Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Lấy lời khai người làm chứng trong tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh ninh thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 68 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BAN ĐIỀU HÀNH CÁC CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ
NIÊN KHĨA: 2010 – 2014

ĐỀ TÀI:

LẤY LỜI KHAI NGƢỜI LÀM CHỨNG TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH THUẬN

SINH VIÊN THỰC HIỆN: VÕ MAI PHƢƠNG TRANG
MSSV

: 1055030373

NGƢỜI HƢỚNG DẪN

: TS. VÕ THỊ KIM OANH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2014


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI
NGƢỜI LÀM CHỨNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............................................ 1
1.1


Khái niệm về hoạt động lấy lời khai người làm chứng ...................................... 1

1.1.1

Khái niệm người làm chứng và hoạt động lấy lời khai người làm chứng .....1

1.1.2

Đặc điểm của hoạt động lấy lời khai người làm chứng .....................................7

1.1.3

Nhiệm vụ hoạt động lấy lời khai người làm chứng .............................................8

1.1.4

Đặc điểm về nhận thức và tâm lý người làm chứng trong hoạt động lấy

lời khai người làm chứng ........................................................................................................ 10
1.2

Sơ lược về sự hình thành và phát triển quy định lấy lời khai người làm

chứng từ 1945 đến trước 2003. ................................................................................... 13
1.3

Hoạt động lấy lời khai người làm chứng theo quy định pháp luật của một số

quốc gia. ...................................................................................................................... 17
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT THỰC ĐỊNH VỀ HOẠT ĐỘNG LẤY

LỜI KHAI NGƢỜI LÀM CHỨNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TỪ TỈNH
NINH THUẬN .............................................................................................................. 20
2.1

Quy định pháp luật thực định về triệu tập và dẫn giải người làm chứng và

thực tiễn áp dụng từ tỉnh Ninh Thuận ......................................................................... 20
2.1.1

Về triệu tập người làm chứng ................................................................................. 20

2.1.2

Về dẫn giải người làm chứng ................................................................................. 24

2.1.3

Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về hoạt động triệu tập, dẫn giải

người làm chứng từ tỉnh Ninh Thuận .................................................................................. 26
2.2

Quy định pháp luật thực định về trình tự, thủ tục lấy lời khai người làm

chứng và thực tiễn áp dụng từ tỉnh Ninh Thuận ......................................................... 30


2.2.1

Về trình tự, thủ tục lấy lời khai người làm chứng ............................................. 30


2.2.2

Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về trình tự, thủ tục lấy lời khai

người làm chứng từ tỉnh Ninh Thuận .................................................................................. 35
2.3

Lấy lời khai người làm chứng dưới 16 tuổi ...................................................... 37

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI
KHAI NGƢỜI LÀM CHỨNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN TỈNH NINH THUẬN ........................................................................... 41
3.1

Nhu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động lấy lời khai Người làm chứng trong

Tố tụng hình sự Việt Nam .......................................................................................... 41
3.1.1

Xuất phát từ những vướng mắc trong áp dụng pháp luật ............................... 41

3.1.2

Xuất phát từ những hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định của pháp

luật trong hoạt động lấy lời khai .......................................................................................... 44
3.2 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động lấy lời khai người làm chứng. .... 45
3.2.1


Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về hoạt động lấy lời khai NLC . 46

3.2.2

Các giải pháp khác.................................................................................................... 51

DANH MỤC THAM KHẢO


DANH MỤC VIẾT TẮT

1. BLHS

BỘ LUẬT HÌNH SỰ

2. BLTTHS

BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

3. BCA

BỘ CƠNG AN

4. BTP

BỘ TƯ PHÁP

5. THTT

TIẾN HÀNH TỐ TỤNG


6. TTHS

TỐ TỤNG HÌNH SỰ

7. TANDTC

TỊA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

8. VKSNDTC

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

9. Tr

TRANG

10. NXB

NHÀ XUẤT BẢN

11. NLC

NGƯỜI LÀM CHỨNG

12. VAHS

VỤ ÁN HÌNH SỰ



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, Việt Nam đang từng bước đẩy mạnh hội nhập, tăng cường hợp tác
quốc tế để thúc đẩy cải cách kinh tế theo hướng phát triển bền vững. Với đường lối
chủ trương này, trong những năm gần đây nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng
kể trong công cuộc phát triển kinh tế, xã hội. Song song với sự phát triển đó là hệ
quả của mặt trái kinh tế thị trường mà tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức
tạp là một trong những hệ quả nghiêm trọng nhất. Sự gia tăng không ngừng số
lượng và mức độ nguy hiểm của tội phạm đã dẫn đến nhiều khó khăn cho cơng tác
điều tra và đấu tranh phịng chống tội phạm, đặc biệt là trong quá trình chứng minh
tội phạm khi mà hoạt động lấy lời khai người làm chứng cịn nhiều hạn chế và bất
cập vì nhiều ngun nhân khác nhau. Do vậy, việc nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm là yêu cầu cấp thiết cần phải được đặt ra. Trong đó,
việc phối hợp chặt chẽ với người làm chứng để chứng minh tội phạm là vô cùng
quan trọng. Xuất phát từ bối cảnh trên, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 (BLTTHS)
được thơng qua đã có nhiều sửa đổi bổ sung phù hợp với thực tiễn tình hình tội
phạm hơn so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988. Các cơ quan tiến hành tố tụng
đã vận dụng những quy định của pháp luật vào hoạt động lấy lời khai người làm
chứng và thu được những kết quả to lớn. Tuy nhiên, những quy định sửa đổi của
pháp luật về người làm chứng và hoạt động lấy lời khai người làm chứng vẫn chưa
cụ thể, chưa phát huy được vai trò của người làm chứng trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự dẫn đến nhiều thiếu sót trong hoạt động lấy lời khai người làm chứng
hoặc không khai thác hết hiểu biết của người làm chứng để chứng minh vụ án, điển
hình như: nhiều vụ án tiến hành lấy lời khai người làm chứng nhiều lần gây lãng
phí cơng sức, thời gian và kinh phí; một số trường hợp lấy lời khai khơng đúng theo
quy định của pháp luật hình sự,… Ngoài ra, hiện nay hệ thống pháp luật nước ta vẫn
còn thiếu cơ chế và quy định để đảm bảo quyền lợi cho người làm chứng. Thực tế,


người làm chứng thường rất e dè hoặc sợ phiền phức khi tham gia tố tụng và thường

trốn tránh việc làm chứng gây khó khăn cho q trình điều tra và làm rõ vụ án.
Vì những lý do trên, việc nghiên cứu nhằm góp phần hồn thiện hoạt động lấy
lời khai người làm chứng là một trong những vấn đề cấp thiết. Khi có những cơ sở
pháp lý phù hợp để hoàn thiện hơn các quy định về lấy lời khai người làm chứng thì
việc lấy lời khai người làm chứng sẽ mang lại hiệu quả tích cực hơn, qua đó góp
phần nâng cao cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm trong tình hình hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu về người làm chứng và hoạt động lấy lời khai người làm
chứng trong tố tụng hình sự đã được đề cập đến trong một số giáo trình, bài viết, tạp
chí khoa học, pháp lý cũng như các cơng trình nghiên cứu khoa học khác. Tuy
nhiên, phần lớn các bài viết, cơng trình nghiên cứu trên chỉ đề cập đến một khía
cạnh nhất định trong chế định người làm chứng. Hiện nay, có rất ít cơng trình
nghiên cứu một cách hồn chỉnh và tồn diện lý luận và thực tiễn áp dụng quy định
pháp luật về hoạt động lấy lời khai người làm chứng cũng như đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động này trong thực tế.
Một số bài viết nghiên cứu có liên quan đến người làm chứng và hoạt động lấy
lời khai người làm chứng trong tố tụng hình sự tiêu biểu như sau:
-

“Về lời khai của người làm chứng trong vụ án hình sự” của tác giả Trần
Quang Tiệp trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2005.

