Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Hoạt động chứng minh của tòa án nhân dân trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 112 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

NGUYỄN NGỌC TRÂM

HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH
CỦA TỊA ÁN NHÂN DÂN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

KHĨA LUẬN CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

TP HỒ CHÍ MINH - THÁNG 5 - NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN NGỌC TRÂM
MSSV: 1653801013215

HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH
CỦA TỊA ÁN NHÂN DÂN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. PHAN NGUYỄN BẢO NGỌC

TP HỒ CHÍ MINH - THÁNG 5- NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan những nội dung trong khóa luận tốt nghiệp “HOẠT
ĐỘNG CHỨNG MINH CỦA TỊA ÁN NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN
SỰ” là kết quả quá trình nghiên cứu của bản thân tơi dưới sự hướng dẫn khoa học
của ThS. Phan Nguyễn Bảo Ngọc. Những thông tin tham khảo được sử dụng trong
khóa luận đều đảm bảo các quy định về trích dẫn, chú thích đối với tài liệu tham
khảo.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 06 năm 2020
Sinh viên

Nguyễn Ngọc Trâm


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành được khóa luận tốt nghiệp này, em xin chân thành cảm ơn đến
Giảng viên hướng dẫn, Thạc sĩ Phan Nguyễn Bảo Ngọc – Giảng viên Khoa Luật
dân sự, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Với những kinh nghiệm của
mình cơ đã tận tình chỉ dẫn và đưa ra những lời khuyên để em có để hồn thành tốt
khóa luận của mình.
Bên cạnh đó, em cũng xin gửi lời cảm ơn đối với quý Thầy, Cô đã từng
giảng dạy em trong suốt bốn năm vừa qua đã tận tâm truyền đạt những kiến thức,
kinh nghiệm để em có nền tảng kiến thức hồn thành khóa luận tốt nghiệp này.


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

TỪ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƢỢC VIẾT TẮT


1

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

2

TTDS

Tố tụng dân sự

3

HĐCM

Hoạt động chứng minh

4

VVDS

Vụ việc dân sự


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG
CHỨNG MINH CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ............................ 1

1.1. Khái quát chung về hoạt động chứng minh của Tòa án trong Tố tụng
dân sự ...................................................................................................................... 1
1.1.1. Khái niệm hoạt động chứng minh của Tòa án trong Tố tụng dân sự ......... 1
1.1.2. Mối quan hệ giữa chứng cứ và hoạt động chứng minh trong Tố tụng dân
sự .......................................................................................................................... 2
1.1.3. Đối tượng hoạt động chứng minh của Tòa án trong Tố tụng dân sự ......... 4
1.2. Nguyên tắc và ý nghĩa trong hoạt động chứng minh của Tòa án............... 6
1.2.1. Nguyên tắc trong hoạt động chứng minh của Tòa án ................................ 6
1.2.2. Ý nghĩa hoạt động chứng minh của Tòa án ............................................... 9
1.3. Pháp luật của các nƣớc trên thế giới về hoạt động chứng minh. ............. 10
CHƢƠNG 2: HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ ....................................................................................................... 15
2.1. Hoạt động thu thập chứng cứ ...................................................................... 15
2.1.1. Khái niệm hoạt động thu thập chứng cứ .................................................. 15
2.1.2. Trình tự thu thập chứng cứ của Tòa án .................................................... 16
2.1.3. Phương pháp thu thập chứng cứ của Tòa án ............................................ 20
2.2. Hoạt động nghiên cứu chứng cứ .................................................................. 29
2.2.1. Khái niệm hoạt động nghiên cứu chứng cứ ............................................. 29
2.2.2. Yêu cầu của việc nghiên cứu chứng cứ .................................................... 29
2.2.3. Nội dung của hoạt động nghiên cứu chứng cứ ......................................... 31
2.2.4. Trình tự nghiên cứu chứng cứ .................................................................. 34
2.3. Hoạt động đánh giá chứng cứ ...................................................................... 36
2.3.1. Khái niệm của hoạt động đánh giá chứng cứ ........................................... 36
2.3.2. Nguyên tắc đánh giá chứng cứ ................................................................. 38


2.3.3. Phương pháp đánh giá chứng cứ .............................................................. 41
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................ 43
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH CỦA TÒA
ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN 44

3.1. Bất cập và kiến nghị trong quy định pháp luật về hoạt động chứng minh
của Tòa án............................................................................................................. 44
3.2. Bất cập và giải pháp trong thực tiễn và một số giải pháp hoàn thiện hoạt
động chứng minh của Tòa án ............................................................................. 52
3.2.1. Bất cập trong thực tiễn hoạt động chứng minh của Tòa án...................... 52
3.2.2. Một số giải pháp trong thực tiễn hoạt động chứng minh ......................... 58
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ........................................................................................ 61
KẾT LUẬN CHUNG .............................................................................................. 62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động chứng minh là một trong những hoạt động trọng tâm trong Tố
tụng dân sự và là quá trình để tìm ra được sự thật khách quan của vụ việc dân sự, là
cơ sở, nền tảng cho các phán quyết của Tòa án. Hoạt động chứng minh diễn ra
xuyên suốt trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, chủ thể tham gia vào hoạt
động chứng minh cũng vô cùng đa dạng bao gồm Tòa án, Viện kiểm sát và những
người tham gia tố tụng khác. Những chủ thể này tham gia vào hoạt động chứng
minh nhưng quyền và nghĩa vụ chứng minh của họ ở mỗi giai đoạn là khác nhau,
tùy thuộc vào vai trò và địa vị tố tụng của họ. Đương sự là chủ thể đầu tiên khởi
động quá trình tố tụng và họ cũng là chủ thể có nghĩa vụ chủ động trong chứng
minh để thuyết phục Tịa án rằng u cầu của mình là có căn cứ. Bên cạnh đương
sự, Tịa án cũng đóng vai trị quan trọng khơng kém. Tịa án tham gia vào hoạt động
chứng minh để tìm ra sự thật khách quan của vụ việc và chứng minh cho bản án,
quyết định của mình là có cơ sở và chính xác. Nếu chia hoạt động chứng minh
thành bốn giai đoạn: cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ thì Tịa
án tham gia vào hoạt động thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Những
giai đoạn này có mối quan hệ mật thiết với nhau, có giai đoạn trước thì mới có giai

