Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NHẰM NGĂN NGỪA rủi RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ tài CHÍNH (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 67 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI


TRẦN MAI HƢƠNG

HỒN THIỆN PHÁP LUẬT
NHẰM NGĂN NGỪA RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chun ngành Luật Thương mại

TP. HCM – 2014


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI


KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

HỒN THIỆN PHÁP LUẬT
NHẰM NGĂN NGỪA RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH
SINH VIÊN THỰC HIỆN: TRẦN MAI HƢƠNG
KHÓA: 35 – MSSV: 1055010374
GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN: ThS. NGUYỄN THỊ THU HIỀN

TP. HỒ CHÍ MINH – 2014



LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật chuyên ngành Luật
Thương mại với đề tài: “HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NHẰM NGĂN NGỪA
RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH”, tác giả xin gửi lời
cảm ơn chân thành đến các Thầy Cô là giảng viên bộ mơn Thuế - Tài chính Ngân
hàng, Khoa Luật Thương mại, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Đặc biệt,
Tác giả xin gửi lời cảm ơn đến Ths. Nguyễn Thị Thu Hiền – Người đã góp phần rất
lớn, khơng chỉ ở vai trò định hướng, mà còn là Người đưa ra những hướng dẫn, gợi
ý và chỉnh sửa những thiếu sót trong suốt q trình giúp tác giả hồn thành khóa
luận của mình.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả khóa luận

Trần Mai Hƣơng


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin
và số liệu mà tác giả sử dụng trong khoá luận là trung thực. Các luận điểm, dữ liệu
được trích dẫn đầy đủ nếu không thuộc ý tưởng hoặc kết quả tổng hợp của chính
bản thân tơi.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 07 năm 2014
Tác giả khóa luận

Trần Mai Hƣơng



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Viết đầy đủ

BLDS

Bộ luật Dân sự

CTTC

Cho thuê tài chính

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

TC

Tài chính

TCTD

Tổ chức tín dụng

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................1
CHƢƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH
VÀ NHỮNG RỦI RO THƢỜNG GẶP TRONG HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ
TÀI CHÍNH .............................................................................................................7
1.1. Khái quát về cho thuê tài chính ................................................................7
1.1.1. Khái niệm cho thuê tài chính .....................................................................7
1.1.2. Đặc điểm của cho thuê tài chính ..............................................................11
1.2. Những rủi ro thƣờng gặp trong hoạt động cho thuê tài chính ............16
1.2.1. Rủi ro tài chính.........................................................................................16
1.2.2. Rủi ro hoạt động.......................................................................................18
1.2.3. Rủi ro liên quan đến tài sản cho thuê .......................................................20
KẾT LUẬN CHƢƠNG I ......................................................................................22
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN NHẰM NGĂN NGỪA RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO TH TÀI CHÍNH ...........................................23
2.1 Đối với rủi ro tài chính .............................................................................23
1.1.1. Các quy định pháp luật có liên quan và thực tiễn áp dụng ......................23
1.1.2. Kiến nghị hoàn thiện ................................................................................30
2.2 Đối với rủi ro hoạt động ............................................................................32
2.2.1 Các quy định pháp luật có liên quan và thực tiễn áp dụng ......................32
2.2.2 Kiến nghị hoàn thiện ................................................................................39
2.3 Đối với rủi ro liên quan đến tài sản cho thuê ..........................................40
2.3.1 Các quy định pháp luật có liên quan và thực tiễn áp dụng ......................41
2.3.2 Kiến nghị hoàn thiện ................................................................................45
KẾT LUẬN CHƢƠNG II.....................................................................................47
KẾT LUẬN ............................................................................................................48



PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Vì vậy mà nhu cầu
về vốn, đặc biệt là nhu cầu đổi mới trang thiết bị, máy móc, cơng nghệ của các
doanh nghiệp ngày càng tăng cao.
Tuy nhiên, phần lớn các doanh nhiệp đều gặp khó khăn khi tiếp cận nguồn
vốn tín dụng ngân hàng cho đầu tư phát triển, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Trước tình hình đó, hoạt động CTTC ra đời đã góp phần làm giảm gánh nặng
cho hệ thống ngân hàng thương mại trong việc cung ứng vốn trung và dài hạn.
Hoạt động CTTC hiện nay được điều chỉnh bởi các văn bản luật và dưới luật
sau đây: Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – Luật số 46/2010/QH12 ngày
16/6/2010, Luật các tổ chức tín dụng – Luật số 47/2010/QH12 của Quốc hội khóa
XII ngày 16/6/2010, Nghị định số 39/2014/NĐ - CP về hoạt động của Cơng ty tài
chính và Cơng ty cho thuê tài chính…1
Các văn bản trên đã xây dựng nên khung pháp lý cơ bản cho hoạt động
CTTC hiện nay ở Việt Nam. Tuy nhiên, các quy định pháp luật về CTTC vẫn bộc lộ
những hạn chế, bất cập như: chưa đồng bộ, chưa thống nhất, nhiều chế định pháp
luật cịn vướng mắc, gây trở ngại khơng nhỏ đến hoạt động CTTC của các công ty
CTTC, công ty TC cũng như không đáp ứng được yêu cầu hạn chế, ngăn ngừa các
rủi ro liên quan đến hoạt động CTTC.
Thực tế hiện nay cho thấy mặc dù đã được pháp luật ghi nhận từ những năm
90 của thế kỷ trước nhưng đến nay cả hệ thống chỉ có 11 cơng ty hoạt động trong
lĩnh vực CTTC và đang ngày càng thu hẹp do hoạt động chưa hiệu quả cũng như
đang phải đối mặt với nhiều rủi ro. Năm 2013, dư nợ toàn hệ thống CTTC giảm
5,55% so với năm 2012, chỉ cịn 14.678,559 tỷ đồng2. Bên cạnh đó, theo Ủy ban
Giám sát tài chính quốc gia, nợ xấu của các cơng ty CTTC đứng ở mức cao nhất
hiện nay. Trong năm 2012, tỷ lệ nợ xấu của nhiều công ty CTTC lên tới gần 50%3.
Điển hình trong hồn cảnh này phải kể đến hai cơng ty CTTC có cùng ngân hàng
mẹ - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam là Cơng ty Cho
th Tài chính I (ALC I) và Cơng ty Cho th Tài chính II (ALC II). Theo con số

báo cáo chính thức nhất từ những đơn vị này, con số lỗ tính đến tháng 6/2010 của
công ty ALC I là âm (-) 200% (tỉ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu). Hơn nữa, nợ
xấu tại ALC I lên tới 46,38 % (30/6/2010). Đặc biệt những sai phạm tại Công ty
1

Xem thêm danh mục tài liệu tham khảo: Các văn bản pháp luật.
Minh Ngọc, Cho th tài chính mãi khơng chiu lớn (2014), < truy cập ngày 10/07/2014.
3
Hà Tâm, Cơng ty cho th tài chính: thua lỗ và nợ xấu (2013), < truy cập ngày 10/07/2014.
2

1.


