Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

hoàn thiện hệ thống pháp luật việt nam về bảo hộ chỉ dẫn đại lý trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 93 trang )

KHOA LUẬT ĐẠI HỌC LUẬT
ĐẠI HỌC LUND

TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ VIỆT TUẤN

- trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Quốc Tế
Mã số: 60 38 60
Người hướng dẫn:

GS. Hans-Henrik Lidgard

TS. Đinh Văn Thanh

Tp. Hồ Chí Minh - 2004


NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

Bằng:

Thay:
-

Hiệp định về các khía cạnh liên quan
đến thương mại của quyền sở hữu trí

-


Hiệp định TRIPs

tuệ (được Tổ chức thương mại thế giới
ngày 15/4/1994)
-

Công ước về bảo hộ sở hữu công
nghiệp (ký tại Paris năm 1883)

-

Công ước Paris

-

Tổ chức thương mại thế giới

-

Tổ chức WTO

-

Tổ chức quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ

-

Tổ chức WIPO

-


Ủy ban thường trực về pháp luật nhãn
hiệu hàng hố, kiểu dáng cơng nghiệp

-

SCT

và chỉ dẫn địa lý của Tổ chức WIPO

2


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

5

CHƯƠNG 1 . KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ

11

1.1 LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỈ DẪN ĐỊA LÝ

11

1.2 KHÁI NIỆM CHỈ DẪN ĐỊA LÝ

18


1.2.1 Khái niệm chỉ dẫn địa lý theo Hiệp định TRIPs

18

1.2.2 Khái niệm chỉ dẫn địa lý theo pháp luật Việt Nam

23

1.3 TÍNH ĐẶC THÙ TRONG QUAN HỆ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN SỞ
HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI CHỈ DẪN ĐỊA LÝ

26

1.3.1 Chủ thể có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý

26

1.3.2 Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý

28

1.4 MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ VÀ CHỈ DẪN ĐỊA


29

1.4.1 Khái niệm nhãn hiệu hàng hoá

30


1.4.2 Sự khác biệt và xung đột giữa quy định về nhãn hiệu hàng
hoá và chỉ dẫn địa lý

31

CHƯƠNG 2 . BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI
CHỈ DẪN ĐỊA LÝ

34

2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP ĐỐI VỚI CHỈ DẪN ĐỊA LÝ

34

2.1.1 Khái niệm bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ
dẫn địa lý

34

2.1.2 Ý nghĩa của việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý

39

2.2 XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI CHỈ DẪN
ĐỊA LÝ

41

2.3 HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI

CHỈ DẪN ĐỊA LÝ

44

3


2.4 CÁC BIỆN PHÁP THỰC THI QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI CHỈ DẪN ĐỊA LÝ

48

2.4.1 Thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý
theo điều ước quốc tế

48

2.4.2 Thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý
theo pháp luật Việt Nam

54

CHƯƠNG 3 . NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN HỆ
THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ

61

3.1 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁP LÝ VỀ BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA
LÝ Ở VIỆT NAM


61

3.1.1 Đối với khái niệm chỉ dẫn địa lý

61

3.1.2 Đối với bảo hộ chỉ dẫn địa lý

63

3.2 MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG CẦN ĐẢM BẢO KHI HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ

66

3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP
LUẬT VỀ BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ

69

3.3.1 Kiến nghị nhằm làm rõ một số vấn đề có tính lý luận về khái
niệm và bảo hộ chỉ dẫn chỉ dẫn địa lý

69

3.3.2 Kiến nghị đối với hoạt động xây dựng pháp luật về bảo hộ
chỉ dẫn địa lý

78


3.3.3 Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền sở hữu
công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý

80

KẾT LUẬN

83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

88

4


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu của đề tài
Thế giới hiện nay đã và đang bước vào một giai đoạn phát triển mới, giai đoạn
của một nền kinh tế dựa vào tri thức của con người. Chính từ những thành tựu
khoa học kỹ thuật đã làm cho thế giới dường như nhỏ hẹp hơn và các quốc gia
gắn bó chặt chẽ với nhau nhiều hơn. Một nhu cầu đã trở nên tất yếu ở mỗi quốc
gia trong quá trình tồn tại và phát triển là đều phải thiết lập các mối quan hệ quốc
tế dưới những mức độ nhất định.
Thực hiện tinh thần “đổi mới” từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra
và những tư tưởng chỉ đạo tại các Đại hội Đảng lần VII, VIII, IX Việt Nam đã
không ngừng đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Điều đó đã giúp Việt
Nam phá vỡ được hàng rào bao vây, cấm vận để thay vào đó bằng những sự thiết
lập những mối quan hệ với rất nhiều nước trên thế giới. Việt Nam dần muốn
nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế, từ một nước nhận viện trợ trở

thành một đối tác thương mại của các nước trong khu vực và thế giới. Quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế đã đặt ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức to
lớn, đòi hỏi nhà nước Việt Nam phải tiến đến hoàn thiện hệ thống pháp lý không
chỉ để đáp ứng điều chỉnh các quan hệ xã hội nảy sinh trong nước mà cịn đảm
bảo tính phù hợp với pháp luật quốc tế. Hoàn thiện khung pháp lý về bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ nói chung và bảo hộ chỉ dẫn địa lý nói riêng là một đòi hỏi
tất yếu trong điều kiện kinh tế thế giới đang chuyển sang giai đoạn thống trị của
nền kinh tế trí thức.
Từ vài chục năm trở lại đây, vấn đề sở hữu trí tuệ ngày càng đóng một vai trò
quan trọng trong các giao dịch thương mại quốc tế. Hầu hết các quan hệ hợp tác
quốc tế, điều ước thương mại song phương hay đa phương đều chứa đựng những
nội dung liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Thực thi và bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ đã trở thành nội dung cơ bản được các nước ký kết trong hàng loạt các điều
ước quốc tế đa phương, như: Công ước Paris, Công ước Berne, Thoả ước Marid,
Hiệp định TRIPs,… Không dừng lại ở đấy, vấn đề sở hữu trí tuệ đã trở thành một
trong những điều kiện quan trọng có tính chất bắt buộc khơng thể tách rời ra khỏi
các tổ chức quốc tế như WTO, EU, APEC, ASEAN,…
Trên thế giới, vấn đề chỉ dẫn địa lý với tư cách là đối tượng bảo hộ của quyền
sở hữu công nghiệp đã được đề cập đến trong nhiều điều ước đa phương, trong

5


đó đáng kể nhất là Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của
quyền sở hữu trí tuệ (từ đây viết tắt là TRIPs) – kết quả của vòng đàm phán
Uruguay vào tháng 12/1993. Ở Việt Nam, vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý được quy
định tại Nghị định 54/2000/NĐ-CP ngày 03/10/2000 và chỉ dẫn địa lý đã trở
thành một đối tượng bảo hộ khá mới mẻ của quyền sở hữu công nghiệp đối với
chúng ta. Chính vì thế, hàng loạt các vấn đề nảy sinh xoay quanh bảo hộ chỉ dẫn
địa lý, bắt đầu từ sự đảm bảo tính “đầy đủ” mà Tổ chức thương mại thế giới (từ