đoạn sau, giai đoạn sau làm cơ sở, tiền đề để đánh giá tính đúng đắn giai đoạn
trước.
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 có hiệu lực thi hành ngày 01 tháng 07 năm 2016
đã có những sửa đổi, bổ sung cơ bản để làm rõ cũng như loại bỏ bớt “gánh nặng” về
hoạt động chứng minh của Tòa án mà cụ thể là trong hoạt động thu thập chứng cứ.
Đây là những sửa đổi tiến bộ để phù hợp với thực tiễn xét xử cũng như bối cảnh hội
nhập kinh tế, quốc tế. Tuy nhiên vì nhiều lý do, những quy định về hoạt động chứng
minh của Tòa án trong Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn cịn bộc lộ nhiều bất cập, vướng
mắc nhất định. Ngồi ra, trong thực tiễn hoạt động chứng minh của Tòa án vẫn cịn
hạn chế dẫn đến những tình trạng hủy, sửa án làm giảm chất lượng xét xử và niềm
tin của nhân dân.
Chính vì lý do này, địi hỏi cần phải có có một nghiên cứu tồn diện về hoạt
động chứng minh của Tịa án. Từ đó chỉ ra những bất cập, vướng mắc và đưa ra
những kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt
động chứng minh của Tòa án trong pháp luật Tố tụng dân sự nói riêng và hệ thống


pháp luật Việt Nam nói chung. Góp phần nâng cao chất lượng xét xử, củng cố niềm
tin của nhân dân. Đó là lý do tác giả đã chọn đề tài “Hoạt động chứng minh của
Tòa án nhân dân trong Tố tụng dân sự” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong q trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy có một số tác giả nghiên cứu
vấn đề liên quan đến hoạt động chứng minh. Tuy nhiên chỉ dừng lại ở những khía
cạnh liên quan, mang tính chung chung dưới góc độ về chứng minh và chưa có cơng
trình nghiên cứu nào về hoạt động chứng minh của Tòa án nhân dân trong Tố tụng
dân sự một cách bao quát, toàn diện, có tính hệ thống. Đây cũng là một điểm mới
của khóa luận tốt nghiệp này. Sau đây là một số bài viết có liên quan, cụ thể như
sau:
- Nguyễn Minh Hằng (2007), Chế định chứng minh trong Tố tụng dân sự

Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Đinh Tuấn Anh (2016), Quy định mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
về chứng cứ và chứng minh, Tạp chí Kiểm sát, số 18, tr.36-41;
- Nguyễn Thị Hương (2018), Một số vấn đề về chứng cứ, chứng minh trong
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và thực tiễn áp dụng, Tạp chí Tịa án nhân dân, số
11, tr.7-10;
- Nguyễn Thị Thu Hà (2018), Bình luận về nguyên tắc cung cấp chứng cứ và
chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Nghiên cứu lập pháp, số 10 (362),
tr.42-46;
- Phan Thị Thu Hà (2018), Những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện quy
định của Bộ luật dân sự năm 2015 về chứng minh, chứng cứ và một số đề xuất, kiến
nghị, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 8, tr.25-32.
Nhìn chung số lượng các bài viết, cơng trình nghiên cứu về hoạt động
chứng minh của Tòa án nhân dân trong Tố tụng dân sự vẫn chưa có mà chỉ có các
cơng trình, bài viết liên quan đến chứng minh và những bài viết liên quan này chiếm
số lượng cũng không nhiều. Tuy nhiên, đây cũng là những nguồn tài liệu quý giá để
tác giả tham khảo trong q trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài khơng nhằm mục đích nghiên cứu hoạt động chứng minh của tất cả
các chủ thể tham gia vào hoạt động này. Tác giả tập trung nghiên cứu, phân tích,


đánh giá một cách toàn diện và đầy đủ về quy định của pháp luật cũng như thực
trạng áp dụng quy định trong hoạt động chứng minh của Tòa án. Ngồi những phân
tích, lập luận, trình bày về trình tự, phương pháp, nguyên tắc,… để thu thập, nghiên
cứu, đánh giá chứng cứ trước và tại phiên tòa. Tác giả cũng đã chỉ ra một số hạn chế
về mặt quy định pháp luật, thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật, một số sai
lầm mà Tòa án thường hay mắc phải trong hoạt động chứng minh của mình. Từ đó
đưa ra phương hướng, giải pháp, đề xuất cụ thể để hồn thiện quy định đó nhằm
góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động chứng minh. Bên cạnh đó, thúc đẩy

nhiều cơng trình nghiên cứu về những vấn đề cịn bất cập mà tác giả đưa ra để có
thể tìm ra những quy định hồn thiện và phù hợp hơn với thực tiễn xét xử.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp cụ thể được sử dụng trong khóa luận như sau:
- Phương pháp phân tích được sử dụng để làm rõ những vấn đề lý luận cũng
như quy định của pháp luật Việt Nam và một số nước khác về hoạt động chứng
minh. Ngồi ra cịn có sự phân tích các bản án, quyết định để chỉ ra những sai lầm,
hạn chế, bất cập trong thực tiễn xét xử và cần phải rút kinh nghiệm.
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng trong việc liên kết những vấn đề đã
được phân tích, so sánh, trình bày,… để từ đó đưa ra nhận định và kết luận về vấn
đề đang được đề cập đến hoặc kết luận về những vấn đề đạt được. Phương pháp này
chủ yếu được sử dụng trong phần kết luận từng chương và kết luận chung.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ những thay đổi, sửa đổi, bổ
sung quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự các thời kỳ về hoạt động chứng minh
của Tòa án và những quan điểm khác nhau trong pháp luật của các nước trên thế
giới về hoạt động chứng minh.
- Phương pháp lịch sử được sử dụng để tìm hiểu các quy định của pháp luật
Tố tụng dân sự liên quan đến Chứng cứ và chứng minh nói chung và hoạt động
chứng minh của Tịa án nói riêng.
5. Điểm mới của đề tài
Đây là một đề tài có sự nghiên cứu một cách tồn diện và cụ thể về hoạt
động chứng minh của Tòa án. Từ việc trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về
hoạt động chứng minh, nội dung những hoạt động chứng minh của Tịa án trong đó
bao gồm hoạt động thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Trong từng hoạt
động tác giả có sự trình bày, phân tích cụ thể về mặt quy định pháp luật, khái niệm,


trình tự, phương pháp,… để thực hiện những hoạt động trên. Còn những đề tài khác
của một số tác giả mới chỉ thực hiện một cách chung chung về Chứng cứ và chứng
minh.

Ngồi ra, trong khóa luận này tác giả có đưa ra những giả thiết, những vụ án
cụ thể để dẫn chứng cho những vấn đề mà tác giả đề cập cũng như có sự nghiên cứu
về những khó khăn, vướng mắc có thể hoặc đã gặp phải trong thực tiễn. Từ đó tác
giả đã kiến nghị để hồn thiện quy định của pháp luật về hoạt động chứng minh của
Tòa án, đảm bảo cho những quy định sau khi được hồn thiện có thể giải quyết
những khó khăn mà Tịa án có thể hoặc đã gặp phải trong xét xử.
6. Bố cục của đề tài
Bố cục của đề tài được chia thành 03 Chương:
 Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động chứng minh của Tòa án
trong Tố tụng dân sự.
 Chƣơng 2: Hoạt động chứng minh của Tòa án trong Tố tụng dân sự.
 Chƣơng 3: Thực trạng về hoạt động chứng minh của Tòa án trong Tố tụng
dân sự và một số kiến nghị hoàn thiện.


CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG
CHỨNG MINH CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái quát chung về hoạt động chứng minh của Tòa án trong Tố tụng dân
sự
1.1.1. Khái niệm hoạt động chứng minh của Tòa án trong Tố tụng dân sự
“Chứng minh” là một dạng hoạt động rất phổ biến trong tất cả các lĩnh vực
đời sống xã hội, chẳng hạn chứng minh cho một quan điểm mình đưa ra là đúng
trong một cuộc tranh luận, trong các buổi học, cuộc họp, hội thảo,... Hoạt động này
phải trải qua nhiều quá trình để tìm ra được sự thật khách quan như phải tư duy,
tìm tịi, nghiên cứu và đánh giá nhiều tình tiết, sự kiện,… mới có thể đưa ra một kết
luận cuối cùng chính xác nhất. Hiện nay, khái niệm chứng minh cũng khơng thống
nhất mà vẫn cịn nhiều cách hiểu, quan điểm khác nhau giữa các tác giả, trong đó
có thể hiểu một cách cơ bản như sau:
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngơn ngữ học thì: Chứng minh là làm cho
thấy rõ là có thật, là đúng, bằng những việc hay lí lẽ hoặc dùng suy luận logic

vạch rõ một điều gì đó là đúng.1
Cịn nếu xem xét khái niệm chứng minh theo đúng nghĩa luật học thì đó là
một q trình bao gồm hoạt động của Tòa án và những người tham gia tố tụng
trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ nhằm mục đích xác
định sự thật khách quan của vụ việc.2
Từ những khái niệm nói trên, có thể suy ra được về hoạt động chứng minh
(sau đây gọi tắt là HĐCM) của Tòa án trong Tố tụng dân sự (sau đây gọi tắt là
TTDS) như sau: HĐCM của Tòa án trong TTDS là sự thống nhất giữa hoạt động
tư duy và hoạt động tố tụng của Tòa án được thực hiện trong các giai đoạn tố tụng
nhằm xác định và làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự (sau đây gọi tắt
là VVDS) thông qua việc thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ bằng các biện
pháp do Bộ luật Tố tụng dân sự (sau đây gọi tắt là BLTTDS) quy định, góp phần
làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ việc.
Tuy nhiên, Tịa án khơng tham gia vào tất cả các q trình của HĐCM mà
chỉ tham gia vào hoạt động thu thập chứng cứ (trách nhiệm hỗ trợ đương sự hoặc
xét thấy cần thiết), hoạt động nghiên cứu và hoạt động đánh giá chứng cứ. Tịa án
1
2

Viện ngơn ngữ Đà Nẵng, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, năm 2006, tr.174.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2005) ,Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, Nxb. Tư pháp, tr.132.

1


không tham gia hoạt động cung cấp chứng cứ bởi vì nghĩa vụ này thuộc về đương
sự và các chủ thể tham gia tố tụng khác có liên quan.3 Như vậy, Tòa án chỉ nhân
danh quyền lực Nhà nước, giữ vai trò là chủ thể tiếp nhận để xem xét, đánh giá
chứng cứ trên cơ sở quy định của pháp luật, bảo đảm công lý được thực thi, công
bằng được thực hiện, lợi ích hợp pháp được bảo vệ thơng qua phán quyết của

mình.4
1.1.2. Mối quan hệ giữa chứng cứ và hoạt động chứng minh trong Tố tụng dân
sự
Chứng cứ và chứng minh có mối quan hệ khắng khít, hỗ trợ lẫn nhau trong
việc giải quyết VVDS. Theo đó, HĐCM trong TTDS là những hoạt động xoay
quanh chứng cứ như cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Còn
chứng cứ là cơ sở duy nhất để chứng minh. Hay nói cách khác, chứng cứ là cơng
cụ của HĐCM trong quá trình giải quyết VVDS.
Bởi lẽ trên thực tế, mỗi một vụ việc xảy ra đều sẽ tồn tại những sự vật, hiện
tượng, tình tiết trong thế giới khách quan nó liên quan và để lại những dấu vết liên
quan đến vụ việc đó. Tuy nhiên, những dấu vết trên muốn trở thành chứng cứ được
sử dụng cho việc giải quyết VVDS nó phải thỏa mãn các yêu cầu về chứng cứ theo
quy định tại Điều 93 BLTTDS 2015. Để xác định giá trị chứng minh, Tòa án cần
kiểm tra ba thuộc tính của chứng cứ như sau: tính khách quan, tính liên quan và
tính hợp pháp. Để xác định được ba thuộc tính này cũng phải nhờ HĐCM mà cụ
thể là trong hoạt động nghiên cứu chứng cứ để biết được những chứng cứ này có
giá trị sử dụng hay khơng. Cụ thể ba thuộc tính này như sau:
 Tính khách quan của chứng cứ
Khách quan ở đây được hiểu là sự tồn tại một cách độc lập, có thật, khơng có
sự tác động mang tính chủ quan của con người cũng như sự tồn tại này khơng phụ
thuộc vào ý chí của con người. Như vậy, những hành vi có sự can thiệp một cách cố
ý nhằm làm sai lệch chứng cứ, ví dụ: chỉnh sửa di chúc, hợp đồng,… trong các vụ
việc tranh chấp nhằm làm thay đổi chứng cứ hoặc chỉ là suy diễn, tưởng tượng thì
khi đó những tài liệu này dù có liên quan đến vụ việc thì cũng khơng được xem là
chứng cứ bởi những chứng cứ này không đảm bảo yếu tố khách quan.
Điều này xuất phát từ nguyên tắc “quyền tự định đoạt của đương sự” và nguyên tắc “cung cấp chứng cứ và
chứng minh trong TTDS” nên đương sự là chủ thể trước tiên có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho
Tòa án để chứng minh cho yêu cầu của mình hoặc phản đối yêu cầu của người khác là có căn cứ và hợp pháp
4
Nguyễn Thị Hồi Phương (2016), Bình luận những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Nxb.

Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, tr.41.
3

2


 Tính liên quan của chứng cứ
Tính liên quan của chứng cứ chính là “khả năng xác định những tình tiết thuộc
đối tượng chứng minh của vụ việc”5. Trong một VVDS các bên liên quan sẽ cung cấp
cho Tòa án rất nhiều tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau để chứng minh cho yêu cầu
hoặc phản yêu cầu của mình là có căn cứ. Tuy nhiên, khơng phải mọi chứng cứ được
giao nộp đều có liên quan đến vụ việc đang giải quyết. Trong đó, có những tài liệu,
thơng tin mặc dù có thể là có thật, đảm bảo yếu tố khách quan như được đề cập ở trên
nhưng không liên quan đến vấn đề đang giải quyết thì khơng được sử dụng làm
chứng cứ. Ở đây chúng ta phải phân biệt giữa chứng cứ và nguồn chứng cứ, có những
trường hợp ta thu thu thập được một nguồn chứng cứ nhưng không phải mọi trường
hợp nguồn chứng cứ đều được sử dụng hết để làm chứng cứ. Thế nên, ta phải hiểu
rằng là nguồn chứng cứ không đồng nhất với chứng cứ mà nguồn chứng cứ chỉ được
coi là nơi chứa đựng chứng cứ liên quan đến vụ việc cần giải quyết.
Ví dụ: Trong một vụ tranh chấp địi lại tài sản cho vay giữa A và B, A là
người cho B mượn 100 triệu đồng vào ngày 01/01/2020 và hạn trả là ngày
01/01/2021. Tuy nhiên đến hạn mà B vẫn không trả nên A kiện B để yêu cầu trả lại
khoản nợ đó cùng với khoản tiền lãi. Lúc mượn tiền B có ký vào sổ mượn của A, A
sau đó cung cấp cuốn sổ đó cho Tịa án. Ở đây chúng ta có thể thấy cuốn sổ này chỉ
là nguồn chứng cứ (tài liệu đọc được, nhìn được) và tài liệu là chứng cứ được sử
dụng từ cuốn sổ này là những trang có ghi số nợ, cam kết trả nợ của B đối với A.
Còn những trang khác khơng liên quan đến vụ việc, ví dụ ghi nhật kí hay những
khoản nợ của những người khác khơng phải B thì khơng sử dụng nó làm chứng cứ
trong vụ kiện này.
Như vậy, trong một VVDS Toà án phải xem xét để loại trừ những tài liệu

