Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Hoạt động bào chữa của trợ giúp viên pháp lý đối với vụ án mà bị can, bị cáo người dưới 18 tuổi theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.14 MB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TRẦN MINH LỘC

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Huỳnh Tấn Duy
Học viên: Trần Minh Lộc
Lớp: CHL Khóa 25

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn
khoa học của TS. Lê Huỳnh Tấn Duy. Các số liệu có nguồn gốc rõ ràng, kết quả
nghiên cứu là trung thực. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu và
tính trung thực của luận văn.


Tác giả

Trần Minh Lộc


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: BLHS

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CQTHTT

: Cơ quan tiến hành tố tụng

HĐXX

: Hội đồng xét xử

KSV

: Kiểm sát viên

LHQ

: Liên hợp quốc


NBC

: Người bào chữa

TGPL

: Trợ giúp pháp lý

TGVPL

: Trợ giúp viên pháp lý

THTT

: Tiến hành tố tụng

TTHS

: Tố tụng hình sự

VKS

: Viện kiểm sát


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA

CỦA TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ ĐỐI VỚI VỤ ÁN MÀ BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI ........................................................................................... 6
1.1. Một số khái niệm liên quan đến hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên
pháp lý đối với vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi .......................... 6
1.1.1. Khái niệm bào chữa ................................................................................. 6
1.1.2. Khái niệm trợ giúp pháp lý, Trợ giúp viên pháp lý ..................................9
1.1.3. Khái niệm bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi ..................................... 15
1.2. Đặc điểm, ý nghĩa hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với
vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi .................................................. 16
1.2.1. Đặc điểm hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với vụ án
mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi ........................................................... 16
1.2.2. Ý nghĩa hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với vụ án mà
bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi ................................................................. 17
1.3. Cơ sở quy định hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với vụ
án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi ........................................................ 20
1.4. Khái quát những quy định về hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên
pháp lý đối với vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi trước khi ban
hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ............................................................ 24
1.4.1. Giai đoạn trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Luật
Trợ giúp pháp lý năm 2006 .............................................................................. 24
1.4.2. Giai đoạn áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Luật Trợ giúp
pháp lý năm 2006 .............................................................................................. 26
Kết luận Chương 1 .................................................................................................. 28
CHƯƠNG 2. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA CỦA
TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ ĐỐI VỚI VỤ ÁN MÀ BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI ......................................................................................... 29


2.1. Quy định về việc chỉ định, thay đổi hoặc từ chối Trợ giúp viên pháp lý
làm người bào chữa và đăng ký bào chữa cho bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi

............................................................................................................................... 30
2.2. Quy định về hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị
can là người dưới 18 tuổi .................................................................................... 33
2.2.1. Quy định về hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị
can là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn điều tra ......................................... 33
2.2.2. Quy định về hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị
can là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn truy tố ........................................... 39
2.2.3. Quy định về hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị
can là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm ................ 40
2.3. Quy định về hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị
cáo là người dưới 18 tuổi .................................................................................... 42
2.3.1. Quy định về hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị
cáo là người dưới 18 tuổi tại phiên tòa sơ thẩm .............................................. 42
2.3.2. Quy định về hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị
cáo là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn xét xử phúc thẩm........................... 46
Kết luận Chương 2 .................................................................................................. 48
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA CỦA TRỢ GIÚP
VIÊN PHÁP LÝ ĐỐI VỚI VỤ ÁN MÀ BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI
18 TUỔI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ........................................................... 49
3.1. Thực trạng hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với vụ án
mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi ............................................................. 49
3.2. Đánh giá thực trạng hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối
với đối với vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi ............................... 54
3.2.1. Những kết quả đạt được trong hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên
pháp lý đối với vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi ........................ 54
3.2.2. Hạn chế trong hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với vụ
án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi và nguyên nhân ............................ 59
3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng hoạt động bào
chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới
18 tuổi ................................................................................................................... 65



3.3.1. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về hoạt động bào chữa của Trợ
giúp viên pháp lý đối với vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi ........ 65
3.3.2. Kiến nghị nâng cao chất lượng hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên
pháp lý đối với vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi ........................ 70
3.3.3. Một số kiến nghị khác ............................................................................. 72
Kết luận Chương 3 .................................................................................................. 74
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được
trợ giúp pháp lý, giúp họ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu
biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật (Điều 2 Luật Trợ giúp pháp
lý năm 2017). Trợ giúp pháp lý cịn góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật,
bảo vệ công lý, bảo đảm cơng bằng xã hội, phịng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi
phạm pháp luật.
Trợ giúp pháp lý ở các nước trên thế giới rất phát triển, mang lại hiệu quả
tích cực cho những người yếu thế trong xã hội. Trợ giúp pháp lý là một loại trợ giúp
tư pháp được đại đa số các nước trên thế giới áp dụng (khoảng 150 nước).
Ở Việt Nam, ngày 06/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 734/TTg về việc thành lập hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý cho đối tượng chính
sách, người nghèo, người dưới 18 tuổi... Triển khai thực hiện Quyết định số
734/TTg của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành, các Trung
tâm Trợ giúp pháp lý thuộc Sở Tư pháp ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương lần lượt đã được thành lập, củng cố. Kết quả công tác trợ giúp pháp lý trong

khoảng thời gian này đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết các khó khăn,
vướng mắc pháp luật và nâng cao hiểu biết pháp luật của người dân.
Ngày 29/6/2006, tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khố XI đã thơng qua Luật Trợ
giúp pháp lý, nâng từ một Quyết định của Thủ tướng Chính phủ lên thành Luật.
Trên cơ sở triển khai Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn thi hành,
công tác trợ giúp pháp lý đã đạt được những kết quả nhất định góp phần trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đối tượng yếu thế như: đối tượng chính
sách, người nghèo, người dưới 18 tuổi… nhằm bảo đảm công bằng trong tiếp cận
pháp luật.
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 ra đời là một chủ trương chính sách, đúng
đắn của Đảng và nhà nước nhằm trợ giúp pháp lý cho những người yếu thế trong xã
hội như: người nghèo, người già neo đơn, người bị nhiễm HIV… trong đó có đối
tượng là người dưới 18 tuổi. Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 (Điều 20) và Luật Trợ
giúp pháp lý năm 2017 (Điều 17) đều có quy định người thực hiện trợ giúp pháp lý
là Trợ giúp viên pháp lý, đến Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (có hiệu lực ngày


