Trung Tín
(2008), “Thương lượng và hịa giải- các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tố
tụng tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (01)... Những bài viết có tính chất
nghiên cứu này ngồi phân tích quy định của pháp luật còn nêu lên một số bất cập
khi áp dụng quy định của pháp luật về hòa giải trong thực tiễn giải quyết tranh chấp,
đồng thời chủ yếu nghiên cứu và xem xét hòa giải như là một phương thức giải
quyết tranh chấp và đa số nói về hòa giải trong giải quyết các tranh chấp kinh tế.
Qua các bài viết trên, trong một số vướng mắc vẫn còn tồn tại những quan điểm lý

luận khác nhau và các cơng trình nghiên cứu cịn tản mạn nên rất khó tiếp cận một
cách tổng thể để có cái nhìn tồn diện. Tuy nhiên các nghiên cứu này cũng phần nào


5

làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại
TAND.
Nếu như các cơng trình nghiên cứu về hịa giải nói chung là khá nhiều, thì hầu
như chưa có cơng trình nào nghiên cứu chuyên sâu về hòa giải trong giải quyết vụ
án dân sự tại TAND. Trước thực trạng tình hình nghiên cứu trên, tác giả nhận thấy
sự cần thiết của việc nghiên cứu một cách toàn diện từ lý luận đến thực tiễn để hoàn
thiện cơ sở lý luận nhằm xây dựng các quy định về hòa giải trong giải quyết vụ án
dân sự tại TAND phù hợp với thực tiễn. Trên cơ sơ đó mà tác giả nghiên cứu đề tài
này một cách có hệ thống riêng biệt về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại
TAND, nghiên cứu cả về lý luận lẫn thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành về hòa
giải, đồng thời việc nghiên cứu này là sự nghiên cứu chi tiết, đầy đủ về hòa giải vụ
án dân sự tại Tòa án nhằm giúp tránh xảy ra những sai lầm, thiếu sót, vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động hòa giải
trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND hiện nay.
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài: Thơng qua việc nghiên cứu, tác giả phân tích
một cách có hệ thống các quy định của pháp luật về hòa giải trong giải quyết vụ án
dân sự cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này tại TAND, từ đó sẽ làm rõ bản
chất của thủ tục hịa giải trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự, luận giải
những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hồn thiện pháp luật về hịa giải
trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND ở nước ta. Để đạt được mục đích trên, luận
văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về hòa giải trong giải
quyết vụ án dân sự tại TAND.

- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về hòa giải trong
giải quyết vụ án dân sự tại TAND.
- Nhận xét, đánh giá đưa ra một số kiến nghị cụ thể nhằm xây dựng và hồn
thiện pháp luật về hịa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là các quy định của pháp luật Việt
Nam về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự và việc áp dụng các quy định này tại
Tịa án nước ta. Luận văn có đề cập việc hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại


6

Tòa án theo pháp luật của một số nước trên thế giới, nhưng chỉ là để đối chiếu, so
sánh khi cần thiết, chứ không đi sâu vào lĩnh vực này.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài: Trong khuôn khổ một luận văn tốt nghiệp
Thạc sĩ luật, tác giả chỉ giới hạn nghiên cứu những vấn đề trọng tâm về hòa giải
trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND mà chủ yếu nghiên cứu về hòa giải trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử, hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm và hòa giải trong giai đoạn
xét xử phúc thẩm được quy định trong pháp luật hiện hành như trình tự thủ tục hịa
giải; phân tích những bất cập, vướng mắc trong quy định pháp luật và thực tiễn áp
dụng để từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật.
4. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả luận văn sử dụng phương pháp luận biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tác giả cũng sử dụng thêm
nhiều phương pháp khác để nghiên cứu, cụ thể như:
- Phương pháp phân tích được tác giả sử dụng để phân tích các khái niệm,
đặc điểm, phân tích nội dung các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về hòa
giải trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND, đồng thời tác giả còn sử dụng phương
pháp này để phân tích khi đề cập đến những vướng mắc, khó khăn của việc áp dụng
các quy định pháp luật hiện hành về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tịa
án nhân dân, từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật.

- Phương pháp so sánh là phương pháp được dùng để so sánh quy định pháp
luật của Việt Nam về về hòa giải tại Tòa án qua từng thời kỳ lịch sử; so sánh quy
định pháp luật hiện hành về hòa giải tại Tòa án với pháp luật của một số quốc gia
trên thế giới.
- Phương pháp thống kê được tác giả sử dụng để thống kê số liệu hòa giải
thành vụ án dân sự của TAND một số Tỉnh, Thành phố cũng như của tồn ngành
Tịa án nhân dân.
- Sau cùng là phương pháp tổng hợp được sử dụng để hoàn thành luận văn
trên cơ sở tập hợp các tài liệu, số liệu đã thu thập.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Luận văn này là cơng trình khoa học pháp lý nghiên cứu
một cách tồn diện, đầy đủ và có hệ thống về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự
tại TAND. Luận giải những vấn đề lý luận về việc giải quyết vụ án dân sự bằng