nào không liên quan, khơng có ý nghĩa đến việc làm sáng tỏ VVDS, bảo đảm cho
việc giải quyết VVDS được nhanh chóng và đúng đắn .
 Tính hợp pháp của chứng cứ
Tính hợp pháp của chứng cứ là sự phù hợp trong các hoạt động như thu thập,
nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Tức là các hoạt động này phải thực hiện theo đúng
quy định của pháp luật. Chẳng hạn như đối với việc thu thập chứng cứ thì phải thu
thập theo các nguồn luật định, các nguồn này được quy định tại Điều 94 BLTTDS
2015, chứng cứ thu thập phải được rút ra từ những nguồn này. Ngoài ra, cần phải xác
Trần Quang Tiệp (2009), Chế định chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, tr. 28.
5

3


định chứng cứ từ từng loại nguồn này theo quy định tại Điều 95 BLTTDS 2015 với
tên điều luật là “Xác định chứng cứ” để đảm bảo một số điều kiện do luật định.
Ví dụ đối với tài liệu đọc được như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, di
chúc,… thì phải là bản chính hoặc bản sao có cơng chứng, chứng thực hợp pháp
hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp xác nhận thì mới đảm bảo tính
hợp pháp để được coi là chứng cứ.
Như vậy, một chứng cứ có giá trị chứng minh thì cần phải thỏa mãn cả ba
thuộc tính trên. Và trong hoạt động nghiên cứu chứng cứ của mình Tịa án sẽ kiểm
tra cả ba thuộc tính trên để xem chứng cứ này có giá trị chứng minh hay khơng, có
được sử dụng trong việc giải quyết một VVDS không.
1.1.3. Đối tượng hoạt động chứng minh của Tòa án trong Tố tụng dân sự
Đối tượng chứng minh của Tòa án trong TTDS là: “Tổng hợp các sự kiện
pháp lý mà Tòa án cần phải làm sáng tỏ để làm cơ sở cho việc giải quyết đúng đắn
VVDS. Những tình tiết, sự kiện này cần phải làm sáng tỏ trong quá trình TTDS”6.
Xác định được đối tượng chứng minh là một việc rất quan trọng trong việc nhận

thức một vụ việc, là căn cứ định hướng cho quá trình chứng minh trong suốt q
trình tố tụng. Tịa án cần phải xác định đối tượng chứng minh một cách chính xác,
nếu xác định chúng một cách quá hẹp sẽ làm bỏ sót nhiều chứng cứ, sự kiện, tình
tiết có ý nghĩa quan trọng cho việc giải quyết vụ việc và những hệ lụy khác kéo theo
như xác định thiếu tư cách đương sự tham gia tố tụng, đánh giá khơng khách quan,
tồn diện được sự việc,… Còn nếu xác định một cách quá rộng thì sẽ khơng xác
định trọng tâm vấn đề cần phải quyết vì có cả những vấn đề khơng liên quan đến vụ
việc đang giải quyết. Ngồi ra cịn gây mất thời gian, công sức cho các bên tham gia
tố tụng trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Bởi khối
lượng chứng cứ thu được cũng sẽ rất lớn và có những chứng cứ khơng cần thiết dẫn
đến lỗng thơng tin khi nghiên cứu, đánh giá chứng cứ trong hồ sơ vụ án.
Trong TTDS hiện nay vẫn khơng có quy định cụ thể về đối tượng chứng
minh nói chung và đối tượng chứng minh của Tịa án nói riêng7 là để cho đương sự
có thể chủ động cung cấp, thu thập tất cả những tài liệu, chứng cứ mà mình có được
Đề cương mơn học, Hoạt động chứng minh trong Tố tụng dân sự, < truy cập ngày 27/02/2020.
7
Mặc dù, trong TTDS khơng có quy định về đối tượng chứng minh, tuy nhiên có quy định về “Những tình
tiết, sự kiện khơng phải chứng minh” tại Điều 92 BLTTDS 2015. Điều này có nghĩa rằng những trường hợp
không được quy định tại Điều 92 BLTTDS 2015 thì đương sự phải có nghĩa vụ chứng minh những tình tiết,
sự kiện liên quan đến VVDS của mình, trừ những quy định tại Khoản 1 Điều 91 BLTTDS 2015.
6

4


để làm cơ sở cho yêu cầu của mình trước Tịa án. Sau đó, Tịa án tiến hành những
HĐCM cần thiết khác hỗ trợ để có thể đưa ra được một phán quyết đúng đắn dựa
trên những chứng cứ đáp ứng đủ điều kiện.
* Căn cứ để xác định đối tƣợng chứng minh
Thứ nhất, theo yêu cầu của đương sự:

Đương sự đưa ra yêu cầu hay phản bác lại yêu cầu của một bên thì đương sự
đó là người phải chứng minh cho yêu cầu của mình là đúng. Đây là những sự kiện
pháp lý có ý nghĩa quan trọng nhằm có thể tìm ra được sự thật khách quan. Căn cứ
vào những yêu cầu, chứng cứ, tài liệu được giao nộp, Tịa án có trách nhiệm xem
xét cẩn trọng yêu cầu đó cùng những chứng cứ kèm theo để xem u cầu này có
phù hợp hay khơng. Hay nói cách khác là Tòa án phải xem xét một cách tổng thể từ
những yêu cầu và chứng cứ này để tái hiện lại những tình tiết, sự kiện xảy ra trên
thực tế bằng sự tư duy của mình.
Như vậy chỉ khi nào có u cầu của đương sự thì Tịa án mới đặt ra vấn đề
về đối tượng chứng minh. Tịa án có trách nhiệm giải quyết trong phạm vi yêu cầu
đã được đương sự đưa ra và đối tượng chứng minh sẽ căn cứ theo những yêu cầu
đó. Bởi lẽ, mỗi một VVDS đều có đối tượng chứng minh khơng giống nhau, nó phụ
thuộc vào vấn đề mà đương sự u cầu giải quyết. Dựa vào đó Tịa án sẽ xác định
được sự kiện, tình tiết mà mình phải chứng minh để làm sáng tỏ vụ việc.
Ví dụ: A và B có sự tranh chấp về việc xác định ai là cha của cháu C. Trong
đó thì A cho rằng B mới là cha của cháu C chứ không phải mình. B thì phản bác lại
vì cho rằng khoảng thời gian có thai cháu C mình đã đi cơng tác nước ngồi nên
khơng thể là cha của C. A đã khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về truy
nhận cha cho con. Như vậy, theo như u cầu của ngun đơn A, thì Tịa án sẽ tập
trung làm sáng tỏ những sự kiện, tình tiết để xác định ai là cha của cháu C, chẳng
hạn như xem xét chứng cứ do hai bên cung cấp, xem cháu A sinh ra vào thời gian
nào, giám định ADN,… để xác định ai đúng ai sai.
Thứ hai, căn cứ theo quy định của pháp luật nội dung
Xác định được quan hệ pháp luật nội dung là một vấn đề rất quan trọng khi
giải quyết từng VVDS. Muốn xác định được pháp luật nội dung thì cần phải xác
định được quan hệ pháp luật nội dung mà các bên đang tranh chấp là quan hệ nào
(dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động)8. Mục đích của
8