2
01/01/2018) khẳng định vai trò của Trợ giúp viên pháp lý trong việc bào chữa, bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho những đối tượng theo Luật Trợ giúp pháp lý trong
đó có người dưới 18 tuổi.
Tuy nhiên, học viên nhận thấy bên cạnh những hiệu quả tích cực mà hoạt
động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đã đạt được thì vẫn cịn tồn tại những khó
khăn, vướng mắc đặt ra cần phải được giải quyết trong thực tiễn. Cụ thể là khi Trợ
giúp viên pháp lý tham gia bào chữa trong các vụ án có đối tượng bị can, bị cáo là
người dưới 18 tuổi thì hoạt động này vẫn cịn mang tính hình thức, việc phối hợp
giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với Trợ giúp viên pháp lý vẫn chưa đảm bảo theo
quy định, chế độ chính sách đối với đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý còn nhiều hạn
chế, một số quy định pháp luật có liên đến hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên
pháp lý còn chưa phù hợp…

Với những lý do nêu trên, học viên chọn đề tài: “Hoạt động bào chữa của
Trợ giúp viên pháp lý đối với vụ án mà bị can, bị cáo người dưới 18 tuổi theo
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn Thạc sĩ luật học. Qua đề tài
nghiên cứu này, học viên mong muốn đưa ra những kiến nghị để giúp cho hoạt
động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với vụ án mà bị can, bị cáo người dưới
18 tuổi ngày càng tốt hơn, mang lại những hiệu quả thiết thực hơn trong thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới hình thức các đề tài luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, khóa luận cử nhân
luật, bài viết khoa học có một số cơng trình liên quan đến đề tài luận văn ở những
mức độ nhất định, điển hình bao gồm:
Về luận án tiến sĩ luật:
- Tạ Minh Lý (2008), Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam
trong điều kiện đổi mới, Đại học Hà Nội;
- Nguyễn Hữu Thế Trạch (2014), Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người
chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.
Về luận văn thạc sĩ luật:
- Đào Thanh Tuấn (2016), Quyền bào chữa của người bị buộc tội là người chưa
thành niên trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh;
- Lê Thị Mỹ Vân (2017), Thủ tục tố tụng đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.


3
Về khóa luận cử nhân luật:
- Lê Thị Diệu (2007), Hoạt động trợ giúp pháp lý tại Thành phố Hồ Chí
Minh, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh ;
- Ngơ Thị Ánh Tuyết (2010), Địa vị pháp lý của người bào chữa cho bị can,
bị cáo là người chưa thành niên, Hà Nội.
Về bài viết trên các tạp chí khoa học:
- Đồn Hữu Văn (2013), “Cơng tác trợ giúp pháp lý thực trạng và giải pháp”,

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề 6;
- Nguyễn Thái Phúc, (2007), “Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa trong
tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4;
- Nguyễn Hữu Thế Trạch (2007), “Thủ tục tố tụng thân thiện đối với bị can,
bị cáo là người chưa thành niên”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 03;
- Lê Huỳnh Tấn Duy (2013), “Đánh giá quy định của Luật tố tụng hình sự
Việt Nam về quyền bào chữa của người chưa thành niên trên cơ sở tiêu chuẩn của
Liên Hợp Quốc”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4.
- Lê Huỳnh Tấn Duy (2018), “Pháp luật Việt Nam về trợ giúp pháp lý trong
tố tụng hình sự”, Tạp chí Luật học, số 11.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã làm rõ một số quy định
của Luật Trợ giúp pháp lý và vai trò của Trợ giúp viên pháp lý trong việc tham gia
bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên,
các cơng trình trên chưa nghiên cứu sâu về hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên
pháp lý đối với vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi theo luật tố tụng hình
sự Việt Nam. Mặt khác, các cơng trình nghiên cứu nêu trên có một số nội dung
khơng cịn mang tính thời sự vì dựa trên các văn bản pháp luật đã hết hiệu lực.
Như vậy, dưới góc độ một luận văn thạc sĩ luật học, cho đến nay chưa có
cơng trình nào đi sâu nghiên cứu hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý
đối với với vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi theo trong tố tụng hình
sự Việt Nam, đặc biệt là theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Do
đó, đề tài luận văn của tác giả là khơng trùng lặp hồn tồn với các cơng trình
nghiên cứu trước đây, đáp ứng tính mới trong nghiên cứu khoa học.


4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng hoạt động bào chữa của
Trợ giúp viên pháp lý đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, luận văn góp

phần làm sáng tỏ những điều chưa hợp lý trong thực tiễn áp dụng các quy định của
pháp luật, phát hiện những hạn chế, thiếu sót về mặt lập pháp. Trên cơ sở đó, luận
văn đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động bào chữa của
Trợ giúp viên pháp lý đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ
chủ yếu sau: khái quát về những vấn đề lý luận về hoạt động bào chữa của Trợ giúp
viên pháp lý đối với vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi; phân tích những
quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động này; đánh giá thực trạng và đề xuất
một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự và nâng cao hiệu
quả hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị can, bị cáo là người
dưới 18 tuổi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Về đối tượng nghiên cứu: luận văn nghiên cứu hoạt động bào chữa của Trợ
giúp viên pháp lý đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi trong Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015, có sự đối chiếu với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và các văn
bản pháp luật khác có liên quan.
- Về phạm vi nghiên cứu: tác giả khảo sát, đánh giá thực tiễn thực hiện hoạt
động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị can, bị cáo là người dưới 18
tuổi trên phạm vi toàn quốc trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018, trong đó
tập trung vào 04 địa phương: thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Quảng Ngãi, tỉnh An
Giang và tỉnh Bến Tre.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về hoạt động trợ giúp pháp lý.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, học viên sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như sau:



5
- Phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp: đây là phương pháp chủ
yếu được sử dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê nhằm cung cấp số liệu thực tiễn làm cho luận văn có
tính thuyết phục cao, phương pháp kết hợp giữa lý luận với thực tiễn để đưa ra
những kiến nghị phù hợp.
- Phương pháp khảo sát ý kiến chuyên gia: được sử dụng để khảo sát ý kiến
của các Trợ giúp viên pháp lý, người được trợ giúp pháp lý trong q trình bào chữa
đối với vụ án có bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi.
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Luận văn hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về hoạt động bào chữa
của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, đồng thời xác
định những khó khăn, vướng mắc và đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự liên quan đến hoạt động bào chữa của Trợ giúp
viên pháp lý đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi và một số quy định pháp luật có
liên quan.
Luận văn cũng tiến hành thu thập số liệu, tài liệu thực tiễn phản ánh thực
trạng hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị can, bị cáo là người
dưới 18 tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Quảng Ngãi, tỉnh An Giang và tỉnh
Bến Tre, qua đó đánh giá những ưu, hạn chế và những nguyên nhân của hạn chế để
đưa ra được những kiến nghị nhằm để nâng cao chất lượng bào chữa của Trợ giúp
viên pháp lý đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung chính
của luận văn được bố cục thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên
pháp lý đối với vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi
Chương 2. Pháp luật Việt Nam về hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên
pháp lý đối với vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi

Chương 3. Thực trạng hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với
vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi và kiến nghị hoàn thiện


6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA
CỦA TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ ĐỐI VỚI VỤ ÁN MÀ BỊ CAN,
BỊ CÁO LÀ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
1.1. Một số khái niệm liên quan đến hoạt động bào chữa của Trợ giúp
viên pháp lý đối với vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi
1.1.1. Khái niệm bào chữa
Theo nghĩa thơng thường thì:“Bào chữa là dùng lý lẽ và chứng cứ để bênh
vực cho đương sự nào đó thuộc vụ án hình sự hay dân sự trước Tòa án hoặc cho
một việc làm đang bị lên án”1. Theo khái niệm này thì bào chữa là việc dùng những
lý lẽ, chứng cứ để bênh vực cho hành vi của một người nào đó đang bị xem là phạm
pháp hoặc đang bị lên án mà thông qua việc bào chữa này sẽ giúp cho người được
bào chữa được miễn hoặc giảm nhẹ trách nhiệm đối với sự việc được xem là phạm
pháp hoặc đang bị lên án đó. Như vậy bào chữa được thực hiện chủ yếu là từ phía
NBC, khi có sự việc xảy ra thì đương sự trong vụ việc đó sẽ được người khác thực
hiện việc bào chữa cho mình chứ khơng đề cập đến việc đương sự đó có thực hiện việc tự
bào chữa không.
Bào chữa theo từ điển Tiếng Việt theo cách hiểu nêu trên sẽ bao gồm cả vụ
án dân sự, theo đó đối tượng bào chữa sẽ bao gồm các đương sự khác như: nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan…, chứ không chỉ riêng đối
tượng là người bị buộc tội trong vụ án hình sự nhưng bào chữa được hiểu theo
nghĩa như vậy là không hợp lý, thuật ngữ “bào chữa” sẽ chỉ phù hợp khi áp dụng
trong vụ án hình sự, cịn trong vụ án dân sự khi bảo vệ quyền lợi của đương sự nên
dùng thuật ngữ “bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp” sẽ chính xác hơn.
Theo cách hiểu của tác giả thì bào chữa là việc dùng những lý lẽ, tranh luận

để chứng minh hành vi của một người nào đó khơng phải là tội phạm trước sự buộc
tội của người khác hoặc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc bào chữa này
được hiểu là dùng lời nói để bênh vực, bảo vệ cho một người nào đó mà bản thân
người đó khơng thể tự bào chữa được, thuật ngữ “bào chữa” chỉ được sử dụng trong
vụ án hình sự, không áp dụng đối với các vụ án khác.

1

Từ điển Tiếng Việt (2006), Nxb Đà Nẵng, tr. 38.


7
Trong TTHS, thuật ngữ “bào chữa” có thể được hiểu ở nhiều góc độ khác
nhau như: một chức năng tố tụng cơ bản, một quyền tố tụng của người bị buộc tội,
một hoạt động TTHS. Đối với luận văn này, tác giả tập trung phân tích bào chữa
dưới góc độ là một hoạt động trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
- Bào chữa là một trong những chức năng cơ bản của TTHS
Trong TTHS có nhiều chức năng khác nhau nhưng chức năng tố tụng cơ bản
thì có 3 loại: chức năng buộc tội, chức năng bào chữa, chức năng xét xử. Đây là
quan điểm được thừa nhận bởi nhiều nhà nghiên cứu khoa học pháp lý. Dưới góc độ
này thì: “Chức năng bào chữa là một dạng hoạt động tố tụng được pháp luật đảm
bảo cho người bị buộc tội khả năng bằng cách tự mình hay nhờ người khác đưa ra
các chứng cứ và lập luận nhằm không chỉ bác bỏ sự buộc tội, làm giảm nhẹ trách
nhiệm cho mình mà cịn đưa ra những gì có lợi cho người bị buộc tội trong q
trình tố tụng”2.
Chức năng bào chữa thông thường bắt đầu từ khi khởi tố bị can, trong trường
hợp có người bị bắt, người bị tạm giữ thì sẽ bắt đầu sớm hơn, và chức năng này kết
thúc khi bản án hoặc quyết định của Tịa án có hiệu lực pháp luật. Chủ thể thực hiện
chức năng bào chữa bao gồm: người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo) và NBC.

- Bào chữa là một quyền tố tụng của người bị buộc tội
Điều 16 BLTTHS năm 2015 quy định: “Người bị buộc tội có quyền tự bào
chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng có trách nhiệm thơng báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc
tội,... thực hiện đầy đủ quyền bào chữa,... của họ theo quy định của Bộ luật này”.
Đây là một nguyên tắc cơ bản của luật TTHS Việt Nam. Nguyên tắc này được cụ
thể hóa thơng qua những quy định về quyền của bị can, bị cáo tại khoản 2 Điều 60,
61 BLTTHS năm 2015, trong đó có quyền tự bào chữa, nhờ NBC3.
Tự bào chữa
Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì người bị buộc tội nói chung và bị
can, bị cáo là người dưới 18 tuổi nói riêng có thể thực hiện tự bào chữa cho mình để
giảm nhẹ TNHS hoặc chống lại sự buộc tội của các CQTHTT. Trong đó bị can, bị cáo
2

Lê Tiến Châu (2001), Các chức năng tố tụng cơ bản trong tố tụng hình sự, Luận văn thạc sĩ luật học,
Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr. 40.
3
Điểm h khoản 2 Điều 60, điểm g khoản 2 Điều 61 BLTTHS năm 2015.