7

phương thức hòa giải tại Tòa án ở Việt Nam; làm sáng tỏ hình thức, điều kiện, thủ
tục hịa giải, đồng thời nêu lên được những khó khăn vướng mắc trong quy định của
pháp luật về hòa giải cũng như đưa ra được một số kiến nghị nhằm góp phần vào
việc xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật nước ta về hòa giải trong
giải quyết vụ án dân sự tại TAND.
Giá trị ứng dụng của đề tài: Luận văn này có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho các Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Luật sư hoặc những người có liên
quan đến việc tham gia tố tụng tại Tịa án trong q trình giải quyết vụ án dân sự.
Đồng thời luận văn này cũng có thể được sử dụng để tham khảo trong việc xây
dựng và hồn thiện pháp luật về hịa giải trong tố tụng hoặc phục vụ cho việc học
tập, nghiên cứu, giảng dạy và tuyên truyền pháp luật...
6. Bố cục và nội dung cơ bản của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận

văn bao gồm 03 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại
Tòa án nhân dân.
Chương 2: Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân theo
pháp luật Việt Nam hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hồn thiện pháp luật về hịa giải
trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân.


8

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại
Tòa án nhân dân
1.1.1. Khái niệm hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân
Xã hội ngày một phát triển thì khơng thể tránh khỏi việc xuất hiện nhiều mối
xung đột, bất hòa phát sinh trong đời sống hàng ngày của người dân, nó trở nên
nhiều hơn và phức tạp hơn trên tất cả các lĩnh vực như: dân sự, kinh tế, lao động,
hành chính, hơn nhân và gia đình... Để giải quyết kịp thời và nhanh chóng những
xung đột, bất hịa đó thì có rất nhiều cách thức khác nhau, hoặc các bên tự thỏa
thuận, bàn bạc để đi đến thống nhất, hoặc nhờ bên thứ ba làm trung gian hòa giải,
hoặc đưa các tranh chấp ra cơ quan tài phán có thẩm quyền phán quyết…. Trong
các cách giải quyết đã nêu thì hịa giải được con người vận dụng khá nhiều vì khi
hịa giải thành sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp hơn bất cứ một phương thức giải
quyết nào khác, chính những lý do trên là cơ sở thực tiễn làm xuất hiện khái niệm
hòa giải trong khoa học pháp lý. Để tìm hiểu khái niệm hòa giải trong giải quyết vụ
án dân sự tại TAND, trước tiên ta cần tìm hiểu khái niệm thuật ngữ “hịa giải”.
Theo một số Từ điển Tiếng Việt thì hịa giải “là dàn xếp nhằm chấm dứt một

cuộc xung đột”1 hay “là việc thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hay xích
mích một cách ổn thỏa”2 hoặc “là thu xếp để chấm dứt một cuộc xung đột, một mối
bất hòa”3. Các khái niệm này đã đưa ra một cách chung nhất về phương thức và
mục đích của hịa giải.
Từ điển Luật học năm 2006 thì hịa giải được hiểu là “thuyết phục các bên
tranh chấp tự giải quyết tranh chấp của mình một cách ổn thỏa. Thơng thường, việc
hòa giải được tiến hành sau khi thương lượng (khiếu nại) giữa các bên đã không

1

Từ điển Tiếng Việt (1977), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.384;

2

Từ điển Tiếng Việt (1992), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.350.

3

Từ điển Tiếng Việt (1999-2000), NXB Văn hóa thơng tin, tr. 372.


9

đạt được kết quả”4. Khái niệm này đã chỉ ra thêm thời điểm, mục đích, phương thức
cũng như chủ thể của hịa giải.
Theo Tự điển Luật học Pháp thì: “Hịa giải là phương thức giải quyết tranh
chấp với sự giúp đỡ của người trung gian thứ ba để giúp đưa ra các đề nghị giải
quyết một cách thân thiện”5. Khái niệm này đã chỉ ra chủ thể tiến hành hòa giải.
Theo tự điển Luật học của Black thì “hịa giải là một q trình giải quyết
tranh chấp mang tính chất riêng tư, trong đó, Hịa giải viên là người thứ ba trung

gian giúp các bên tranh chấp đạt được một sự thỏa thuận”6. Đã nêu lên được hành
vi, vai trò trung gian của bên thứ ba trong hoà giải.
Trong khoa học pháp lý cũng có nhiều quan điểm khác nhau về hịa giải.
- Có quan điểm cho rằng “hịa giải là quá trình giải quyết những tranh
chấp, bất đồng giữa các bên. Trong q trình hịa giải cần đến bên thứ ba với vai
trò trung lập, làm trung gian giúp các bên tranh chấp giải quyết được những bất
đồng và đạt được một thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật, đạo đức xã
hội và tự nguyện thực hiện những thỏa thuận đó”7. Theo quan điểm này, hịa giải có
mục đích giải quyết thành cơng tranh chấp. Tuy nhiên, khơng phải tất cả các trường
hợp hịa giải đều thành cơng. Khi đó, dù mâu thuẫn chưa được giải quyết hồn tồn
nhưng các bên tranh chấp cũng có cơ hội hiểu rõ hơn nội dung tranh chấp, bày tỏ ý
chí của mình với đối phương và cũng được nghe ý kiến của đối phương về vụ tranh
chấp. Từ đó, hai bên có thể phần nào tìm được tiếng nói chung và làm giảm mức độ
mâu thuẫn.
- Một quan điểm khác “hòa giải là một biện pháp giải quyết các tranh
chấp, theo đó, với sự giúp đỡ của một bên thứ ba độc lập giữ vai trò trung gian, các
bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận giải quyết tranh chấp phù hợp với quy định
pháp luật, truyền thống đạo đức xã hội”8. Quan điểm này thể hiện được bản chất,
đặc điểm của hòa giải và vai trò của bên trung gian thứ ba trong hòa giải. Xem hòa
4