Xem thêm các tranh chấp tại Điều 26, 28, 30, 32 BLTTDS 2015.


5


việc xác định quan hệ pháp luật nội dung là từ những quan hệ nội dung cụ thể Tòa
án xác định được những sự kiện cần thiết phải làm rõ trong từng quan hệ đó.
Ví dụ: Anh P và chị T có một thời gian sống chung nhưng khơng có đăng ký
kết hơn. Sau đó chị T có thai và sinh ra cháu A lấy họ mẹ vì anh P bỏ đi và khơng
nhận con. Sau đó chị T đã nộp đơn u cầu Tịa án cơng nhận anh P là cha của cháu
A và yêu cầu anh P cấp dưỡng cho cháu A. Như vậy, đây là quan hệ tranh chấp về
“Xác định cha cho con và yêu cầu cấp dưỡng” theo quy định tại Khoản 4, 5 Điều 28
BLTTDS 2015 và đây là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình, nên Tịa án sẽ áp
dụng những quy định của Luật Hơn nhân và gia đình để xem xét anh P có phải là
cha của cháu A, nghĩa vụ cấp dưỡng như thế nào,… để giải quyết vụ án này.
Như vậy khi xác định được quan hệ pháp luật nội dung mà các bên đang
tranh chấp sẽ giúp Tịa án có cơ sở để lựa chọn luật áp dụng. Cũng như có thể định
hình cụ thể hơn về những vấn đề cần phải làm sáng tỏ trong một vụ việc từ những
quy định trong pháp luật nội dung. Đồng thời tiến hành những hoạt động như đối
chiếu, xâu chuỗi các tình tiết, sự kiện trong các yêu cầu hoặc phản yêu cầu của các
bên đương sự có phù hợp với những quy định của pháp luật nội dung hay không,
cách thức giải quyết vụ án ra sao,… để có thể giải quyết vụ án một cách chính xác.
1.2. Nguyên tắc và ý nghĩa trong hoạt động chứng minh của Tòa án
1.2.1. Nguyên tắc trong hoạt động chứng minh của Tòa án
HĐCM của Tòa án cũng cần phải theo những nguyên tắc nhất định đó là
những nguyên tắc trong lý luận nhận thức của triết học Mác - Lê nin như: Nguyên
tắc khách quan toàn diện; Nguyên tắc vận động và phát triển; Nguyên tắc lịch sử cụ
thể. Ngoài ra cịn có một số ngun tắc cơ bản trong BLTTDS nhưng ở phần này
tác giả chỉ tập trung phân tích nguyên tắc: Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân xét xử vụ án dân sự, Thẩm phán giải quyết việc dân sự độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật. Những nguyên tắc này góp phần định hướng cho HĐCM của Tịa trở nên

tồn diện và đúng pháp luật, giúp việc tìm ra chân lý khách của vụ việc sẽ nhanh
hơn và góp phần làm cho hoạt động xét xử của Tòa án trở nên hiệu quả và chất
lượng. Cụ thể những nguyên tắc này như sau:
 Nguyên tắc khách quan, tồn diện
Tịa án là chủ thể chính trong việc nghiên cứu, đánh giá, sử dụng chứng cứ,
xác định giá trị chứng minh của chứng cứ và đưa ra phán quyết về VVDS cũng như
thu thập chứng cứ trong những trường hợp do luật quy định. Qua đó, địi hỏi quá

6


trình này của Tịa án phải thật sự khách quan và toàn diện. Khách quan ở đây là sự
tồn tại khơng phụ thuộc vào ý chí của con người. Như thế thì khách quan của Tịa
án trong HĐCM của mình đó là sự xem xét, đánh giá các thơng tin, tài liệu,… từ
bản chất của nó, phản ánh một cách trung thực, cịn ngun tắc tồn diện địi hỏi sự
xem xét bao quát tất cả vấn đề liên quan đến đối tượng cần chứng minh để nhận
thức đúng vấn đề liên quan đến vụ việc cần giải quyết.
Nếu trong TTDS Tịa án khơng thực hiện HĐCM theo ngun tắc khách
quan, toàn diện sẽ gây ra những đánh giá sai lầm dẫn đến ra bản án, quyết định
không đúng đắn, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các bên. Thông thường
những sai lầm mà Tịa án hay mắc phải đó là nghiên cứu, đánh giá chứng cứ một
cách chủ quan, cảm tính, chi phối bởi cảm xúc hoặc định kiến cá nhân của mình
hoặc xem xét một chiều mà khơng quan tâm đến những thơng tin, tài liệu có liên
quan khác.
 Nguyên tắc lịch sử, cụ thể
Phép biện chứng chỉ ra rằng mọi sự vật đều tồn tại trong không gian - thời
gian nhất định và mang dấu ấn của khơng gian, thời gian đó9. Trong TTDS cũng
vậy, khi xem xét các sự vật, hiện tượng, tài liệu, thông tin hay nghiên cứu, đánh giá
chứng cứ cần đặt chúng trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất định mà ở đó
chúng phát sinh, tồn tại và lưu lại những dấu vết liên quan đến vụ việc. Theo

nguyên tắc này, đòi hỏi Tòa án mà đại diện cụ thể là Thẩm phán, Thẩm tra viên và
Hội thẩm nhân dân trong HĐCM cần phải dựa trên những tài liệu, sự vật, hiện
tượng, chứng cứ có được sau đó tái tạo nó theo những trật tự khơng gian và thời
gian, xem nó có thật sự tồn tại hay không, yếu tố nào làm cho sự vật, hiện tượng,
chứng cứ đó xuất hiện,....
Ví dụ: A và B là hàng xóm của nhau. Ngày 01/01/2019 A cho B vay số tiền 2
tỷ đồng nhưng không có hợp đồng và khơng có người làm chứng, hạn trả là 06
tháng sau. Tuy nhiên, đến hẹn thì B khơng trả và cho rằng mình khơng có mượn A.
A cho rằng thời gian đó mình có mặt ở địa điểm khác vì đang đi du lịch. Một số
người hàng xóm khác của B là C, D thì cho rằng trong khoảng thời gian đó có nhìn
thấy B ở địa phương đang ở, E cho biết là có nhìn thấy ngày hơm đó B đến nhà A,
cịn nhân chứng F thì nói rằng B trong khoảng thời gian trước ngày 01/01/2019 có
nói với mình rằng đang cần tiền và sẽ đến vay tiền của B.
9

Đỗ Văn Đương (2011), Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, tr.56.