8
có quyền được đưa ra những chứng cứ, ý kiến, các yêu cầu, tranh luận… để làm rõ sự
thật khách quan vụ án, quyền biết mình bị các CQTHTT khởi tố tội gì, có cơ sở hay
khơng. Tuy nhiên, đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 để có thể tự bào chữa cho
mình là khơng dễ thực hiện vì ở độ tuổi này tâm, sinh lý, nhận thức của đối tượng này
chưa phát triển đầy đủ để nhận biết về pháp luật như người trưởng thành được nên việc
tự bào chữa của các đối tượng này sẽ gặp khó khăn dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp sẽ
không được đảm bảo nên việc nhờ TGVPL hoặc người khác bào chữa là rất quan
trọng, có ý nghĩa thiết thực khi bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đối tượng này.
Nhờ người khác bào chữa

Ngồi việc tự mình bào chữa thì người bị buộc tội cũng có thể nhờ người
khác bào chữa. NBC theo Điều 72 BLTTHS năm 2015 là: Luật sư, người đại diện
của người bị buộc tội, Bào chữa viên nhân dân, TGVPL trong trường hợp người bị
buộc tội thuộc đối tượng được TGPL.
Trong những trường hợp luật định, nếu người buộc tội là bị can, bị cáo là
người dưới 18 tuổi, người đại diện hoặc người thân thích của đối tượng này khơng
mời NBC thì các cơ quan, người có thẩm quyền THTT phải yêu cầu Đoàn luật sư
cử NBC hoặc Trung tâm TGPL nhà nước phải cử TGVPL hoặc Luật sư thực hiện
TGPL bào chữa cho các đối tượng bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi. Mặt khác, để
đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, đầy đủ, khơng làm
oan người vơ tội thì nhờ NBC là rất cần thiết, giúp CQTHTT xác định sự thật vụ án
được khách quan. Hơn nữa, để quá trình giải quyết vụ án đạt hiệu quả cao bên cạnh
việc buộc tội còn thực hiện tốt gỡ tội, hai chức năng này phải ln song hành với
nhau. Đó cũng là một trong những cơ sở giúp Toà án giải quyết vụ án chính xác.
Có thể nhận thấy rằng, chủ thể với tư cách là bị can, bị cáo có thể dựa vào
những quy định của pháp luật TTHS để tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình,
tuy nhiên bị can, bị cáo có thực hiện hay khơng là tùy thuộc vào nhận thức của họ,
còn chủ thể là NBC sẽ lựa chọn các quyền của mình để sử dụng cho phù hợp tùy
tình hình, bởi lẽ suy cho cùng đó là nghĩa vụ đồng thời cũng là nghề nghiệp mà
NBC phải thực hiện.
- Bào chữa là một hoạt động TTHS
Tố tụng hình sự được hình thành từ vơ vàn các hoạt động như khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử,… và bào chữa là một trong số các hoạt động đó. Như đã đề cập,
hoạt động bào chữa có thể do bị can, bị cáo tự thực hiện và cũng có thể do NBC


9
thực hiện. Hoạt động bào chữa có chủ thể, nội dung và mục đích cụ thể, rõ ràng.
Bào chữa đối lập với buộc tội nhưng về lý thuyết thì xuất hiện và chấm dứt cùng lúc
với sự buộc tội trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Hoạt động bào chữa xuất

hiện trước khi xét xử nhưng thể hiện đậm nét nhất là tại phiên tịa hình sự sơ thẩm
thông qua thủ tục tranh tụng. Các hoạt động thuộc nội hàm khái niệm bào chữa
trong các giai đoạn tiền xét xử thực chất là sự chuẩn bị, là tiền đề cho việc thực hiện
hoạt động bào chữa có chất lượng tại phiên tịa.
Hoạt động bào chữa có thể được tiến hành dưới hình thức trực tiếp hoặc gián
tiếp. Người bị buộc tội và NBC có thể trực tiếp thu thập, đưa ra chứng cứ, ý kiến,
lập luận, tranh luận để chống lại sự buộc tội. Bên cạnh đó, họ cũng có thể gián tiếp
đưa ra những chứng cứ có lợi cho mình thơng qua việc u cầu, đề nghị cơ quan có
thẩm quyền THTT triệu tập người làm chứng, tiến hành các hoạt động điều tra như:
định giá tài sản, giám định, thực nghiệm điều tra, đối chất,… hoặc đề nghị chủ tọa
phiên tịa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ (Điều 307), trình bày ý kiến
về kết luận giám định; đề nghị giám định bổ sung hoặc giám định lại (Điều 214),…
Như vậy, dưới góc độ là một hoạt động TTHS, ta có thể hiểu: “Bào chữa là
việc người bị buộc tội tự mình hoặc nhờ người bào chữa dùng các chứng cứ, lập
luận để bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội nhằm chứng minh sự vô tội, làm
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc đưa ra những gì có lợi cho người bị buộc tội
trong quá trình tố tụng hình sự”.
1.1.2. Khái niệm trợ giúp pháp lý, Trợ giúp viên pháp lý
1.1.2.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý
Trợ giúp theo nghĩa thơng thường là giúp đỡ cho những người khó khăn,
thường là giúp đỡ về mặt vật chất. Trợ giúp cũng có thể là trợ giúp về sức khỏe, tâm
lý, nghiệp vụ…. Trong khi đó, trợ giúp pháp lý nói chung là trợ giúp về mặt pháp
luật trong các lĩnh vực khác nhau như: dân sự, hình sự, hành chính… dưới các hình
thức đa dạng như: tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp cho đương sự, đại diện ngoài tố tụng…
Theo Từ điển Anh - Việt thì thuật ngữ “legal aid ” được dịch là “trợ cấp pháp
4

lý”. Ngoài ra, trong một số tài liệu khác dịch “legal aid” là “hỗ trợ pháp luật”,“hỗ
trợ pháp lý” hoặc “hỗ trợ tư pháp”... Như vậy, có rất nhiều cách dịch khác nhau về

4

Lê Khả Kế (1997), Từ điển Anh - Việt, Nxb. Khoa học xã hội.