ALC II với số lỗ được kiểm toán lên tới 3000 tỉ đồng (tính đến năm 2009) và số nợ
phải gánh lên tới 7000 tỉ đồng (2010), rơi vào tình trạng mất thanh khoản nghiêm
trọng, không huy động được thêm nguồn vốn đã gióng lên một hồi chng báo động
về hoạt động CTTC ở nước ta hiện nay4.
Từ thực trạng của hoạt động CTTC, vấn đề đặt ra là làm sao hoàn thiện hệ
thống pháp luật về CTTC để tạo nên cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ, thống nhất
nhằm ngăn ngừa rủi ro trong hoạt động CTTC và đảm bảo hoạt động này phát triển
an toàn, bền vững, hiệu quả, phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Với tính cấp thiết và tính thực tiễn cao như vậy, tác giả đã mạnh dạn chọn đề
tài: “HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT NHẰM NGĂN NGỪA RỦI RO TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH” để nghiên cứu và làm khóa luận tốt
nghiệp. Thơng qua khóa luận, tác giả hi vọng có thể đóng góp những ý kiến hữu ích
trong việc hoàn thiện pháp luật nhằm ngăn ngừa rủi ro trong hoạt động CTTC ở
nước ta hiện nay.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Với phạm vi và mức độ nghiên cứu khác nhau, đã có khá nhiều cơng trình
nghiên cứu đề cập đến các vấn đề liên quan đến hoạt động CTTC. Ở cấp độ cử
nhân, qua khảo sát, tác giả nhận thấy gần đây có một số cơng trình nghiên cứu như
sau:
- Nguyễn Quốc Hoàng (2005), Pháp luật về hoạt động cho th tài chính của
cơng ty cho th tài chính, khóa luận tốt nghiệp, trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thị Dịu Hiền (2007), Hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam –
quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng, khóa luận tốt nghiệp, trường ĐH Luật TP.
Hồ Chí Minh.
Các đề tài trên chỉ khái quát một cách cơ bản mang tính lý luận về hoạt động
CTTC nói chung, chứ chưa nghiên cứu tách bạch về vấn đề hoàn thiện pháp luật
nhằm ngăn ngừa rủi ro trong hoạt động CTTC.
Ngồi ra, cịn có những khóa luận nghiên cứu về vấn đề hợp đồng CTTC
như:
- Bùi Thị Hằng (2004), Một số vấn đề về hợp đồng cho th tài chính - lý
luận và thực tiễn, khóa luận tốt nghiệp, trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh.
4

Thu Hằng, Từ vụ Cơng ty cho th tài chính ALC 2 – dung túng nên hư? (2013),
< truy cập ngày 10/07/2014; Thành Trung, Cho thuê tài chính: rủi ro và thách thức
(2013),
< truy cập ngày 10/07/2014.

2.


- Chiêm Tiền Quý Nhân (2012), pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính lý luận và thực tiễn, khóa luận tốt nghiệp, trường ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh.
Các khóa luận này cũng chưa đặt ra và giải quyết vấn đề về việc hoàn thiện
pháp luật nhằm ngăn ngừa rủi ro trong hoạt động CTTC, mà chỉ đề cập đến những
vấn đề chủ yếu và quan trọng của hợp đồng CTTC xét về mặt lý luận cũng như thực

tiễn, đồng thời đưa ra các giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp
đồng CTTC.
Đặc biệt, từ năm 2006 đến 2010 có hai đề tài nghiên cứu pháp luật về đảm
bảo an toàn trong hoạt động CTTC. Cụ thể đó là:
- Trần Thị Phương Thảo (2006), Pháp luật về đảm bảo an tồn trong hoạt
động của cơng ty cho th tài chính, khóa luận tốt nghiệp, trường ĐH Luật TP. Hồ
Chí Minh.
- Võ Thị Xuân Thùy (2010), Pháp luật về đảm bảo an toàn trong hoạt động
cho th tài chính của cơng ty cho th tài chính, khóa luận tốt nghiệp, trường ĐH
Luật TP. Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, cả hai khóa luận đều đi sâu nghiên cứu về vấn đề đảm bảo an
toàn trong hoạt động CTTC ở Việt Nam. Cả hai khóa luận đều nghiên cứu tìm hiểu
những vấn đề lý luận về hoạt động CTTC, các quy định pháp luật nhằm bảo đảm an
toàn trong hoạt động CTTC và chỉ ra một số vướng mắc, thiếu sót trong những quy
định pháp luật, những tồn tại trên thực tiễn để từ đó đưa ra giải pháp hồn thiện.
Tuy nhiên, cả hai khóa luận này chưa tập trung nghiên cứu thực trạng pháp luật về
CTTC và thực tiễn áp dụng đối với từng nhóm rủi ro thường gặp trong hoạt động
này nhằm đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Ở cấp độ thạc sĩ và tiến sĩ, thời gian gần đây có các cơng trình nghiên cứu
tiêu biểu sau:
- Hoàng Thị Thanh Hằng (2013), Năng lực cạnh tranh của các cơng ty cho
th tài chính thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ kinh tế, trường ĐH Ngân
hàng TP. Hồ Chí Minh
- Trần Văn Trung (2012), Giải pháp nhằm mở rộng cho thuê tài chính ở Việt
Nam, góp phần thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn hiện nay,
Luận văn thạc sĩ kinh tế, trường ĐH Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh.
Những đề tài trên đây chủ yếu nghiên cứu về công ty cho thuê tài chính và
hoạt động cho thuê tài chính dưới góc độ kinh tế. Cịn đối với các vấn đề pháp lý
của hoạt động CTTC, các tác giả chỉ tìm hiểu như một khía cạnh nhỏ để phục vụ


3.


cho việc nghiên cứu các giải pháp để thúc đẩy sự phát triển của hoạt động CTTC
trên thị trường Việt Nam.
Ngồi ra, thời gian qua đã có nhiều bài báo, bài nghiên cứu ngắn phân tích về
hoạt động CTTC đăng trên các tạp chí chuyên ngành và báo như: Tạp chí ngân
hàng, Tạp chí tài chính, Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ,… :
- Lê Tiến Hưng (2010), “Huy động vốn qua cho thuê tài chính – Tiện ích
chưa được tận dụng”, Tài chính số 545, tr.52 - 53
- Ths. Trần Ngọc Bảo, “Chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính trước thời
hạn… Một biện pháp nghiệp vụ hay một chế tài tín dụng?”, Tạp chí Ngân hàng số 8
tháng 4 năm 2010, tr.32 – 35
- Văn Lạc (2011), “Cơng ty cho th tài chính – Những vướng mắc cần tháo
gỡ”, Thị trường tài chính tiền tệ số 339, tr.25 - 27
- Đào Thị Hồ Hương (2013), “Bàn thêm về khung pháp lý và chính sách
quản lý thị trường cho thuê tài chính tại Việt Nam”, Ngân hàng số 24, tr.44 - 47
Có thể nói, những nghiên cứu trên đây là nền tảng cho những bước nghiên
cứu tiếp theo về hoạt động CTTC ở khía cạnh pháp lý. Tiếp nhận những kết quả
nghiên cứu này, tác giả nhận thấy rằng việc nghiên cứu thực trạng pháp luật về
CTTC tương ứng với từng nhóm rủi ro thường gặp trong hoạt động CTTC, để từ đó
đưa ra những kiến nghị hồn thiện pháp luật nhằm ngăn ngừa những rủi ro có thể
xảy ra vẫn còn là vấn đề đang còn bỏ ngỏ, cần thiết phải được đặt ra và đi sâu
nghiên cứu.
3. MỤC TIÊU CỦA KHĨA LUẬN
Trong khóa luận của mình, tác giả nghiên cứu các vấn đề liên quan đến việc
hoàn thiện pháp luật nhằm ngăn ngừa rủi ro trong hoạt động CTTC và hướng tới
các mục tiêu sau:
Một là, nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về hoạt động
CTTC cũng như những rủi ro thường gặp trong hoạt động này.

Hai là, trên cơ sở kiến thức lý luận, tác giả đi sâu phân tích những quy định
của pháp luật về CTTC tương ứng với từng nhóm rủi ro và thực trạng áp dụng pháp
luật trên thực tế. Thơng qua đó, tác giả nêu lên những đóng góp tích cực cũng như
những hạn chế, vướng mắc cần phải khắc phục của những quy định pháp luật về
CTTC trong việc phòng ngừa và hạn chế những rủi ro liên quan đến hoạt động này.
Ba là, trên cơ sở những phân tích về thực trạng pháp luật CTTC, tác giả đề
xuất những kiến nghị cụ thể để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm ngăn
ngừa những rủi ro thường gặp trong hoạt động CTTC.
4.