-

“Hồn thiện quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự nhằm bảo vệ người làm
chứng khi tham gia tố tụng” của tác giả Nguyễn Hải Ninh trên Tạp chí Luật
học tháng 12/2011.

-


“Bảo vệ người làm chứng và quyền miễn trừ làm chứng trong Tố tụng hình
sự” của tác giả Nguyễn Thái Phúc trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 3/2007.

-

“Đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả
Phạm Thị Hương Thủy, Tài liệu hội thảo đề tài khoa học cấp Bộ “Đảm bảo
quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam”, 2006.


-

“Vấn đề nhân chứng trong vụ án hình sự” của tác giả Phạm Văn Tỉnh trên
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 8/2003.

3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Lấy lời khai người làm chứng trong tố tụng hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận” một cách tồn diện và khoa học. Qua đó cung
cấp những lý luận nền tảng, phục vụ cho công tác nghiên cứu pháp luật đồng thời
cung cấp cơ sở pháp lý để áp dụng trên thực tiễn, góp phần hồn thiện hệ thống
pháp luật.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài “Lấy lời khai người làm chứng trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Ninh Thuận” tập trung nghiên cứu làm rõ các vấn đề pháp lý liên quan đến
người làm chứng và hoạt động lấy lời khai người làm chứng; phân tích những bất
cập, hạn chế của quy định pháp luật tố tụng hình sự trong hoạt động lấy lời khai từ
thực tiễn tỉnh Ninh Thuận; đề xuất những giải pháp theo hướng hồn thiện, góp
phần nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được tiến hành nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện

chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Bên cạnh đó cịn sử dụng tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu khoa học như so sánh, phân tích, nhận xét,… để làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận và thực tiễn của đề tài.
6. Bố cục của luận văn
Chương 1: Nhận thức chung về hoạt động lấy lời khai người làm chứng trong tố
tụng hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật thực định về hoạt động lấy lời khai người
làm chứng.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả lấy lời khai người làm chứng từ thực
tiễn áp dụng pháp luật tại Ninh Thuận


CHƢƠNG 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG LẤY LỜI KHAI
NGƢỜI LÀM CHỨNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1 Khái niệm về hoạt động lấy lời khai ngƣời làm chứng
1.1.1 Khái niệm người làm chứng và hoạt động lấy lời khai người làm chứng
- Định nghĩa Người làm chứng
Người làm chứng (NLC) là một trong những người tham gia tố tụng có vai trị
rất quan trọng trong q trình giải quyết vụ án hình sự. Vì thế, việc hiểu đúng và
đầy đủ khái niệm về người làm chứng sẽ tạo tiền đề giúp chúng ta nghiên cứu
những quy định này một cách sâu rộng hơn về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
Theo Viện ngôn ngữ học Việt Nam, NLC là “người không phải là đương sự,
đứng ra xác nhận những gì mà mình chứng kiến”1. Định nghĩa này chưa bao quát
được đặc điểm và điều kiện để xác định một người như thế nào là NLC.
Theo từ điển Luật học, NLC là “người nào biết được những tình tiết liên quan
đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng”2. Khái niệm này cũng chưa
phân biệt được rõ khái niệm NLC và điều kiện trở thành NLC.
Theo Giáo trình Luật Tố tụng hình sự (TTHS) Việt Nam của trường Đại học
Luật Hà Nội, NLC được hiểu là “người biết được những tình tiết có liên quan đến

vụ án và được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để khai báo về những sự việc cần
xác minh trong vụ án”3. Theo đó, người biết được tình tiết vụ án sẽ được cơ quan
tiến hành tố tụng (THTT) triệu tập để lấy lời khai, tạo cơ sở cho cơ quan chức năng
xác minh sự thật vụ án. Khái niệm này đã xác định một cách khá hoàn chỉnh điều
kiện để một người trở thành NLC cũng như nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng
hình sự.

1

Viện Ngơn ngữ học Việt Nam – Từ điển Tiếng Việt.
Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, Từ điển Luật học, NXB Từ điển bách khoa và NXB Tư pháp, Hà
Nội, 2006.
3
Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB CAND, 2013, tr. 147.
2

1


Theo Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của trường Đại học TP.HCM, “Người
làm chứng là người biết được các tình tiết có liên quan đến vụ án và được cơ quan
tiến hành tố tụng triệu tập tham gia tố tụng”4. Theo định nghĩa này, NLC là những
người biết được các tình tiết liên quan đến vụ án, được cơ quan điều tra, tòa án hoặc
viện kiểm sát triệu tập tham gia hoạt động tố tụng như hoạt động điều tra hoặc hoạt
động xét xử tại tòa án.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS 2003) của nước ta quy định NLC
như sau: “Người nào biết được những tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được
triệu tập đến làm chứng”5. Định nghĩa này khá ngắn gọn và khơng bao hàm đủ các
đặc điểm cần có của NLC. Hơn nữa, mặc dù thẩm quyền triệu tập NLC được quy
định cụ thể trong các quy định khác nhưng việc khơng nêu rõ cơ quan nào có thẩm

quyền triệu tập trong định nghĩa trên cũng là một thiếu sót khơng đáng có.
Như vậy, hiện nay vẫn có rất nhiều định nghĩa khác nhau về NLC. Tuy nhiên,
theo quy định tại điều 55 BLTTHS 2003 một người được thừa nhận là người làm
chứng thì phải đáp ứng các điều kiện sau:
Trước hết, họ phải là người biết được các tình tiết liên quan đến vụ án. Những
tình tiết liên quan đến vụ án mà NLC biết được bao gồm “những vấn đề cần chứng
minh trong vụ án” quy định tại điều 63 BLTTHS 2003 hoặc những thơng tin bất kỳ
có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án như: nhân thân người bị hại, người phạm tội,
... Việc hiểu biết đó, hoặc là trực tiếp thấy hay phát hiện các tình tiết liên quan đến
vụ án mà không thông qua bất cứ khâu trung gian nào, hoặc là gián tiếp tiếp nhận từ
các nguồn thơng tin khác nhau. Ngồi ra, trong q trình khai báo, họ có nghĩa vụ
phải trình bày rõ tại sao họ biết được những tình tiết liên quan đó. Nếu khơng trình
bày được, lời khai của họ sẽ khơng có giá trị pháp lý và họ sẽ mất đi tư cách NLC.
NLC khơng phải là người có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án, cho nên lời khai
họ cung cấp mang tính khách quan và trung thực. Vì thế, việc NLC trực tiếp hoặc
gián tiếp biết được những tình tiết liên quan tới vụ án không hề ảnh hưởng đến tư
cách tố tụng của họ, mà ngược lại còn giúp cho cơ quan chức năng dễ dàng xác định
4
5

Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Hồng Đức, 2012, tr. 189.
Khoản 1 Điều 55 Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam 2003.

