Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Mối quan hệ giữa các chế tài trong luật thương mại 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 63 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
------------

DƯƠNG THỊ LAN

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP.HCM - 2010


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC CHẾ TÀI
THƯƠNG MẠI TRONG LUẬT
THƯƠNG MẠI 2005

SINH VIÊN THỰC HIỆN: DƯƠNG THỊ LAN
Khóa:
31
MSSV: 3120079
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: Ths. NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2010




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tơi. Các số liệu và
tham khảo là trung thực, chính xác và được trích dẫn đầy đủ.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả

Dương Thị Lan


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CISG:

Công ước viên về mua bán hàng hóa quốc tế

BLDS:

Bộ luật dân sự

LTM:

Luật Thương mại

NXB:

Nhà xuất bản

TNHH:


Trách nhiệm hữu hạn

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

TP.HCM:

Thành phố Hồ Chí Minh


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU. ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI ............ 3
1.1 Một số vấn đề cơ bản về chế tài thương mại. ......................................................... 3
1.1.1 Khái niệm chế tài thương mại............................................................................... 3
1.1.2 Đặc điểm của chế tài thương mại ......................................................................... 4
1.1.3 Vai trò của chế tài thương mại.............................................................................. 6
1.2 Những quy định của luật thương mại 2005 về chế tài thương mại và mối quan
hệ giữa các chế tài thương mại.. .................................................................................... 8
1.2.1 Pháp luật điều chỉnh các chế tài thương mại. ...................................................... 8
1.2.2 quan hệ giữa các chế tài. ..................................................................................... 18
1.2.2.1 Chế tài thương mại trong trường hợp có vi phạm cơ bản và không cơ bản. 18
1.2.2.2 Quan hệ giữa chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng với các chế tài khác...21
1.2.2.3 Quan hệ giữa phạt vi phạm với bồi thường thiệt hại...................................... 24
1.2.2.4 Quyền đòi bồi thường thiệt hại sau khi đã áp dụng các chế tài khác. ........... 27
1.2.2.5 Điều khoản miễn trừ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thương mại. .......... 30
Kết luận chương 1 ......................................................................................................... 31

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CHẾ TÀI
THƯƠNG MẠI VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN MỐI QUAN HỆ GIỮA
CÁC CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI. ................................................................................. 32
2.1 Thực trạng áp dụng pháp luật điều chỉnh các chế tài thương mại theo luật
Thương mại 2005. ......................................................................................................... 32
2.1.1 Thực trạng áp dụng pháp luật điều chỉnh các chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng, phạt vi phạm hợp đồng, bồi thường thiệt hại và hủy bỏ hợp đồng trong Luật
Thương mại 2005. ......................................................................................................... 32
2.1.2 Thực trạng áp dụng pháp luật điều chỉnh các chế tài còn lại trong Luật
Thương mại 2005 .................................................................................................48
2.2 Một số vướng mắc và kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật chế tài
thương mại..................................................................................................................... 49
Kết luận chương 2 ............................................................................................................55

KẾT LUẬN ................................................................................................................... 56


LỜI NĨI ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong q trình hội nhập kinh tế ngày nay thì hợp đồng là một công cụ hữu
hiệu để các chủ thể kinh doanh thực hiện hoạt động thương mại. Hợp đồng được
thiết lập do sự thỏa thuận của các bên dựa trên những quy định chung của pháp luật,
do vậy chính các bên cũng tự quy định những biện pháp bảo đảm thực hiện hợp
đồng và các biện pháp trách nhiệm khi hợp đồng bị phá vỡ. Những biến đổi phức
tạp của quan hệ kinh tế làm đẩy nhanh số lượng hợp đồng bị vi phạm, bởi vậy việc
tìm hiểu các biện pháp chế tài một cách có hệ thống và đặt chúng trong mối quan hệ
với nhau là một điều hết sức cần thiết. Biết được cách thức vận dụng các chế tài
trong thương mại và cách thức kết hợp chúng trong từng trường hợp vi phạm hợp
đồng là sự dự phòng cho việc nghiêm túc thực hiện đúng cam kết hợp đồng kinh
doanh thương mại. Đồng thời việc nghiên cứu các chế tài trong mối quan hệ của

chúng với nhau góp phần hồn thiện các biện pháp đó cũng là một vấn đề có ý
nghĩa về mặt lý luận lẫn thực tiễn. tác giả chọn đề tài “Mối quan hệ giữa các chế tài
trong Luật Thương mại 2005” chính là để cố gắng giải quyết những đòi hỏi trên
trong giới hạn khả năng nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở phân tích những quy định của LTM 2005 và đặt nó trong sự
tương quan với những văn bản pháp luật về hợp đồng thương mại về chế tài thương
mại như Bộ luật dân sự 2005, Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế,
Bộ nguyên tắc Unidriot về hợp đồng thương mại quốc tế, cùng pháp luật hợp đồng
các nước, đề tài nhấn mạnh mối quan hệ giữa các chế tài. Đồng thời đề tài xác định
những tồn tại về mặt pháp lý ảnh hưởng tới việc áp dụng các chế tài và mối quan hệ
giữa chúng trong thực tế qua đó đề xuất một số kiến nghị để khắc phục những tồn
tại đó.
3. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận chọn các chế tài trong LTM 2005 làm đối tượng nghiên cứu nhằm
mục đích làm rõ mối quan hệ giữa các chế tài. Từ đó làm rõ những điều tiến bộ
cũng như là những thiếu sót của LTM 2005 để hoàn thiện những quy định pháp luật
về mối quan hệ giữa các chế tài trong thương mại.
4. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận khơng thực hiện việc nghiên cứu các chế tài và quan hệ giữa
chúng trong phạm vi toàn bộ hệ thống chế tài được áp dụng khi có hành vi vi phạm
pháp luật phát sinh trên lĩnh vực thương mại, bao gồm các chế tài dân sự, chế tài
hình sự, chế tài hành chính… Khóa luận chỉ nghiên cứu trong giới hạn cho phép là “