4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Với mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề
như sau:
- Các vấn đề lý luận chung về hoạt động CTTC cũng như những rủi ro
thường gặp trong hoạt động này
- Các quy định của pháp luật Việt Nam về CTTC trên cơ sở từng nhóm rủi ro
liên quan đến hoạt động CTTC
- Thực tiễn áp dụng pháp luật về CTTC và đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp
luật nhằm ngăn ngừa rủi ro trong hoạt động CTTC.
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận khơng bao gồm toàn bộ hệ thống pháp
luật điều chỉnh tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt động CTTC. Khóa luận chỉ
nghiên cứu các quy định pháp luật về CTTC trên cơ sở từng nhóm rủi ro thường gặp
trong hoạt động này trên phương diện pháp lý. Còn các vấn đề khác liên quan đến
rủi ro trong hoạt động CTTC như các chỉ tiêu phản ánh mức độ rủi ro trong hoạt
đông CTTC, những ảnh hưởng của rủi ro trong hoạt động CTTC đối với các công ty
CTTC, công ty TC, các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro trong hoạt động CTTC,… tác
giả chỉ tìm hiểu để làm cơ sở nghiên cứu chứ khơng đi sâu phân tích.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp luận được sử dụng trong quá trình nghiên cứu là phương pháp

duy vật biện chứng và duy vật lịch sử dựa trên cơ sở các hiện tượng khách quan và
các quy luật kinh tế xã hội. Phương pháp duy vật biện chứng được sử dụng xuyên
suốt khóa luận giúp q trình luận giải về các vấn đề liên quan đến hoạt động
CTTC, những rủi ro thường gặp trong hoạt động này, các quy định pháp luật liên
quan và thực tiễn áp dụng để đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm ngăn ngừa
rủi ro trong hoạt động CTTC được logic, biện chứng và khách quan.
Trong q trình nghiên cứu, khóa luận cịn dựa trên các quan điểm, định
hướng của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xây dựng và phát triển kinh tế, thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhu cầu hội nhập để đánh giá, luận
giải những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn liên quan đến việc hoàn thiện pháp
luật nhằm ngăn ngừa rủi ro trong hoạt động CTTC ở Việt Nam.
Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu cụ thể như thu thập tài liệu, phân tích, so sánh đối chiếu, chứng
minh, đánh giá, khái quát hóa và hệ thống hóa vấn đề và một số phương pháp khác
để làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra và hồn thành khóa luận tốt nghiệp của mình.
6. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA KHÓA LUẬN

5.


a. Ý nghĩa khoa học
Khóa luận nghiên cứu tương đối đầy đủ cơ sở lý luận về hoạt động CTTC
cũng như chỉ ra những rủi ro điển hình trong hoạt động CTTC và thực trạng pháp
luật về CTTC, những vấn đề còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng. Trên cơ sơ những
hạn chế, bất cập của pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định về CTTC, khóa
luận cũng đã đưa ra được một số kiến nghị hoàn thiện góp phần xây dựng khn
khổ pháp lý ngày càng hồn chỉnh, đảm bảo tính đồng bộ và khả thi nhằm ngăn
ngừa những rủi ro xảy ra trong hoạt động CTTC ở nước ta.
b. Ý nghĩa thực tiễn
Những nội dung và kết quả nghiên cứu khiêm tốn của khóa luận có thể được

dùng làm tài liệu tham khảo cho các ngân hàng, các công ty CTTC, công ty TC, cho
các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực CTTC và cho học sinh, sinh viên.
Đặc biệt, một số kiến nghị được nêu trong khóa luận có ý nghĩa nhất định
trong việc hoàn thiện pháp luật về CTTC, ngăn ngừa các rủi ro cũng như ngăn chặn
các tranh chấp, vi phạm có thể xảy ra liên quan đến hoạt động CTTC. Qua đó, góp
phần đảm bảo an tồn và nâng cao hiệu quả của hoạt động CTTC trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay.
7. KẾT CẤU CỦA KHĨA LUẬN
Ngồi phần mở đầu và phần kết luận chung, khóa luận được kết cấu gồm hai
chương:
- Chƣơng I: Lý luận chung về hoạt động cho thuê tài chính và những rủi ro
thường gặp trong hoạt động cho thuê tài chính
- Chƣơng II: Thực trạng pháp luật về cho th tài chính và một số kiến nghị
hồn thiện nhằm ngăn ngừa rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính

6.


CHƢƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH VÀ NHỮNG
RỦI RO THƢỜNG GẶP TRONG HOẠT ĐỘNG CHO TH TÀI CHÍNH
1.1 Khái qt về cho th tài chính
1.1.1 Khái niệm cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính là một dạng của cho thuê tài sản. Hoạt động cho thuê tài
sản đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử và được sử dụng phổ biến để đáp ứng nhu cầu
sản xuất và sinh hoạt. Mặc dù thời gian xuất hiện giao dịch cho thuê đầu tiên vẫn
chưa được xác định một cách chính xác nhưng theo những ghi nhận sớm nhất về
việc cho thuê tài sản trong các tịch thư cổ thì những giao dịch này đã xuất hiện từ
trước năm 2000 trước công nguyên tại thành phố Sumerian cổ xưa5.
Hình thức CTTC xuất hiện đầu tiên ở Hoa Kỳ năm 1953 do Công ty tư nhân

United States Corporation sáng tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn
cho doanh nghiệp. Tiếp theo là sự ra đời của công ty Leasing and Percantitle Credit
tại Anh và sau đó loại hình CTTC lan rộng khắp Tây Âu. Đến năm 1963 thì xuất
hiện ở Châu Á với sự ra đời của công ty Orient Leasing tại Nhật Bản6.
Trên thị trường tài chính ở Việt Nam khoảng 18 năm7 trở lại đây cũng đã
xuất hiện hoạt động CTTC, vừa với mục đích cơ bản là cấp tín dụng trung và dài
hạn, vừa là một dạng cho thuê tài sản, mà theo đó TCTD trao cho khách hàng quyền
sử dụng, khai thác tài sản trong một khoảng thời gian nhất định.
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về CTTC tùy theo pháp luật của mỗi quốc
gia và các điều ước quốc tế.
Theo Khoản 2, Điều 1, Công ước Ottawa ngày 28/05/1988 về CTTC thì:
“Cho th tài chính là giao dịch gồm có những đặc điểm sau:
1. Người thuê chỉ rõ thiết bị và lựa chọn nhà cung cấp không phụ thuộc vào
những kĩ năng và ý kiến của người cho thuê;
2. Thiết bị được đề cập trong thỏa thuận thuê tài chính do người cho thuê
mua theo thỏa thuận giữa người cho thuê và người thuê, trong tình trạng người
thuê đã biết rõ nhà cung cấp;
5

Jeffrey Taylor, the history of leasing, < truy cập ngày
26/06/2014.
6
< truy cập ngày 04/05/2014.
7
Hoạt động CTTC lần đầu tiên được pháp luật thừa nhận dưới cái tên “tín dụng thuê mua” vào năm 1990
trong Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và Cơng ty tài chính. Trên cơ sở đó, Thống đốc NHNN đã
ban hành Quyết định số 149/QĐ – NHNN để triển khai quy định trên. Sau đó, ngày 9/10/1995 Chính phủ ban
hành Nghị định số 64/1995/NĐ – CP quy định Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của cơng ty cho
th tài chính ở Việt Nam. Đến năm 1996 thì cơng ty cho th tài chính đầu tiên đã được thành lập tại Việt
Nam.


7.