Từ điển Luật học (2006), NXB Tư pháp - NXB Bách khoa toàn thư, Hà Nội, tr.365.

5

Từ điển Luật học Pháp, tr.256.

6

Từ điển Luật học Anh - Mỹ Black (1990), NXB West, Thomson, tr.152.


7

Trần Huy Liệu (1999), “Thực trạng tổ chức và hoạt động hịa giải ở cơ sở”, Thơng tin khoa học pháp lý,
Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
8

Trần Văn Quảng (2004), Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam - Cơ sở lý luận và thực
tiễn, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội, tr.145.


10

giải là một biện pháp giải quyết tranh chấp; chủ thể trung tâm của hòa giải là bên
trung gian giúp cho các bên tranh chấp thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh
chấp; sự thỏa thuận về giải quyết tranh chấp do chính các bên tranh chấp quyết
định.
- Ngồi ra cịn có thêm các quan điểm như: “hịa giải là biện pháp giải
quyết tranh chấp, mà theo đó các bên trong q trình thương lượng có sự tham gia
của bên thứ ba độc lập làm vai trò trung gian để hỗ trợ cho các bên nhằm tìm kiếm
những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết xung đột, chấm dứt các tranh chấp,
bất hòa”9 hay “hòa giải là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp,
theo đó các bên tự cùng nhau hoặc thông qua sự hướng dẫn giúp đỡ một cách có tổ
chức của bên thứ ba để bàn bạc, thỏa thuận để tìm ra giải pháp giải quyết xung đột
giữa họ”10.
Như vậy, tuy các khái niệm về hịa giải có sự khác nhau nhưng chung quy lại
thì hịa giải ln là phương thức giải quyết tranh chấp một cách hịa bình và thỏa
mãn ba yếu tố gồm:
- Yếu tố thứ nhất là phải có tranh chấp giữa hai bên;
- Yếu tố thứ hai là có sự thống nhất ý chí giữa các bên để giải quyết tranh

chấp thơng qua việc mỗi bên nhượng bộ một ít;
- Yếu tố thứ ba là trong q trình hịa giải phải có sự tham gia của bên thứ
ba trung lập để cho ý kiến tư vấn đồng thời công nhận thủ thục hòa giải thành giữa
các bên trong tranh chấp. Nếu khơng có sự tham gia của bên thứ ba này thì q trình
này gọi là tự hịa giải hoặc thương lượng11.
Trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND, tuy pháp luật chưa có khái niệm về
hịa giải nhưng cũng có quan điểm về hịa giải tại TAND “là sự thỏa thuận của các
bên đương sự về việc giải quyết toàn bộ nội dung yêu cầu khởi kiện và tự nguyện
chấm dứt tranh chấp bằng con đường tố tụng”12. Quan điểm này nêu lên được hòa

9

Phạm Hữu Nghị (2002), “Hịa giải trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (12) tr. 42-47.

10

Huỳnh Tất Ngọc Trân (2009), Hòa giải vụ án kinh doanh, thương mại tại Tòa án, Luận văn Thạc sỹ Luật
học, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 03
11

Lê Nết (2006), “Hịa giải trong tố tụng Dân sự - nhìn từ góc đội kinh tế”, Tạp chí Khoa học pháp lý (2), tr.
33.
12

Nguyễn Ngọc Khánh (2005), “Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong Bộ luật tố
tụng dân sự Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật (5), tr. 68.