1


những chế tài trong Luật Thương mại 2005”, là những chế tài phát sinh khi có hành
vi vi phạm hợp đồng trong hoạt động thương mại theo quy định của LTM 2005.
5. Phương pháp nghiên cứu

Những phương pháp được sử dụng chủ yếu trong khóa luận này là phương
pháp tổng hợp, phân tích kết hợp với phương pháp so sánh.
6. Kết cấu, bố cục của đề tài
Lời nói đầu
Phần nội dung
Chương 1: Những vấn đề pháp lý về chế tài thương mại
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật điều chỉnh chế tài thương mại và
những giải pháp hoàn thiện.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
7. Giá trị khoa học và thực tiễn của khoá luận
LTM 2005 đi vào đời sống pháp luật được năm năm và đang dần khẳng
định vị trí là văn bản pháp luật có giá trị cao nhất điều chỉnh hợp đồng thương mại.
Các chế tài trong LTM 2005 theo đó cũng đã có một quá trình kiểm định chất
lượng, tuy vậy thực tiễn áp dụng chúng vẫn chưa có một số liệu nào phản ánh tổng
kết được. Bởi vậy trong phạm vi có hạn về thời gian cũng như là nhận thức của
người viết thì khóa luận chỉ chủ yếu phân tích, đánh giá về mặt pháp lý, từ đó vận
dụng vào thực tiễn. Do đó tác giả chỉ hi vọng rằng đây là tài liệu hữu ích cho những
ai quan tâm đến vấn đề này, nhất là đối với các bạn sinh viên.
Do những hạn chế nhất định nên khóa luận khơng tránh khỏi những thiếu
sót. Tác giả xin chân thành cảm ơn quý thầy cô cùng các bạn sinh viên đã giúp đỡ
và đóng góp thêm những nhận xét có giá trị hỗ trợ tác giả hồn thành khóa luận này.

2


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI
1.1 Một số vấn đề cơ bản về chế tài thương mại
1.1.1 Khái niệm chế tài thương mại

Khi một hợp đồng dân sự nói chung hay một hợp đồng thương mại nói
riêng được xác lập các bên ln hướng tới việc đạt được mục đích giao kết của
mình một cách có lợi nhất và có thể tạo quan hệ kinh doanh lâu bền với nhau sau
này. Nhưng thực tế quan hệ thương mại không phải lúc nào cũng diễn ra như ý định
của các bên hoặc quy định của pháp luật. Bởi những lý do nào đó mà hợp đồng đã
bị vi phạm, gây những khó khăn nhất định cho các bên. Do đó nhằm đề phịng
những vi phạm sẽ có khả năng xảy ra cao và nhằm thiết lập những uy tín cho nhau
khi giao kết hợp đồng, pháp luật đã có những quy định về trách nhiệm hợp đồng mà
hình thức biểu hiện của nó là những chế tài trong thương mại.
Theo nghĩa khách quan, trách nhiệm hợp đồng là chế định pháp luật gồm
tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội phát sinh do vi
phạm chế độ hợp đồng. Theo nghĩa chủ quan, trách nhiệm hợp đồng là sự gánh chịu
những hậu quả bất lợi của bên có hành vi vi phạm hợp đồng. Trách nhiệm hợp đồng
bao gồm những chế tài về tài sản và không phải lúc nào cũng do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành mà cịn có thể do những tổ chức nghề nghiệp quyết định
(Trọng tài thương mại). Trách nhiệm hợp đồng phát sinh trong lĩnh vực ký kết và
thực hiện hợp đồng trên cơ sở có hành vi vi phạm và tính có lỗi của hành vi vi phạm
đó ngay cả khi chưa có thiệt hại thực tế. Trách nhiệm tồn tại dưới dạng là những chế
tài. Những chế tài này trong quá trình áp dụng cũng như trong những quy định pháp
luật ln có mối liên hệ với nhau, giúp cho chúng ta xác định được cần phải áp
dụng chế tài nào thích hợp nhất trong những trường hợp vi phạm cụ thể .
Chế tài trước tiên phải hiểu là một bộ phận của quy phạm pháp luật, là
biện pháp tác động mà nhà nước dự kiến sẽ áp dụng đối với những chủ thể nào
không thực hiện đúng mệnh lệnh nhà nước đã nêu ở phần quy định của quy phạm
pháp luật1. Những biện pháp này luôn mang lại hậu quả bất lợi cho chủ thể bị áp
dụng, thể hiện thái độ của nhà nước đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật.
Như đã đề cập ở trên, chế tài là hình thức biểu hiện của trách nhiệm vật chất, do đó
việc áp dụng chúng ln mang lại hậu quả rất bất lợi về mặt kinh tế cho bên bị áp
dụng. Đặc biệt là với các chủ thể trong những hợp đồng thương mại.
Trong lĩnh vực thương mại việc vi phạm của các bên không đơn thuần

chỉ là vi phạm những quy định của pháp luật mà còn là những vi phạm từ những
1

Đại học Luật Hà Nội (2001), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, NXB Công an nhân dân, Hà nội, tr.
375.