7


Như vậy trong trường hợp, có nhiều lời khai và nhân chứng và đây là những
thơng tin, tài liệu có thể sử dụng làm chứng cứ có liên quan gián tiếp đến vụ án. Tuy
nhiên, Tòa án cần phải xâu chuỗi, tái tạo lại những sự việc xảy ra vào thời điểm đó
dựa vào những lời khai này, xác định rõ lại những khoảng thời gian này của những
nhân chứng xem có mối liên hệ với nhau hay khơng. Vấn đề này đòi hỏi Tòa án cần
phải nghiên cứu, xem xét cụ thể nội dung từng chứng cứ và tìm ra mắt xích, mối
liên hệ giữa chúng. Dựa trên tinh thần của nguyên tắc này thì chỉ khi đã tìm được
mối liên hệ khách quan, tất yếu giữa các sự việc nó sẽ tạo nên lịch sử hình thành và
phát triển của các sự vật, hiện tượng, tạo nên các quy luật quy định sự tồn tại và
chuyển hóa của nó. Vận dụng nguyên tắc này trong HĐCM góp phần giúp Tịa án

có thể hiểu rõ được bản chất của một sự việc.
 Nguyên tắc vận động và phát triển
Trong cuộc sống mọi sự vật, hiện tượng đều luôn vận động, phát triển và
biến đổi khơng ngừng và có thể nói rằng vận động là phương thức tồn tại của vật
chất. “… logích biện chứng địi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong “sự tự
vận động” (như Hêghen đã nói), trong sự biến đổi của nó”10. Trong TTDS cũng
khơng ngoại lệ, khi Tịa án tiến hành HĐCM như thu thập, nghiên cứu, đánh giá
chứng cứ của mình cũng phải xem xét trong trạng thái vận động vì nếu nhận thức
một tình tiết, sự kiện hay tài liệu, chứng cứ nào đó trong trạng thái đứng im thì có
thể sẽ khơng nhận thức đúng đắn về bản chất vụ việc. Bởi lẽ, các yếu tố trên cũng sẽ
theo quy luật của cuộc sống đó là sự ln biến đổi khơng ngừng.
Ví dụ như: thời gian q lâu làm cho chữ viết trong bản di chúc bị mờ đi,
nên chúng không thể đọc được; hoặc trong vụ án tranh chấp ranh giới đất mà trước
kia ranh giới giữa các thửa đất được xác định bởi con kênh, nhưng nay do phù sa bù
đắp, nên con kênh này khơng cịn11.
Như vậy trong HĐCM của mình thì Tịa án cần chú trọng đến việc sự biến
đổi này có phải do yếu tố khách đến từ sự vận động và phát triển theo quy luật tự
nhiên hay đây là can thiệp từ bên ngoài làm thay đổi các dấu vết này làm cho chứng
cứ khơng cịn khách quan nữa.
Hay như trong các vụ tranh chấp về giá trị tài sản mà các bên đương sự
không cung cấp được giá tài sản đang tranh chấp hoặc không thỏa thuận được về giá
tài sản đang tranh chấp thì Tịa án cần phải tổ chức định giá tài sản, việc định giá
10
11

V.I. Lê nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tập 42, tr.364.
Chu Hải Đăng (2017), Giá trị pháp lý của chứng cứ trong các vụ án dân sự, Luật sư Việt Nam số 1+2, tr.44.

8



này cũng phải căn cứ vào giá thị trường tại thời điểm định giá chứ không phải muốn
căn cứ vào thời điểm nào cũng được. Bởi, như đã nói thì sự vật, hiện tượng đều luôn
vận động, biến đổi theo thời gian nên Tịa án cũng khơng thể nào căn cứ vào giá của
thời điểm cách xa với giá tại thời điểm định giá vì như vậy sẽ ảnh hưởng đến quyền
lợi của một trong các bên. Đảm bảo nguyên tắc này trong HĐCM sẽ góp phần thúc
đẩy Tịa án cần phải thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ một cách
nhanh chóng hơn, hạn chế thấp nhất các trường hợp chứng cứ không thể sử dụng
được nữa.
 Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử vụ án dân sự, Thẩm
phán giải quyết việc dân sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản trong TTDS, xuất phát từ việc
muốn giải quyết một VVDS được công bằng, khách quan. Khi biểu quyết về quyết
định giải quyết vụ án dân sự thì Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có quyền ngang
nhau12. Các bên phải tự đưa ra ý kiến riêng, quyết định riêng của mình dựa trên quy
định của pháp luật tức là mỗi thành viên phải có sự nhận thức, suy nghĩ riêng và
phải tự chịu trách nhiệm cho quyết định của mình mà khơng chịu sự tác động hay
phụ thuộc trái pháp luật vào bất kỳ một chủ thể nào khác.
Thế nên nguyên tắc này đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải thực
sự độc lập, khách quan trong HĐCM, phải vượt lên tất cả các sức ép ngoại cảnh để
đảm bảo cho phán quyết của mình cơng tâm, đúng pháp luật. Và chỉ có xét xử độc
lập thì Tịa án mới tồn tại với bản chất của mình là một cơ quan bảo vệ cơng lý, đặc
biệt là tại phịng nghị án là nơi diễn ra hoạt động tư duy cuối cùng, kết luận giá trị
chứng minh của chứng cứ và quyết định các vấn đề liên quan đến vụ án thì việc
nghiêm chỉnh thực hiện nguyên tắc này sẽ là yếu tố mang ý nghĩa quan trọng để đưa
ra những kết luận và quyết định đúng đắn nhất.
1.2.2. Ý nghĩa hoạt động chứng minh của Tòa án
Trong thực tế, các quan hệ tranh chấp trong lĩnh vực dân sự ngày càng nhiều
và phức tạp, đặc biệt là khi BLTTDS 2015 bổ sung một số điểm mới. Ví dụ như tại
khoản 2 Điều 4 có quy định “Tịa án khơng được từ chối giải quyết VVDS vì lý do

chưa có điều luật để áp dụng”. Như vậy, Tịa án phải có trách nhiệm nhận đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu được đương sự gửi đến và khi có đủ điều kiện theo quy định pháp
luật về trả lại đơn thì mới được trả, nếu khơng thì Tịa án phải thụ lý, tiến hành giải
12

Quy định tại Khoản 2 Điều 11 BLTTDS 2015.