3. Những khoản tiền thuê phải trả theo thỏa thuận th được tính tốn theo
phương thức trả dần hay trả ngay phần lớn chi phí mua thiết bị”.
Cơng ước Ottawa không đưa ra định nghĩa về CTTC mà chỉ nêu ra những
đặc điểm nhận dạng của một giao dịch được coi là hoạt động CTTC. Quy định của
Công ước tỏ ra phù hợp với nhiệm vụ của một công ước là tìm sự hịa hợp trong hệ
thống pháp luật của các quốc gia thành viên của Công ước.
Theo Hiệp hội các Cơng ty tài chính Thụy Điển (Association of finance
Sweden) thì “Cho th tài chính có nghĩa là:
1. Người cho thuê mua tài sản theo yêu cầu của người thuê.
2. Thiết bị cho thuê thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê, thường bằng tuổi
thọ của thiết bị.
3. Hợp đồng CTTC không thể bị hủy bỏ trong thời hạn thuê.
4. Tổng giá tiền thuê được trả gồm lãi suất, chi phí quản lý, lạm phát, lợi
nhuận và cho phép giảm giá toàn bộ hay gần như toàn bộ giá mua sắm thiết bị.
5. Vào thời điểm cuối của hợp đồng th tài chính, người th có quyền gia
hạn thời hạn thuê theo một giá thuê mới và kiên quyết ký hợp đồng.
6. Khi bên thuê không gia hạn thời hạn thuê, quyền sử dụng tài sản thuê
được chấm dứt và thiết bị được trao trở lại cho chủ sở hữu”8.
So với Cơng ước Ottawa thì khái niệm của Hiệp hội các cơng ty TC Thụy
Điển đầy đủ hơn, nó nhấn mạnh đến tính khơng thể hủy ngang của hợp đồng CTTC.
Tuy nhiên, khái niệm này lại không đề cập đến khả năng chuyển quyền sở hữu tài
sản từ bên cho thuê sang bên thuê khi kết thúc hợp đồng CTTC.
Theo định nghĩa của Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC) thì CTTC là
“loại cho th có khả năng chuyển dịch về căn bản tất cả những rủi ro và lợi ích
gắn với quyền sở hữu tài sản. Quyền sở hữu có thể được chuyển giao hoặc khơng
được chuyển giao”9. Đồng thời theo Ủy ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế, nếu một

giao dịch CTTC thỏa mãn một trong bốn tiêu chuẩn dưới đây đều được coi là
CTTC:
1. Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao khi hết hợp đồng.
2. Hợp đồng có quy định quyền mặc cả mua bán tài sản tại thời điểm chấm
dứt hợp đồng.
8

Theo tài liệu khóa học về CTTC do Ngân hàng thế giới (WB) tổ chức tại TP. HCM ngày 06/12 đến ngày
15/12/1995.
9
Xem: Điểm 3, Chuẩn mực kế toán Quốc tế số 17 sửa đổi năm 1997, có hiệu lực từ 01/01/1999. Chuẩn mực
này do Ủy ban về chuẩn mực kế toán Quốc tế ban hành.

8.


3. Thời hạn hợp đồng bằng phần lớn thời gian hoạt động hữu dụng của tài
sản.
4. Giá trị hiện tại của một khoản tiền thuê tối thiểu lớn hơn hay tương đương
với giá trị tài sản.
Trên cơ sở phân loại của IASC, các nước có những quy định cụ thể trong
pháp luật về CTTC dựa trên điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của mỗi nước, có thể
nhấn mạnh tiêu chuẩn này hay giảm bớt tiêu chuẩn khác nhưng về cơ bản khơng có
sự mâu thuẫn với các tiêu chuẩn chung.
Ở Việt Nam, khái niệm CTTC lần đầu tiên được quy định tại Khoản 11, Điều
20, Luật các TCTD 2004: “Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung hạn, dài
hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng
với khách hàng thuê”.
Định nghĩa trên đã nêu lên một cách khái quát nhất về hoạt động CTTC,
khẳng định đây là hoạt động tín dụng trung và dài hạn, bên cho thuê phải là một

TCTD và hoạt động CTTC được xác định trên cơ sở hợp đồng giữa các bên. Tuy
nhiên, định nghĩa chưa nêu bật được các dấu hiệu cơ bản cũng như các đặc điểm
nhận dạng của hoạt động CTTC.
Sau đó, Nghị định số 16/2001/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Công ty
CTTC và Nghị định số 65/2005/NĐ-CP quy định về việc sửa đổi bổ sung một số
điều của Nghị định số 16/2001/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Công ty CTTC
đã đưa ra định nghĩa về CTTC một cách đầy đủ hơn. Theo đó, “Cho thuê tài chính
là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thơng qua việc cho th máy móc, thiết bị,
phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa
bên cho thuê và bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện
vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở
hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê
trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận. Khi kết thúc thời hạn cho thuê
theo hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục
thuê theo sự thỏa thuận của hai bên; bên thuê được quyền ưu tiên mua tài sản thuê
theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại;
thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao
tài sản thuê; tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài
chính, ít nhất phải tương đương giá trị của tài sản thuê tại thời điểm ký hợp
đồng”10.

10

Xem: Điều 1, Nghị định 16/2001/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Cơng ty cho th tài chính; khoản 1,
Điều 1 Nghị định 65/2005/NĐ-CP quy định về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 16/2001/NĐ-CP.

9.


Hiện nay, Điều 113, Luật các TCTD 2010 cũng nêu lên một cách khái quát

về khái niệm CTTC, theo đó “Hoạt động cho thuê tài chính là việc cấp tín dụng
trung hạn, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho th tài chính”. Bên cạnh đó, cũng theo
Điều 113, Luật các TCTD, thì hoạt động CTTC phải thỏa mãn được các điều kiện
sau đây:
1. Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được nhận chuyển
quyền sở hữu tài sản cho thuê hoặc tiếp tục thuê theo thỏa thuận của hai bên;
2. Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền ưu
tiên mua tài sản cho thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản cho
thuê tại thời điểm mua lại;
3. Thời hạn cho thuê một tài sản phải ít nhất bằng 60% thời gian cần thiết để
khấu hao tài sản cho thuê đó;
4. Tổng số tiền thuê một tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính ít
nhất phải bằng giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
Tiếp đến, Nghị định 39/2014/NĐ – CP về hoạt động của Công ty tài chính và
Cơng ty cho th tài chính đã đưa ra khái niệm cụ thể về CTTC như sau: “Cho thuê
tài chính là hoạt động cấp tín dụng trung hạn, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê
tài chính giữa bên cho thuê tài chính với bên thuê tài chính. Bên cho thuê tài chính
cam kết mua tài sản cho thuê tài chính theo yêu cầu của bên thuê tài chính và nắm
giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê tài chính trong suốt thời hạn cho thuê.
Bên thuê tài chính sử dụng tài sản thuê tài chính và thanh tốn tiền th trong suốt
thời hạn th quy định trong hợp đồng cho thuê tài chính”11.
Khái niệm trên về cơ bản đã nêu bật được những đặc trưng của hoạt động
CTTC nhằm phân biệt với các hoạt động cấp tín dụng khác. Đồng thời, định nghĩa
này cũng có sự tương thích với quy định của pháp luật các quốc gia trên thế giới
cũng như trong điều ước quốc tế.
Qua các phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về CTTC một cách cụ thể
như sau: CTTC đƣợc hiểu là một hoạt động tín dụng trung hạn, dài hạn thông
qua việc cho thuê tài sản trên cơ sở hợp đồng CTTC giữa bên cho thuê với
khách hàng thuê. Trong thời hạn thuê, các bên không đƣợc đơn phƣơng hủy
bỏ hợp đồng. Bên cho thuê giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê, bên thuê có

nghĩa vụ trả tiền thuê cho bên cho thuê. Khi hết thời hạn thuê, khách hàng
đƣợc lựa chọn mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo thỏa thuận trong của
hai bên.
11

Xem: Khoản 7, Điều 3, Nghị định 39/2014/NĐ – CP về hoạt động của Cơng ty tài chính và Cơng ty cho
thuê tài chính.

10.