3


điều khoản của hợp đồng, ví dụ như điều khoản về thanh tốn, về chất lượng hàng
hóa…. Bản thân các điều khoản này không phải là luật pháp nhưng do chúng được
thiết lập trên nền tảng là những quy định của pháp luật nên chúng có hiệu lực bắt
buộc đối với các bên và buộc các bên phải tuân thủ, tơn trọng chúng. Do đó nếu bên
nào có hành vi vi phạm những cam kết hợp đồng thì bên bị vi phạm có thể tự mình
hoặc u cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng những chế tài. Theo quy
định của LTM 2005 thì những chế tài như vậy gọi là chế tài trong thương mại2.
Từ những sự phân tích như trên chúng ta có thể rút ra một khái niệm về chế
tài thương mại như sau: Chế tài thương mại là biện pháp trách nhiệm vật chất, được
áp dụng đối với bên có hành vi vi phạm các điều khoản hợp đồng thương mại. Việc
áp dụng những chế tài này là do thỏa thuận của các bên dựa trên những quy định
của pháp luật thương mại và mang lại hậu quả bất lợi cho chủ thể bị áp dụng.
1.1.2 Đặc điểm của chế tài thương mại
Bản thân các chế tài thương mại là một dạng của chế tài, song vì được áp
dụng trong lĩnh vực hợp đồng thương mại nên nó sẽ có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, chế tài thương mại là những chế tài trong hợp đồng, điều này có
ý nghĩa để phân biệt với những trách nhiệm vật chất ngoài hợp đồng. Là những chế
tài trong hợp đồng nghĩa là chúng chỉ có thể được áp dụng khi tồn tại một hợp đồng
cụ thể. Các thỏa thuận trong hợp đồng chính là căn cứ để xác định có hành vi vi
phạm hợp đồng. Do đó khơng có hợp đồng thì khơng có việc áp dụng chế tài trong
thương mại. Nếu những vi phạm liên quan tới thương mại nhưng không xuất phát từ

hợp đồng thương mại thì chế tài được áp dụng cũng không phải là chế tài thương
mại mà là những chế tài hành chính, hình sự, tùy theo tính chất, mức độ của sự vi
phạm. Chính đặc điểm này cịn cho phép chúng ta phân biệt được chế tài thương
mại với chế tài dân sự hoặc chế tài hành chính hay hình sự.
Thứ hai, chế tài trong thương mại là chế tài mang tính tài sản. Điều này có
nghĩa là khi áp dụng chế tài trong thương mại thì bên vi phạm sẽ phải gánh chịu
những hậu quả bất lợi về tài sản khi thực hiện những hành vi vi phạm của mình. Đó
có thể là việc bên bị vi phạm phải lấy tài sản của mình để bồi thường thiệt hại hoặc
trả tiền phạt vi phạm cho bên bị vi phạm, hay họ có thể phải gánh chịu những chi
phí cần thiết để làm cho hợp đồng được thực hiện theo đúng cam kết (như trong chế
tài buộc thực hiện hợp đồng), và cũng có thể là bên vi phạm sẽ phải chịu những chi
phí có thể phát sinh kể từ khi hợp đồng được giao kết nếu như hợp đồng bị hủy
bỏ… Việc các bên giao kết hợp đồng với nhau thì mục đích cuối cùng cũng chỉ là
làm sao mang lại lợi ích kinh tế tối đa nhất cho các bên. Do vậy nếu một bên không
thể có được lợi ích kinh tế của mình do lỗi của bên kia thì phải có một lợi ích tương
2

Đại học Luật Hà Nội, tlđd, tr.376.

4


tự của bên kia phải bị lấy đi nhằm bù đắp thiệt hại cho bên bị thiệt hại. Đó là biểu
hiện của tính trung thực và thiện chí của các bên khi ký kết hợp đồng. Thiệt hại của
bất kỳ bên nào suy cho cùng cũng chính là thiệt hại về mặt tài sản, bởi vậy chế tài
áp dụng cho bên vi phạm cũng chỉ nên giới hạn trong việc đánh vào mặt tài sản của
họ. Cũng cần phân biệt tính tài sản trong thương mại với trách nhiệm tài sản trong
lĩnh vực hành chính: Trong lĩnh vực hành chính thì trách nhiệm tài sản mang ý
nghĩa là mức phạt khi có hành vi vi phạm những quy định trong quản lý hành chính
nhà nước, mức phạt này thường khơng lớn và sẽ thu về trong ngân sách nhà nước.

Còn trong lĩnh vực thương mại thì tính tài sản xuất phát từ sự thiệt hại và những lợi
ích mong muốn đạt được của bên bị vi phạm.
Thứ ba, chế tài thương mại được áp dụng là do ý chí của các bên khi có thỏa
thuận hoặc pháp luật có quy định với mục đích là bảo vệ quyền lợi của bên bị vi
phạm.
Rõ ràng là các bên khi giao kết hợp đồng khơng phải lúc nào cũng hồn
tồn thiện chí, trung thực với nhau. Nên việc vi phạm không phải là hiếm, lúc đó
thiệt hại dù xảy ra hay chưa thì đều ảnh hưởng tới bên cịn lại. Trong trường hợp đó
thì bên bị vi phạm cần phải được trao quyền xử lý hành vi vi phạm của bên kia.
Việc xử lý này là do có tính thỏa thuận trước đó của các bên, nó thể hiện được tính
tự chủ và công bằng giữa các bên trong hợp đồng. Đặc điểm này cho thấy tính đặc
biệt của loại trách nhiệm pháp lý này so với những loại trách nhiệm pháp lý khác.
Trong những loại trách nhiệm pháp lý khác thì bên bị vi phạm khơng được tự mình
bắt bên vi phạm thực hiện những trách nhiệm đối với mình mà phải do cơ quan nhà
nước, bằng một quyết định hành chính hoặc dùng các biện pháp cưỡng chế nhà
nước, làm cho bên vi phạm phải thể hiện thái độ chịu trách nhiệm đối với hành vi
trái pháp luật của mình. Ở đây nhà nước không trực tiếp xử lý tất cả các vi phạm
hợp đồng mà trao cho các bên quyền thỏa thuận cụ thể về việc áp dụng các chế tài.
Khi trao quyền này nhà nước định ra những cơ sở pháp lý cần thiết để bảo vệ lợi ích
hợp pháp của bên bị vi phạm trong trường hợp yêu cầu thực hiện các chế tài trong
thương mại của họ không được bên vi phạm đáp ứng.
Thứ tư, việc áp dụng chế tài trong thương mại hay không là quyền của bên
bị vi phạm.
Thật vậy, những quy định về việc áp dụng chế tài trong LTM 2005 đều thể
hiện chung một quan điểm nhất quán là chỉ bên nào bị vi phạm mới là bên được
quyền yêu cầu áp dụng chế tài thương mại. Chẳng hạn như “Buộc thực hiện đúng
hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng
hoặc dùng biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi
phí phát sinh” (Khoản 1 Điều 297 LTM 2005). Hợp đồng về bản chất là “luật riêng”
của các bên dựa trên sự thỏa thuận bình đẳng, do đó chỉ duy nhất bên nào bị vi