2


được độ chính xác và khách quan của từng lời khai, qua đó phục vụ cơng tác điều
tra làm rõ vụ án hình sự.
Tiếp theo, họ phải được cơ quan THTT triệu tập. Trong một vụ án hình sự, có
thể có nhiều người biết được tình tiết liên quan đến vụ án nhưng không phải ai cũng

được xem là NLC. Nếu khơng được cơ quan THTT triệu tập thì một cá nhân cụ thể
không thể tham gia tố tụng với tư cách là NLC được. Nói cách khác, quyền và nghĩa
vụ của NLC chỉ phát sinh khi có quyết định triệu tập của cơ quan THTT. Việc triệu
tập NLC không những làm phát sinh tư cách pháp lý của NLC mà còn đặt ra trách
nhiệm cho cơ quan THTT là phải tuân thủ đúng thủ tục, trình tự lấy lời khai NLC.
Thông thường, cơ quan THTT sẽ triệu tập những người “biết việc”, nắm một cách
cụ thể và chính xác những tin tức quan trọng liên quan đến vụ án có mặt tại địa
điểm triệu tập để lấy lời khai. Sau đó, các cơ quan trên tiến hành xem xét, đánh giá
một cách cẩn trọng những lời khai đó nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự,
tránh bỏ lọt tội phạm.
Khác với những người tham gia tố tụng khác, NLC chỉ có thể tự mình cung cấp
trung thực tình tiết liên quan đến vụ án cho cơ quan THTT mà không thể ủy quyền
cho người khác, “Người làm chứng là người không thể thay thế trong tố tụng nên
người làm chứng khơng thể cử đại diện cho mình tham gia tố tụng”6. Xuất phát từ
bản chất lời khai, những thông tin NLC cung cấp phải do họ trực hoặc gián tiếp tiếp
nhận và xử lý bằng chính khả năng, nhận thức của bản thân. Khi một người là NLC,
họ phải hồi tưởng lại những tình tiết mà họ đã tri giác, thu nhận và phản ánh những
gì biết được dưới dạng ngơn ngữ. Vì thế, lời khai của mỗi cá nhân sẽ thể hiện sự
đánh giá riêng biệt, không thể thay thế được.
Bên cạnh những quy định về điều kiện làm chứng, để đảm bảo cho tính khách
quan trong lời khai của NLC, BLTTHS 2003 còn quy định những trường hợp khơng
được tham gia tố tụng hình sự với tư cách là NLC kể cả khi họ biết được tình tiết

6

Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam,

1999, tr.101.

3



liên quan tới vụ án. Khoản 2 Điều 55 BLTTHS 2003 quy định như sau: “Những
người sau đây không được làm chứng:
a. Người bào chữa của bị can, bị cáo
b. Người do có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà khơng có khả năng
nhận thức được những tình tiết của vụ án hoặc khơng có khả năng khai báo
đúng đắn.”7
Người bào chữa của bị can, bị cáo theo pháp luật quy định có thể là luật sư;
người đại diện của bị can, bị cáo hoặc là bào chữa viên nhân dân. Nghĩa vụ của
người bào chữa của bị can, bị cáo là người bảo vệ quyền và lợi ích của bị can, bị
cáo. Trong khi đó nghĩa vụ của NLC là khai báo trung thực sự thật khách quan. Vì
vậy, tồn tại giữa người bào chữa và NLC là sự xung đột về nghĩa vụ tố tụng. Nếu
cho phép một cá nhân tham gia tố tụng đồng thời với hai tư cách là người bào chữa
và NLC sẽ dẫn đến tình trạng sự thật bị “bóp méo” theo hướng có lợi cho bị can, bị
cáo; phá vỡ tính khách quan của sự thật và tính cơng minh của pháp luật. Ngược lại,
nếu khai báo trung thực thì những thơng tin họ cung cấp cho cơ quan THTT có thể
sẽ gây bất lợi cho bị can, bị cáo mà họ bào chữa. Vì thế, để tránh tình trạng trên
diễn ra, gây khó khăn cho hoạt động tố tụng, BLTTHS quy định người bào chữa của
bị can, bị cáo không được ra làm chứng.
Người có nhược điểm tâm thần hoặc thể chất khơng có khả năng nhìn nhận tình
tiết liên quan đến vụ án một cách đúng đắn thì sẽ không thể ra làm chứng. Bởi lẽ,
khả năng khai báo của họ bị hạn chế do không thể đánh giá chính xác sự việc. Một
cá nhân cụ thể tiếp nhận thông tin xung quanh qua các giác quan và nhận thức. Nếu
họ có khiếm khuyết về tâm thần hoặc có khiếm khuyết thể chất ví dụ như khiếm thị,
khiếm thính thì khả năng tiếp nhận, xử lý và đánh giá thơng tin của họ sẽ bị hạn chế
ít nhiều, trong một số trường hợp có thể nhìn nhận hồn tồn ngược với sự thật vụ
án. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi cá nhân có nhược điểm về thể chất và tâm thần
đều không được tham gia tố tụng với tư cách là NLC. Pháp luật vẫn có những quy
định cho phép họ được trở thành NLC nếu như có cơ sở để chứng minh những

nhược điểm đó khơng làm ảnh hưởng đến nhận thức, khả năng tiếp nhận cũng như
7

Khoản 2 Điều 55 Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam 2003.

4


khai báo đúng đắn thông tin của họ. Tức là mặc dù họ có khiếm khuyết nhưng vẫn
có khả năng khai báo một cách đúng đắn. Ví dụ: người khiếm thính có thể trình bày
lại những gì mình chứng kiến thơng qua ngơn ngữ ký hiệu của mình; hoặc người
khiếm thị nhưng có đủ nhận thức để biết được sự việc xảy ra… thì lời khai của họ
vẫn được xem là nguồn chứng cứ cần thiết giúp cho cơ quan chức năng xác minh sự
thật vụ án một cách chính xác nhất.
- Định nghĩa hoạt động lấy lời khai Người làm chứng
Lời khai của NLC là nguồn chứng cứ lâu đời, phổ biến và đặc biệt quan trọng
trong lịch sử phát triển của hoạt động tố tụng hình sự. Đây là nguồn chứng cứ đáng
tin cậy vì NLC là người biết được sự thật cũng như khơng có quyền và lợi ích liên
quan khi tham gia tố tụng. Theo pháp luật tố tụng hình sự, NLC có nghĩa vụ khai
báo và khai đúng sự thật khách quan khi cơ quan THTT tiến hành lấy lời khai.
Theo quan điểm được đưa ra trong Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam
của Đại học Luật Hà Nội, lấy lời khai NLC là “hoạt động điều tra nhằm thu thập
chứng cứ do NLC đưa ra góp phần giải quyết vụ án”8. Ngồi ra, Giáo trình Luật Tố
tụng hình sự Việt Nam của Đại học Luật TP.HCM có đề cập “Lấy lời khai NLC là
hoạt động điều tra nhằm thu thập chứng cứ do NLC đưa ra bằng việc đặt các câu hỏi
để họ trả lời câu hỏi đó”9. Như vậy, quan điểm về hoạt động lấy lời khai NLC của
các nhà khoa học thuộc Đại học Luật Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh đều giống nhau
về bản chất và mục đích. Tuy nhiên các nhà khoa học Đại học Luật TPHCM đã thu
hẹp phạm vi thu thập chứng cứ, thể hiện ở việc cơ quan THTT chỉ lấy thông tin từ
NLC bằng cách đặt câu hỏi cho họ trả lời10.