1.1.2 Đặc điểm của cho thuê tài chính
Từ khái niệm CTTC đã nêu và phân tích ở trên, có thể rút ra những đặc điểm
cơ bản của hoạt động CTTC như sau:
Thứ nhất, CTTC là một hình thức của tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng (theo nghĩa hẹp) là quan hệ tín dụng giữa TCTD (bên
cấp tín dụng) với các tổ chức và cá nhân (bên đi vay) trong đó TCTD thực hiện việc
chuyển giao các nguồn vốn tiền tệ hoặc tài sản cho bên đi vay trong một thời gian
nhất định theo nguyên tắc hoàn trả cả vốn và lãi vay12. Như thế, khác với các hình
thức tín dụng khác, tín dụng ngân hàng có những đặc điểm đặc thù sau đây:
- Một bên tham gia quan hệ tín dụng ln là các TCTD hoặc các tổ chức
khác được phép thực hiện hoạt động ngân hàng. Trong khi đó, bên cấp tín dụng
trong quan hệ tín dụng thơng thường có thể là bất kỳ tổ chức, cá nhân nào.
- Đối tượng cấp tín dụng của tín dụng ngân hàng được biểu hiện dưới hình
thức là vốn tiền tệ hoặc tài sản.
- Thời hạn cho vay trong tín dụng ngân hàng rất đa dạng và phong phú.
Hoạt động CTTC có đầy đủ những đặc điểm đặc thù trên khi bên cho thuê
trong hoạt động CTTC là các TCTD phi ngân hàng (công ty CTTC, công ty TC),
đối tượng của CTTC là tài sản theo quy định của pháp luật (máy móc, phương tiện
vận chuyển, thiết bị hoặc các tài sản khác theo quy định của NHNN13) và thời hạn

CTTC là trung và dài hạn.
Ngoài ra, giao dịch CTTC cũng đảm bảo được những nguyên tắc của tín
dụng ngân hàng đó là ngun tắc hồn trả cả vốn lẫn lãi và nguyên tắc sử dụng tài
sản thuê tài chính đúng mục đích đã thỏa thuận. Theo đó, trong một giao dịch
CTTC, bên cho thuê sẽ chuyển giao tài sản cho bên thuê sử dụng và thanh toán tiền
thuê trong suốt thời hạn thuê mà hai bên đã thỏa thuận. “Tính chất thanh toán trọn
vẹn của giao dịch cho thuê tài chính cho thấy bản chất tín dụng của hoạt động này.
Tổ chức tín dụng được bảo đảm về khả năng hồn trả của khách hàng đối với
khoản tín dụng đã chuyển giao thông qua quyền nhận tiền thuê”14. Khoản tiền thuê
mà bên đi thuê trả cho bên cho thuê bao gồm: giá mua tài sản, chi phí hợp lý (chi
phí tiến hành các thủ tục như đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu,…) và lãi
cho thuê. Hơn nữa, trong hoạt động CTTC, bên th cịn có nghĩa vụ phải sử dụng
12

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2010),Giáo trình Luật Ngân hàng, Nxb Đại học quốc gia TP. Hồ
Chí Minh, tr.213.
13
Xem: Khoản 8, Điều 3, Nghị định 39/2014/NĐ – CP về hoạt động của Công ty tài chính và Cơng ty cho
th tài chính.
14
Ths. Trần Vũ Hải, Pháp luật về cho thuê tài chính – Một số vấn đề cần hoàn thiện (2008),
< truy cập ngày 17/06/2014.

11.


tài sản thuê đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng CTTC; không được bán,
chuyển quyền sử dụng tài sản thuê cho cá nhân, tổ chức khác, trừ trường hợp bên
cho thuê và bên thuê có thỏa thuận khác trong hợp đồng CTTC15.
Từ những phân tích trên có thể thấy hoạt động CTTC là một hình thức của

tín dụng ngân hàng.
Thứ hai, chủ thể của hoạt động CTTC là bên cho thuê (công ty CTTC và
công ty TC) và bên thuê
Theo quy định của Luật các TCTD, hoạt động CTTC được thực hiện bởi
công ty CTTC. Cụ thể, theo khoản 4, Điều 112, Luật các TCTD 2010 thì một trong
những hoạt động mà công ty CTTC được phép thực hiện là CTTC. Ngoài ra, hoạt
động CTTC cũng được thực hiện bởi các cơng ty TC16. Theo đó, cơng ty TC được
phép hoạt động trong lĩnh vực CTTC nếu đáp ứng các điều kiện luật định, đó là:
Hoạt động CTTC của công ty TC phải được ghi trong giấy phép thành lập và hoạt
động do NHNN cấp; có đội ngũ cán bộ đủ trình độ, năng lực chun mơn, cơ sở vật
chất, công nghệ, phương tiện, thiết bị và các quy định nội bộ theo quy định pháp
luật để thực hiện hoạt động CTTC; đáp ứng đầy đủ điều kiện nghiệp vụ đối với hoạt
động CTTC do NHNN quy định; có quy định nội bộ về quy trình, thủ tục, nguyên
tắc nhận biết khách hàng để giám sát chặt chẽ, bảo đảm ngăn ngừa viêc lạm dụng
cho các mục địch rửa tiền, tài trợ khủng bố và tội phạm khác17.
Như vậy, bên cho thuê trong hoạt động CTTC theo quy định của pháp luật
hiện hành là công ty CTTC và cơng ty TC.
Về phía bên th, theo quy định tại khoản 10, Điều 3, Nghị định 39/2014/NĐ
– CP về hoạt động của Cơng ty tài chính và Cơng ty cho th tài chính thì “bên th
tài chính là tổ chức, cá nhân hoạt động tại Việt nam trực tiếp sử dụng tài sản cho
thuê cho mục đích hoạt động của mình”. Mặc dù hiện nay chưa có văn bản mới
hướng dẫn Nghị định 39/2014/NĐ – CP về hoạt động của Cơng ty tài chính và cơng
ty tài chính nhưng theo quy định tại Điểm 2.2, Mục I, Thông tư 05/2006/TT NHNN hướng dẫn một số nội dung về hoạt động cho thuê tài chính và dịch vụ ủy
thác cho thuê tài chính theo quy định tại nghị định số 16/2001/NĐ – CP và Nghị
định số 65/2005/NĐ – CP thì bên thuê phải đáp ứng các điều kiện cụ thể như sau:
“Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp
luật. Có dự án đầu tư sản xuất kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư phục vụ đời
sống khả thi, hiệu quả, phù hợp với quy định của pháp luật và sử dụng tài sản thuê
15


Xem: Khoản 2, Điều 20, Nghị định 39/2014/NĐ – CP về hoạt động của Công ty tài chính và Cơng ty cho
th tài chính.
16
Xem: Điểm g, Khoản 1, Điều 108, Luật các TCTD.
17
Xem: Khoản 9, Điều 3 và Điều 13, Nghị định 39/2014/NĐ – CP về hoạt động của Cơng ty tài chính và
Cơng ty cho thuê tài chính.

12.


để thực hiện dự án đó. Có khả năng tài chính đảm bảo thanh tốn tiền th trong
thời hạn đã cam kết”.
Thứ ba, đối tƣợng của hoạt động CTTC là tài sản
Mặc dù hoạt động CTTC mang bản chất là hoạt động tín dụng ngân hàng
nhưng khác với hoạt động cấp tín dụng18 khác như cho vay, chiết khấu,… khi đối
tượng chuyển giao là tiền tệ thì hình thức chuyển giao tín dụng trong hoạt động
CTTC là tài sản. Theo đó, bên cho thuê sẽ cấp cho bên thuê một khoản tín dụng
dưới hình thức máy móc, phương tiện vận chuyển, thiết bị hoặc tài sản khác theo
quy định của NHNN19.
Hơn nữa, trong hoạt động CTTC, bên thuê có quyền lựa chọn, thỏa thuận với
bên cho thuê về tài sản CTTC và chịu trách nhiệm đối với việc lựa chọn tài sản
thuê, bên cung ứng, các điều khoản, điều kiện liên quan đến tài sản thuê, bao gồm
các đặc tính kỹ thuật, chủng loại, giá cả, thời hạn giao nhận, lắp đặt, bảo hành tài
sản thuê và các điều khoản, điều kiện khác có liên quan đến tài sản thuê20. Có thể
nói “khác với các hình thức cho th tài sản thông thường theo quy định của pháp
luật dân sự, trong hoạt động CTTC, bên cho thuê chỉ giữ quyền sở hữu “danh
nghĩa” đối với tài sản cho thuê…, còn những quyền năng cụ thể đối với tài sản cho
thuê được chuyển giao hồn tồn cho bên th”21.
Vì bên th là người trực tiếp lựa chọn, khai thác giá trị sử dụng của tài sản

nên đã dẫn đến việc bên thuê là chủ thể phải chịu mọi rủi ro về việc tài sản thuê bị
mất cũng như phải chịu mọi chi phí bảo dưỡng, sửa chữa, thay thế tài sản thuê trong
thời hạn thuê, và chịu trách nhiệm về mọi hậu quả do việc sử dụng tài sản thuê gây
ra đối với tổ chức, cá nhân khác trong quá trình sử dụng tài sản thuê22. Đây cũng là
một đặc điểm đặc thù nữa chỉ có ở hoạt động CTTC. Có thể nói “cho th tài chính
là loại cho th có khả năng chuyển dịch về căn bản tất cả những rủi ro và lợi ích
gắn liền với quyền sở hữu tài sản”23.
Thứ tƣ, thời hạn thuê là trung và dài hạn