5


phạm mới là bên được quyền áp dụng chế tài trong thương mại. Khi có trường hợp
vi phạm hợp đồng xảy ra chính bên bị vi phạm sẽ quyết định có nên áp dụng chế tài
thương mại hay khơng, áp dụng chế tài nào là phù hợp, áp dụng ở mức độ nào, theo
cách thức gì và cũng có thể miễn trách nhiệm cho bên vi phạm. Và đến một khi mà
quyền áp dụng này thực hiện khơng có hiệu quả thì cũng chính bên bị vi phạm sẽ
được quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
Việc bảo vệ này cũng là dựa trên yêu cầu của nguyên đơn và không vượt quá yêu
cầu của nguyên đơn.
Từ những đặc điểm trên ta thấy rằng chế tài trong thương mại không
giống như những chế tài hành chính hay hình sự, dân sự thơng thường. Những điểm
khác biệt này cho thấy được tính linh hoạt, mềm dẻo và mang tính tự do thỏa thuận
cao, là bản chất của hoạt động kinh doanh thương mại. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi
cho các bên trong hợp đồng có thể lựa chọn những phương thức thích hợp nhất để
áp dụng khi có hành vi vi phạm hợp đồng thương mại.
Khi áp dụng chế tài thương mại ta thấy nó có vai trị to lớn trong việc
quản lý nhà nước về lĩnh vực kinh doanh thương mại cũng như đối với các bên
trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng thương mại.
1.1.3 Vai trò của chế tài thương mại
Xét trong mối quan hệ giữa các bên trong hợp đồng, chế tài thương mại có
những vai trị sau:
Thứ nhất, chế tài thương mại là biện pháp dự phòng và quản lý rủi ro cho
các bên trong hợp đồng3. Quá trình kinh doanh hội nhập và phát triển trong sự cạnh
tranh khơng ngừng thì rủi ro là điều khơng thể tránh khỏi. Rủi ro có thể là do sự lên
xuống của giá đồng tiền, do đánh giá thông tin về thị trường khơng chính xác, hoặc
cũng có thể do hành vi phá vỡ cam kết hợp đồng của một bên… Để đề phịng những
rủi ro và có thể giảm thiểu tối đa thiệt hại cho bên bị vi phạm hợp đồng thì cần có

những biện pháp phịng ngừa hiệu quả. Một trong những biện pháp tỏ ra thiết thực
và hiệu quả chính là việc áp dụng những chế tài trong thương mại. Trong quá trình
đàm phán, ký kết hợp đồng các bên luôn đưa vào hợp đồng những điều khoản về
chế tài sẽ áp dụng khi có hành vi vi phạm hợp đồng từ phía một bên. Những thỏa
thuận về điều khoản chế tài cũng chính là quá trình phán đốn những rủi ro có khả
năng xảy ra, đưa ra những biện pháp dự phòng và quản lý những rủi ro đó. Thỏa
thuận càng cụ thể thì càng tránh được rủi ro cao, độ mạo hiểm càng giảm bớt. Và
nếu như các bên không thỏa thuận được những biện pháp chế tài nào thì pháp luật
thương mại đã có những quy định về các biện pháp chế tài thương mại nào có thể

3

Trần Thị Phương Thảo (2006), Chế tài trong thương mại theo Luật thương mại 2005, Khóa luận cử nhân
Luật, đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr.19.

6


được áp dụng, cách thức áp dụng, đảm bảo cho các bên ln có thể phịng tránh
được những rủi ro cần thiết;
Thứ hai, chế tài trong thương mại góp phần ngăn chặn hành vi vi phạm hợp
đồng thương mại. Dù vi phạm bởi bất cứ nguyên do gì thì bên vi phạm luôn phải
đối mặt với rất nhiều vấn đề: họ có thể bị mất khoản lợi nhuận có thể có được nếu
như hợp đồng được thực hiện một cách đầy đủ hoặc họ phải gánh chịu những hậu
quả nhất định do bị áp dụng chế tài thương mại nếu thực hiện không đúng hoặc
không thực hiện hợp đồng và cũng có thể là họ sẽ những tổn hại về uy tín kinh
doanh. Khi những vấn đề đó đặt ra thì bên bị phạm phải lựa chọn, cân nhắc hành vi
của mình, liệu rằng khi vi phạm hợp đồng thì họ có nhận được những lợi ích lớn
hơn những trách nhiệm từ việc vi phạm hợp đồng hay không. Nếu như những biện
pháp chế tài áp dụng có khả năng gây ra bất lợi cho bên có ý định vi phạm hợp