9


quyết theo đúng quy định pháp luật. Đây là một trong những quy định tiến bộ, cần
thiết, đảm bảo cho người dân có thể bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của
mình khi vụ việc phát sinh nhưng vẫn chưa có điều luật để áp dụng. Thế nên số
lượng vụ việc được thụ lý giải quyết sẽ khá nhiều. Do đó Tịa án đóng vai trị quan
trọng trong HĐCM của mình nhằm tạo cơ sở vững chắc cho việc ra phán quyết,
quyết định giải quyết vụ việc dựa trên những chứng cứ đã được giao nộp cùng với
hoạt động nghiên cứu, đánh giá những chứng cứ đã được thu thập.
Mặc dù, pháp luật trao cho đương sự sự chủ động trong việc cung cấp chứng
cứ và chứng minh cho yêu cầu, phản yêu cầu của mình. Tuy nhiên, khơng phải tất
cả chứng cứ, lập luận đó đều đúng và phù hợp với quy định của pháp luật. Vì vậy,
HĐCM của Tòa án được tiến hành để đảm bảo giá trị chứng minh của chứng cứ,
tìm ra được sự thật khách quan của vụ án, góp phần bảo vệ cơng lý. Để đạt được
điều này, Tịa án phải tn thủ những nguyên tắc cơ bản của TTDS và nguyên tắc
trong lý luận nhận thức của triết học Mác - Lê nin. Ngồi ra cịn nhờ vào kinh
nghiệm trong thực tiễn hoạt động xét xử, có trình độ nghiệp vụ, có kiến thức xã hội
và khả năng nhạy bén trong xác minh, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ,...
Chỉ cần một sự sai sót nhỏ trong q trình tố tụng cũng có thể ảnh hưởng ít nhiều
đến hoạt động xét xử cũng như quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Do đó, HĐCM của Tịa án có ý nghĩa rất quan trọng, nếu khơng có HĐCM
một cách nghiêm túc của Tịa án thì một vụ việc khó có thể tìm ra được sự thật và

khó bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của các bên trong các bên tham gia.
1.3. Pháp luật của các nƣớc trên thế giới về hoạt động chứng minh.
Đề cập đến pháp luật các nước trên thế giới về HĐCM, tác giả so sánh pháp
luật các nước ở hai vấn đề sau:
Thứ nhất, về sự tham gia của Tịa án trong HĐCM
Hiện nay cũng có nhiều quan điểm khác nhau về cách thức xác định sự thật
của Tịa án. Những nước theo truyền thống thơng luật (Common law) ví dụ như:
Anh, Mỹ,… thì cho rằng, sự nhận định của Tòa án chỉ thuần túy dựa trên những gì
mà đương sự, người truy tố chứng minh. Tòa án là một cơ quan thuần túy phân xử
và độc lập với các bên cũng như ràng buộc chính trị. Do đó, Tịa án sẽ nhận định và
phán quyết cho bên nào chứng minh có lý hơn, đầy đủ hơn. Tòa sẽ xác định sự thật
vụ án trên cơ sở của kết quả chứng minh. Đây là hệ thống tố tụng tranh tụng
(Adversarial system).

10


Những nước theo truyền thống dân luật (Civil law) ví dụ như: Pháp, Đức,
Đan Mạch, Thụy Điển,… thì lại cho rằng, ngồi tư cách là một cơ quan độc lập,
Tịa án vẫn còn nhiệm vụ bảo vệ trật tự pháp luật chung. Và do đó, khi các bên
trong vụ kiện tuy đã chứng minh cho các yêu cầu kiện cáo của mình, Tịa vẫn cịn
ngun nghĩa vụ xác minh sự thật khách quan. Theo đó, Tịa án sẽ phải điều tra, làm
rõ những tình tiết của vụ án trước khi đưa ra phán quyết, những kết quả chứng minh
của đương sự chỉ có ý nghĩa tham khảo. Đây là hệ thống tố tụng thẩm vấn
(inquisitorial system).13
Tuy nhiên, hiện nay đã có sự giao thoa giữa hai hệ thống tố tụng trên dựa vào
những ưu điểm của nó. Các đương sự, người đi kiện có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
và chứng minh cho yêu cầu, khẳng định hay những phản bác của mình, nguyên tắc
tranh tụng được coi là chủ đạo trong tố tụng. Bên cạnh đó, nguyên tắc thẩm vấn
cũng còn được áp dụng ở mức độ hạn chế. Người ta đã tìm thấy trong tố tụng của

các nước theo hệ thơng luật có nhiều hơn các quy định về chứng cứ viết, các tài liệu
giám định. Tòa án Common law cũng đã tiến hành lấy lời khai nhân chứng mà
không cần đến một lời đề nghị nào của các bên khi có mâu thuẫn hoặc tịa nhận định
thấy chưa thể đủ căn cứ để phán quyết. Vài thay đổi theo hướng đó cũng đã xuất
hiện trong tố tụng của các nước theo hệ dân luật, khơng cịn thấy hình ảnh của các
quan tịa “lắm lời” mà thay vào đó là sự tranh luận miệng của các bên14. Như thế ta
có thể thấy rằng, càng về sau này người ta khơng cịn có sự phán xét xem hệ thống
tố tụng nào ưu việt hơn, mà thay vào đó người ta ln tìm ra những cái hay của
những hệ thống tụng và học hỏi để giúp cải thiện những nhược điểm hệ thống tố
tụng của của quốc gia mình.
Thứ hai, về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh thuộc về đương sự
Hiện nay, trong pháp luật TTDS của một số nước đã có sự quy định rõ ràng
về nghĩa vụ này của đương sự, cũng như trách nhiệm của Tòa án. Chẳng hạn, Cộng
hòa Pháp, Liên bang Nga hay Trung Quốc,… nghĩa vụ chứng cung cấp chứng cứ và
chứng minh được xác định là trước tiên thuộc về các đương sự, họ phải thực hiện
nghĩa vụ này ngay từ khi khởi kiện – giai đoạn đầu tiên của hoạt động tố tụng15.

Ngô Vĩnh Bạch Dương (2015), Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng, Nghiên cứu lập pháp, số 7, tr.25.
Ngơ Vĩnh Bạch Dương (2015, tlđd (13), tr.25.
15
Nguyễn Thị Hồi Phương, “Bình luận về các nguyên tắc cơ bản trong BLTTDS 2015”, Bình luận Những
điểm mới trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, năm 2016,
tr.101.
13
14