Theo quan điểm của khoa học Điều tra hình sự, hoạt động lấy lời khai NLC có
những đặc trưng sau:
Thứ nhất, là biện pháp nghiệp vụ điều tra được tiến hành phổ biến nhất và đem
lại hiệu quả nhất. Như đã phân tích ở trên, NLC khơng có quyền và lợi ích gì khi
tham gia tố tụng nên lời khai của họ có độ tin cậy cao. Mặc dù trong một vụ án, bị
8

Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB CAND, 2013, tr. 296.
Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Hồng Đức, 2012, tr. 404.
10
Bùi Hữu Danh, Hoạt động lấy lời khai người làm chứng trong tố tụng hình sự Việt Nam, 2013, tr. 10.
9

5


can, bị cáo, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bị hại là những người biết
được thông tin đầy đủ bởi khơng ai khác ngồi họ biết được hành vi phạm tội của
mình hoặc hành vi tội phạm xâm hại đến quyền lợi của mình. Tuy nhiên xuất phát
từ động cơ khai báo khác nhau cũng như quyền và lợi ích trực tiếp của bản thân, lời
khai của những chủ thể này thường không phản ánh đúng sự thật và khơng có tính
trung thực cao. Ngồi ra, lời khai của NLC không những là tiền đề quan trọng cho
cơ quan THTT sử dụng để xác minh được các chứng cứ khác trong vụ án, mà còn là
cơ sở để cơ quan THTT tổng hợp chứng cứ, đưa ra kết luận điều tra. Vì thế, lời khai
NLC đóng vai trị quan trọng trong q trình giải quyết vụ án. Vụ án hình sự nào
xác định được NLC thường mang lại hiệu quả rất cao trong việc làm sáng tỏ sự thật
vụ án.
Thứ hai, lấy lời khai NLC là một biện pháp nghiệp vụ mà cơ quan THTT thực
hiện nhằm thu thập thông tin, tài liệu liên quan đến vụ án hình sự và những tình tiết
khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án hình sự. Khác với bị can, bị cáo, NLC

chỉ cung cấp một phần những tình tiết của vụ án hình sự. Điều 67 BLTTHS 2003
quy định lời khai của NLC như sau:
1. Người làm chứng trình bày những gì họ biết về vụ án, về nhân thân của
người bị bắt, người bị tạm giam, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị
hại, người làm chứng khác và trả lời những câu hỏi đặt ra.
2. Khơng được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng trình
bày, nếu họ khơng thể nói rõ vì sao biết được những tình tiết đó.11
Theo quy định trên, NLC cung cấp thông tin về đặc điểm nhân thân của bị can,
bị cáo,… và những tình tiết liên quan đến vụ án hình sự thơng qua việc trả lời
những câu hỏi được đặt ra.
Thứ ba, cơ quan THTT phải nhanh chóng tiến hành lấy lời khai của NLC để xác
định được các thông tin cần thiết liên quan đến vụ án hình sự như: thời gian, địa
điểm xảy ra vụ án; đặc điểm của tội phạm; phương tiện, cơng cụ gây án; tính chất,
11

Điều 67 Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam.

6


hậu quả do hành vi phạm tội gây ra;… Ngay sau khi tiếp nhận được tin báo, tố giác
về vụ án cụ thể, nhiệm vụ trước mắt của cơ quan THTT là phải xác định được
những người biết được những tình tiết của vụ án và triệu tập họ. Tiếp đó, bằng các
biện pháp nghiệp vụ tiến hành lấy lời khai họ dưới tư cách là NLC nhằm khai thác
thông tin liên quan, tổng hợp các thơng tin đó để điều tra nhằm không để lọt tội
phạm, không làm oan người vơ tội.
Từ những phân tích ở trên, theo tác giả, có thể hiểu thuật ngữ “lấy lời khai
người làm chứng” trong tố tụng hình sự là “hoạt động điều tra được tiến hành theo
thủ tục, trình tự được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, nhằm thu thập thơng
tin, tình tiết khách quan liên quan đến vụ án hoặc có ý nghĩa trong việc làm rõ sự

thật khách quan”.
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động lấy lời khai người làm chứng
- Hoạt động lấy lời khai NLC là một trong những hoạt động tố tụng được quy
định trong Bộ Luật TTHS năm 2003.
Trách nhiệm của cơ quan THTT khi thực hiện hoạt động lấy lời khai NLC là
phải tuân thủ chặt chẽ trình tự, thủ tục pháp luật hiện hành quy định để đảm bảo
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được chính xác, đúng luật. Nếu trong quá trình
tiến hành lấy lời khai NLC, cơ quan THTT vi phạm trình tự, thủ tục pháp luật đã
quy định sẽ dẫn đến lời khai đó khơng đảm bảo tính khách quan hoặc phải lấy lời
khai lại theo quy định của pháp luật.
- Chủ thể tiến hành lấy lời khai NLC ở giai đoạn điều tra là Điều tra viên,
trong một số trường hợp cần thiết thì Kiểm sát viên có quyền lấy lời khai NLC. Nếu
NLC được triệu tập để có mặt tại phiên tịa thì Hội đồng xét xử sẽ tiến hành hỏi
NLC.
Để NLC khai báo trung thực, đầy đủ, chính xác và khách quan về những tình
tiết liên quan đến vụ án là nhiệm vụ của cán bộ lấy lời khai. Trong mọi trường hợp,
cán bộ lấy lời khai cần phải cơng minh và có kỹ năng, phương pháp lấy lời khai phù
hợp.
- Nội dung lời khai NLC rất đa dạng.

7


Người làm chứng sẽ trình bày những hiểu biết của họ về những người tham gia
tố tụng khác như nhân thân; mối quan hệ giữa NLC với bị can, bị cáo; những tình
tiết khách quan mà họ trực tiếp hoặc gián tiếp biết được cho cán bộ lấy lời khai.
Hơn nữa, trong quá trình lấy lời khai, nếu cán bộ lấy lời khai hỏi thì NLC có nghĩa
vụ phải trình bày đúng sự thật những chi tiết có liên quan đến vụ án hoặc không liên
quan đến vụ án nhưng có ý nghĩa trong việc xác định sự thật khách quan.
- Hoạt động lấy lời khai NLC là hoạt động phức tạp và cá biệt.