11


giải là sự thỏa thuận của các bên đương sự nhưng vẫn chưa nêu được vai trò của
Tòa án trong q trình hịa giải.
Theo quy định tại Điều 10 BLTTDS thì hịa giải là trách nhiệm của Tịa án
nhằm tạo điều kiện cho các đương sự có thể thỏa thuận với nhau về việc giải quyết
vụ án theo quy định của pháp luật và được tiến hành như một thủ tục cần thiết, bắt
buộc và cũng là một thủ tục đặc trưng của tố tụng dân sự. Hòa giải tại TAND thể
hiện vai trò của Tòa án là bên trung gian trong hịa giải. Nếu hịa giải thành thì Tịa
án sẽ ra quyết định cơng nhận, vì vậy hịa giải cũng được xem là một biện pháp giải
quyết tranh chấp. Chủ thể trung tâm của hòa giải là Tòa án sẽ giúp cho các bên
tranh chấp thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp và sự thỏa thuận về
giải quyết tranh chấp phải do chính các bên tranh chấp quyết định.
Vậy hoà giải là một thủ tục tố tụng do Toà án nhân dân tiến hành, nhằm giúp
đỡ các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết quan hệ đó cho phù hợp với
pháp luật, khơng trái đạo đức xã hội. Hoặc xét ở mức độ chung nhất thì hịa giải
trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND là cách thức tích hợp hịa giải vào tố tụng tư
pháp với vai trò của Tòa án là người trung gian thứ ba để hỗ trợ, giúp đề xuất các
cách giải quyết thân thiện để hai bên tự thỏa thuận nhằm tìm kiếm những giải pháp
thích hợp cho việc giải quyết xung đột, chấm dứt các tranh chấp, bất hịa, đồng thời
cơng nhận giá trị pháp lý và bảo đảm thi hành kết quả thỏa thuận của các bên bằng
sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
Do đó, theo quan điểm của tác giả thì hịa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại
TAND cần được hiểu như sau: Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án
nhân dân là một thủ tục tố tụng bắt buộc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và được
khuyến khích ở các giai đoạn tố tụng tiếp theo. Theo đó, người tiến hành tố tụng với
vai trị trung gian, có trách nhiệm hịa giải, giải thích pháp luật, giúp đỡ các bên
đang có tranh chấp trong vụ án dân sự mà mình giải quyết nhằm hướng các bên đi
đến thỏa thuận về một giải pháp giải quyết tranh chấp trên cơ sở đó Tịa án sẽ xem
xét công nhận sự thỏa thuận của đương sự.
1.1.2. Đặc điểm của hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân
dân

Thứ nhất, hòa giải là một nguyên tắc cũng là một thủ tục bắt buộc trong giải
quyết vụ án dân sự tại TAND. Bản chất của quan hệ dân sự là được thiết lập trên cơ
sở tự nguyện và quyền tự định đoạt của đương sự, do đó, việc giải quyết các tranh


12

chấp phát sinh từ các quan hệ này được thực hiện theo những biện pháp nhất định,
không giống với tố tụng hình sự hay tố tụng hành chính. Trong đó, hòa giải là một
biện pháp quan trọng và là nguyên tắc bắt buộc trong tố tụng dân sự mà Tòa án phải
thực hiện. Thêm nửa, hòa giải cũng đã được các văn bản pháp luật về tố tụng trước
đây mà cụ thể là các pháp lệnh giải quyết các vụ án, tranh chấp dân sự, kinh tế, lao
động khẳng định là một nguyên tắc cơ bản trong quá trình giải quyết vụ án. Với tinh
thần đó, BLTTDS tiếp tục khẳng định hòa giải là một nguyên tắc trong tố tụng dân
sự: “Tịa án có trách nhiệm tiến hành hịa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các
đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của
Bộ luật này”13. Bộ luật cũng quy định cụ thể việc hòa giải được thực hiện ở tất cả
các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, từ khi chuẩn bị xét xử đến khi bắt đầu xét xử tại
phiên tịa, trừ những vụ án khơng được hịa giải như yêu cầu đồi bồi thường gây
thiệt hại đến tài sản của Nhà nước hoặc những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch
trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội14.
Đồng thời, tại Điều 180, Điều 220 và Điều 268 BLTTDS quy định hịa giải có
tính bắt buộc phải tiến hành trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, trừ những vụ án khơng
được tiến hành hịa giải hoặc khơng hịa giải được. Ở các giai đoạn tố tụng tiếp theo,
nếu thấy có khả năng hịa giải thành thì tòa án cũng tiến hành hòa giải. Do hòa giải
là một nguyên tắc bắt buộc phải tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm,
vì vậy nếu khơng tiến hành hòa giải mà đưa vụ án ra xét xử là vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng. Ở các giai đoạn tiếp theo mặc dù trách nhiệm của Tịa án là
hịa giải nhưng khơng mang tính bắt buộc mà chỉ mang tính khuyến khích hịa giải.
Sự bắt buộc phải tiến hành hòa giải ở đây là chỉ bắt buộc đối với Tịa án vì khi tiến

hành hịa giải giữa các đương sự, Tịa án giữ vị trí đặc biệt quan trọng, phải chủ
động trong việc hòa giải để giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau. Đối với
đương sự thì việc tham gia hay khơng tham gia hịa giải phải thể hiện ý chí tự
nguyện của đương sự nên khơng mang tính chất bắt buộc như đối với Tịa án. Bên
cạnh đó, việc pháp luật quy định hòa giải là một nguyên tắc cũng là việc tận dụng
tối đa cơ hội rút ngắn quá trình tố tụng, nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử, thể
hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
13
14

Điều 10 BLTTDS 2004.

Vụ cơng tác lập Pháp (2004), Những vấn đề cơ bản của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, NXB Tư Pháp,
Hà Nội, tr.21.