11


Điều 6 BLTTDS Pháp16 quy định: “Các bên đương sự có nghĩa vụ viện dẫn các

tình tiết cụ thể làm căn cứ cho các yêu cầu của mình” và tại Điều 9: “Mỗi bên
đương sự có nghĩa vụ chứng minh theo luật định các tình tiết cần thiết làm căn cứ
cho các yêu cầu của mình”. Tương tự như vậy, Điều 56 BLTTDS của Liên bang
Nga17 quy định: “Mỗi bên có nghĩa vụ phải chứng minh những tình tiết làm cơ sở
cho những yêu cầu của mình hay sự phản đối yêu cầu của bên kia, nếu luật liên
bang không quy định khác”. Tuy nhiên, trong những trường hợp vì lý do khách
quan và chủ quan các đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ thì Tịa
án có thể hỗ trợ họ.
Điều 57 BLTTDS của Liên bang Nga18 quy định: “Trong trường hợp những
người tham gia tố tụng gặp khó khăn trong việc xuất trình chứng cứ, theo u cầu
của họ Tịa án có thể giúp đỡ trong việc thu thập và yêu cầu cung cấp chứng cứ”.
Điều 138 Pháp luật TTDS của Pháp19 cũng quy định “Nếu trong quá trình tố tụng,
một bên đương sự dựa vào một công chứng thư hoặc tư chứng thư mà họ không
tham gia hoặc một tài liệu do người thứ ba đang giữ, họ có thể yêu cầu thẩm phán
thụ lý vụ kiện ra lệnh cấp cho họ tài liệu và bản sao tài liệu ấy”. BLTTDS của Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa20 cũng quy định việc chứng minh thuộc về các đương sự,
theo đó, các bên đương sự có nghĩa vụ cung cấp các chứng cứ cho Tòa án và chịu
trách nhiệm về việc cung cấp chứng cứ của mình. Tịa án khơng có nghĩa vụ thu
thập chứng cứ mà chỉ trong trường hợp chứng cứ do hai bên đương sự cung cấp trái
ngược, mâu thuẫn nhau thì Tịa án phải thu thập chứng cứ xác định sự thật hoặc
trong trường hợp đương sự khơng tự mình cung cấp được chứng cứ thì Tịa án sẽ hỗ
trợ và tiến hành xác minh sự thật.
Tuy nhiên, pháp luật Tố tụng dân sự ở một số nước như Đan Mạch và Thụy
Điển thì khác với các nước kể trên, khi xác định trách nhiệm chứng minh thuộc về
các bên tham gia tố tụng. Tịa án khơng được phép điều tra vụ án, bởi lẽ Thẩm phán
chỉ đóng vai trị là người trung lập, nếu để Thẩm phán tiến hành các công việc như
đi điều tra, lấy lời khai nhân chứng,… thì có thể dẫn đến việc khơng khách quan
16

Nhà pháp luật Việt Pháp (1998), BLTTDS của Cộng hịa Pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, tr.8.

BLTTDS Liên bang Nga 2003 (2005), Nxb. Tư pháp, tr.80.
18
Nhà xuất bản Tư pháp, tlđd (17), tr.80.
19
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tlđd (16), tr.38.
20
Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2004), Một số vấn đề về luật TTDS nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa, Thông tin khoa học pháp lý số tháng 03/2004, Trích: Nguyễn Thị Hồi Phương, “Bình luận
về các nguyên tắc cơ bản trong BLTTDS 2015”, Bình luận Những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015, Nxb Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, năm 2016, tr.101.
17

12


trong quá trình giải quyết vụ án. Ngay cả tại phiên tịa, Thẩm phán cũng chỉ đóng
vai trị chủ tọa, khơng tham gia trong q trình thẩm vấn các bên và nhân chứng.
Thẩm phán chỉ nghe luật sư của các bên thẩm vấn và chỉ nêu câu hỏi trong trường
hợp đặc biệt cần thiết để làm rõ hơn lời trình bày các bên hoặc nhân chứng.21 Tức
nghĩa vụ này hoàn tồn thuộc về đương sự, Tịa án trở về đúng nghĩa là một cơ quan
xét xử.
Từ đó, ta có thể thấy được rằng trong pháp luật TTDS có nhiều quan điểm
khác nhau giữa các quốc gia. Nhưng pháp luật Tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay
và một số nước khi quy định hoạt chứng minh của Tòa án ở giai đoạn thu thập
chứng cứ khơng mang tính chất chủ động hồn tồn hay là nghĩa vụ của Tịa án.
Đây là một quy định phù hợp, tiến bộ, nhằm giúp các đương sự có một sự hỗ trợ
nhất định trong hoạt động chứng minh. Bên cạnh đó, giúp các bên muốn kiện một
vụ việc nào cần phải cân nhắc thật kĩ, có chứng cứ cụ thể để chứng minh, tránh việc
khởi kiện khi chưa có thơng tin, tài liệu nào cụ thể. Dẫn đến việc gây khó khăn cho
Tịa án trong công tác giải quyết hoặc số lượng vụ kiện quá nhiều sẽ gây tồn đọng,

mất nhiều thời gian, công sức để xem xét, nghiên cứu và giải quyết. Ngoài sự kế
thừa và phát triển những quy định tiến bộ của pháp luật nước ngoài để giảm tải gánh
nặng cho Tịa án thì trong pháp luật TTDS Việt Nam cũng chú ý đến việc kế thừa,
học hỏi nhưng phù hợp với tình hình thực tiễn ở Việt Nam. Thế nên, tại khoản 1
Điều 91 BLTTDS 2015 đã loại trừ một số trường hợp mà đương sự không cần phải
chứng minh.22

Kỷ yếu của Dự án VIE/95/017 – Tăng cường năng lực xét xử tại Việt Nam - Về pháp luật Tố tụng dân sự,
Hà Nội, tháng 5 năm 2000.
22
Ví dụ như người tiêu dùng khơng có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình khơng có lỗi
gây ra thiệt hại theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,…
21

13


KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Trong thế giới khách quan nói chung luôn tồn tại nhiều sự vật, hiện tượng
khác nhau mà khi muốn tìm được bản chất của nó thì địi hỏi sự tư duy, ghép nối
các sự kiện, tình tiết lại với nhau. Đối với giải quyết một vụ việc của Tịa án trong
TTDS thì q trình tư duy đó dựa trên những chứng cứ được cung cấp, thu thập,
Tòa án tiến hành nghiên cứu, đánh giá chứng cứ. Quá trình này được gọi là HĐCM,
trong đó hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ thể hiện được vai trò rõ nét của
Tịa án. Có thể thấy được HĐCM trong TTDS là vô cùng quan trọng và không thể
thiếu trong quá trình giải quyết vụ án.
Để làm tiền đề nghiên cứu sâu hơn về HĐCM của Tòa án ở Chương sau,
trong Chương 1 tác giả đã khái quát được cơ bản về HĐCM của Tòa án, pháp luật
của một số nước về HĐCM. Mặt khác ở Chương đầu tiên này giúp chúng ta có cái

nhìn khái qt hơn về HĐCM ở Việt Nam so với một nước khác. Qua đó thấy được,
pháp luật tố tụng dân sự nước ta đã có sự tiếp thu những quy định tiến bộ của pháp
luật TTDS nước ngoài, nhưng đồng thời vẫn dựa trên thực tiễn xét xử trong nước để
đưa ra những quy định phù hợp. Ngoài ra, Chương này đã thể hiện được HĐCM
của Tịa án cũng khơng thể tùy tiện mà cần tuân theo những nguyên tắc nhất định,
những quá trình này cũng được tiến hành theo những trình tự luật định và phải có sự
kết hợp nhiều kĩ năng khác để hiện tốt vai trị xét xử của mình. Từ những lý luận
chung về HĐCM được trình bày, tác giả tiếp tục nghiên cứu cụ thể hơn về HĐCM
của Tòa án ở chương kế tiếp.

14


×