NLC chỉ trình bày những gì mà họ nhận thức được, tuy nhiên nhận thức đó ít
nhiều bị các yếu tố khách quan lẫn chủ quan tác động và có thể dẫn tới sai lệch. Vì
vậy, việc phải trao đổi, tác động như thế nào để NLC có thể nhớ lại và trình bày hợp
lý địi hỏi trình độ, năng lực cao của cán bộ lấy lời khai. Mặt khác, vì những cá thể
khác nhau sẽ có cách nhìn nhận và đánh giá sự việc khác nhau nên lời khai của
NLC sẽ mang tính cá biệt. Do đó, để có thể lấy lời khai NLC một cách có hiệu quả,
buộc cán bộ điều tra phải có những phương pháp, cách thức khác nhau phù hợp với
từng đặc điểm tâm lý, trình độ, … của NLC.
1.1.3 Nhiệm vụ hoạt động lấy lời khai người làm chứng
Hoạt động lấy lời khai của NLC là một cơ chế bảo đảm thực hiện nguyên tắc
xác định sự thật của vụ án – một trong những nguyên tắc đặc thù và quan trọng của
pháp luật Tố tụng hình sự. Khoa học hiện đại phát triển đã, đang và sẽ đóng góp rất
nhiều công cụ cũng như phương pháp thiết thực hỗ trợ cho quá trình giải quyết vụ
án hình sự. Tuy nhiên, sẽ khơng có bất kỳ một biện pháp nào có thể thay thế được
tầm quan trọng của lời khai NLC vì những đặc điểm riêng biệt đã phân tích ở phần
trên. Qua đó có thể thấy tầm quan trọng của hoạt động lấy lời khai NLC và nhiệm
vụ của hoạt động này mang lại cho quá trình giải quyết vụ án hình sự. Nhiệm vụ của
hoạt động lấy lời khai NLC được thể hiện như sau:
- Xác định tội phạm và các tình tiết liên quan đến vụ án hình sự.
Xác định tội phạm, người phạm tội để khởi tố theo quy định của pháp luật là
trách nhiệm của cơ quan THTT. Để thực hiện nhiệm vụ trên đòi hỏi cơ quan THTT
phải thực hiện hàng loạt các biện pháp điều tra, mà hoạt động lấy lời khai người làm

8


chứng là một trong số đó. Khi tiếp nhận thơng tin về hành vi phạm tội, nhiệm vụ
của cơ quan điều tra là thu thập thông tin từ NLC để xác định tình tiết vụ án. Nếu
tội phạm đang trong giai đoạn chuẩn bị thì thu thập thơng tin về âm mưu phạm tội
như: thời gian, địa điểm dự định phạm tội; công cụ, phương tiện gây án; động cơ

phạm tội; … từ đó áp dụng các biện pháp ngăn chặn tội phạm và hình thành nên các
giải pháp đấu tranh phịng chống tội phạm. Nếu tội phạm đã hồn thành thì cần lấy
lời khai NLC để khai thác các thông tin như: thời gian, địa điểm, công cụ phương
tiện gây án; đặc điểm nhận dạng của người thực hiện hành vi phạm tội; … để có các
biện pháp điều tra phù hợp giúp cơ quan có thẩm quyền khơng bỏ sót chứng cứ,
khơng để lọt tội phạm.
- Xác định các tình tiết, thơng tin khác có ý nghĩa làm sáng tỏ sự thật vụ án.
Đi đôi với việc thu thập các tình tiết liên quan để xác định tội phạm và người
phạm tội, cơ quan THTT cịn có nhiệm vụ lấy lời khai NLC về những tình tiết khác
có ý nghĩa trọng tâm trong việc giải quyết vụ án hình sự. NLC có nghĩa vụ khai báo
trung thực những gì mình biết khi được cán bộ lấy lời khai đặt câu hỏi về các thông
tin như: mối quan hệ giữa NLC và các người tham gia tố tụng khác, trạng thái tâm
lý của NLC tại thời điểm tri giác được tội phạm xảy ra, …. Mọi tin tức, tài liệu thu
thập được đều nhằm giúp cho cơ quan THTT có cơ sở để xác định diễn biến tội
phạm, độ tin cậy, khách quan của lời khai NLC, qua đó củng cố hồ sơ điều tra, giải
quyết vụ án một cách chính xác nhất.
- Phục vụ việc đánh giá, tổng hợp các nguồn chứng cứ khác.
Trong một vụ án hình sự cụ thể, có thể có nhiều NLC khác nhau với trình độ
nhận thức, trạng thái tâm sinh lý, trí nhớ, khả năng tri giác,… khác nhau dẫn tới
những lời khai khác nhau. Vì thế, lời khai của NLC này sẽ là cơ sở để cán bộ điều
tra đánh giá, loại trừ các thông tin trong lời khai NLC khác. Mặt khác, để giải quyết
vụ án hình sự các cơ quan THTT phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau
để thu thập chứng cứ. Chứng cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 64 BLTTHS 2003
còn bao gồm vật chứng; kết quả giám định; biên bản hoạt động điều tra, xét xử; lời
khai của người bị hại, bị can, bị cáo … Như vậy, để làm rõ sự thật khách quan, cơ
quan THTT phải kiểm tra, đánh giá và xử lý các tin tức, tài liệu thu thập từ các

9



nguồn khác. Sau đó bằng các biện pháp khoa học nghiệp vụ, phân tích, tổng hợp
những tình tiết phù hợp với nhau và đúng đắn theo nhìn nhận, đánh giá của cơ quan
THTT để tạo thành nguồn chứng cứ phục vụ cho công tác điều tra.
1.1.4 Đặc điểm về nhận thức và tâm lý người làm chứng trong hoạt động lấy
lời khai người làm chứng
Trong thực tiễn điều tra xét xử các vụ án hình sự, đa số người dân nhận thức
được quy định của pháp luật và nhiệt tình cộng tác, cung cấp thông tin cho cơ quan
chức năng. Ngược lại có một bộ phận khơng có hiểu biết về pháp luật hoặc cố tình
trốn tránh việc làm chứng hoặc làm chứng với thái độ miễn cưỡng, khai báo khơng
đầy đủ, gian dối. Ngồi ra cịn có những trường hợp NLC hợp tác tích cực nhưng
lời khai của họ vơ hình chung khơng khách quan, sai lệch dẫn tới những khó khăn
nhất định cho cơng tác điều tra làm rõ vụ án. Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy
những đặc điểm về nhận thức và tâm lý NLC tác động đến hoạt động lấy lời khai
NLC như sau:
- Về nhận thức của người làm chứng:
Theo quy định tại Điều 55 BLTTHS 2003, việc từ chối khai báo mà không có lý
do chính đáng hoặc khai báo gian dối sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy vậy
trên thực tế vẫn có khơng ít trường hợp những người biết được tình tiết của vụ án
thờ ơ và khơng hợp tác với cơ quan chức năng. Do trình độ hiểu biết pháp luật của
đa số người dân còn hạn chế nên hầu hết họ không nhận thức được nghĩa vụ của
mình. Nhiều người do nhận thức sai nên cho rằng trách nhiệm ngăn chặn, điều tra,
làm rõ tội phạm là trách nhiệm của cơ quan THTT, không phải là trách nhiệm cơng
dân. Ngồi ra, tâm lý của đại đa số người dân là khơng muốn dính dáng đến pháp
luật, đặc biệt là pháp luật hình sự vì sợ rắc rối, ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của
bản thân. Từ đó dẫn tới thái độ thờ ơ, do dự của mỗi cá nhân trong việc cung cấp
thông tin liên quan cho cơ quan chức năng.
Khi tham gia tố tụng với tư cách NLC đồng nghĩa với người đó có nghĩa vụ
pháp lý trong suốt thời gian điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Nghĩa là họ đã bị
pháp luật ràng buộc thực hiện các hoạt động mà cơ quan chức năng yêu cầu, như: bị