đây viết tắt là WTO) yêu cầu Việt Nam đáp ứng, cho đến khả năng bảo hộ “hữu
hiệu” chỉ dẫn địa lý trong thực tế; hay nhu cầu địi hỏi từ phía xã hội của một
quốc gia nông nghiệp với nhiều sản phẩm mang nét đặc trưng của một khu vực
địa lý cần được bảo hộ không chỉ trong nước mà còn trên thị trường thế giới. Đặc
biệt gần đây dư luận trong nước đang phản ứng trước việc nhiều sản phẩm của
các quốc gia khác lưu thông trên thị trường lại mang chỉ dẫn là tên gọi địa
phương hay khu vực thuộc lãnh thổ Việt Nam, nước mắm Phú Quốc được chế
tạo tại Thái Lan (Made in Thailand) là một ví dụ điển hình.
Hồn thiện hệ thống pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở
hữu cơng nghiệp nói riêng đã trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu nhằm đáp ứng các địi hỏi đặt ra trong q trình hội nhập kinh tế quốc
tế. Chỉ dẫn địa lý với tư cách là một trong những đối tượng bảo hộ của quyền sở
hữu cơng nghiệp, vì vậy hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ
dẫn địa lý trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế cũng là một yêu cầu tất yếu
khách quan.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ở Việt Nam
Sở hữu trí tuệ là một vấn đề khá mới mẻ được nhiều người quan tâm trong
thời gian gần đây, đối với đối tượng chỉ dẫn địa lý được chúng ta quy định lần
đầu tiên vào năm 2000 tại Nghị định 54/2000/NĐ-CP của Chính phủ đã và đang
thách thức các nhà nghiên cứu. Gia nhập vào Tổ chức WTO và Hiệp định TRIPs
lại càng làm vấn đề có tính thời sự hơn.
Đã có một số bài viết, tham luận đã đề cập đến chỉ dẫn địa lý như đối tượng
của quyền sở hữu công nghiệp cần được bảo hộ. Đặc biệt, trong hai ngày 78/10/2003 tại Hà Nội đã diễn ra ”Hội thảo EU - ASEAN về chỉ dẫn địa lý: cách
thức thâm nhập thị trường”, với nội dung đề cập đến cách thức xây dựng, phát
triển và giải quyết các vấn đề pháp luật liên quan đến chỉ dẫn địa lý; vai trò của
cộng đồng các nhà sản xuất trong việc bảo vệ, phát triển sản phẩm mang tên gọi
xuất xứ, chỉ dẫn địa lý. Sự kiện thật sự đã rất được sự chú ý từ phía báo chí cũng
6



như các nhà chức trách, hàng loạt các bài phỏng vấn, đưa tin liên quan đến nội
dung Hội thảo cũng như thực trạng chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam được đăng tải trên
mạng. Tuy nhiên, thực tế đây vẫn là một đối tượng rất mới mẻ kể cả dưới góc độ
pháp lý cũng như nghiên cứu khoa học ở Việt Nam. Rất nhiều cơng trình nghiên
cứu đến quyền sở hữu trí tuệ (quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp) dưới
phạm vi rộng, cũng như nghiên cứu từng đối tượng dưới phạm vi hẹp khác nhau
nhưng vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách trực tiếp đối với vấn đề hoàn
thiện pháp luật bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong điều kiện Việt Nam đang cố gắng gia
nhập WTO và bảo đảm hệ thống pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ “đầy đủ
và hữu hiệu” đáp ứng yêu cầu của Hiệp định TRIPs. Vì vậy, tác giả đã xác định
đây là hướng nghiên cứu của đề tài.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài


Mục đích của đề tài

Đề tài có ba mục đích chính:
-

Một là: tìm hiểu quy định và yêu cầu của hệ thống pháp luật bảo hộ chỉ
dẫn địa lý theo Hiệp định TRIPs.

-

Hai là: tìm hiểu thực trạng pháp lý về bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam
hiện nay.

-

Ba là: kiến nghị nhằm xây dựng hệ thống pháp luật bảo hộ chỉ dẫn địa lý

tại Việt Nam một cách đầy đủ và hữu hiệu.

Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế nhằm hướng đến:
 Một là, thúc đẩy quá trình gia nhập tổ chức WTO của Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam đang đàm phán gia nhập Tổ chức WTO, một trong những
điều kiện cần để được kết nạp là phải thi hành Hiệp định TRIPs, theo đó chúng ta
phải có một hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ “đầy đủ và hữu hiệu”. Để được
coi là “đầy đủ”, việc bảo hộ phải được tiến hành với tất cả các đối tượng sau đây:
quyền tác giả và quyền liên quan, nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý, tên thương
mại, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp, thơng tin bí
mật, giống cây trồng và chống cạnh tranh không lành mạnh. Chỉ dẫn địa lý là
một trong các đối tượng mà Hiệp định TRIPs được WTO yêu cầu các nước thành
viên phải tiến hành bảo hộ.

7


 Hai là, tạo tiền đề thúc đẩy mạnh hơn sự hợp tác về sở hữu trí tuệ trong
khu vực ASEAN cũng như với các quốc gia khác trên thế giới.
Nhằm mục đích tăng cường hơn nữa sự hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia
trong khu vực trong việc trao đổi thông tin, nhân lực, kinh nghiệm cũng như cam
kết dành cho công dân của nhau những thuận lợi trong việc bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ, tháng 12/1995 Việt Nam cùng với các nước thành viên khác của tổ chức
ASEAN đã ký kết Hiệp định khung ASEAN về hợp tác sở hữu trí tuệ. Trong
Hiệp định này đã xác định phạm vi hợp tác bao gồm các đối tượng: quyền tác giả
và quyền liên quan, bằng sáng chế và kiểu dáng cơng nghiệp, nhãn hiệu hàng hố
và chỉ dẫn địa lý, thông tin mật và sơ đồ mạch tích hợp. Chính vì vậy, hồn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế cũng chính là điều kiện tạo nên sự thuận lợi cho quá trình hợp tác

một cách toàn diện trong khu vực ASEAN.
 Ba là, thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.
Việt Nam đã ký kết các Hiệp định có nội dung liên quan đến quyền sở hữu trí
tuệ như Hiệp định Việt Nam - Thụy Sỹ vào tháng 7/1999 và Hiệp định thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ vào tháng 7/2000, trong đó các bên cam kết dành sự bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ cho cơng dân của nhau theo các tiêu chuẩn tối thiểu
tương tự như tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPs. Từ năm 1996 - năm chính thức
phát động các cuộc đàm phán với WTO, Thụy Sỹ và sau đó là Hoa Kỳ - chúng ta
đã xây dựng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với năm đối tượng: quyền tác
giả và quyền liên quan, sáng chế và giải pháp hữu ích, kiểu dáng cơng nghiệp,
nhãn hiệu hàng hóa và tên gọi xuất xứ hàng hóa (một loại chỉ dẫn địa lý đặc biệt).


Nhiệm vụ của đề tài

Trên cơ sở các mục đích trên, đề tài Hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
về bảo hộ chỉ dẫn địa lý trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi cần giải
quyết được các nhiệm vụ cơ bản sau đây:
 Một là, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về chỉ dẫn địa lý và bảo hộ chỉ
dẫn địa lý. Đồng thời trong đó làm rõ sự xung đột và đề ra hướng giải
quyết xung đột giữa chỉ dẫn địa lý với nhãn hiệu hàng hoá.
 Hai là, làm rõ khái niệm bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Tìm hiểu các quy định
pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn
địa lý cùng sự so sánh với các quy định trong Hiệp định TRIPs, các văn

8


bản hướng dẫn của Tổ chức quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ (từ đây viết tắt
là Tổ chức WIPO).

 Ba là, tìm hiểu thực trạng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ
dẫn địa lý ở Việt Nam. Xác định phương hướng và đề xuất các giải pháp
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý.


Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Với tên đề tài là Hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn
địa lý trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, tác giả sẽ tập trung nhiều vào mục
đích hồn thiện nhằm thoả mãn điều kiện “đầy đủ và hữu hiệu” mà Việt Nam
phải đáp ứng trong vấn đề thực thi quyền sở hữu trí tuệ nói chung và chỉ dẫn địa
lý nói riêng. Do vậy, đối tượng chủ yếu được dùng để so sánh với các quy định
pháp luật Việt Nam đối với vấn đề này là các quy định trong Hiệp định TRIPs và
một số văn bản của Tổ chức WIPO. Nghiên cứu sẽ xoay quanh các vấn đề có tính
lý luận và thực trạng pháp lý về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn
địa lý.
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý, có thể xem Châu Âu
là nơi có những quốc gia đi đầu trong vấn đề này và đồng thời đây cũng là một
vấn đề bảo hộ rất quan trọng đối với họ, những quốc gia được xem là nhà sản
xuất lớn nhất thế giới về rượu vang và rượu mạnh (chiếm khoảng 60% thế giới
và tổng giả trị xuất khẩu vào khoảng 7910 tỷ euro [2, 3]. Chính vì vậy tác giả đã
xem xét thực tiễn bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở các quốc gia trong cộng đồng chung
Châu Âu, qua đó rút ra được những kinh nghiệm thực tiễn mà chúng ta có thể
tham khảo trong q trình hồn thiện hệ thống pháp luật về bảo hộ chỉ dẫn địa lý
ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-LêNin, đề tài sử dụng các
phương pháp có tính truyền thống như miêu tả, phân tích, tổng hợp, hệ thống,…
Trong đó đặc biệt chú trọng đến phương pháp so sánh nhằm chỉ ra những vấn đề
tương đồng và khác biệt trong hệ thống pháp luật Việt Nam và quốc tế về vấn đề

bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý, để từ đó tìm thấy được
phương hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này trong
tương lai.
5. Cơ cấu của luận văn

9


Đề tài ngoài Mục lục, Lời mở đầu và Tài liệu tham khảo cơ bản bao gồm ba
chương:
-

Chương 1: Khái quát chung về chỉ dẫn địa lý

-

Chương 2: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý

-

Chương 3: Định hướng và một số kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý

Với những mục đích, nhiệm vụ được đặt ra và giải quyết trong ba chương của
đề tài bằng những phương pháp khoa học, tác giả mong rằng đề tài có thể góp
phần làm sáng tỏ hơn đối với cơ sở lý luận về bảo hộ chỉ dẫn địa lý và những
kiến nghị có thể góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đối với vấn đề
này.

10



CHƯƠNG 1 .

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ
1.1 LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỈ DẪN ĐỊA LÝ
Trên thế giới, quyền sở hữu trí tuệ đã có lịch sử phát triển từ rất lâu đời. Thời
gian đầu, cơ bản đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ bao gồm: patents (sáng chế),
quyền tác giả, nhãn hiệu hàng hố và các lợi ích liên quan. Theo cách hiểu phổ
biến nhất, quyền sở hữu trí tuệ bao gồm quyền tác giả và quyền sở hữu công
nghiệp. Như tại Mỹ, luật patents đã có từ năm 1641, khi đó bằng sáng chế đầu
tiên cho phát minh sản xuất muối đã được bảo hộ tại Vịnh thuộc địa
Massachusetts, hay tại Anh năm 1662 đã có luật Patent [22]. Đối với quyền tác
giả, năm 1710 Nghị viện Anh đã thông qua đạo luật Anne - được xem như luật
về quyền tác giả đầu tiên trên thế giới; còn tại Mỹ, Quốc Hội đã thông qua đạo
luật về quyền tác giả đầu tiên vào năm 1790 [24].
Đối với thuật ngữ “chỉ dẫn địa lý”, hiểu theo nghĩa rộng chính là miêu tả sự
gắn kết bởi những đặc điểm của hàng hoá với nguồn gốc địa lý. Các yếu tố của
sản phẩm, yếu tố chất lượng, danh tiếng hay những đặc tính khác tạo nên sự riêng
biệt của hàng hóa về cơ bản là từ nguồn gốc địa lý của hàng hoá ấy tạo nên. Chỉ
dẫn địa lý, ngay từ những ngày đầu tiên của hoạt động giao dịch thương mại vấn
đề này đã được đề cập đến dưới những tên gọi của một địa danh cụ thể nơi mà
hàng hoá được sản xuất, chẳng hạn như: rượu vang Bordeaux hay Burgundy, phó
mát Parmesan,… [2, 10]. Đối với người tiêu dùng thì tên gọi địa lý bản thân nó
đã giúp nhận thấy được một cách dễ dàng rằng hàng hoá, sản phẩm ấy đã đến (có
xuất xứ) từ địa phương hay khu vực có tên gọi đó.
Vấn đề liên quan đến thuật ngữ “chỉ dẫn địa lý” đã được pháp luật quốc tế
điều chỉnh tại Công ước Paris ngày 20/3/1883 về bảo hộ quyền sở hữu cơng
nghiệp. Theo đó, các đối tượng chỉ dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ hàng hoá
lần đầu tiên được điều chỉnh trong pháp luật quốc tế với tư cách như những đối

tượng của quyền sở hữu cơng nghiệp, riêng đối với chỉ dẫn nguồn gốc cịn được
quy định chi tiết hơn tại điều 10 và 10ter của Công ước này.

11


Tiếp theo đó, tại Hiệp định Madrid ngày 14/8/1891 về ngăn chặn những chỉ
dẫn nguồn gốc của hàng hoá giả mạo hay gây sự nhầm lẫn đã được thông qua,
quy định những hàng hố có dấu hiệu như trên sẽ bị giữ lại khi làm thủ tục nhập
khẩu và xử lý như đối với hành vi vi phạm. Đến Hiệp định Lisbon ngày
31/10/1958 về bảo hộ đối với tên gọi xuất xứ và đăng ký quốc tế về xuất xứ,
trong đó điều 2 đã đưa ra khái niệm đối với tên gọi xuất xứ hàng hoá và đồng
thời quy định mở rộng hơn phạm vi của sự bảo hộ đối với những hàng hoá đã
được đăng ký quốc tế về tên gọi xuất xứ so với sự bảo hộ đối với chỉ dẫn nguồn
gốc theo như quy định tại Công ước Paris và Hiệp định Madrid về chỉ dẫn nguồn
gốc. Tại điều 3 của Hiệp định này quy định không chỉ bảo hộ tên gọi xuất xứ
hàng hoá bằng việc nghiêm cấm đối với những hành vi chỉ dẫn nhằm dẫn đến sự
nhầm lẫn cho người sử dụng mà còn áp dụng đối với cả bất kỳ sự chiếm đoạt hay
bắt chước đối với sản phẩm được bảo hộ. Nội dung này được áp dụng đối với cả
trường hợp cho dù nguồn gốc thật của sản phẩm ấy có được biểu thị, hoặc tên gọi
xuất xứ được dùng dưới dạng đã có sự biên dịch, hoặc sử dụng cùng với các từ
như “phương pháp”, “kiểu”, “loại”, “phỏng theo” hoặc các từ ngữ tương tự.
Theo truyền thống, tên gọi địa lý được cả người tiêu dùng và nhà kinh doanh
nhìn nhận cơ bản gồm hai loại: nguồn xuất xứ của sản phẩm (ví dụ như: Sản xuất
tại Việt Nam, Sản phẩm của Hoa Kỳ,...) và tên gọi xuất xứ đặc trưng của hàng
hố (ví dụ như: rượu vang Bordeaux, chè Darjeeling,...). Khoảng hai mươi năm
trở lại đây, sự bảo hộ chỉ dẫn về nguồn ở hầu hết các quốc gia thể hiện dưới
phạm vi hẹp, cụ thể chỉ nhìn nhận và bảo hộ về tên gọi xuất xứ hàng hoá. Việc
các quốc gia muốn tên gọi xuất xứ hàng hoá của mình được thừa nhận và bảo hộ
trên phạm vi tồn cầu trở nên rất khó khăn, bởi lẽ thực tế vẫn chưa có một sự gắn

kết trong cách hiểu và biện pháp bảo hộ thống nhất cho chỉ dẫn về nguồn khi mà
chỉ mới có mười bảy nước thành viên cho Hiệp định Lisbon [2, 12].
Trong lĩnh vực này, ngay từ những ngày đầu, rượu vang và rượu mạnh đã là
những sản phẩm có nhu cầu đặc biệt cần được bảo hộ. Tổ chức IWO là một tổ
chức liên chính phủ đại diện cho ngành sản xuất công nghiệp rượu, được trao cho
rất nhiều các nhiệm vụ giải quyết các vấn đề liên quan đến chỉ dẫn xuất xứ và
kiểu dáng của rượu vang và rượu mạnh. Tổ chức này đã tiến hành soạn thảo và
đưa ra các đề xuất giải pháp và nghị quyết về định nghĩa của tên gọi xuất xứ kể
từ năm 1924. Trong Nghị quyết ECO 2/92 đã chỉ ra sự khác biệt trong cách nhìn
nhận giữa tên gọi xuất xứ và chỉ dẫn địa lý. Tại Cộng đồng chung Châu Âu,
tương tự như vậy việc sử dụng tên gọi địa lý cho những sản phẩm cần được đặt