10
thuật ngữ này. Xuất phát từ bản chất, hình thức thực hiện tại nhiều quốc gia trên thế
giới và thực tiễn hoạt động này ở Việt Nam trong thời gian qua, “legal aid” được
dịch là “trợ giúp pháp lý” đang được sử dụng chính thức trong các văn bản pháp
luật và sách báo ở Việt Nam hiện nay5.
Khái niệm TGPL theo pháp luật một số nước
Pháp luật một số nước thì đề cập đến tính chất miễn phí hoặc giảm phí của
hoạt động TGPL. Ví dụ, Điều 1 Luật TGPL của Indonesia năm 2011 quy định:
“TGPL là dịch vụ pháp lý được cung cấp bởi người thực hiện TGPL miễn phí cho
người được TGPL”. Theo Luật TGPL của Indonesia, người được TGPL sẽ được
nhà nước chi trả toàn bộ chi phí trong q trình thực hiện TGPL cho họ.
Đối với Slovenia, Điều 1 Luật TGPL năm 2001 quy định: “Theo Luật này,
trợ giúp pháp lý có nghĩa là quyền của người được trợ giúp pháp lý được nhận một
phần hoặc tồn bộ chi phí chi trả cho việc giúp đỡ pháp luật và quyền được miễn
trả chi phí tố tụng tư pháp”. Theo Luật TGPL của Slovenia, người được TGPL sẽ
được nhà nước chi trả tồn bộ chi phí hoặc họ chỉ thanh tốn một phần chi phí trong
q trình thực hiện TGPL cho họ.
Luật TGPL Phần Lan năm 2002 quy định: “Trợ giúp pháp lý bao gồm quy
định về việc tư vấn pháp luật, các biện pháp cần thiết, đại diện trước Tồ án và các
cơ quan có thẩm quyền khác và việc miễn trừ những chi phí nhất định khi giải quyết
vụ việc theo quy định của Luật này”. Như vậy, ở Phần Lan TGPL sẽ bao gồm: tư
vấn pháp luật, đại diện cho người được TGPL tại Tịa án và các cơ quan có thẩm
quyền THTT, quy định về việc miễn trừ các chi phí cho người được TGPL.
Phần trình bày trên cho thấy TGPL theo Luật một số nước trên thế giới
hướng đến những đối tượng có khó khăn về tài chính, khơng đủ tiền để chi trả chi

phí cho Luật sư, với việc TGPL cho những đối tượng này sẽ giúp họ được miễn
hoặc giảm chi phí trong q trình tham gia tố tụng.
Khái niệm TGPL theo pháp luật Việt Nam
Trợ giúp pháp lý là một chính sách bảo đảm quyền con người, quyền cơng
dân và là một bộ phận của tổng thể các chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn, đáp
5

Trần Huy Liệu (2010), “Những mơ hình trợ giúp pháp lý và bài học kinh nghiệm thực hiện trợ giúp pháp lý
cho phụ nữ”. Nguồn: Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
< />(Truy cập vào ngày 10/12/2018).


11
nghĩa, chính sách dân tộc và ưu đãi xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Nhiệm vụ này
được giao cho ngành tư pháp triển khai từ năm 1997 theo Quyết định số 734/QĐTTg của Thủ tướng Chính phủ. Luật TGPL lần đầu tiên được Quốc hội ban hành
vào năm 2006.6 Văn bản này đưa ra khái niệm: “Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp
dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật
này, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình,
nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần
vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội,
phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật”7.
Hiện nay, khái niệm TGPL nêu trên đã được sửa đổi bởi Điều 2 Luật TGPL
năm 2017 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018) và tác giả cũng hoàn toàn thống nhất
với khái niệm này, theo đó: “Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý
miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy
định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp
cận cơng lý và bình đẳng trước pháp luật” 8. So với Luật TGPL năm 2006 thì với
khái niệm mới đã lược bỏ một số mục đích của hoạt động TGPL như: nâng cao hiểu
biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến,
giáo dục pháp luật, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật. Sự thay

đổi này cho thấy chúng ta sẽ tập trung vào việc giúp đỡ các đối tượng nhất định khi
giải quyết các vụ việc cụ thể nhằm đảm bảo sự công bằng, bảo vệ có hiệu quả hơn
quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Việc thu hẹp mục đích của hoạt động TGPL là
hồn tồn hợp lý, tăng tính khả thi trong thực tiễn.
Như vậy, điểm nổi bật của TGPL đó chính là miễn phí dành cho những đối
tượng theo luật quy định, tức là không phải đối tượng nào cũng được hưởng quyền
được hưởng dịch vụ TGPL miễn phí. Qua khái niệm TGPL đã cho chúng ta thấy
được bản chất của TGPL đó chính là cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí và chỉ áp
dụng cho những người thuộc diện được TGPL, mục đích của TGPL chính là bảo vệ
quyền con người, quyền công dân.

6

Thanh Trịnh (2010), “Một số điểm mới nổi bật Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các công việc cần triển
khai. Nguồn: Bộ Tư pháp.
< (Truy cập vào ngày 27/11/2018).
7
Điều 7 Luật trợ giúp pháp lý năm 2006.
8
Điều 2 Luật TGPL năm 2017.


12
Trợ giúp pháp lý trong TTHS
Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, TGPL theo quy định của LHQ “bao gồm tư
vấn pháp lý, hỗ trợ và đại diện cho người bị tạm giam, bị bắt hoặc bị tù giam, bị
tình nghi hay bị cáo buộc, hoặc bị buộc tội và cho các nạn nhân, nhân chứng trong
quá trình tố tụng hình sự, được cung cấp miễn phí cho những người khơng có đủ
điều kiện hoạch khi lợi ích của cơng lý (interests of justice) đòi hỏi như vậy. Hơn
nữa, “trợ giúp pháp lý” cũng có chủ đích bao hàm các khái niệm về giáo dục pháp