đồng, thì ý định vi phạm hợp đồng sẽ khó thực hiện, vì lợi ích mà bên vi phạm có
được từ hành vi vi phạm hợp đồng đã bị triệt tiêu hết. Như vậy vấn đề đặt ra là
những chế tài trong thương mại, dù do từ thỏa thuận của các bên hay từ việc áp
dụng những quy định của pháp luật thương mại thì những chế tài đó phải thật sự
mạnh, có hiệu quả và có sự hỗ trợ lẫn nhau;
Thứ ba, chế tài thương mại cịn đóng vai trị bảo vệ lợi ích của các bên
trong hợp đồng. Khi một bên bị bên kia vi phạm hợp đồng thì tùy tính chất, mức độ
của vi phạm mà họ có thể lựa chọn biện pháp chế tài thích hợp. Nếu như vi phạm có
thể khắc phục được thì nên buộc bên kia thực hiện đúng hợp đồng. Nếu như vi
phạm đó đã cấu thành vi phạm cơ bản thì có thể sử dụng tới chế tài hủy bỏ hợp
đồng, ngừng thực hiện hợp đồng và buộc bồi thường thiệt hại (nếu có thiệt hại) hoặc
phạt vi phạm nếu có thỏa thuận. Việc áp dụng chế tài hay miễn trách nhiệm hay
không là phụ thuộc vào bên bị vi phạm. Tuy nhiên pháp luật cũng có quy định nhằm
hạn chế quyền lựa chọn của bên bị vi phạm. Điều 293 LTMVN 2005 quy định, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác, bên bị vi phạm không được áp dụng các chế tài tạm
ngừng, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng đối với vi phạm không cơ bản4. Quy định này
phần nào có tác dụng bảo vệ quyền lợi của bên vi phạm. Rõ ràng nếu như bên bị vi
phạm cứ áp dụng tùy tiện các chế tài trong thương mại thì cũng sẽ đe dọa ảnh
hưởng tới quyền lợi của bên vi phạm, nhất là trong trường hợp pháp luật không có
quy định về mức tối đa bồi thường thiệt hại. Hay như trong quy định về nghĩa vụ
hạn chế tổn thất, bên bị vi phạm khi không áp dụng các biện pháp hạn chế tổn thất
thì bên vi phạm có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị bồi thường thiệt hại bằng mức tổn
thất đáng lẽ có thể hạn chế được5. Những quy định này đã giúp cho bên vi phạm
không bị chèn ép quá mức dù thật sự họ có gây ra vi phạm hợp đồng. Suy cho cùng
4

Dương Anh Sơn, Lê Thị Bích Thọ, Nguyễn Văn Luyện (2007), Giáo trình Luật hợp đồng thương mại Quốc
tế, NXB Đại học quốc gia Tp.Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 50.
5
Xem điều 305 LTM 2005.


7


thì mỗi bên khi tham gia quan hệ hợp đồng đều có quyền bình đẳng ngang nhau,
nên quyền được pháp luật bảo vệ ngang nhau cũng là điều cần thiết, như vậy mới
duy trì được quan hệ hợp đồng kinh doanh thương mại.
Xét trong quá trình quản lý nhà nước về kinh doanh thương mại thì
những chế tài trong thương mại đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của nhà
nước. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay thì hợp đồng thương mại đóng vai trị
hết sức quan trọng, giúp nhà nước quản lý hoạt động kinh doanh của các thành phần
kinh tế trong nước, giữ cho thị trường hoạt động bình thường và ổn định. Bởi tính
quan trọng đó nên việc phá vỡ những cam kết thương mại trong hợp đồng phải bị
xử lý nghiêm khắc. Những quy định về chế tài thương mại đặt ra là nhằm mục đích
đó. Chế tài càng nghiêm khắc thì càng ngăn ngừa, răn đe hiệu quả các bên có ý định
vi phạm, từ đó củng cố được sự bình ổn của thị trường.
Mặt khác chế tài thương mại còn là một biện pháp thu hút đầu tư từ nước
ngoài. Rõ ràng một điều là trong toàn cảnh kinh tế thế giới ngày càng cạnh tranh
khốc liệt thì việc tìm kiếm những quốc gia có khả năng đầu tư thu lợi cao là một
điều vô cùng quan trọng. Việt Nam cũng là một quốc gia có được sự đầu tư nước
ngồi rất lớn, tuy nhiên chính sách pháp luật thương mại của chúng ta còn khá nhiều
hạn chế về quyền lợi của những nhà đầu tư nước ngoài. Bởi vậy một quy định về
chế tài thương mại là điều cần thiết, giúp cho những nhà đầu tư nước ngoài cũng
như nhà đầu tư trong nước tìm kiếm được những giải pháp pháp lý đảm bảo việc
thực thi hợp đồng được hiệu quả hơn. Việc thỏa thuận giữa các bên về chế tài sẽ
giúp các bên khơng phải ra tịa để giải quyết tranh chấp, tránh cho bên nước ngoài
những rắc rối mà chính nó sẽ ảnh hưởng tới thái độ đầu tư. Tóm lại là những quy
định về chế tài trong thương mại đã có vai trị quan trọng trong chính sách quản lý
kinh tế của nhà nước, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong
điều kiện hội nhập kinh tế ngày nay.

1.2 Những quy định của Luật Thương mại 2005 về chế tài thương mại
và mối quan hệ giữa các chế tài thương mại
1.2.1 Pháp luật điều chỉnh các chế tài thương mại
Chế tài trong thương mại Việt Nam có lịch sử phát triển từ rất lâu đời.
Ngay từ những năm đất nước bước vào con đường xây dựng đất nước theo cơ chế
kế hoạch hóa tập trung thì chế tài thương mại cũng đã manh nha hình thành, biểu
hiện là một hình thức của chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng kinh doanh. Lúc
này Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh số 735-TTg đã có quy định về chế tài
bồi thường thiệt hại. Sau này vào năm 1975 khi nền kinh tế đã có dấu hiệu phát
triển mạnh mẽ hơn thì hợp đồng kinh tế đóng vai trị hết sức quan trọng, và những
quy định về chế tài thương mại cũng mở rộng về hình thức hơn, bao gồm bồi
thường thiệt hại và phạt vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên những chế tài đó lúc này
8


mang ý nghĩa là biện pháp hành chính nhiều hơn là ý nghĩa của một chế tài do vi
phạm hợp đồng. Cho tới khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới thì những quy định
về biện pháp chế tài trong thương mại kinh doanh đã được bổ sung và chỉnh sửa cho
phù hợp hơn với bối cảnh nền kinh tế. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 lúc này quy
định những chế tài bao gồm: buộc thực hiện đúng hợp đồng, bồi thường thiệt hại,
phạt vi phạm và hủy bỏ hợp đồng. Và cũng chính lúc này thì những quy định về
mối quan hệ giữa các chế tài cũng đã xuất hiện, đặt ra cho các bên quyền lựa chọn
hình thức chế tài phù hợp cho từng loại vi phạm. Tuy nhiên theo quá trình phát triển
của kinh tế đất nước thì các quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã không thể
đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế đang ngày một hội nhập thị trường mạnh mẽ,
nhất là khi những vi phạm trong thương mại đã có những biểu hiện theo chiều
hướng xấu, ảnh hưởng tới quan hệ kinh tế nhà nước. Bởi vậy LTM 1997, trên cơ sở
phát triển và hoàn thiện những quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 đã
chủ trương đưa ra những chế tài thương mại khá đầy đủ và có chiều sâu hơn. LTM
1997 đưa ra năm biện pháp chế tài gồm: buộc thực hiện đúng hợp đồng, tạm ngừng