10


triệu tập để lấy lời khai, tiến hành đối chất, nhận diện vào bất kỳ thời điểm nào
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến công
việc, sinh hoạt và thu nhập của mỗi người. Mặc dù pháp luật có quy định NLC được
thanh tốn các chi phí đi lại, ăn ở nhưng các khoản trên không linh hoạt, không đáp
ứng được nhu cầu tùy vào hồn cảnh của mỗi người làm chứng.
Có một số trường hợp NLC không muốn khai báo do bản thân có liên quan đến
tội phạm ở mức độ nào đó hay sợ những hành vi trái pháp luật, đạo đức của mình bị
phát hiện. Thực tế cho thấy có tình huống họ chứng kiến hành vi phạm tội của
người khác khi chính bản thân đang thực hiện hành vi trái đạo đức, pháp luật; hoặc
họ đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nhưng chưa bị phát hiện nên sợ phải tiếp
xúc với cơ quan điều tra.
Trong xã hội hiện tại vẫn còn nhiều thành kiến với việc kiện tụng. Mặc dù xác
định được người phạm tội nhưng có những NLC cảm thấy “áy náy” khi đứng ra làm
chứng buộc tội để “đẩy người khác vào tù”. Nhất là trong trường hợp mà đối tượng
bị tình nghi có mối quan hệ thân quen với NLC chẳng hạn như: gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp, đối tác làm ăn, người có phụ thuộc kinh tế, chính trị hay thậm chí là
mối quan hệ phạm tội như phân tích ở trên. Khi đó họ thường hoặc từ chối khai báo,
khai báo sai sự thật hoặc khai nhẹ, cắt bớt những tình tiết bất lợi cho đối tượng bị
tình nghi, bị can, bị cáo. Ngược lại, nếu họ có ác cảm với đối tượng bị tình nghi, bị
can, bị cáo hoặc có mơi thân tình với người bị hại thì thường khai thiếu trung thực,
thêm thắt những tình tiết khơng có lợi cho đối tượng.
Cũng có những NLC sợ bị trả thù, thiếu niềm tin và cảm tình vào cơ quan chức
năng. Họ lo sợ sau khi đứng ra làm chứng sẽ bị đối tượng, đồng bọn đe dọa đến sức
khỏe, tính mạng của chính họ hoặc của gia đình, người thân. Quy định của pháp luật
cho NLC quyền yêu cầu cơ quan THTT bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm và tài sản của họ. Tuy nhiên trên thực tế cơ chế bảo vệ này thiếu chặt chẽ và
khơng hiệu quả. Sau khi q trình tố tụng kết thúc, họ và gia đình khơng được đặt

dưới sự bảo vệ nữa nên nhiều trường hợp NLC và gia đình họ bị xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe và lợi ích. Ngồi ra có những người biết được tình tiết vụ án nhưng
khơng có thiện cảm với cơ quan có thẩm quyền hoặc do bị đối xử khơng thiện chí,

11


bị gây khó khăn từ phía người có thẩm quyền THTT nên họ thường trốn tránh việc
đứng ra làm chứng.
- Về tâm lý của người làm chứng:
Khi khai báo lại sự việc cho cơ quan THTT, NLC sẽ phải nhớ lại những gì mình
chứng kiến hoặc biết được. Vì thế tâm lý khi biết được sự việc và khi khai báo là
yếu tố rất quan trọng để NLC có thể khai báo một cách khách quan nhất.
Nếu NLC có tâm trạng thoải mái, minh mẫn thì họ sẽ nhận thức được sự việc
một cách chính xác nhất và q trình khai báo sẽ trình bày được đầy đủ và hợp lý.
Ngược lại sự đúng đắn của lời khai có thể bị ảnh hưởng khi họ tiếp nhận thông tin
trong tâm trạng lo lắng, căng thẳng hay đang suy nghĩ tới vấn đề khác. Ví dụ khi
chứng kiến một người thực hiện hành vi phạm tội, NLC đang căng thẳng nên khả
năng quan sát của họ khơng tồn diện, vì thế dễ dẫn đến sai lệch trong lời khai như
có thể nhầm hình dáng của người phạm tội, cơng cụ gây án, … Ngồi ra, nếu bị cơ
quan và người có thẩm quyền THTT gây khó dễ, khơng tạo điều kiện tâm lý thoải
mái, NLC có thể sẽ hay quên, bực bội làm cho lời khai họ đưa ra thiếu logic, độ tin
cậy thấp.
- Quá trình hình thành lời khai của người làm chứng:
Khi người làm chứng được triệu tập để lấy lời khai, nội dung khai báo của họ
nằm trong phạm vi những gì họ nhớ được. Lời khai của người làm chứng có chính
xác, khách quan và đầy đủ hay không phụ thuộc vào các yếu tố khách quan lẫn chủ
quan.
Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến sự tri giác của NLC như thời gian NLC
tri giác sự vật, hiện tượng; thời gian từ khi tri giác đến khi trình bày với cơ quan

chức năng; khoảng cách giữa NLC và đối tượng; bối cảnh, tính chất đặc điểm của
sự vật hiện tượng mà NLC tri giác; điều kiện thời tiết thuận lợi hay khơng cho việc
tri giác. Ngồi ra q trình tri giác của NLC cịn bị các yếu tố chủ quan chi phối như
tình trạng sức khỏe của NLC; tình trạng các giác quan (như mắt có thấy rõ hay tai
có nghe thính khơng) và khả năng hiểu biết về sự vật, hiện tượng tri giác.
Từ những phân tích trên, có thể thấy lấy lời khai NLC là một nhiệm vụ rất khó
khăn khi mà diễn biến tâm lý và nhận thức của mỗi NLC rất khác nhau. Khi tiến
12


hành áp dụng các phương pháp, cách thức lấy lời khai, cán bộ lấy lời khai phải tạo
được sự tôn trọng pháp luật trong nhận thức của NLC. Bên cạnh đó cần phải tính
đến những yếu tố nhận thức, yếu tố tâm lý, sợ hãi của NLC để đưa ra các phương
pháp phù hợp nhằm giúp NLC khai báo triệt để, chính xác nhất với khả năng của
họ. Qua đó phục vụ tốt cho công tác điều tra, giải quyết vụ án hình sự.
1.2 Sơ lƣợc về sự hình thành và phát triển quy định lấy lời khai ngƣời làm
chứng từ 1945 đến trƣớc 2003.
Người làm chứng là người nắm được tình tiết của một vụ án cụ thể. Họ có thể
biết được diễn biến tội phạm, hồn cảnh phạm tội, nhân thân tội phạm… Vì thế vai
trị của NLC đối với quá trình giải quyết vụ án là rất quan trọng. Nhận thức được
vai trị, tầm quan trọng đó, các nhà làm luật từ xa xưa đã chú trọng khi xây dựng các
quy phạm pháp luật về NLC.
Trong lịch sử lập pháp tố tụng hình sự Việt Nam, bộ luật lâu đời nhất có quy
định NLC là Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức). Điều 714 Quốc triều hình
luật quy định như sau: “Những người làm chứng trong việc kiện tụng nếu xét ra
ngày thường đôi bên kiện tụng là người thân tình hay có thù ốn thì không cho phép
ra làm chứng. Nếu những người ấy giấu giếm ra làm chứng thì khép vào tội khơng
nói đúng sự thực. Hình quan, ngục quan biết mà dung túng việc đó đều bị tội”12.
Như vậy, Bộ luật đã đề cập rõ ràng tới điều kiện để làm chứng, theo đó để hạn chế
oan sai, NLC phải thật khách quan, không bị ràng buộc bởi bất cứ mối quan hệ nào