luật, tiếp cận thông tin pháp lý và các dịch vụ khác được cung cấp cho các đối
tượng thông qua các cơ chế giải quyết tranh chấp và quá trình tư pháp phục hồi”9.
Trợ giúp pháp lý trong TTHS được thực hiện dưới nhiều hình thức như tư
vấn pháp lý, hỗ trợ và đại diện tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng, trong từng hoạt
động tố tụng cụ thể sẽ quyết định hình thức TGPL nào là thích hợp nhất, TGPL
trong TTHS được cung cấp miễn phí cho một số người tham gia tố tụng bao gồm:
người bị buộc tội, bị hại và người làm chứng, nhưng những người tham gia tố tụng
với những tư cách này không mặc nhiên được TGPL mà họ phải thoả mãn một số
điều kiện luật định như: trẻ em, người khuyết tật, khó khăn tài chính…Ngồi ra,
TGPL theo quan điểm của LHQ còn hướng đến các mục tiêu như giáo dục pháp
luật, tiếp cận thông tin pháp lý và q trình tư pháp phục hồi.
Từ đó, ta có thể nhận thấy TGPL trong TTHS cũng là một trong những hoạt
động TGPL nhưng sẽ có những đặc thù riêng, các hoạt động TTHS được thực hiện
để làm sáng tỏ vụ án, chứng minh phạm tội, truy cứu TNHS.., những hoạt động
TTHS được thực hiện bởi nhà nước nên dễ xâm hại đến quyền lợi ích hợp pháp của
con người. Do đó, TGPL trong TTHS sẽ khó khăn hơn các lĩnh vực khác (hành
chính, dân sự, kinh tế…) vì thế địi hỏi người thực hiện TGPL phải có kiến thức,
kinh nghiệm pháp luật, am hiểu pháp luật hình sự và TTHS.
1.1.2.2. Khái niệm Trợ giúp viên pháp lý
Qua tìm hiểu của tác giả người thực hiện TGPL tại một số nước trên thế giới
bao gồm nhiều chủ thể như: Luật sư Nhà nước/ Luật sư công /Luật sư TGPL. Các
chủ thể này hiện có ở một số nước như: Philippines, Canada, Mỹ, Israel, Hàn Quốc,
Nam Phi, Ailen,...
9

. Đoạn số 8 của Những nguyên tắc và hướng dẫn của Liên Hợp quốc về tiếp cận trợ giúp pháp lý trong các
hệ thống tư pháp hình sự, ban hành kèm theo Nghị quyết 67/187 ngày 20/12/2012 của Đại hội đồng Liên
Hợp quốc. Truy cập online theo địa chỉ: < (truy cập ngày 17/12/2018).



13
Người thực hiện TGPL cịn có thể là luật sư hành nghề tự do/ Luật sư tư theo
pháp luật về luật sư: Các luật sư này là thành viên của Đoàn Luật sư hoặc Hiệp hội
luật sư), ký kết hợp đồng với tổ chức TGPL để thực hiện vụ việc TGPL và được trả
thù lao theo vụ việc (ví dụ: Đài Loan, Moldova, Nam Phi,...). Một số nước thì tổ
chức hành nghề luật sư ký hợp đồng với tổ chức TGPL và giao vụ việc cho luật sư
là nhân viên của tổ chức mình (ví dụ: Indonesia, Mỹ). Các nước áp dụng cách thức
huy động xã hội thực hiện TGPL thông qua việc ký hợp đồng và hỗ trợ kinh phí
thực hiện vụ việc TGPL đã huy động được nhiều lực lượng xã hội tham gia, đồng
thời có thể giám sát hoạt động TGPL do xã hội cung cấp nhằm bảo đảm chất lượng
dịch vụ TGPL. Để có cơ sở trả kinh phí cho luật sư, các nước đều ban hành biểu phí
cho vụ việc, có thể tính tốn cụ thể theo thời gian thực hiện từng vụ việc TGPL
hoặc có thể khốn cho từng loại vụ việc. Ngồi ra, một số nước cịn sử dụng những
người khơng phải luật sư nhưng có kiến thức pháp luật thực hiện TGPL như: chấp
hành viên, Công chứng viên là thành viên của tổ chức công chứng đã đăng ký tham
gia TGPL, giảng viên tại các trường đại học luật đã đăng ký tham gia TGPL
(Kazakhtan); giảng viên, trợ lý của Văn phòng luật sư công (Latvia); nhân viên
khác (Nhật Bản)... Họ là những người có kinh nghiệm, có trình độ pháp luật nhưng
khơng có chứng chỉ hành nghề luật sư. Hoạt động TGPL của họ không phải là hoạt
động nghề nghiệp như luật sư mà chỉ là hoạt động mang tính chất kiêm nhiệm, bán
chun tham gia vì mục đích nâng cao hiểu biết pháp luật cho người dân hoặc vì
nghĩa vụ cộng đồng, thực tập nghề và nâng cao trình độ... Phạm vi TGPL của họ
cũng chỉ giới hạn trong một số hình thức TGPL đơn giản như: cung cấp thơng tin,
tư vấn pháp luật, soạn thảo một số giấy tờ đơn giản, hịa giải,... mà khơng được
tham gia tố tụng với tư cách NBC, người đại diện10.
Như vậy, các hoạt động của những người thực hiện TGPL (Luật sư, công
chứng viên, chấp hành viên, nhân viên pháp lý...) theo pháp luật các nước sẽ thực
hiện tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ về pháp luật, đại diện, tham gia tố tụng... cho
những đối tượng được hưởng dịch vụ TGPL của nhà nước (như các đối tượng: có
khó khăn về tài chính, khơng đủ tiền để chi trả chi phí cho Luật sư..) và những

người thực hiện TGPL này không bắt buộc phải làm việc tại các cơ quan, tổ chức
của nhà nước.
10

Báo cáo nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài về TGPL. Nguồn: Bộ Tư pháp, Tài liệu trình Ủy ban Thường
vụ Quốc hội tại Phiên họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV, tháng 9/2017.
< />dex=2&TaiLieuID=2424> (truy cập ngày 13/12/2018).