thực hiện hợp đồng, bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm, hủy bỏ hợp đồng. Tuy nhiên
mối quan hệ giữa các chế tài thì vẫn cịn thiếu sót khiến cho q trình áp dụng các
chế tài đó không mấy hiệu quả và tranh chấp dễ phát sinh. Mặt khác những quy định
về chế tài thương mại thì không đồng bộ với những quy định trong pháp luật Dân
sự, luật Đầu tư nước ngồi…
Chính sự tồn tại của hệ thống pháp luật trong nước cùng với sự ảnh hưởng
mạnh mẽ của làn sóng hội nhập buộc các nhà làm luật phải có những điều chỉnh
nhất định. Nhiều văn bản pháp luật quan trọng ra đời, trong đó được chú ý nhiều
nhất chính là Bộ luật Dân sự 2005 và LTM 2005. LTM 2005 đã phát triển chế định
chế tài thương mại lên một bước cao hơn, về số lượng chế tài cũng như là về những
quy định về mối quan hệ giữa các chế tài. Đặc biệt LTM 2005 còn cho phép các bên
được quyền thỏa thuận biện pháp chế tài khác ngoài những chế tài luật định miễn
sao những chế tài đó khơng trái với những ngun tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam và những điều ước Quốc tế mà Việt Nam là thành viên6. Với những quy định
về mối quan hệ giữa các chế tài trong LTM 2005 những quan hệ kinh doanh với
mục đích lợi nhuận đã được thiết lập ngày càng nhiều hơn, vi phạm thương mại
khơng cịn phải giải quyết nhiều tại tòa án hay trọng tài thương mại nữa. Một thiết
chế giải quyết tranh chấp mới do các bên tự thỏa thuận đã hình thành căn cứ trên
những quy định về các chế tài thương mại và mối quan hệ giữa các chế tài thương
mại trong LTM 2005. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong thực tiễn
thương mại Việt Nam, giúp cho quá trình hội nhập kinh tế của các doanh nghiệp
Việt Nam được thuận lợi hơn và phù hợp hơn với thương mại các nước.

6

Xem Khoản 7 Điều 292 LTM 2005.

9



LTM 2005 quy định sáu biện pháp chế tài: buộc thực hiện đúng hợp đồng,
tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng, bồi
thường thiệt hại, phạt vi phạm và những chế tài khác do các bên tự thỏa thuận
không trái với pháp luật Việt Nam và những điều ước Quốc tế mà Việt Nam là
thành viên7. Mỗi chế tài có những điều kiện áp dụng riêng và tùy từng trường hợp vi
phạm mà áp dụng. Trong quá trình áp dụng những chế tài này đã bộc lộ mối quan
hệ mật thiết với nhau, bổ trợ hoặc độc lập.
Theo quy định của LTM 2005 thì việc áp dụng chế tài thương mại khi
có các căn cứ sau: Có hành vi vi phạm hợp đồng; có thiệt hại thực tế; có mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm với thiệt hại thực tế. Tuy nhiên do tính chất và
hậu quả của các hành vi vi phạm hợp đồng là không giống nhau nên không phải
việc áp dụng các biện pháp chế tài nào cũng địi hỏi phải có đủ các căn cứ nêu trên.
Ngồi chế tài bồi thường thiệt hại địi hỏi phải có đủ căn cứ trên, các loại chế tài cịn
lại chỉ địi hỏi căn cứ có tính ngun tắc là hành vi vi phạm hợp đồng, chẳng hạn
như trong chế tài phạt vi phạm hợp đồng hay chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng8. Lỗi trong hành vi vi phạm hợp đồng thương mại không phải là yếu tố bắt
buộc và chỉ là lỗi suy đoán. Trong những trường hợp miễn trách nhiệm do có thỏa
thuận trước của các bên hay do pháp luật quy định thì lỗi của bên vi phạm không
cần phải xem xét tới và họ không phải chịu các chế tài khi rơi vào các trường hợp
này.
Về các trường hợp áp dụng cụ thể từng biện pháp chế tài, LTM 2005 có
những quy định như sau:


Thứ nhất là về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.

Điều 297 LTM 2005 có quy định: Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên
bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp
khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Trong
trường hợp người bán vi phạm nghĩa vụ thì người mua có quyền yêu cầu người bán

thực hiện đúng nghĩa vụ bằng cách:
+Nếu vi phạm là chậm giao hàng thì phải thực hiện nghĩa vụ giao hàng;
+Nếu giao thiếu hàng thì buộc phải giao đủ;
+Thay thế hàng hóa khơng phù hợp với loại hàng hóa khác nếu sự khơng phù
hợp là nghiêm trọng.
Tuy nhiên, những yêu cầu trên chỉ có hiệu lực nếu người mua tuân thủ thời
hạn thông báo do các bên thỏa thuận trong hợp đồng.
7

Xem điều 292 LTM 2005.
Xem điều 300 LTM 2005: “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền
phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận…”.
8