12


trong mối quan hệ lợi ích của các quốc gia trong Cộng đồng, một số các văn bản
luật đã được ban hành điều chỉnh trực tiếp đối với vấn đề này, cụ thể như: Quy
định số 817/70, 338/79 và 823/87 của Cộng đồng kinh tế Châu Âu về tiêu chuẩn
pháp lý cho chất lượng của rượu được sản xuất ở những vùng địa lý đặc biệt;
Quy định số 2133/74, 335/79 và 2392/89 của Cộng đồng kinh tế Châu Âu về việc
sử dụng tên gọi địa lý của rượu; và Quy định 1576/89 của Cộng đồng kinh tế
Châu Âu liệt kê danh sách những tên gọi địa lý được cho phép của rượu mạnh.
Đặc biệt cần phải kể đến Quy định số 2081/92 của Cộng đồng kinh tế Châu Âu,
từ khi ra đời đã trở thành văn bản chủ đạo điều chỉnh trong vấn đề này, tại điều 2
của Quy định đã xác định vấn đề bảo hộ đối với thiết kế về nguồn gốc và chỉ dẫn
địa lý.
Năm 1967, Tổ chức WIPO đã liên kết hoạt động của một số các tổ chức quốc
tế, đặc biệt là giữa Hiệp hội Paris (được thành lập năm 1883 nhằm bảo hộ quyền
sở hữu cơng nghiệp) và Hiệp hội Bern (hình thành năm 1886 nhằm bảo hộ tác
phẩm văn học và nghệ thuật). Năm 1974, Tổ chức này đã đưa ra bản thảo cho

một hiệp định quốc tế đa phương về vấn đề bảo hộ tên gọi xuất xứ và chỉ dẫn về
nguồn của hàng hố, trong bản thảo này có nhiều quy định với mục đích xem xét
lại đối với nội dung của Cơng ước Paris. Sau đó, hàng loạt các hội nghị chuyên
đề đối với vấn đề bảo hộ quốc tế về chỉ dẫn địa lý được tổ chức, rất nhiều các vấn
đề xung đột, vướng mắc đã được đặt ra và giải quyết, điều ấy đã tạo nên một
khơng khí mới mẻ và cách nhìn khác biết trong vấn đề này.
Đến năm 1978, việc bảo hộ sở hữu trí tuệ lần đầu tiên được bàn tới trong
chương trình nghị sự của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1948
(GATT) tại vòng đàm phán về luật chống hàng giả ở Tokyo. Tuy vậy, phải đến
vòng đàm phán Uruguay của GATT, ý tưởng đó mới thực sự trở thành hiện thực,
kết quả là Hiệp định TRIPs được ký kết ngày 15/04/1994 và bắt đầu có hiệu lực
từ ngày 01/01/1995 (cùng với sự ra đời của Tổ chức WTO. Ngày 01/01/1996,
Hội đồng TRIPs đã ký với Tổ chức WIPO, một thoả thuận nhằm đẩy mạnh việc
thực hiện Hiệp định TRIPS với mục tiêu là: thúc đẩy việc bảo hộ, thực thi thỏa
đáng và hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ; giảm sự sai lệch và các rào cản trong
thương mại quốc tế.
Hiệp định TRIPS đã khẳng định lại và mở rộng các chuẩn mực, quy định của
Công ước Paris và Công ước Berne, quy định các tiêu chuẩn tối thiểu việc bảo hộ
nhiều đối tượng sở hữu trí tuệ khác nhau, bao gồm: sáng chế, bí quyết kỹ thuật,
nhãn hiệu hàng hố, kiểu dáng cơng nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp, chỉ dẫn

13


địa lý, bản quyền tác giả và các quyền liên quan. Ngồi việc đồng nhất hóa về
pháp luật, Hiệp định còn tiến tới loại bỏ các quy định về hành chính, thủ tục và
về kỹ thuật bất lợi cho hoạt động sở hữu trí tuệ quốc tế.
Hiệp định quy định nguyên tắc cơ bản về đối xử quốc gia (điều 3) và chế độ
đối xử tối huệ quốc (điều 4) mà các quốc gia phải tuân thủ và cần ghi nhớ khi
đưa các nội dung trong Hiệp định vào pháp luật trong nước. Đặc biệt tại Phần 3

của Hiệp định này chứa đựng ba điều luật thật sự rất quan trọng điều chỉnh cụ thể
đối với đối tượng chỉ dẫn địa lý, cụ thể:
-

Điều 22 về bảo hộ chỉ dẫn địa lý;

-

Điều 23 về bảo hộ bổ sung đối với các chỉ dẫn địa lý dùng cho rượu vang
và rượu mạnh; và

-

Điều 24 về đàm phán quốc tế và ngoại lệ.

Chính các quy định này đã làm thay đổi cách nhìn về đối tượng chỉ dẫn địa lý,
một số vấn đề của chỉ dẫn địa lý đã được xem xét lại vào năm 1998 - 1999 bởi
Ủy ban thường trực về pháp luật nhãn hiệu hàng hố, kiểu dáng cơng nghiệp và
chỉ dẫn địa lý (từ đây được viết tắt là SCT) của Tổ chức WIPO. Trong sự cố gắng
liên kết với Văn phòng sáng chế và nhãn hiệu hàng hoá của Nam Phi, một hội
nghị quốc tế đã được tổ chức trong hai ngày về vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý với
sự tham gia của khoảng 100 chuyên gia hàng đầu từ 50 quốc gia trên thế giới. Từ
những thay đổi tích cực này, rất nhiều các vấn đề đã được đặt ra, tranh luận và
giải quyết trên phạm vi đa quốc gia, như: bảo hộ quốc tế đối với chỉ dẫn địa lý,
bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo hệ thống pháp luật quốc gia, vùng lãnh thổ,…
Chỉ dẫn địa lý đã và đang trở thành một đối tượng của quyền sở hữu công
nghiệp được quan tâm đặc biệt, từ việc áp dụng cho những sản phẩm có nhu cầu
cao như rượu cho đến nay đã có ý nghĩa đối với mọi hàng hố mà chủ yếu là
nông sản và thực phẩm. Vấn đề này không chỉ có ý nghĩa quan trọng tại các quốc
gia Châu Âu mà ngày nay đã trở thành mối quan tâm chung của thế giới, đã và

đang chiếm vai trò cần thiết tại Đông Nam Á – những nước vốn tồn tại tiềm năng
bởi một nền kinh tế công nông nghiệp.
 Văn bản pháp lý điều chỉnh vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý
Với mục đích, phạm vi và giới hạn đề tài nêu trên, nguồn văn bản luật được sử
dụng để nghiên cứu bao gồm: điều ước quốc tế đa phương, điều ước quốc tế song
phương mà Việt Nam ký kết, các văn bản do các Tổ chức quốc tế về quyền sở

14


hữu trí tuệ ban hành có liên quan trực tiếp, các quy định pháp luật của Cộng đồng
chung Châu Âu và Việt Nam.