14
Theo Luật pháp các nước thì chức danh “Trợ giúp viên pháp lý” khơng được
sử dụng trong q trình thực hiện TGPL mà các nước trên thế giới chỉ sử dụng
những người có chức danh Luật sư hoặc những người có kinh nghiệm kiến thức
pháp luật như: cơng chứng viên, giảng viên, chấp hành viên... để tham gia vào quá
trình TGPL.
Ở Việt Nam tại Điều 19 Luật TGPL năm 2017 quy định:
“Công dân Việt Nam là viên chức của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước
có đủ tiêu chuẩn sau đây có thể trở thành Trợ giúp viên pháp lý:
1. Có phẩm chất đạo đức tốt;
2. Có trình độ cử nhân luật trở lên;
3. Đã được đào tạo nghề luật sư hoặc được miễn đào tạo nghề luật sư; đã
qua thời gian tập sự hành nghề luật sư hoặc tập sự trợ giúp pháp lý;
4. Có sức khỏe bảo đảm thực hiện trợ giúp pháp lý;
5. Không đang trong thời gian bị xử lý kỷ luật”.
Từ quy định trên có thể hiểu TGVPL là viên chức của Trung tâm TGPL nhà
nước có đủ tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 19 Luật TGPL năm 2017 được Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm và cấp thẻ TGVPL trên cơ sở đề nghị của
Giám đốc Sở Tư pháp11. Ngồi những tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức, trình độ
chun mơn, tình trạng sức khỏe, Luật TGPL năm 2017 đã thay đổi tiêu chuẩn “có
chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL” và “có thời gian làm cơng tác pháp luật từ

02 năm trở lên” 12 bằng tiêu chuẩn “đã được đào tạo nghề luật sư hoặc được miễn
đào tạo nghề luật sư; đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư hoặc tập sự TGPL”;
đồng thời bổ sung tiêu chuẩn “không đang trong thời gian bị xử lý kỷ luật” 13.
Những sửa đổi, bổ sung này nhằm nâng cao trình độ chun mơn, kiến thức pháp
luật và kỹ năng nghề nghiệp cho đội ngũ TGVPL; qua đó góp phần thực hiện mục
tiêu tổng quát của Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015 - 2025 là “sau năm
2025 người thực hiện trợ giúp pháp lý là luật sư hành nghề, bảo đảm cho các đối
tượng thuộc diện được trợ giúp pháp lý được cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý kịp
thời, chất lượng tương đương với dịch vụ mà luật sư cung cấp trên thị trường” 14.
11

Điều 21 Luật TGPL năm 2017.
Điểm d khoản 1 Điều 21 Luật TGPL năm 2006.
13
Khoản 3, 5 Điều 19 Luật TGPL năm 2017.
14
Ban hành theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 01/06/2015 của Thủ tướng Chính phủ.
12


15
Từ các dẫn chứng nêu trên có thể đưa ra khái niệm về Trợ giúp viên pháp lý
như sau: “Trợ giúp viên pháp lý là một chức danh tư pháp tại Việt Nam dùng để chỉ
những người thực hiện trợ giúp pháp lý, là viên chức đang công tác tại Trung tâm
Trợ giúp pháp lý nhà nước, có đầy đủ các tiêu chuẩn và điều kiện để bổ nhiệm theo
Luật trợ giúp pháp lý”.
1.1.3. Khái niệm bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi
Điều 60 BLTTHS năm 2015 định nghĩa bị can là “người hoặc pháp nhân bị
khởi tố về hình sự”. Trong phạm vi luận văn tác giả chỉ đề cập đến bị can với tư
cách là một thể nhân chứ khơng phải một pháp nhân, bởi vì với tư cách một con

người cụ thể thì vấn đề TGPL mới được đặt ra. Tương tự, bị cáo trong luận văn sẽ
được hiểu “là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử” (Điều 61 BLTTHS năm
2015). Điều này có nghĩa nếu chưa có quyết định của Tịa án đưa vụ án xét xử thì bị
can vẫn chưa được gọi là bị cáo, ngay cả khi hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng đã được
gửi cho Tịa án.
Nhằm tăng tính rõ ràng, và cũng tránh sự nhầm lẫn giữa các tên gọi: “Trẻ
em”, “Người chưa thành niên”, “Người dưới 18 tuổi”, “Người vị thành niên”... nên
trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và BLTTHS 2015 đã thống
nhất sử dụng thuật ngữ “người dưới 18 tuổi” thay thế cho thuật ngữ “người chưa
thành niên” trước đây.
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm bị can, bị cáo là người
dưới 18 tuổi như sau:
- “Bị can là người dưới 18 tuổi là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi đã bị
khởi tố về hình sự”.
- “Bị cáo là người dưới 18 tuổi là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi đã bị
Tòa án quyết định đưa ra xét xử”.
Tổng hợp các khái niệm đã phân tích về bào chữa, TGVPL, bị can, bị cáo là
người dưới 18 tuổi, tác giả đưa ra khái niệm về hoạt động bào chữa của Trợ giúp
viên đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi như sau:
“Hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với vụ án mà bị can, bị
cáo là người dưới 18 tuổi là việc Trợ giúp viên pháp lý đưa ra các chứng cứ, lập
luận để bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội đối với người dưới 18 tuổi đã bị
khởi tố về hình sự, đã bị Tịa án quyết định đưa ra xét xử nhằm chứng minh sự vô


16
tội, giúp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc đưa ra những gì có lợi cho họ trong
q trình giải quyết vụ án hình sự”.
1.2. Đặc điểm, ý nghĩa hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối
với vụ án mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi

1.2.1. Đặc điểm hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với vụ án
mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi
Nghiên cứu cho thấy hoạt động bào chữa của TGVPL đối với bị can, bị cáo
là người dưới 18 tuổi có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hoạt động bào chữa
Chủ thể thực hiện hoạt động bào chữa trong trường hợp này là TGVPL.
TGVPL thực hiện hoạt động bào chữa đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi
dựa vào Quyết định phân công NBC của Trung tâm TGPL nhà nước. Đặc điểm này
giúp ta có thể phân biệt giữa bào chữa của TGVPL với các dịch vụ bào chữa do các
Luật sư, Luật gia, người thực hiện TGPL thuộc các tổ chức xã hội khác (như: dịch
vụ pháp lý của các Trung tâm tư vấn pháp luật, Hội Luật gia, Cơng ty Luật, Văn
phịng Luật sư…).
Thứ hai, đối tượng được TGVPL thực hiện hoạt động bào chữa là bị can, bị
cáo dưới 18 tuổi
Theo Điều 7 Luật TGPL năm 2017 có 14 nhóm đối tượng được TGPL, trong
đó bổ sung thêm một số đối tượng so với Luật TGPL năm 200615: người bị buộc tội
từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo, người thuộc
một trong các trường hợp sau kèm điều kiện có khó khăn về tài chính: cha đẻ, mẹ
đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có cơng ni dưỡng khi liệt sĩ cịn nhỏ; người
nhiễm chất độc da cam; người cao tuổi; người khuyết tật; người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình;
nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán
người và người nhiễm HIV.
Còn đối tượng thuộc diện bào chữa chỉ định tại Điều 76 BLTTHS năm 2015,
bao gồm: Bị can, bị cáo về tội mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình
phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; Người bị buộc tội có nhược điểm về thể
15

Điều 2 Nghị định 07/2007/NĐ-CP hướng dẫn Luật TGPL năm 2006. Bao gồm: người nghèo, người có
cơng với cách mạng, người già, người tàn tật, trẻ em, người dân tộc thiểu số, các đối tượng khác được TGPL

theo quy định tại điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.