với người có liên quan. Ngồi ra, điều 655 có đề cập đến độ tuổi NLC “… Trong
luật có điều được phép ẩn giấu cho nhau, như người 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở
xuống và người bị bệnh nặng thì khơng được gọi ra làm chứng”13. Ngồi điều kiện
về mối quan hệ với người liên quan, bộ luật Hồng Đức còn chú trọng đến nhận thức
của NLC xét về độ tuổi và tình hình sức khỏe. Vì hạn chế về mặt lập pháp, Quốc
triều hình luật chưa quy định về quyền của NLC, tuy nhiên có quy định khá chi tiết
trách nhiệm của NLC. Điều 546 quy định: “kẻ làm chứng khơng nói thật để cho án
12
13

Quốc triều hình luật, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
Quốc triều hình luật, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.

13


xử nhẹ hay nặng, phạt hay tha bổng không đúng tội thì người làm chứng xử nhẹ hơn
người có tội hai bậc”14.
Đến triều Nguyễn, bộ luật Hoàng Việt luật lệ cũng đã có đề cập tới những quy
định về NLC. Cụ thể tại quyển 16 mục thưa kiện vu cáo có quy định trách nhiệm
của NLC với lời khai của mình: “Phàm đơn gửi tịa án chỉ cho phép một đơn thưa
một việc, thưa chuyện phạm tội thật có bằng chứng khơng được liên lụy đến người
khơng có tội…”.15 Hay điều kiện NLC như sau: “Phàm việc có liên hệ mật thiết với
mình mới được trình thưa. Nếu đem việc lương của quân đội, việc cần làm của quản
lý quân ngũ quân đội hoặc đầu mục xuất lãnh binh trình thưa lên châu huyện, người
có trách nhiệm, lý trưởng, xuất lãnh, dân chúng cơng khai đồng thưa lên thì mới thụ
lý. Nếu sái lệnh cấm không liên hệ đến việc chung mà đi thưa kiện mang tư thù, đổi
bịa tên họ khẩn khoản một mình liên lụy điều động với ý đồ vu khống thì ngồi
những điều thưa khơng được chấp nhận chiếu luật trị tội vu cáo”16. Chế tài mà
Hồng Việt luật lệ áp dụng với NLC khơng trung thực hoặc vu cáo là rất nghiêm

khắc: Vu cáo là phản nghịch, gây rối thì người bị vu cáo đã bị xử tử thì người vu
cáo cũng bị xử chém ngay. Người bị vu cáo chưa chết thì người vu cáo bị xử giam
chớ đều không xử đến vợ con và gia sản.
Đến khi Thực dân Pháp đô hộ nước ta, đất nước bị chia làm ba kỳ, pháp luật
phong kiến bị thay thế bằng hệ thống pháp luật riêng biệt của mỗi kỳ. Điều 20 bộ
luật hình sự tố tụng áp dụng tại Bắc kỳ thời Pháp thuộc quy định nghĩa vụ của NLC:
“Phàm người chứng đã bị chiếu lệ địi gọi, khơng có cớ gì hợp lẽ mà tự ý khơng đến
hầu trước Tịa sơ cấp nghĩ xử việc vi cảnh, hoặc trước Tòa án tỉnh, hoặc trước Tịa
đệ tam cấp hoặc trước quan thẩm cứu, thì có thể bị ép bắt phải đến hầu, và vì cớ
khơng đến hầu phải bị xử phạt bạc từ 1 đến 5 đồng, và phạt giam từ 1 ngày đến 5
ngày, hoặc hai thứ chỉ phải chịu một”17.

14

Quốc triều hình luật, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
Hồng Việt Luật lệ, quyển 16.
16
Hoàng Việt luật lệ, quyển 16.
17
Các bộ luật An Nam, NXB Đông Dương, Hà Nội, 1992, tr. 469.
15

14


Đến năm 1974 ở miền Bắc, văn bản hướng dẫn đầu tiên về trình tự sơ thẩm
hình sự do Tịa án nhân dân tối cao ban hành đã đề cập tới NLC. Cụ thể lời khai của
NLC đã chính thức được xem là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng để
giải quyết vụ án. Văn bản này còn quy định nhiều nội dung nhằm xác định vị trí, vai
trị của NLC.

Ngồi ra, Tịa án nhân dân tối cao (TANDTC) cịn ban hành cơng văn số 98NCPL ngày 02/03/1974 đề cập đến việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời
khai của NLC. Công văn đã nêu lên sự cần thiết của việc xác minh, đánh giá chứng
cứ từ lời khai của NLC: lời khai của nhân chứng trực tiếp hay gián tiếp đều phải
được xác minh có đúng sự thật khơng, vì những lý do:
 Người làm chứng tuy khách quan nhưng vì trí nhớ hoặc mắt có thể khơng
tốt, nên thuật lại có thể khơng hồn toàn đúng diễn biến của sự việc.
 Vụ việc xảy ra đã lâu nên không nhớ chi tiết, thuật lại có thiếu sót.
 Ngại phiền phức hoặc thù ốn mà khơng khai hết sự việc mà mình đã biết.
 Vì cảm tình hoặc có mâu thuẫn với một bên trong vụ án mà khai thêm hoặc
bớt, thiếu chính xác.
 Có nhân chứng vì nhớ khơng kỹ mà khai thêm, bớt, suy diễn theo chủ quan
của mình.
 Vì bị đe dọa hoặc mua chuộc mà khai sai sự thật.
 Đã khai khơng đúng, nhưng sau vẫn khai như trước, vì sợ khai khác thì bị
đánh giá là người khơng trung thực.
Trong cơng văn này, TANDTC cịn rút ra một vấn đề cần chú ý khi kiểm tra,
đánh giá chứng cứ từ lời khai của người làm chứng:
 Xem nhân chứng thuộc loại trực tiếp hay gián tiếp.
 Sự việc họ khai có rõ ràng hay chỉ là phỏng đốn, suy diễn.
 Trạng thái về tinh thần, tuổi của người làm chứng.
 Cương vị, điều kiện công tác, nơi ở của họ có thể cho phép họ biết rõ sự
việc như họ đã khai hay không?
15