Điều ước quốc tế đa phương

-

Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp 18831;

-

Hiệp định Madrid về sự ngăn chặn những chỉ dẫn sai lệch hoặc lừa dối về
nguồn gốc của hàng hoá 1891;

-

Hiệp định Lisbon về bảo hộ đối với tên gọi xuất xứ và đăng ký quốc tế về
xuất xứ 1958;


-

Hiệp định TRIPS về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ 1994;



Văn bản tại các kỳ họp của Tổ chức quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ

Tuy không được hiểu như điều ước quốc tế đa phương nhưng hệ thống văn
bản điều chỉnh vấn đề chỉ dẫn địa lý của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới cũng
đóng một vai trị hết sức quan trọng, cơ bản gồm văn bản các kỳ họp của Tổ chức
quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ từ lần 1 năm 1998 đến lần 12 năm 2004 liên quan
đến chỉ dẫn địa lý, như:
-

SCT/3/6 – Kỳ họp thứ 1, Geneva, 8 – 12/11/1999 – Chỉ dẫn địa lý.

-

SCT/5/3 – Kỳ họp thứ 5, Geneva, 11 – 15/11/2000 – Giải pháp cho xung
đột giữa nhãn hiệu hàng hoá, chỉ dẫn địa lý đồng âm và chỉ dẫn địa lý.

-

SCT/6/3 – Kỳ họp thứ 6, Geneva, 12 – 16/3/2001 – Chỉ dẫn địa lý: lịch sử,
quyền tự nhiên, hệ thống bảo hộ đang tồn tại và hiệu quả từ việc bảo hộ ở
một số quốc gia.

-


1

SCT/8/4 – Kỳ họp thứ 8, Geneva, 27 – 31/5/2002 – Tiếp theo SCT/6/3 về
Chỉ dẫn địa lý: lịch sử, quyền tự nhiên, hệ thống bảo hộ đang tồn tại và
hiệu quả từ việc bảo hộ ở một số quốc gia.

Công ước Paris đã được chỉnh sửa tại Brussels ngày 14/12/1900; tại Washington ngày 02/6/1911; tại

The Hague ngày 06/11/1925; tại London ngày 02/6/1934; tại Lisbon ngày 31/10/1958; tại Stockholm
ngày 14/7/1967 và bổ sung ngày 02/10/1979.

15


-

SCT/8/5 – Kỳ họp thứ 8, Geneva, 27 – 31/3/2002 – Phụ lục tiếp theo
SCT/6/3 Chỉ dẫn địa lý: lịch sử, quyền tự nhiên, hệ thống bảo hộ đang tồn
tại và hiệu quả từ việc bảo hộ ở một số quốc gia.

-

SCT/9/4 – Kỳ họp thứ 9, Geneva, 11 – 15/11/2002 – Định nghĩa Chỉ dẫn
địa lý.

-

SCT/9/5 – Kỳ họp thứ 9, Geneva, 11 – 15/11/2002 – Chỉ dẫn địa lý và
nguyên tắc lãnh thổ.


-

SCT/10/4 – Kỳ họp thứ 10, Geneva, 28/4 – 02/5/2003 – Chỉ dẫn địa lý.

-

SCT/10/5 – Kỳ họp thứ 10, Geneva, 28/4 – 02/5/2003 – Bảo hộ tên gọi
quốc gia và hệ thống tên miền.

-

SCT/10/6 – Kỳ họp thứ 10, Geneva, 28/4 – 02/5/2003 – tên miền Internet
và chỉ dẫn địa lý.

-

SCT/10/7 Corr – Kỳ họp thứ 10, Genevar, 28/4 – 02/5/2003 – Bảo hộ tên
gọi quốc gia trong hệ thống tên miền.

-

SCT/11/5 – Kỳ họp thứ 11, Genevar, 10 – 14/11/2003 – Tuỳ chọn cho De
Novo phán quyết của trọng tài về tranh luận tên miền bao hàm tên gọi
quốc gia.



Điều ước quốc tế song phương


Ngồi ra, cịn phải kể đến hai điều ước quốc tế song phương mà Việt Nam đã
ký kết có nội dung liên quan đến vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, gồm:
-

Hiệp định Việt Nam – Thuỵ Sỹ về bảo hộ sở hữu trí tuệ được ký kết vào
ngày 07/7/1999; và

-

Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ được ký kết vào ngày
13/7/2002.



Quy định pháp luật Việt Nam

-

Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1995, Chương
2 Phần 6;

-

Nghị định 63-CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ quy định chi tiết về Sở
hữu công nghiệp; và được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 06/2001/NĐ-CP
ngày 01/02/2001 của Chính phủ;

16



-

Nghị định 54/2000/NĐ-CP ngày 03/10/2000 của Chính phủ quy định bảo
hộ quyền sở hữu cơng nghiệp đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên
thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan
tới sở hữu cơng nghiệp;

-

Nghị định 12/1999/NĐ-CP ngày 06/03/1999 của Chính phủ về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu cơng nghiệp;

-

Nghị định 101/2001/NĐ-CP ngày 31/12/2001 của Chính phủ quy định chi
tiết thực hiện một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan, chế độ
kiểm tra, giám sát hải quan;

-

Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày 27/10/1999 của Thủ tướng Chính phủ về
đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả;

-

Thông tư 3055-TT-SHCN ngày 31/12/1996 của Bộ Khoa học, Công nghệ
và Môi trường hướng dẫn thi hành các quy định về thủ tục xác lập quyền
Sở hữu công nghiệp và một số thủ tục khác trong Nghị định 63-CP ngày
24/10/1996 của Chính phủ quy định chi tiết về Sở hữu công nghiệp;


-

Thông tư 825/2000/TT-BKHCNMT ngày 03/05/2000 của Bộ Khoa học,
Công nghệ và Môi trường hướng dẫn thi hành Nghị định 12/1999/NĐ-CP;
và được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư 49/2001/TT-BKHCNMT của Bộ
Khoa học, Công nghệ và Môi trường;

-

Thông tư liên tịch 10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA-BKHCNMT của Bộ
Thương mại, Bộ tài chính, Bộ Cơng an và Bộ Khoa học, Cơng nghệ và
Môi trường hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày
27/10/1999 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và bn
bán hàng giả.

Ngồi ra, liên quan đến vấn đề thực thi quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ
dẫn địa lý cịn có một số các văn bản luật khác như: Bộ luật Hình sự, Luật Hải
quan, Luật Thương mại,…


Quy định pháp luật của Cộng đồng chung Châu Âu

17


Đây là những quy định có ý nghĩa quan trọng trong việc so sánh để từ đó rút ra
được kinh nghiệm, kiến nghị hoàn thiện pháp luật chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam. Cụ
thể bao gồm:
-


Quy định số 2081/92 ngày 24/7/1992 của Cộng đồng kinh tế Châu Âu
(EEC) về bảo hộ chỉ dẫn địa lý và thiết kế về nguồn gốc 2 cho sản phẩm
nông nghiệp và thực phẩm; và được bổ sung tại Quy định số 692/2003
ngày 08/4/2003 của Cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC);

-

Quy định số 1576/89 ngày 29/5/1989 của Cộng đồng kinh tế Châu Âu
(EEC) về rượu mạnh;

-

Quy định số 823/87 ngày 16/3/1987 của Cộng đồng kinh tế Châu Âu
(EEC) về chất lượng của sản phẩm rượu tại các vùng được xác định;

-

Quy định số 80/777/EEC ngày 15/7/1980 của Cộng đồng kinh tế Châu Âu
(EEC) về bảo hộ nước khoáng và nước suối.