10


Bên bị vi phạm cũng có quyền trì hỗn việc thực hiện nghĩa vụ của
mình để buộc bên kia thực hiện hợp đồng. Theo quy định của LTM 2005, những
biện pháp thuộc loại này bao gồm: Quyền trì hỗn thanh tốn tiền hàng nếu người
mua có bằng chứng về việc bên bán đang lừa dối (Điều 51 Khoản 1), hoặc nếu có
bằng chứng về việc người bán lừa gạt hoặc khơng có khả năng giao hàng, hoặc hàng
này đang là đối tượng tranh chấp giữa người bán và người thứ ba (Khoản 2 Điều
51).
Tuy nhiên tại Khoản 1 và 2 Điều 51 có thể được coi là trường hợp ngoại lệ
của việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, vì lúc này tuy chưa có hành
vi vi phạm hợp đồng xảy ra nhưng có căn cứ là vi phạm hợp đồng chắc chắn có khả
năng xảy ra. Việc trì hỗn thanh tốn tiền trong trường hợp này là cần thiết nhằm
buộc bên có khả năng vi phạm hợp đồng cố gắng thực hiện đúng hợp đồng và cũng
nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra cho người mua trước nguy cơ bị vi phạm

hợp đồng.
Bên bị vi phạm cịn có quyền cầm giữ tài sản, tài liệu hoặc hàng hóa,
chứng từ liên quan tới hàng hóa. Chẳng hạn như quy định tại Điều 149 LTM 2005:
Người đại diện cho thương nhân có quyền cầm giữ tài sản, tài liệu được giao để
đảm bảo việc thanh toán các khoản thù lao và chi phí đã đến hạn. Những quy định
này chính là những ngoại lệ của việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.
Bởi vì những quy định này có những đặc điểm của biện pháp bảo đảm thực hiện
hợp đồng nhưng hơn cả thì chúng vẫn mang đặc tính của biện pháp buộc thực hiện
hợp đồng và những biện pháp này đều không được các bên thỏa thuận trước mà nó
lại được áp dụng khi đã đến hạn mà bên có nghĩa vụ thanh tốn khơng thực hiện .
Và cũng theo quy định của điều 297 LTMVN 2005 thì pháp luật cịn cho
phép các bên có thể lựa chọn các “biện pháp khác” để hợp đồng được thực hiện,
miễn là những biện pháp đó khơng trái với pháp luật.
Một điểm đáng chú ý trong quy định về chế tài buộc thực hiện đúng hợp
đồng là quy định về việc gia hạn thời gian thực hiện nghĩa vụ cho bên vi phạm.
Theo đó bên bị vi phạm có thể gia hạn một thời hạn hợp lý để bên vi phạm thực
hiện hợp đồng.9 Như vậy quyền gia hạn là thuộc về bên bị vi phạm. Họ có thể thực
hiện quyền này hay khơng là do họ nhận định lợi ích của họ được đảm bảo theo
cách nào là tốt nhất.
 Thứ hai là chế tài phạt vi phạm hợp đồng
Điều 300 LTM 2005 quy định chế tài Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm
yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp
đồng có thỏa thuận, trừ trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 LTM
9

Xem Điều 298 LTM 2005.

11



2005. Ở đây, phạt vi phạm là một chế tài, một hình thức trách nhiệm, được áp dụng
khi có hành vi vi phạm hợp đồng. Tương tự như LTM 2005 khái niệm và cách thức
áp dụng chế tài phạt vi phạm cũng được làm rõ trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế
1989. Theo đó bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi phạm tiền phạt hợp
đồng và trong trường hợp có thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại (Khoản 2 Điều
29). Như vậy cả hai văn bản này đều chỉ ra phạt vi phạm hợp đồng khơng phụ thuộc
vào việc có thiệt hại hay khơng và có thể kết hợp phạt hợp đồng với bồi thường
thiệt hại, lúc này trách nhiệm của bên vi phạm hợp đồng là rất nặng nề, bởi vậy chế
tài này có ý nghĩa rất lớn trong thực tiễn thương mại. Nó vừa có tác dụng củng cố
quan hệ hợp đồng kinh tế, nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật hợp đồng kinh tế và
pháp luật quản lý kinh tế, vừa có tác dụng phịng ngừa vi phạm hợp đồng kinh tế.
BLDS 2005 cũng có quy định về phạt vi phạm, song lại nhìn nhận nó như
là một biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng10. Quy định của BLDS 2005 xuất
phát từ việc hiểu phạt vi phạm chỉ nhằm bảo đảm cho hợp đồng được thực hiện
đúng thỏa thuận mà không nhằm đánh vào tài sản của bên vi phạm, khoản tiền bảo
đảm tồn tại thực tế trong quá trình thực hiện hợp đồng. Cịn theo như LTM 2005 thì
phạt vi phạm thực hiện chức năng của một chế tài thương mại là răn đe, phòng ngừa
và khoản tiền phạt chỉ tồn tại như là một con số ảo, chỉ khi có vi phạm xảy ra thì
khoản tiền này mới thực tế tồn tại và thuộc về bên bị vi phạm.
Theo cách nhìn nhận đánh giá chung của nhiều tác giả thì phạt vi phạm vừa
là một hình thức trách nhiệm hợp đồng, vừa là một trong những biện pháp bảo đảm
thực hiện hợp đồng khi chưa có hành vi vi phạm nghĩa vụ11. Hơn nữa phạt vi phạm
thúc đẩy các bên chú ý đến việc thực hiện nghĩa vụ dưới thông qua sự cảnh báo, đe
dọa bên vi phạm sẽ phải chịu hậu quả bất lợi nếu không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ hợp đồng.
Chế tài phạt vi phạm là chế tài được áp dụng phổ biến, đối với mọi trường
hợp có hành vi vi phạm hợp đồng, dù đã gây ra hay chưa gây ra thiệt hại và ở bất cứ
vi phạm ở điều khoản nào. Điều này cho thấy khơng phải bất cứ hình thức trách
nhiệm nào cũng cần phải có các căn cứ áp dụng: có hành vi vi phạm hợp đồng, có
thiệt hại thực tế, có mối quan hệ nhận quả giữa hành vi vi phạm với thiệt hại thực tế.