17
chất mà khơng thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người
dưới 18 tuổi.
Theo quy định trên thì bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi là đối tượng sẽ
được bào chữa chỉ định theo BLTTHS năm 2015 và Luật TGPL năm 2017, nhưng
do Luật TGPL năm 2017 và các văn bản hướng dẫn Luật TGPL là văn bản pháp
luật chuyên ngành nên hoạt động bào chữa của TGV đối với người dưới 18 tuổi sẽ
ưu tiên áp dụng theo các quy định pháp luật về TGPL.
Thứ ba, hoạt động bào chữa của TGVPL đối với vụ án mà bị can, bị cáo là
người dưới 18 tuổi là một hình thức của trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực tố tụng hình sự
Trợ giúp pháp lý trong TTHS được thực hiện dưới những hình thức khác
nhau như: tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện tùy thuộc vào mỗi một quá
trình tố tụng mà TGVPL sẽ có cách thức thực hiện TGPL khác nhau. So với các
hình thức khác như: tư vấn, đại diện thì hoạt động bào chữa là phức tạp hơn cả bởi
vì hoạt động này địi hỏi người TGVPL phải có kiến thức pháp luật, kỹ năng tham
gia bào chữa, tranh tụng tại tòa, bản lĩnh của người TGVPL...
Thứ tư, hoạt động bào chữa của TGVPL đối với vụ án mà bị can, bị cáo là
người dưới 18 tuổi là hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý hoàn tồn miễn phí
Đây là điểm đặc trưng của hoạt động bào chữa của TGVPL đối với bị can, bị
cáo là người dưới 18 tuổi và đây cũng chính là nguyên tắc chung của hoạt động
TGPL nên khi thực hiện hoạt động bào chữa của mình TGVPL khơng được thu tiền
hoặc nhận các lợi ích vật chất (như quà biếu, hiện vật...) hoặc lợi ích khác từ bị can,
bị cáo từ những đối tượng này. Mỗi TGVPL nhất thiết phải nắm rõ nguyên tắc này,
bởi vì nếu vi phạm tùy theo tính chất mức độ sẽ bị xử phạt hoặc sẽ bị thu hồi thẻ TGVPL.
Khi thực hiện TGPL người TGVPL phải xác định một cách rõ ràng rằng mặc
dù TGPL là hồn tồn miễn phí nhưng địi hỏi mỗi TGVPL phải thực hiện hết khả
năng của mình, đảm bảo đúng với chức trách, nhiệm vụ của người TGVPL, khơng

vì TGPL miễn phí mà dẫn đến việc bào chữa khơng chất lượng, ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi.
1.2.2. Ý nghĩa hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với vụ án
mà bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi
Ý nghĩa về mặt chính trị
Trợ giúp pháp lý là đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước,
thể hiện truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc nêu cao trách nhiệm của nhà nước


18
và xã hội đối với người được các hưởng chính sách ưu đãi về dịch vụ TGPL, thể
hiện bản chất nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Chính
sách về cơng tác TGPL đã trực tiếp hỗ trợ, đáp ứng kịp thời nhu cầu TGPL cho các
đối tượng là người nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật có khó khăn về tài
chính, đồng bào dân tộc thiểu số,….trong đó có bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi.
Đảm bảo cho bị can, bị cáo dưới 18 tuổi được quyền có NBC chỉ định, cùng với đội
ngũ Luật sư thực hiện đăng ký TGPL thì với sự góp mặt của TGVPL là nội dung rất
thiết thực trong chính sách của Đảng và nhà nước vì con người, đảm bảo quyền
cơng dân. Nếu chúng ta thực hiện tốt vấn đề này thì quyền và lợi ích hợp pháp của
bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi sẽ được đảm bảo vì có một thực tế rằng không
phải bất ai trong số bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi cũng có đủ điều kiện tài
chính để thuê Luật sư khi xảy ra sự việc phạm tội.
Quy định về việc bào chữa của TGVPL đối với bị can, bị cáo là người dưới
18 trong BLTTHS đã góp phần trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân
trong TTHS. Đảm bảo cho bị cao, bị cáo là người dưới 18 tuổi quyền có NBC mang
ý nghĩa chính trị sâu sắc, thể hiện rõ ràng rằng quyền công dân ngày càng được tôn
trọng và được đảm bảo nhất là trong thời kỳ hội nhập như hiện nay.
Ý nghĩa về mặt xã hội
Việc ra đời của các Trung tâm TGPL nhà nước xuất phát từ chủ trương xố
đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, đảm bảo công bằng xã hội của Đảng và Nhà

nước, thể hiện bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và
vì dân, với hoạt động của Trung tâm TGPL nhà nước và rõ nét nhất là thông qua hoạt
động bào chữa của TGVPL đối với đối tượng bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi đã
giúp cho những đối tượng thuộc diện được TGPL có điều kiện tiếp cận với dịch vụ
TGPL miễn phí, củng cố lòng tin của người dân vào pháp luật và góp phần thực hiện
cơng bằng xã hội.
Đảm bảo nếu người dân thuộc diện được TGPL thì có quyền u cầu Trung
tâm TGPL nhà nước cử TGVPL bào chữa, đấy là đảm bảo nguyên tắc công bằng,
thực tiễn cho thấy trong q trình tố tụng, các CQTHTT thường có xu hướng buộc
tội hơn là gỡ tội nên việc có mặt của TGVPL sẽ góp phần làm cho vụ án được
khách quan hơn, góp phần hạn chế tình trạng bỏ sót tội phạm, làm oan người vơ tội,
từ đó tăng lịng tin của người dân vào sự công bằng của pháp luật.


×