18

Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng
một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho th tài chính, bao thanh
tốn, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ tín dụng khác (khoản 14, Điều 4, Luật CTCTD 2010).
19
Xem: Khoản 8, Điều 3, Nghị định 39/2014/NĐ – CP về hoạt động của Cơng ty tài chính và Cơng ty cho
th tài chính.
20
Xem: Khoản 1, Điều 19 và khoản 1 Điều 20, Nghị định 39/2014/ NĐ –CP về hoạt động của Cơng ty tài
chính và Cơng ty cho thuê tài chính.
21
Ths. Trần Vũ Hải, Pháp luật về cho thuê tài chính – Một số vấn đề cần hoàn thiện (2008),
< truy cập ngày 17/6/2014.
22
Xem: Khoản 5, Điều 20, Nghị định 39/2014/NĐ – CP về hoạt động của Cơng ty tài chính và Cơng ty cho
th tài chính.
23
Xem: Chuẩn mực kế toán số 06 về thuê tài sản sửa đổi năm 1997, có hiệu lực từ 01/01/1999.

13.



Thời hạn CTTC là thời hạn trung, dài hạn và thời hạn này chiếm phần lớn
thời gian hữu dụng của tài sản cho thuê. Thời gian hữu dụng chính là khoản thời
gian mà máy móc, thiết bị, phương tiện,… có thể được sử dụng một cách tốt nhất và
thường được căn cứ vào thời gian cần thiết khấu hao đối với mỗi loại tài sản cụ
thể24. Do thời gian hữu dụng của máy móc, thiết bị, phượng tiện,… thường kéo dài,
cho nên, để đảm bảo khả năng thu hồi vốn cũng như đạt được mục tiêu lợi nhuận
khi bỏ tiền ra mua tài sản và tiến hành cho thuê, thì thời hạn cho thuê trong các giao
dịch CTTC của các công ty CTTC, công ty TC phải từ một năm trở lên và được xác
định tương ứng với thời gian khấu hao của tài sản cho thuê. Ở Việt Nam, theo quy
định của pháp luật hiện hành thì “thời hạn cho thuê một tài sản phải ít nhất bằng
60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản cho thuê đó”25.
Đây cũng là đặc điểm quan trọng nhằm phân biệt CTTC, một nghiệp vụ tín
dụng của TCTD, và cho thuê tài sản thông thường. Trong quan hệ cho thuê tài sản,
tài sản cho thuê được hình thành và đã thuộc sở hữu của bên cho thuê trước khi hợp
đồng thuê được giao kết, đồng thời thời gian thuê thường là ngắn hạn, và thời hạn
này cũng không phụ thuộc vào thời gian khấu hao tài sản. Tuy nhiên, trong CTTC,
tài sản cho thuê thường được hình thành, được mua trên cơ sở hợp đồng CTTC và
thời hạn cho thuê là trung và dài hạn, được xác định căn cứ vào thời gian khấu hao
tài sản. Điểm khác biệt này quyết định cơ chế pháp lý điều chỉnh từng hoạt động,
theo đó, nếu cho thuê tài sản chịu sự điều chỉnh của Luật Dân sự thì CTTC là đối
tượng điều chỉnh của Luật ngân hàng.
Thứ năm, tổng số tiền thuê một tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê
tài chính ít nhất phải bằng giá trị tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng
Tiền thuê là số tiền mà bên thuê phải trả cho bên cho thuê theo thỏa thuận
trong hợp đồng CTTC26. Vì CTTC mang bản chất là một hoạt động tín dụng ngân
hàng, khoản tiền mà bên cho thuê bỏ ra để mua tài sản chính là một khoản tín dụng
được cấp cho bên thuê, cho nên việc thu hồi lại số tiền này là tất yếu. Đồng thời, để
đảm bảo cho khả năng thu hồi vốn cũng như đảm bảo được quyền lợi và sự an tồn

trong hoạt động CTTC của các cơng ty CTTC, cơng ty TC, thì tiền thuê thường
được xác định sao cho có thể bù đắp giá trị tài sản ở thời điểm ký kết hợp đồng và
chứa đựng cả lãi từ tiền thuê mà bên thuê phải trả. Ở Việt Nam, pháp luật cũng quy
định “tổng số tiền thuê một tài sản quy định tại hợp đồng CTTC ít nhất phải bằng
giá trị tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng”27. Nói cách khác, tổng số tiền bên thuê

24

Xem: Mục 4 – Chuẩn mực kế toán số 06 về thuê tài sản, sửa đổi năm 1997, có hiệu lực từ 01/01/1999.
Xem: Khoản 3, Điều 113, Luật các TCTD 2010.
26
Xem: Khoản 11, Điều 3, Nghị định 39/2014/NĐ – CP về tổ chức của Cơng ty Cho th tài chính và Cơng
ty tài chính.
27
Xem: Khoản 4, Điều 113, Luật các TCTD 2010.
25

14.


đồng ý trả cho bên cho thuê trong suốt thời hạn cho thuê phải bằng hoặc lớn hơn giá
trị của tài sản thuê, tức là tối thiểu tương đương với vốn đầu tư vào tài sản.
Đây cũng là một đặc điểm nữa nhằm phân biệt CTTC với cho thuê tài sản
thông thường. Bởi theo quy định tại Điều 481 BLDS 2005 thì “giá thuê tài sản do
các bên thỏa thuận. Trong trường pháp luật có quy định về khung giá thuê thì các
bên chỉ được thỏa thuận giá thuê trong phạm vi khung giá đó”.
Thứ sáu, hoạt động CTTC mang tính khơng thể hủy ngang
Trong thời hạn cho th, các bên không được đơn phương hủy hợp đồng.
Bên thuê và bên cho thuê chỉ được quyền hủy ngang giao dịch CTTC khi rơi vào
một trong những trường hợp nhất định được pháp luật cho phép28.