1.2 KHÁI NIỆM CHỈ DẪN ĐỊA LÝ
1.2.1 Khái niệm chỉ dẫn địa lý theo Hiệp định TRIPs
Trong Hiệp định TRIPs, tại khoản 1 điều 22 đã nêu lên khái niệm chỉ dẫn địa
lý như sau:
“Chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về hàng hoá bắt nguồn từ lãnh thổ của một
thành viên hoặc từ khu vực hay địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng, uy
tín hoặc đặc tính nhất định chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định”.
Theo đó, khái niệm chỉ dẫn địa lý về cơ bản đề cập liên quan đến ba vấn đề, cụ
thể là:



Khái niệm hàng hố

Trong Hiệp định TRIPs khơng có điều khoản nào nêu lên khái niệm của thuật
ngữ “hàng hoá”, tuy nhiên ngay từ rất sớm trong Công ước Paris đã chỉ ra rằng
sở hữu cơng nghiệp có thể được áp dụng cho tất cả các loại sản phẩm, cụ thể tại
khoản 3 điều 1 của Công ước Paris đã quy định rằng:

2

Designations of Origin

18


“Sở hữu công nghiệp được hiểu theo nghĩa rộng nhất, không những chỉ áp
dụng cho công nghiệp và thương mại theo đúng nghĩa của chúng mà cho cả các
ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp khai thác và tất cả các sản phẩm công
nghiệp và sản phẩm tự nhiên như rượu, ngũ cốc, lá thuốc lá, hoa quả, gia súc,
khoáng sản, nước khống, bia, hoa và bột”.
Chính vì vậy, đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý
được áp dụng với bất kỳ hàng hoá nào, có thể mang tính tự nhiên, nơng nghiệp,
cơng nghiệp hoặc được chế tạo, sản xuất ra. Cũng cần lưu ý rằng, riêng về dịch
vụ không được áp dụng theo khoản 1 điều 22 của Hiệp định TRIPs, cũng có
nghĩa là không thuộc đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn
địa lý.


Chỉ ra nơi bắt nguồn của hàng hoá


Chỉ dẫn địa lý sẽ chỉ ra cho chúng ta thấy hàng hố ấy có nơi bắt nguồn từ
lãnh thổ của một thành viên trong Hiệp định này hoặc từ khu vực hay địa phương
thuộc lãnh thổ đó.
Chỉ dẫn địa lý có thể là tên của một quốc gia thành viên – lãnh thổ của quốc
gia thành viên. Nhưng dĩ nhiên tên quốc gia bản thân không tự trở thành chỉ dẫn
địa lý như đối tượng bảo hộ của quyền sở hữu công nghiệp dưới các quy định của
Hiệp định TRIPs, trừ khi cũng đáp ứng đầy đủ các điều kiện khác mà pháp luật
đòi hỏi. Tuy vậy, trong thực tiễn cũng rất ít hàng hố được chỉ dẫn bắt nguồn từ
tên gọi của một quốc gia thành viên.
Thuật ngữ địa lý ở đây cũng có thể là tên của một khu vực hay địa phương
thuộc lãnh thổ của quốc gia thành viên. Từ ngữ được dùng trong thuật ngữ này
không được mang ý nghĩa chuyên biệt mà địi hỏi phải được giải thích, hiểu một
cách phổ biến, rộng rãi. Khái niệm khu vực, địa phương ở đây có thể hiểu tương
ứng như một hoặc nhiều đơn vị hành chính địa lý được chia nhỏ từ bộ máy nhà
nước của quốc gia thành viên, đơn vị địa lý ấy được xác định rõ ràng bởi một
vùng hay một khu vực địa lý nhất định mà ở đó hàng hoá được sản xuất ra. Khu
vực đề cập ở đây có thể là một thị trấn, làng xã hay tên gọi truyền thống của một
địa phương.
Thuật ngữ “địa lý” được dùng ở đây là với một nghĩa rộng, “địa lý” không chỉ
với nghĩa vật chất – xác định phạm vi, khu vực hay một vùng của lãnh thổ, mà
còn thể hiện yếu tố hành chính, kinh tế và văn hố của vùng địa lý đấy. Thơng
thường thì thuật ngữ “địa lý” này được thể hiện bằng một tên gọi địa lý, tuy

19


nhiên cũng cần lưu ý rằng trong Hiệp định TRIPs thực tế không quy định rằng
chỉ dẫn địa lý phải ln thể hiện dưới dạng một tên gọi. Điều đó có nghĩa là chỉ
dẫn địa lý vẫn có thể là những dấu hiệu, ký hiệu hoặc những từ ngữ khác với tên
gọi địa lý, miễn là những chúng thoả mãn được các điều kiện, thể hiện được gắn

kết giữa hàng hoá với một địa điểm cụ thể nhất định. Những dấu hiệu, ký hiệu
hoặc những từ ngữ ấy thực tế tuy không là tên gọi địa lý của một khu vực hay
một địa phương nhưng chúng lại có khả năng làm liên tưởng đến một địa điểm
nhất định nào đó, mà địa điểm đó có thể làm cho khách hàng gắn kết với đặc
điểm riêng biệt của hàng hóa. Chẳng hạn như mọi người chúng ta đều biết đến
“thung lũng Silicon” tại California, nhưng chắc rằng khơng có q nhiều người
trong chúng ta nhớ đến địa điểm này thực ra có tên gọi là “thung lũng Santa
Clara”.


Đặc tính xuất xứ của hàng hoá

Chỉ dẫn địa lý chỉ được bảo hộ theo Hiệp định TRIPs nếu như hàng hố ấy có
được những đặc tính riêng biệt gắn liền với nơi xuất xứ của chúng, nội dung này
được quy định tại khoản 1 điều 22 của Hiệp định, cụ thể: “Có chất lượng, uy tín
hoặc đặc tính nhất định chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định”
Ba yếu tố được đề cập ở đây (chất lượng, uy tín hay đặc tính nhất định) có thể
được thể hiện tất cả trên sản phẩm hoặc chỉ cần đáp ứng được một trong ba yếu
tố ấy, vấn đề cốt lõi là yếu tố này phải do xuất xứ địa lý đó quyết định.
Cần hiểu “chất lượng và đặc tính” như thế nào? Thực tế tất cả các nhà sản xuất
đều mong muốn hàng hoá của mình là “có chất lượng” hoặc ít nhất thì cũng phải
thể hiện được tính riêng biệt (có thể là từ nội dung hay hình thức của sản phẩm).
Nhưng điều mà các nhà sản xuất mong muốn này có thể được gắn liền với nguồn
gốc xuất xứ của sản phẩm ấy hoặc khơng. Mục đích chính của vấn đề bảo hộ chỉ
dẫn địa lý được TRIPs quy định là yêu cầu bắt buộc hàng hố phải có chất lượng
và đặc tính “bắt nguồn” từ nơi xuất xứ địa lý và tất nhiên phải được hiểu là chất
lượng và đặc tính ấy không thể được “bắt nguồn” từ bất kỳ nơi nào khác.
Cần hiểu “uy tín” (danh tiếng) như thế nào? Đây cũng là một vấn đề mới và
phức tạp, là một vấn đề liên quan đến nhận thức chủ quan của người tiêu dùng.
Danh tiếng của nơi xuất xứ sản phẩm thông thường đã bao hàm luôn đối với yếu

tố chất lượng đặc tính của sản phẩm và chính danh tiếng ấy đã tạo nên sự khác
biệt với những hàng hố cùng loại. Uy tín là yếu tố mang tính chủ quan, nhưng
nó khơng phải được xây dựng trên ảo tưởng, uy tín của một sản phẩm cần phải