13

cơng dân, đồng thời cịn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc trong việc củng cố tình tương
thân, tương ái, giữ gìn khối đồn kết cộng đồng.
Thứ hai, chủ thể tiến hành hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND
làm trung gian hòa giải giúp cho các đương sự thỏa thuận với nhau là Thẩm phán
hay HĐXX. Chủ thể này xuất hiện không phải với tư cách một bên tham gia hòa
giải mà là người tổ chức, bố trí cho các đương sự thương lượng, thỏa thuận với
nhau. Với vai trị giải thích cho các đương sự hiểu được quyền, nghĩa vụ pháp luật
có liên quan đến tranh chấp cần hòa giải. Kết quả hòa giải là biên bản hịa giải thành
hoặc khơng thành và đây là những văn bản có tính chất pháp lý, là cơ sở để tiếp tục
các hành vi tố tụng tiếp theo. Sự có mặt của chủ thể này trong hịa giải khẳng định
vị trí trung gian của Tịa án trong việc hòa giải các vụ án dân sự và chủ thể này do
pháp luật quy định mà không phụ thuộc vào sự lựa chọn của các bên. Đặc điểm này

là dấu hiệu để phân biệt hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại TAND có sự khác
biệt với các hình thức thương lượng hoặc hịa giải ngồi tố tụng khác do người
trung gian có thể là cá nhân, tổ chức luật sư, tư vấn, hoặc các tổ chức khác do các
bên thỏa thuận lựa chọn. Chủ thể tiến hành hịa giải này phải có vị trí và vai trị độc
lập với các bên, hồn tồn khơng có lợi ích liên quan đến tranh chấp và không đại
diện cho quyền lợi của bất cứ bên nào. Tuy chủ thể tiến hành hịa giải khơng do các
bên quyết định, lựa chọn nhưng sự điều chỉnh, thỏa thuận về giải pháp giải quyết
các tranh chấp phải do chính các bên tranh chấp quyết định.
Thứ ba, hòa giải là sự thỏa thuận của các đương sự. Mặc dù hòa giải là một
hoạt động do Tòa án tiến hành nhưng về bản chất hòa giải vẫn là sự thỏa thuận của
các đương sự. Đương sự trong các vụ án dân sự chính là các bên của tranh chấp mà
Tòa án cần giải quyết. Họ là người hiểu rõ hơn ai hết mâu thuẫn của chính họ. Vì lý
do này mà pháp luật quy định chính đương sự là người có quyền tự định đoạt để
giải quyết các mâu thuẫn đó. Việc thỏa thuận giữa các đương sự sẽ đạt được kết quả
trung thực, hợp tình hợp lý nếu quá trình thỏa thuận được diễn ra trên cơ sở tự
nguyện, không bị một ai với bất kỳ hình thức nào cưỡng ép, can thiệp vào thỏa
thuận của các đương sự. Điều này đòi hỏi Tòa án khơng được dùng bất kỳ hình thức
nào để cưỡng ép, bắt buộc các đương sự phải hòa giải với nhau. Đặc điểm này là
đặc trưng cơ bản của hòa giải, đồng thời cũng là điểm khác biệt giữa hòa giải và xét
xử. Khi xét xử, Tòa án sẽ ra phán quyết và đương sự phải tuân thủ nghiêm chỉnh


14

mọi phán quyết của Tòa án. Trong hòa giải, Tòa án chỉ có vai trị trung gian giúp đỡ
các bên tranh chấp thỏa thuận với nhau mà không được can thiệp vào thỏa thuận đó.
Thứ tư, hịa giải cịn có mối liên hệ mật thiết với các hoạt động tố tụng khác,
trong q trình hịa giải Thẩm phán sẽ nắm bắt được tâm tư nguyện vọng và yêu cầu
của từng bên, hiểu rõ hơn những vấn đề mà các bên đang tranh chấp để từ đó tiến
hành các cơng việc cần thiết liên quan đến phiên tòa sơ thẩm và hoạt động tố tụng

của Tòa án sau này. Nếu hòa giải tốt thì phiên tịa sơ thẩm diễn ra sau này sẽ được
thuận lợi, hạn chế tình trạng hỗn phiên tòa nhiều lần do những yếu tố chủ quan
cũng như hạn chế tình trạng xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật do bị
kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ
án. Bên cạnh đó việc thực hiện tốt cơng tác hịa giải sẽ giúp cho Tịa án cấp phúc
thẩm giải quyết kháng cáo, kháng nghị được nhanh chóng, thuận lợi.
1.2. Ý nghĩa của hịa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân
dân
Hòa giải khơng chỉ mang lại ý nghĩa cho Tịa án, cho các bên tranh chấp, cho
việc thi hành án mà còn có ý nghĩa đối với trật tự xã hội.
- Ý nghĩa đối với Tòa án:
Trong trường hợp hòa giải thành, Tịa án sẽ giảm bớt được nhiều thời gian,
cơng sức cho việc giải quyết vụ án. Đặc biệt nếu hòa giải thành trong thời gian
chuẩn bị xét xử thì Tịa án sẽ khơng phải mở phiên tịa sơ thẩm và không phải tiến
hành các thủ tục xét xử tiếp theo như xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Mặt khác, nếu làm tốt cơng tác hịa giải thì khơng chỉ số lượng xét xử của Tòa án
cấp sơ thẩm giảm xuống mà số lượng án ở Tòa án cấp phúc thẩm cũng giảm theo
một cách rõ rệt, hệ quả là hiệu quả xét xử sẽ được nâng cao. Điều này sẽ khơng chỉ
có ý nghĩa về kinh tế mà cịn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tăng cường uy tín
của cơ quan xét xử nói riêng cũng như cơ quan nhà nước nói chung.
Trong trường hợp hịa giải khơng thành thì Tịa án cũng có điều kiện nắm
vững nội dung tranh chấp, tâm tư, nguyện vọng của đương sự, những vấn đề mà các
bên thỏa thuận được và khơng thỏa thuận được để từ đó có hướng thu thập chứng
cứ để xác định đường lối xét xử đúng đắn trong quá trình giải quyết vụ án.
- Ý nghĩa đối với các bên tranh chấp:


15

Hịa giải giúp các đương sự hiểu biết và thơng cảm với nhau, góp phần khơi

phục lại tình đồn kết giữa họ, giúp họ giải quyết tranh chấp với tinh thần cởi mở,
giảm bớt mâu thuẫn, ngăn ngừa việc họ có thể sẽ phạm do nguồn gốc phát sinh từ
tranh chấp dân sự. Trường hợp khơng hịa giải thành thì q trình hịa giải cũng
giúp cho các đương sự ngồi lại với nhau, hiểu rõ hơn nguyên nhân tranh chấp, được
bày tỏ ý chí của mình. Từ đó, họ có thể phần nào tìm được tiếng nói chung cũng
giúp hạn chế bớt mâu thuẫn.
Hịa giải cịn giúp ít tốn kém án phí cho các bên tranh chấp, bởi nếu hịa giải
khơng thành thì những lợi thế của hịa giải thành sẽ trở thành gánh nặng cho đương
sự như: đương sự chỉ chịu một phần hai án phí nếu hịa giải thành, khi hịa giải
khơng thành và Tịa án phải xét xử thì số tiền án phí này đương sự sẽ phải chịu toàn
bộ. Tâm lý của các bên đương sự tranh chấp bao giờ cũng mong muốn rút khỏi
tranh chấp một cách nhanh chóng và hiệu quả cịn hơn việc phải theo đuổi một quan
hệ pháp luật tranh chấp tại Tòa án kéo dài sẽ ảnh hưởng rất lớn đến uy tín. Do đó
nếu thống nhất được phương án giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng thì
thơng tin, bí mật cá nhân khơng bị tiết lộ, uy tín của họ cũng khơng bị giảm sút.
Hịa giải cịn góp phần nâng cao ý thức pháp luật của các đương sự, thơng qua
hịa giải tại Tịa án làm cho sự hiểu biết chính sách pháp luật của các bên tranh chấp
được nâng cao. Từ việc giải thích pháp luật của Thẩm phán giải quyết tranh chấp
trong phiên hòa giải cho các bên, họ sẽ nắm bắt được quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, cũng như quy định của pháp luật liên quan đến quan hệ pháp luật mà mình
đang có tranh chấp. Trên cơ sở đó, họ sẽ định hướng và lựa chọn hành động phù
hợp với quy định pháp luật và đạo đức xã hội, họ có thể tự quyết định về việc giải
quyết tranh chấp, không trái với quy định của pháp luật.
- Ý nghĩa đối với việc thi hành án: khi vụ án được giải quyết bằng con
đường hịa giải thành có sự thống nhất ý chí của các đương sự sẽ giúp cho việc thi
hành án được thuận lợi hơn so với những vụ án được đưa ra xét xử. Vì những nội
dung hịa giải xuất phát từ sự đồng thuận của các đương sự nên thông thường sau
khi QĐCNSTT của các đương sự được ban hành và có hiệu lực pháp luật thì các
đương sự sẽ tôn trọng và thực hiện nghiêm túc phương án hịa giải vì đây chính là
sự tự nguyện lựa chọn của họ. Từ đó sẽ góp phần làm giảm thiểu số lượng án dân sự

phải thi hành bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước.