CTTC là một hoạt động tín dụng ngân hàng của các công ty CTTC, công ty
TC. Trong hoạt động này, công ty CTTC, công ty TC là những chủ thể bỏ vốn ra
mua tài sản theo yêu cầu của bên thuê để CTTC. Số tiền đầu tư này là do các công
ty CTTC, công ty TC huy động, vay từ các tổ chức và phải trả lãi. Do đó, nếu chưa
đạt được mục tiêu thu hồi lại được vốn cũng như lợi nhuận, mà hợp đồng CTTC bị
hủy ngang, thì thiệt hại xảy ra đối với các công ty CTTC, công ty TC là rất lớn. Mặt
khác, công ty CTTC, công ty TC không phải là doanh ngiệp kinh doanh hàng hóa,
do vậy, nếu hợp đồng CTTC bị hủy ngang, tài sản thu hồi lại đã qua sử dụng thì sẽ
gây ra khó khăn rất lớn trong việc kinh doanh để có thể thu hồi vốn và có lãi. Vì lẽ
đó, về ngun tắc, bên th khơng được đơn phương đình chỉ hợp đồng. Quy định
này nhằm giúp cho các công ty CTTC, công ty TC tránh được tình trạng bị động
trong việc sử dụng nguồn vốn kinh doanh của mình.
Về phía bên th, trong hoạt động CTTC, khách hàng thuê tài sản và trả tiền
thuê theo đợt, có thể là theo q, theo tháng, vì vậy mà khi tài sản thuê bị lấy lại thì
khách hàng có thể rơi vào thế bị động, nhưng thiệt hại sẽ là không lớn như đối với
bên thuê bởi họ có thể đi thuê hoặc mua máy móc, thiết bị,… khác. Tuy nhiên, trên
thực tế, bên đi thuê phần lớn là những doanh nghiệp thiếu vốn để mua sắm thiết bị,
máy móc,… phục vụ sản xuất, kinh doanh. Do đó, khi hợp đồng CTTC bị hủy
ngang, mặc dù quyền lợi của họ không bị ảnh hưởng nhiều như bên cho thuê, nhưng
nếu rơi vào tình trạng bị động, thì khả năng hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp bị gián đoạn là rất dễ xảy ra.
Vì những lý do trên, để tránh các nguy cơ rủi ro xảy ra do việc hợp đồng
CTTC bị hủy ngang thì pháp luật hiện hành quy định: Các bên không được đơn
phương hủy bỏ hợp đồng CTTC (trừ các trường hợp nhất định được pháp luật cho
phép).
28

Xem: Khoản 12, Điều 3, Điều 21, Nghị định 39/2014/NĐ – CP về hoạt động của Cơng ty Cho th tài
chính và Cơng ty tài chính.


15.


Thứ bảy, bên thuê có quyền lựa chọn mua lại tài sản hoặc tiếp tục thuê
tài sản khi kết thúc thời hạn cho thuê
Tài sản trong hoạt động CTTC thường là loại tài sản mang tính chất đặc thù
vì nó được mua theo sự lựa chọn của bên thuê và sự thỏa thuận của hai bên cho phù
hợp với mục đích sử dụng trong điều kiện cụ thể của bên thuê và gần như chỉ có bên
thuê mới có nhu cầu sử dụng. Ngược lại, bên cho thuê lại hoàn tồn khơng có nhu
cầu sử dụng tài sản. Hơn nữa, nếu sau khi kết thúc thời hạn thuê, tài sản được trả lại
cho bên cho thuê thì bên cho thuê phải tốn thêm các khoản chi phí như thuê kho bãi,
vận chuyển, lắp đặt,… Trong trường hợp bên cho thuê bán được tài sản sau khi thu
hồi thì giá bán cũng sẽ rất thấp so với giá trị còn lại của tài sản vì tài sản đã được sử
dụng trong một thời gian dài. Vì lẽ đó mà khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê có
quyền lựa chọn mua lại tài sản hoặc tiếp tục khai thác lợi ích từ tài sản thuê khi họ
có nhu cầu29.
Nếu bên thuê muốn mua tài sản đó thì thỏa thuận với bên cho thuê thực hiện
hợp đồng mua bán tài sản và chuyển giao quyền sở hữu từ bên cho thuê sang bên
thuê theo giá thỏa thuận. Đây được xem là “quyền ưu tiên” dành cho bên thuê. Bên
cho thuê chỉ được quyền bán lại tài sản hay cho người khác thuê nếu bên thuê từ
chối thực hiện quyền của mình.
Như vậy, qua những phân tích trên, có thể thấy hoạt đơng CTTC vừa mang
bản chất của hoạt động tín dụng ngân hàng lại vừa mang bản chất của hoạt động cho
thuê tài sản thông thường theo quy định của BLDS. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn
có những đặc trưng riêng tạo nên sự khác biệt của hoạt động CTTC so với các hình
thức cho th tài sản hay cấp tín dụng khác. Sự khác biệt này sẽ giúp ta hiểu rõ hơn
về bản chất của hoạt động CTTC. Đồng thời, điều này cũng đóng vai trị quan trọng
trong việc giúp các nhà lập pháp xậy dựng và hoàn thiện các quy chế pháp lý nhằm
điều chỉnh hoạt động này.
1.2 Những rủi ro thƣờng gặp trong hoạt động CTTC

CTTC là hoạt động tín dụng trung và dài hạn, vì vậy hoạt động CTTC có
những rủi ro giống như hoạt động tín dụng nói chung, đồng thời cũng có những rủi
ro đặc thù. Những rủi ro này xuất phát từ những nguyên nhân khách quan, chủ quan
khác nhau nhưng nhìn chung có thể phân chia những rủi ro thường gặp trong hoạt
động CTTC thành những nhóm điển hình sau đây: rủi ro tài chính, rủi ro hoạt động,
rủi ro liên quan đến tài sản cho thuê.
1.2.1 Rủi ro tài chính

29

Xem: Khoản 2, Điều 19, Nghị định 39/2014/NĐ – CP về hoạt động của Cơng ty tài chính và Cơng ty cho
th tài chính.

16.


Rủi ro tài chính được hiểu là những rủi ro liên quan trực tiếp đến việc thu hồi
tiền thuê, gây nên những thiệt hại về mặt tài chính cho các cơng ty CTTC, cơng ty
TC. Đó là những rủi ro khi bên thuê không trả tiền thuê đến hạn hay tiền thuê mà
bên cho thuê nhận được không đủ bù đắp vốn gốc để tái tạo lại tài sản. Và đặc biệt
là rủi ro về thanh khoản khi công ty CTTC, công ty TC thiếu khả năng chi trả với
việc không chuyển đổi kịp thời các loại tài sản thành tiền mặt để đáp ứng nhu cầu
thanh toán tức thời.
Trong q trình hoạt động, cơng ty CTTC, cơng ty TC ln có thể gặp phải
những rủi ro tài chính khi mà bên thuê không trả tiền thuê đến hạn30. Loại rủi ro này
thường xuất phát từ những nguyên nhân như bên th khơng đủ khả năng thanh
tốn tiền th khi đến hạn do tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh yếu
kém, bên thuê có ý định lừa đảo, dây dưa không trả nợ mặc dù tài sản thuê vẫn khai
thác hiệu quả. Có thể nói rủi ro này rất đáng lo ngại bởi nó sẽ làm trì trệ và làm đảo
lộn kế hoạch kinh doanh của bên cho thuê cũng như gây ra những khó khăn nhất

định cho bên cho thuê trong quá trình thu hồi vốn. Thậm chí, có những trường hợp
bên cho th đã áp dụng các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp như gia hạn nợ, cơ cấu
lại nợ,… nhưng bên thuê vẫn không có khả năng trả được nợ. Do đó, khi rủi ro này
xảy ra thì thiệt hại đối với các cơng ty CTTC, cơng ty TC sẽ là khơng nhỏ.
Ngồi ra, rủi ro tài chính cịn được thể hiện qua việc tiền thuê mà bên cho
thuê nhận được không đủ bù đắp vốn gốc để tái tạo lại tài sản, do bên cho th
khơng dự tính được một cách chính xác tốc độ trượt giá của tài sản hoặc do bên thuê
trả lại tài sản khi chưa hết hạn hợp đồng thuê mà tài sản đó có thể là tài sản chuyên
dụng nên khó có thể cho thuê tiếp hoặc nếu thanh lý được thì sẽ thanh lý với giá trị
thấp hơn giá trị cịn lại của tài sản31. Ví dụ như trong trường hợp vi phạm hợp đồng
CTTC và giữa các bên xảy ra tranh chấp, phải tố tụng tại các cơ quan chức năng,
dẫn tới hoạt động sản xuất của bên th có thể bị trì trệ và tài sản thuê phải ngừng
hoạt động, không được bảo dưỡng và bị xuống cấp, thì khi bên cho thuê thu hồi lại
tài sản, giá trị thu hồi sẽ thấp.
Đặc biệt, rủi ro thanh khoản là một trong những rủi ro lớn nhất mà các công
ty đang hoạt động trong lĩnh vực CTTC đang phải đối mặt hiện nay. Tính thanh
khoản của các TCTD được xem như là khả năng tức thời để đáp ứng nhu cầu thanh
toán. Do đặc thù của hoạt động CTTC là cho thuê với thời hạn trung và dài hạn nên
không thể thu hồi tài sản và chuyển đổi ngay để lấy tiền mặt, trong khi đó nguồn
vốn khách hàng gửi vào công ty CTTC, công ty TC có thể được người gửi rút ra bất
kỳ lúc nào. Trong trường hợp công ty CTTC, công ty TC khơng có khả năng để đáp
30

Nguyễn Minh Trí (2007), “Cho th tài chính trong q trình đa dạng hóa dịch vụ của các ngân hàng
thương mại”, Thị trường tài chính tiền tệ số 16 (238), ngày 15 tháng 8 năm 2007, tr.34 – 36, 60.
31
Nguyễn Minh Trí (2007), “Cho thuê tài chính trong q trình đa dạng hóa dịch vụ của các ngân hàng
thương mại”, Thị trường tài chính tiền tệ số 16 (238), ngày 15 tháng 8 năm 2007, tr.34 – 36, 60.