20


được tạo dựng trong một khoảng thời gian dài từ những phẩm chất đích thực của
mình. Quảng cáo vẫn là cách dùng để nâng cao danh tiếng của sản phẩm, tuy
nhiên đối với hàng hoá chứa đựng chỉ dẫn địa lý thì cần phải có được tiếng nói
riêng của chính bản thân nó, uy tín mà sản phẩm ấy có được bởi vì tự thân sản
phẩm đã đem lại sự khác biệt ấy. Một khi danh tiếng của sản phẩm được thiết lập
với người tiêu dùng từ sự quyết định bởi xuất xứ địa lý thì hồn tồn đáp ứng
được yêu cầu của TRIPs và chỉ dẫn địa lý ấy được bảo hộ theo quy định của Hiệp
định này.
Bên cạnh đó, cần đặc biệt lưu tâm đến sự khác biệt giữa những đối tượng rất
gần với chỉ dẫn địa lý như “chỉ dẫn nguồn gốc” hay “tên gọi xuất xứ hàng hoá”.
Mỗi một đối tượng kể trên sẽ gắn liền với những quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất
định, tuy cùng đề cập đến những yếu tố rất giống nhau, như: xuất xứ hàng hoá,
tên gọi địa lý, chất lượng của hàng hoá,... Việc yêu cầu đối với từng đối tượng
này cũng là khác nhau, việc phân biệt chúng là rất quan trọng và càng giúp cho
khái niệm chỉ dẫn địa lý được rõ hơn.
 Phân biệt chỉ dẫn nguồn gốc và chỉ dẫn địa lý
“Chỉ dẫn nguồn gốc” không nằm trong đối tượng chịu sự điều chỉnh của Hiệp
định TRIPs, thuật ngữ này được quy định tại khoản 2 điều 1 và điều 10 của Công
ước Paris, cũng được quy định tại Hiệp định Madrid. Tuy không được định nghĩa
cụ thể nhưng tại khoản 1 điều 1 của Hiệp định Madrid thuật ngữ này đã được làm
rõ về mặt ý nghĩa, cụ thể tất cả những hàng hố có chỉ dẫn sai lệch hoặc dễ gây ra
nhầm lẫn bởi một trong số các quốc gia thành viên của Hiệp định này, hoặc là
nơi đưa ra sự sai lệch ấy, mà nó được chỉ ra một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như

quốc gia hoặc nơi xuất xứ của hàng hóa thì sẽ bị thu giữ khi nhập khẩu vào bất
kỳ quốc gia nào đã nêu trên.
Chỉ dẫn nguồn gốc có thể được hiểu như sự chỉ dẫn đến một quốc gia hay một
địa điểm xác định mà nơi đó là nguồn gốc xuất xứ của hàng hoá. Vấn đề quan
trọng của chỉ dẫn nguồn gốc là khái niệm liên quan đến nguồn gốc địa lý của sản
phẩm và nó không giống như những sản phẩm cùng loại khác, chẳng hạn như sản
phẩm đã được sản xuất ở đâu.
Tuy nhiên, đối tượng này không đặt ra yêu cầu rằng sản phẩm ấy phải có được
chất lượng hay đặc tính nhất định như thế nào, và những chất lượng hay đặc tính
của sản phẩm khơng nhất thiết do nguồn gốc địa lý quyết định – đây là điểm khác
biệt so với khái niệm chỉ dẫn địa lý.

21


 Phân biệt tên gọi xuất xứ hàng hóa và chỉ dẫn địa lý
Thực ra, khái niệm “chỉ dẫn địa lý” chủ yếu bắt nguồn từ khái niệm “tên gọi
xuất xứ hàng hóa” được quy định tại điều 2 của Hiệp định Lisbon, theo đó quy
định:
“Tên gọi xuất xứ là tên địa lý của một nước, vùng hoặc một địa phương dùng
để chỉ xuất xứ của sản phẩm, mà chất lượng và những đặc tính của nó dựa trên
các điều kiện môi trường địa lý độc đáo và ưu việt, bao gồm yếu tố tự nhiên và
yếu tố con người”.
Tuy có rất nhiều điểm tương đồng như khả năng phân biệt với những hàng hóa
cùng loại cơ bản được bắt nguồn từ nét đặc thù của nguồn gốc địa lý, nhưng về
cơ bản giữa tên gọi xuất xứ và chỉ dẫn địa lý vẫn có những sự khác biệt sau:
Thứ nhất, nếu so sánh trong khái niệm chỉ dẫn địa lý tại khoản 1 điều 22 của
Hiệp định TRIPs, tên gọi xuất xứ hàng hoá chỉ được áp dụng đối với đối tượng là
“sản phẩm”, hẹp hơn so với đối tượng “hàng hoá” của chỉ dẫn địa lý. Đồng thời
chỉ dẫn địa lý không bị giới hạn về tên gọi địa lý, thuật ngữ chỉ dẫn địa lý của đối

tượng này còn được hiểu bao gồm cả những từ ngữ, nhóm từ, biểu tượng hoặc
những hình ảnh tượng trưng cho nguồn gốc địa lý xuất xứ của hàng hoá.
Thứ hai, chỉ dẫn địa lý áp dụng đối với hàng hoá mà “chất lượng, uy tín hoặc
đặc tính nhất định chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định”, trong khi đó tên gọi
xuất xứ hàng hố được áp dụng cho những sản phẩm có “tính chất, chất lượng
đặc thù do điều kiện địa lý, bao gồm yếu tố tự nhiên và con người”. Điều đó có
nghĩa là chỉ dẫn địa lý khơng đặt ra u cầu sản phẩm phải có được chất lượng và
đặc tính xuất phát từ điều kiện tự nhiên và con người của nơi xuất xứ sản phẩm
ấy. Chỉ dẫn địa lý chỉ đòi hỏi sản phẩm phải thể hiện được chất lượng, tính đặc
thù hay uy tín có được chủ yếu là do xuất xứ địa lý quyết định. Cụm từ “chất
lượng, uy tín hoặc đặc tính” cũng đã được sử dụng và hiểu một cách tương tự tại
Quy định số 2081/92 ngày 14/7/1992 của Cộng đồng kinh tế Châu Âu về bảo hộ
chỉ dẫn địa lý và thiết kế về nguồn gốc (desingnations of origin) đối với sản
phẩm nông nghiệp và thực phẩm.
Tên gọi xuất xứ hàng hố có thể được hiểu như là trung tâm điểm, trường hợp
đặc biệt của khái niệm chỉ dẫn địa lý, các điều kiện tối thiểu phải thỏa mãn của
sản phẩm được bảo hộ theo tên gọi xuất xứ nghiêm ngặt hơn so với chỉ dẫn địa
lý, điều đó cũng có nghĩa là một sản phẩm hội đủ yêu cầu được bảo hộ tên gọi
xuất xứ thì đương nhiên đáp ứng các yêu cầu của chỉ dẫn địa lý.

22


Theo như cách hiểu này, tên gọi xuất xứ cũng có thể được hiểu như một dạng
đặc biệt của chỉ dẫn nguồn gốc theo các quy định tại Công ước Paris và Hiệp
định Madrid về chỉ dẫn nguồn gốc. Bởi lẽ, sản phẩm ấy không những thể hiện
thông tin nguồn gốc xuất xứ mà chất lượng và đặc tính đặc thù của chúng còn do
yếu tố tự nhiên của nơi đó quyết định (ngồi ra cịn bao gồm cả yếu tố con
người), ví dụ như: rượu vang “Bordeaux”, rượu mạnh “Tequila” hoặc cam
“Jaffa” (là những sản phẩm đã được đăng ký bảo hộ tên gọi xuất xứ theo Hiệp

định Lisbon) [32, 6].
Tóm lại, nếu đặt ba thuật ngữ cùng so sánh thì chỉ dẫn nguồn gốc là thuật ngữ
có nghĩa rộng nhất, nghĩa là về mặt nguyên tắc các yêu cầu bảo hộ ít nhất và đơn
giản nhất. Bảo hộ theo chỉ dẫn nguồn gốc chỉ đòi hỏi sản phẩm có chỉ dẫn về
xuất xứ của chúng đến một địa điểm địa lý nhất định, không nhất thiết phải bao
hàm điều kiện về chất lượng, uy tín hay đặc tính đặc thù của hàng hóa. Tiếp đến
là thuật ngữ chỉ dẫn địa lý rộng hơn so với tên gọi xuất xứ, về cơ bản hầu hết sản
phẩm được bảo hộ theo tên gọi xuất xứ thì đều là chỉ dẫn địa lý (nhưng cũng có
những trường hợp đặc biệt thì khơng phải, như đối với uy tín sản phẩm là một ví
dụ).