 Họ có quan hệ thân thuộc, bạn bè hoặc có mâu thuẫn gì với bị cáo, người bị
hại khơng? Quyền lợi của họ có liên quan đến vụ án khơng?18
Xuất phát từ những quy định trên, có thể thấy Công văn này đã chú trọng công
tác làm rõ nội dung, tình tiết liên quan đến vụ án. Tuy nhiên, những chi tiết quan
trọng không kém tác động đến lời khai NLC như mối quan hệ của họ với bị can, bị

cáo hay trạng thái tâm lý, hoàn cảnh của họ không được Công văn xem là nội dung
cần phải thu thập, mà chỉ là những chi tiết cần chú ý khi đánh giá chứng cứ.
Mặc dù các văn bản hướng dẫn của TANDTC có giá trị pháp lý chưa cao, cịn
nhiều thiếu sót nhưng nó có ý nghĩa quan trọng, góp phần định hướng cho các hoạt
động tố tụng hình sự của nước ta trong giai đoạn này, đồng thời là tiền đề để các
nhà lập pháp tiếp tục hoàn thiện chế định về NLC trong BLTTHS nước ta về sau.
Năm 1988 BLTTHS nước ta ra đời, trong đó có đề cập đến nội dung lấy lời
khai NLC khá đầy đủ. Điều 110 BLTTHS 1988 quy định:
1. Có thể lấy lời khai người làm chứng tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại chỗ
ở của người đó.
2. Nếu vụ án có nhiều người làm chứng thì phải lấy lời khai riêng từng người
và không để cho họ tiếp xúc với nhau trong thời gian lấy lời khai.
3. Trước khi lấy lời khai, cán bộ lấy lời khai phải giải thích cho người làm
chứng biết quyền và nghĩa vụ. Việc này phải được ghi vào biên bản.
4. Trước khi hỏi về nội dung vụ án, cán bộ lấy lời khai cần xác minh mối quan
hệ giữa người làm chứng với bị can, người bị hại và những tình tiết khác về
nhân thân người làm chứng. Cán bộ lấy lời khai cần yêu cầu người làm
chứng kể hoặc viết lại những gì mà họ biết về vụ án, sau đó mới đặt câu
hỏi. Khơng được đặt câu hỏi có tính chất gợi ý.
5. Khi lấy lời khai của người làm chứng dưới 16 tuổi phải mời cha mẹ, người
đại diện hợp pháp khác hoặc thầy giáo, cơ giáo của người đó tham dự .19
18

Tịa án nhân dân tối cao (1974), Cơng văn số 98-NCPL ngày 02/3/1974, Hà Nội.
19
Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988.

16



Như vậy, lần đầu tiên pháp luật tố tụng hình sự của nước ta chú trọng vào trình
tự, thủ tục lấy lời khai người làm chứng. Quyền lợi của NLC khi tham gia tố tụng
cũng được pháp luật tôn trọng. Sau khi được áp dụng vào thực tiễn, những quy
định về NLC bộc lộ nhiều điểm thiếu sót và đứng trước yêu cầu phải sửa đổi. Trong
lần sửa đổi ngày 22/12/1992, chế định NLC đã hoàn thiện hơn. Khoản 4 điều 43
BLTTHS 1988 được bổ sung nội dung: “Người làm chứng đã được cơ quan Điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án triệu tập nhưng cố ý không đến mà không có lý do chính
đáng thì có thể bị dẫn giải”. Với quy định này, cơ quan THTT có quyền áp dụng
biện pháp cưỡng chế đối với người biết được tình tiết liên quan đến vụ án nhưng
trốn tránh khơng có mặt theo lệnh triệu tập của cơ quan THTT. Quy định này hạn
chế được nhiều trường hợp trốn tránh trách nhiệm của người dân, góp phần giúp cơ
quan điều tra thuận lợi hơn trong việc thu thập chứng cứ, điều tra làm rõ sự thật vụ
án.
Trước những thay đổi không ngừng của các mối quan hệ xã hội mà BLTTHS
điều chỉnh, yêu cầu thay đổi, hoàn thiện một lần nữa được đặt ra. Xuất phát từ yêu
cầu đó, BLTTHS 2003 đã ra đời thay thế cho BLTTHS 1988. Bộ luật mới đã sửa
đổi, bổ sung theo hướng hoàn thiện và tiến bộ hơn những quy định về NLC. Điều
55 BLTTHS 2003 đã trao cho NLC những quyền lợi thiết thực hơn, đáp ứng nhu
cầu công dân khi tham gia vào tố tụng hình sự. Mặt khác, BLTTHS 2003 cịn bổ
sung thêm quy định về địa điểm lấy lời khai có thể thực hiện tại nơi làm việc của
NLC và trong trường hợp cần thiết Viện kiểm sát có thể lấy lời khai NLC.
1.3 Hoạt động lấy lời khai ngƣời làm chứng theo quy định pháp luật của
một số nƣớc trên thế giới
Lời khai của NLC là một trong những nguồn chứng cứ lâu đời và có vai trị tiên
quyết trong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan vụ án hình sự. Sớm nhận thức được
tầm quan trọng đó, pháp luật tố tụng hình sự nhiều nước trên thế giới đã có những
quy định về NLC, cụ thể như sau:

17



Trong BLTTHS của nước Cộng hòa Pháp, điều 331 quy định NLC buộc phải
tuyên thệ trước khi cung cấp lời khai: “trước khi khai người làm chứng tuyên thệ là
sẽ khai khơng phải ốn thù hay sợ hãi, sẽ nói tất cả sự thật mà thơi”20. Ngồi ra,
Điều 438 cịn quy định cụ thể về trách nhiệm của NLC: “Nếu người làm chứng
vắng mặt tại phiên tịa hoặc khơng chịu tun thệ, khơng chịu khai, thì Viện Cơng
tố có thể u cầu Tịa tiểu hình xử phạt người này theo quy định tại Điều 109”21.
Một điểm đáng chú ý khác là NLC có thể tham gia tố tụng vào bất cứ giai đoạn nào
của vụ án. Tại phiên tòa, nếu NLC xuất hiện để cung cấp lời khai và được chủ tọa
chấp nhận thì họ được xem là NLC trong vụ án22.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 56 BLTTHS Liên bang Nga 2001, bất cứ
người nào cũng có thể được triệu tập để tham gia tố tụng với tư cách là NLC khơng
phụ thuộc vào tuổi tác, tình trạng sức khỏe, chức vụ địa vị trong xã hội và các tình
huống khác trừ các trường hợp do luật định không thể là người làm chứng23. Yếu tố
duy nhất để đánh giá lời khai của NLC là khả năng nhận thức về sự việc và khả
năng trình bày của người đó. Bên cạnh đó, Điều 308 cịn quy định miễn trừ trách
nhiệm hình sự của NLC khi họ từ chối khai báo những tình tiết chống lại bản thân
“Người làm chứng khơng phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp từ chối
trình bày lời khai chống lại bản thân mình”.24
BLTTHS Cộng hịa Liên bang Đức có quy định NLC phải tuyên thệ trước thẩm
phán để xác nhận lời khai của mình. Việc tuyên thệ này được quy định cụ thể tại
điều 59 đến 67 BLTTHS Liên bang Đức. Điều 60 cịn quy định những trường hợp
khơng cần phải tun thệ. Ngồi ra, Điều 52 Bộ luật cịn cho phép NLC hoặc từ
chối khai báo vì những lí do cá nhân như: vợ (hoặc chồng) chưa cưới của bị cáo, vợ
20

Viện kiểm sát nhân dân tối cao (dịch), Bộ luật Tố tụng hình sự Cộng hịa Pháp, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1998.
21
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (dịch), Bộ luật Tố tụng hình sự Cộng hịa Pháp, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội, 1998.
22
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (dịch), Bộ luật Tố tụng hình sự Cộng hịa Pháp, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1998.
23
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (dịch), Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga, NXB Pháp lý, Hà Nội,
1999.
24
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (dịch), Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga, NXB Pháp lý, Hà Nội,
1999.

18


×