16

- Ý nghĩa đối với trật tự xã hội: thông qua hòa giải nhiều tranh chấp đã được
giải quyết mà khơng cần phải mở phiên tịa xét xử. Hoặc nếu hịa giải khơng thành
thì cũng giúp các bên đương sự hiểu rõ hơn về mâu thuẫn, giúp kiềm chế mâu
thuẫn. Như vậy, hịa giải góp phần vào việc giữ gìn an ninh, trật tự, công bằng xã
hội, làm cho mối quan hệ xã hội phát triển không phải bằng mệnh lệnh mà bằng
giáo dục thuyết phục và sự cảm thông của các thành viên trong xã hội.
1.3. Hòa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân theo pháp
luật Việt Nam trước ngày 01 tháng 01 năm 2005
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1946 đến năm 1960
Sau khi nước ta giành được độc lập thì văn bản pháp luật đầu tiên có quy định
liên quan đến hịa giải trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân là Sắc lệnh
số 13 ngày 24/1/1946 của Chủ tịch nước về tổ chức Tòa án, nhưng thủ tục hòa giải
theo sắc lệnh này vẫn chưa được quy định rõ ràng trong hoạt động của Tòa án, cũng
chưa có phân biệt hịa giải trong hoặc ngồi tố tụng.
Đến Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 được ban hành thì quy định biên bản hịa
giải thành chỉ có hiệu lực tư chứng thư15 và những việc kiện dân sự, thương mại
thuộc thẩm quyền của Tòa án đệ nhị cấp đều phải giao trước về ơng Thẩm phán sơ
cấp thử hịa giải16.
Sau đó là Sắc lệnh 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật
tố tụng được ban hành quy định “Tòa án nhân dân hòa giải tất cả các vụ kiện về
dân sự và thương mại kể cả việc xin ly dị trừ những vụ kiện mà theo luật pháp
đương sự khơng có quyền điều đình”17. Cũng theo Điều 10 của Sắc lệnh này biên
bản hòa giải thành là một cơng chứng thư có thể đem chấp hành ngay. Tuy nhiên
cho đến lúc biên bản hòa giải được chấp hành xong nếu Biện lý xét thấy biên bản ấy
xâm phạm đến trật tự chung thì có quyền u cầu Tịa án có thẩm quyền sửa đổi

hoặc bác bỏ điều hai bên đã thỏa thuận, hạn kháng cáo là 15 ngày tròn kể từ ngày
phòng Biện lý nhận được biên bản hòa giải thành.
Với các văn bản pháp luật quy định về hòa giải trong giai đoạn này chúng ta
thấy nổi bật vấn đề sau:
15

Điều 4 Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946.

16

Điều 12 Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946.

17

Điều 9 Sắc lệnh 85/SL ngày 22/5/1950.


17

- Về thẩm quyền hịa giải: Cơ quan có thẩm quyền hòa giải là Ban tư pháp
xã và TAND cấp huyện. Các vụ án phải hòa giải là tất cả các vụ án về dân sự,
thương mại và ly hôn, trừ những việc khơng được hịa giải.
- Về hiệu lực: biên bản hòa giải thành do Ban tư pháp xã lập có hiệu lực tư
chứng thư. Cịn biên bản hịa giải thành do Tịa án lập có hiệu lực là một cơng
chứng thư, có thể đem ra thi hành ngay. Trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được
biên bản hịa giải thành, phịng Biện lý có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án sửa đổi
hoặc bác bỏ những điều hai bên đã thỏa thuận, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan cũng có quyền kháng cáo.
Như vậy, đặc trưng của pháp luật về hòa giải trong giai đoạn này là Tịa án
khơng ra quyết định mà chỉ lập biên bản hịa giải thành, đồng thời chỉ có phịng

Biện lý và người có liên quan có quyền kháng cáo cịn ngun đơn và bị đơn khơng
có quyền này.
Ngồi ra, khi Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 ra đời nó cũng có thêm
quy định cụ thể về hịa giải như: “trong trường hợp một bên vợ hoặc chồng xin ly
hơn, cơ quan có thẩm quyền sẽ điều tra và hịa giải”18. Tịa án có thể trực tiếp thực
hiện việc hòa giải hoặc giao lại cho tổ hòa giải tiến hành với sự theo dõi hướng dẫn
của Tòa án.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1989
Giai đoạn này Luật Tổ chức Tịa án nhân dân năm 1960 và Thơng tư số 1080
ngày 25/9/1961 tiếp theo được ban hành quy định TAND huyện ngồi nhiệm vụ hịa
giải thì cịn có nhiệm vụ xây dựng và hướng dẫn các tư pháp xã thực hiện hòa giải,
dàn xếp các đương sự và nhân dân.
Trong giai đoạn này thành tựu đạt được là hòa giải đã được coi là một thủ tục
bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án dân sự tại TAND nhưng do đất nước vẫn
cịn trong tình trạng chiến tranh nên các quy định về hịa giải chưa có điều kiện
hồn thiện, vẫn cịn bộc lộ rất nhiều hạn chế, bất cập lớn nhất là Tòa án chỉ lập biên
bản hịa giải thành mà khơng ra QĐCNSTT nên kết quả hịa giải khơng có hiệu lực
buộc các bên phải có nghĩa vụ thi hành, dẫn đến nhiều trường hợp các bên không tự
nguyện thi hành thỏa thuận hoặc các bên tự ý thay đổi thỏa thuận đó nên Tịa án vẫn
phải mở phiên tòa xét xử sau khi đã lập biên bản hịa giải thành.
18

Điều 26 Luật Hơn nhân và gia đình 1959.