1.2.2 Khái niệm chỉ dẫn địa lý theo pháp luật Việt Nam
Ở Việt Nam, Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2000 của
Chính phủ, tại khoản 1 điều 10 đã quy định:
“Chỉ dẫn địa lý được bảo hộ là thông tin về nguồn gốc địa lý của hàng hoá
đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
-

Thể hiện dưới dạng một từ ngữ, dấu hiệu, biểu tượng hoặc hình ảnh, dùng
để chỉ một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, địa phương thuộc một quốc
gia;

-

Thể hiện trên hàng hố, bao bì hàng hố hay giấy tờ giao dịch liên quan
tới việc mua bán hàng hoá nhằm chỉ dẫn rằng hàng hố nói trên có nguồn
gốc tại quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương mà đặc trưng về chất
lượng, uy tín, danh tiếng hoặc các đặc tính khác của loại hàng hố này có
được chủ yếu là do nguồn gốc địa lý tạo nên”.


Qua đó, có thể hiểu khái niệm chỉ dẫn địa lý đã bao hàm các vấn đề sau:


Một là: thể hiện hàng hoá xuất xứ từ nơi nào?

23


Nghĩa là, thông tin chỉ dẫn về nguồn gốc địa lý của hàng hóa làm cho cơng
chúng biết hàng hố ấy được bắt nguồn từ một quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa
phương của một quốc gia. Trong đó, cụ thể thông tin chỉ dẫn về nguồn gốc địa lý
của hàng hố có thể dưới dạng từ ngữ, dấu hiệu, biểu tượng hoặc hình ảnh được
thể hiện trên hàng hố, bao bì hàng hố hay giấy tờ giao dịch liên quan tới việc
mua bán hàng hoá. Đối với khái niệm hàng hoá, tại khoản 3 điều 5 của Luật
Thương mại ban hành ngày 23 tháng 5 năm 1997 đã quy định thuật ngữ hàng hố
được hiểu:
“Gồm máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, các
động sản khác được lưu thông trên thị trường, nhà ở dùng để kinh doanh dưới
hình thức cho thuê, mua, bán”.


Hai là: địa điểm xuất xứ và chất lượng hàng hoá đó phải có mối quan
hệ như thế nào?

Cụ thể, hàng hố ấy phải có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định chủ yếu
do nguồn gốc địa lý nói trên quyết định.
Chỉ dẫn địa lý được bảo hộ với tư cách là đối tượng của quyền sở hữu công
nghiệp nếu như chúng được sử dụng để phân biệt hàng hố có xuất xứ (được sản
xuất, khai thác, trồng trọt) từ các địa danh khác nhau và có được uy tín nhất định
đối với người tiêu dùng. Uy tín nhất định của hàng hố nói ở đây là chất lượng

hoặc những đặc tính khác của hàng hố có được chủ yếu (hay hoàn toàn) do
nguồn gốc địa lý của hàng hố đó. Nếu giữa hàng hố và chỉ dẫn địa lý khơng có
mối liên hệ này thì chỉ dẫn địa lý chỉ cịn là một địa chỉ, một thơng tin mang tính
cơng cụ đơn thuần. Trong trường hợp đó chỉ dẫn này không thể được bảo hộ với
tư cách là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp mà khi đó nó chỉ có thể được
bảo hộ thơng qua hệ thống pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh hay
pháp luật bảo vệ người tiêu dùng.
 Phân biệt khái niệm chỉ dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ hàng hoá
Căn cứ theo điều 786 Bộ luật Dân sự quy định tên gọi xuất xứ hàng hoá được
hiểu:
“Là tên địa lý của nước, địa phương dùng để chỉ xuất xứ của mặt hàng từ
nước, địa phương đó với điều kiện những mặt hàng này có các tính chất, chất
lượng đặc thù dựa trên các điều kiện địa lý độc đáo và ưu việt, bao gồm yếu tố tự
nhiên, con người hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó”.

24


Ở Việt Nam, theo Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ, nhà
nước sẽ khơng bảo hộ với danh nghĩa là tên gọi xuất xứ khi các chỉ dẫn xuất xứ
không phải là tên địa lý, hoặc khi tên gọi xuất xứ hàng hoá đã trở thành tên gọi
chung của hàng hoá và đã mất chức năng chỉ dẫn xuất xứ hàng hố đó. Hành vi
sử dụng trái phép đối với đối tượng tên gọi xuất xứ được bảo hộ của cá nhân hay
tổ chức có thể sẽ dẫn đến hậu quả phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý hình sự
hoặc dân sự.
Khái niệm về tên gọi xuất xứ hàng hố cịn được giải thích rõ hơn tại điều 7
của Nghị định số 63/CP ngày 24 tháng 10 năm 1996 của Chính phủ, quy định chi
tiết về sở hữu công nghiệp. So với khái niệm chỉ dẫn địa lý, khái niệm tên gọi
xuất xứ hàng hoá cơ bản cũng đề cập đến hai thuộc tính: một là thể hiện hàng hoá
xuất xứ từ nơi nào – chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hoá, hai là thể hiện mối quan

hệ giữa địa điểm xuất xứ và chất lượng hàng hoá. Tuy nhiên, quy định cụ thể,
cách hiểu chi tiết trong hai khái niệm này là khác biệt.


Đối với thuộc tính chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hố

Cả hai khái niệm đều là tên địa lý nơi mà hàng hoá được sản xuất, nhưng
chúng lại khác nhau ở những điểm sau đây:
Một là: đối với khái niệm tên gọi xuất xứ hàng hoá, tên địa lý là tên của một
nước hoặc một địa phương là nơi mà hàng hoá tương ứng được sản xuất. Trong
khi đó đối với khái niệm chỉ dẫn địa lý, tên địa lý không chỉ là tên của một quốc
gia hoặc một địa phương mà còn được mở rộng hơn bởi vùng lãnh thổ.
Hai là: đối với khái niệm tên gọi xuất xứ hàng hoá, các dấu hiệu mang tính
chất biểu tượng của nước, địa phương là nơi xuất xứ của hàng hố nhưng khơng
phải là tên địa lý của nước, địa phương đó khơng phải là đối tượng được bảo hộ
với danh nghĩa tên gọi xuất xứ hàng hố. Trong khi đó đối với khái niệm chỉ dẫn
địa lý, thông tin chỉ dẫn về nguồn gốc địa lý của hàng hố có thể dưới dạng từ
ngữ, dấu hiệu, biểu tượng hoặc hình ảnh được thể hiện trên hàng hố, bao bì hàng
hố hay giấy tờ giao dịch liên quan tới việc mua bán hàng hố.


Đối với thuộc tính thể hiện mối quan hệ giữa địa điểm xuất xứ và chất
lượng hàng hoá

Cả hai khái niệm đều địi hỏi chất lượng hàng hố tương ứng phải đáp ứng
được những yêu cầu nhất định, mà yêu cầu ấy gắn liền đối với địa điểm xuất xứ.
Nhưng trong yêu cầu cụ thể đối với từng khái niệm thì có sự khác nhau cơ bản,
cụ thể là:
25



×