17.



ứng được nhu cầu thanh toán tức thời cũng như khơng thể vay mượn để đáp ứng
u cầu thanh tốn thì sẽ dễ rơi vào tình trạng rủi ro. Nếu cơng ty CTTC, cơng ty
TC có thể vay được từ các chủ thể khác trong nền kinh tế thì khi đó có thể đáp ứng
được nhu cầu cung ứng nhưng sẽ với chi phí rất cao.
Như vậy, rủi ro thanh khoản trong hoạt động CTTC là loại rủi ro khi các
cơng ty CTTC, cơng ty TC khơng có khả năng cung ứng đủ lượng tiền mặt cho nhu
cầu thanh khoản tức thời hoặc cung ứng đủ nhưng với chi phí cao32. Rủi ro này
thường xuất hiện từ các nguyên nhân như: các cơng ty CTTC, cơng ty TC có quy
mơ vốn nhỏ; không đảm bảo các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động CTCT như
tỷ lệ an toàn vốn, tỷ lệ về khả năng chi trả, tỷ lệ cho vay trên vốn huy động…; vi
phạm các quy định về giới hạn CTTC, về hạn chế CTTC,…
Từ những phân tích trên, có thể thấy rủi ro tài chính là một dạng rủi ro lớn
liên quan đến sự “sống còn” của các công ty CTTC, công ty TC. Bởi khi rủi ro này
xuất hiện, các công ty CTTC, công ty TC sẽ dễ bị rơi vào tình trạng khó khăn về tài
chính, từ đó sẽ làm giảm hiệu quả kinh doanh và đẩy các công ty này vào nguy cơ
đối mặt với tình trạng bị đình chỉ các giao dịch hay phá sản.
Để ngăn ngừa rủi ro tài chính, nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty
CTTC, công ty TC thì việc tạo một mơi trường pháp lý hoàn thiện trong các quy
định về điều kiện vốn pháp định, về phân loại nợ và trích lập dự phịng rủi ro, về
việc hạn chế CTTC, giới hạn CTTC cũng như từng bước xây dựng các tỷ lệ đảm
bảo an toàn trong hoạt động CTTC phù hợp là một yếu tố quan trọng, cần thiết phải
được thực hiện liên tục.
1.2.2 Rủi ro hoạt động
Rủi ro hoạt động là những rủi ro liên quan trực tiếp đến quá trình thực hiện
cho th, đó là rủi ro trong q trình thẩm định hồ sơ CTTC và rủi ro trong quá
trình giao kết và thực hiện hợp đồng CTTC.
Rủi ro trong quá trình thẩm định hồ sơ CTTC bao gồm rủi ro liên quan đến
việc thẩm định tài sản thuê, khách hàng thuê và thẩm định dự án thuê. Thẩm định

được hiểu là việc xem xét hồ sơ, tài liệu kỹ thuật nhằm xác định sự đầy đủ, hợp lệ
của hồ sơ đăng ký, tính khoa học và xác thực của bằng chứng chứng minh. Trong
thực tế, rủi ro trong quá trình thẩm định có thể xuất phát từ các ngun nhân như
trình độ yếu kém của cán bộ thẩm định dẫn đến việc thẩm định khơng chính xác,
thiếu sự kiểm tra, kiểm sốt của bên cho th trong q trình thực hiện việc thẩm
định; hay cũng có thể là do khách hàng cung cấp thơng tin khơng trung thực, cố tình
32

Trần Văn Trí, Rủi ro thanh khoản trong các ngân hàng thương mại Việt Nam và thế giới ,
< truy
cập ngày 17/06/2014.

18.


gian lận để được thuê tài sản; hay do sự cố tình nới tay của các nhân viên thẩm định
trong quá trình thẩm định nhằm nâng giá tài sản CTTC, hưởng lợi từ việc tiến hành
giao dịch CTTC…
Có thể nói, công tác thẩm định sẽ giúp các công ty CTTC, cơng ty TC đánh
giá tính khả thi, khả năng sinh lời của dự án. Vì vậy khi rủi ro xảy ra trong quá trình
thẩm định thì sẽ ảnh hưởng đến tính chính xác trong việc đưa ra quyết định CTTC
của bên cho thuê và từ đó sẽ ảnh hưởng đến tính bền vững, độ an tồn của các
phương án được tài trợ.
Bên cạnh đó, rủi ro trong q trình ký kết và thực hiện hợp đồng CTTC cũng
là một trong những dạng rủi ro đáng lo ngại liên quan trực tiếp đến quá trình thực
hiện hoạt động CTTC. Hợp đồng CTTC là văn bản pháp lý xác định giao dịch th
tài chính giữa bên th và bên cho th. Vì vậy khi ký kết hợp đồng cần phải tuân
thủ theo các điều kiện nhằm đảm bảo giá trị về mặt pháp lý của hợp đồng như người
tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; mục đích và nội dung của giao dịch
không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; người tham gia

giao dịch hồn tồn tự nguyện, hình thức thể hiện ra bên ngoài của giao dịch phù
hợp,…33
Hiện nay, trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng, các rủi ro đối với
hoạt động CTTC thường xảy ra do người ký hợp đồng khơng có thẩm quyền, loại
tài sản cho thuê trong hợp đồng không đúng với tài sản cho thuê trong thực tế, nội
dung của hợp đồng không đúng với các quy định của pháp luật hay những rủi ro
liên quan đến việc thực hiện không đúng hợp đồng CTTC, chấm dứt hợp đồng trước
thời hạn trong các trường hợp pháp luật quy định… Thực tế hiện nay cho thấy khi
thực hiện hợp đồng CTTC, nếu bên thuê thực hiện không đúng hợp đồng (như bán
tài sản CTTC cho bên thứ ba mà không được sự đồng ý của bên cho th) thì có thể
dẫn tới việc chấm dứt hợp đồng CTTC trước thời hạn. Trong trường hợp chấm dứt
hợp đồng CTTC trước thời hạn thì bên th có nghĩa vụ phải thanh tốn ngay tồn
bộ số tiền th cịn lại và các chi phí phát sinh đối với việc thu hồi tài sản. Nếu bên
th khơng thanh tốn thì có thể dẫn đến những tranh chấp phát sinh giữa cơng ty
CTTC, cơng ty TC với khách hàng th.
Có thể nói những rủi ro xảy ra trong q trình thẩm định, giao kết và thực
hiện hợp đồng sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của cả bên cho th tài chính và
bên th tài chính. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật nhằm tạo cơ chế đảm bảo hoạt
động thẩm định, giao kết và thực hiện hợp đồng đi vào hiệu quả, an toàn là một
trong những vấn đề cần đặt ra để ngăn ngừa, hạn chế những rủi ro, tổn thất có thể
xảy ra.
33

Xem: Điều 122 ; Khoản 1, Điều 410 BLDS 2005.

19.


×