18

Nhằm khắc phục tình trạng trên, ngày 30/11/1974, TANDTC đã ra Thơng tư
số 25-TATC hướng dẫn việc hịa giải trong tố tụng dân sự. Thơng tư có các quy
định cụ thể hơn về thẩm quyền, trình tự thủ tục, phương pháp hòa giải các vụ án dân

sự như:
Về thẩm quyền hịa giải thì TAND được hịa giải tất cả các vụ án dân sự và
hơn nhân gia đình, trừ những vụ án khơng được hịa giải sau đây:
- Đối với hơn nhân và gia đình thì khơng được hịa giải: Việc ly hơn khi bị
đơn là người mất trí; Việc kiện về hơn nhân và gia đình xét thấy phải xử lý bằng
biện pháp tiêu hôn19; Các việc tranh chấp về thân phận con người như về sinh đẻ,
chết, kết hơn; Các việc thuận tình ly hơn.
- Đối với tranh chấp kinh tế, tài sản thì khơng được hịa giải: Việc kiện dân
sự mà nội dung là giao dịch bất hợp pháp; Việc kiện dân sự đòi hỏi bồi thường thiệt
hại đối với hành vi cố ý xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa; Việc kiện do Viện kiểm
sát nhân dân khởi tố; Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi xâm phạm
tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản riêng của công dân với lỗi cố ý.
Về trình tự thủ tục hịa giải:
- Khi hịa giải thì tất cả các đương sự đều phải có mặt. Nếu có người được
triệu tập vắng mặt lần thứ nhất thì Tịa án cần hỗn phiên hịa giải và triệu tập lại.
Nếu đã triệu tập lại mà vẫn vắng mặt thì Tòa án tùy từng trường hợp mà quyết định
tiến hành hòa giải hay đưa vụ án ra xét xử.
- Nếu hịa giải thành thì Tịa án lập biên bản hịa giải thành. Sau đó TAND
ra một quyết định cơng nhận hịa giải thành để các thỏa thuận đó có giá trị chấp
hành.
- Nếu hịa giải khơng thành thì Tịa án lập biên bản hịa giải khơng thành và
quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Về phương pháp hòa giải: Trước khi hòa giải phải tiến hành điều tra để nắm
vững nội dung vụ kiện. Khi hòa giải Tòa án phải giải thích cho các đương sự về
pháp luật, chính sách, quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ có tranh chấp với
thái độ khách quan, trung lập. Nếu không thấy có khả năng hịa giải thì cần đưa ra
xét xử, tránh kéo dài thời gian hòa giải một cách không cần thiết.

19


/>

19

Về hiệu lực của các quyết định công nhận việc hịa giải thành: Các quyết định
cơng nhận việc hịa giải thành đều có hiệu lực như bản án. Đương sự, Viện kiểm sát
có quyền kháng cáo, kháng nghị. Người đệ tam (nay gọi là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan) có quyền chống quyết định cơng nhận của Tịa án cấp sơ thẩm.
Nếu quyết định cơng nhận việc hịa giải thành đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát
hiện có sai lầm thì vụ kiện sẽ được xét xử theo trình tự giám đốc thẩm. Đối với
quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu chỉ một mình người đệ tam chống quyết
định thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ra quyết định sơ thẩm, Tòa án sẽ thụ lý
đơn và giải quyết về khoản mà người đệ tam chống quyết định.
Như vậy, Thông tư số 25-TATC của TANDTC hướng dẫn việc hòa giải trong
tố tụng dân sự đã đánh dấu một bước phát triển quan trọng của các quy định về hịa
giải. Thơng tư đã quy định rõ ràng chi tiết về thẩm quyền hòa giải, phạm vi hịa giải,
trình tự thủ tục và phương pháp hòa giải, đáp ứng được yêu cầu cấp thiết cho Tòa án
tiến hành hòa giải để giải quyết vụ án đạt hiệu quả cao.
Đến năm 1975, sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, hàng loạt các văn bản
pháp luật trong giai đoạn này đã được nâng cao không chỉ về mặt nội dung mà cả về
hình thức, hiệu lực pháp lý. Về lĩnh vực hòa giải các vụ án dân sự cũng đã được
hướng dẫn cụ thể trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như:
Thông tư số 81-TAND ngày 24/7/1981 của TANDTC hướng dẫn các Tòa án
địa phương giải quyết các tranh chấp về thừa kế. Điểm mới của thơng tư này là quy
định: Cần kiên trì hịa giải nhằm góp phần củng cố và phát triển tình đồn kết
thương u trong nội bộ gia đình20.
Thơng tư số 02-TTLT ngày 02/10/1985 hướng dẫn thực hiện thẩm quyền xét
xử của TAND về một số việc trong lao động quy định: trước khi xét xử Tòa án phải
hòa giải những tranh chấp giữa chủ tư nhân và những người làm cơng và trong khi
xét xử nếu có khả năng hịa giải thì Tịa án vẫn tiến hành hịa giải.

Thơng tư số 06-TTLN ngày 30/12/1986 của TANDTC, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Bộ tư pháp hướng dẫn về thẩm quyền và thủ tục giải quyết ly hôn giữa
công dân Việt Nam và một bên cơng dân nước ngồi chưa có hiệp định tương trợ tư
pháp về vấn đề hôn nhân và gia đình với Việt Nam. Theo hướng dẫn của Thơng tư
này thì đối với những việc ly hơn, Tịa án khơng hịa giải.
20

Mục 6 phần I, Thơng tư số 81/TATC ngày 24/07/1981.


×