Đối với chế tài phạt vi phạm hợp đồng, chưa có thiệt hại xảy ra, vì vậy khơng có
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm với hậu quả. Để áp dụng chế tài này thì
chỉ cần có điều kiện là có hành vi vi phạm.
Về mức phạt vi phạm, BLDS 2005 và LTM 2005 có quy định khác biệt
nhau. LTM 2005 chỉ cho phép các bên thỏa thuận mức phạt hoặc tổng mức phạt đối
10

Dương Anh Sơn, Lê Thị Bích Thọ (2005), “Một số ý kiến về phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng theo quy
định của pháp luật Việt Nam”, Tạp chí khoa học pháp lý, (số 1), tr.1.
11
Dương Anh Sơn, Lê Thị Bích Thọ, Nguyễn Văn Luyện, tlđd, tr. 61.

12


với nhiều vi phạm nhưng không vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi
phạm. Mức phạt này còn gây nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu và là một quy
định không thống nhất với quy định về mức phạt vi phạm trong trường hợp giám
định sai. Trong khi đó, BLDS 2005 cho phép các bên tự thỏa thuận mức phạt và
không hạn chế mức tối đa. Đây chỉ là một trong số những quy định trái ngược giữa
Luật gốc và Luật chuyên ngành.
 Thứ ba và thứ tư là các chế tài tạm ngừng và đình chỉ thực hiện hợp
đồng
Tạm ngừng thực hiện hợp đồng và đình chỉ thực hiện hợp đồng là hai chế
tài mới được LTM 2005 quy định.
Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện
nghĩa vụ. Đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng. Cả hai chế tài này được áp dụng trong trường hợp: Hoặc xảy ra hành vi
vi phạm mà các bên thỏa thuận là điều kiện để tạm ngừng hay đình chỉ thực hiện
hợp đồng; Hoặc một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng; Hoặc quá thời hạn

được ấn định khi đã áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng mà bên vi phạm
vẫn không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, trừ trường hợp được miễn trách
nhiệm do các bên thỏa thuận trước hay do có quy định của pháp luật. Hành vi tạm
ngừng hay đình chỉ hợp đồng đều có ảnh hưởng lớn tới tiến độ kinh doanh của
doanh nghiệp, bởi vậy chỉ thật sự khi có vi phạm cơ bản thì bên bị vi phạm mới
được áp dụng những chế tài này (Điều 293 LTM 2005). Một điều lưu ý là có sự
khác biệt giữa nội dung của hai chế tài tạm ngừng và đình chỉ thực hiện hợp đồng.
Khi hợp đồng bị tạm ngừng thì nó vẫn cịn hiệu lực. Việc tạm ngừng có nghĩa là các
bên sẽ khơng phải thực hiện nghĩa vụ của mình trong một khoảng thời gian cụ thể
do các bên tự thỏa thuận. Việc đình chỉ thực hiện hợp đồng làm cho hợp đồng
khơng cịn hiệu lực kể từ thời điểm một bên đình chỉ. Khi hợp đồng bị đình chỉ các
bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng kể từ thời điểm hợp đồng bị
đình chỉ12. Bên đã thực hiện nghĩa vụ hợp đồng có quyền yêu cầu bên kia thực hiện
nghĩa vụ đối ứng hoặc yêu cầu được thanh toán. Và khác với tạm ngừng thực hiện
hợp đồng nữa là, khi áp dụng chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng thì pháp luật có
quy định bên đình chỉ phải thơng báo cho bên kia về việc đình chỉ của mình, nếu
khơng thơng báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Cịn nếu tạm ngừng thực hiện
hợp đồng thì khơng cần có sự thơng báo của bên tạm ngừng: Bên bị vi phạm không
thực hiện nghĩa vụ đối ứng của mình trong một thời hạn nhất định. Chính sự khác
nhau này cho phép chúng ta biết cách lựa chọn đúng đắn một trong hai chế tài trên
cho những trường hợp vi phạm hợp đồng chưa nghiêm trọng tới mức phải hủy bỏ
hợp đồng.
12

Xem Điều 311 LTM 2005.

13


 Thứ năm là chế tài hủy bỏ hợp đồng

Trong thực tiễn hoạt động thương mại, hủy bỏ hợp đồng là biện pháp chế
tài được áp dụng khi việc áp dụng chế tài buộc thực hiện nghĩa vụ khơng cịn ý
nghĩa, hay theo quy định của pháp luật Việt Nam khi việc vi phạm của bên kia là
điều kiện để hủy bỏ hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận hoặc một bên vi phạm cơ
bản nghĩa vụ hợp đồng (Khoản 4 Điều 312 LTMVN 2005). Điều này có nghĩa là
chế tài này không được áp dụng một cách đương nhiên. Muốn áp dụng thì phải có
hành vi vi phạm, có sự thỏa thuận trước của các bên trong hợp đồng về việc áp dụng
chế tài này.
Khi hủy bỏ hợp đồng thì hợp đồng chấm dứt hiệu lực kể từ thời điểm giao
kết hợp đồng13, không kể các bên đã thực hiện hoặc chưa thực hiện hợp đồng. Lúc
này hậu quả của hợp đồng bị hủy bỏ là các bên không phải tiếp tục thực hiện những
nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng; mỗi bên đều có quyền địi lại lợi ích do việc
đã thực hiện phần nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng; bên bị thiệt hại có quyền
địi bên kia bồi thường thiệt hại. Các bên có quyền địi lại lợi ích do việc đã thực
hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; Nếu các bên đều có nghĩa vụ hồn trả
thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; Trường hợp không thể hồn trả
bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hồn trả bằng tiền. BLDS 2005
cũng có quy định về hủy bỏ hợp đồng và hậu quả khi hủy bỏ hợp đồng. Theo Luật
Dân sự thì khi hợp đồng bị hủy bỏ các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, nếu
khơng hồn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền. Bên có lỗi trong việc hợp
đồng bị huỷ bỏ phải bồi thường thiệt hại14. Quy định này cho thấy cách xử lý của
Luật Dân sự nặng về u cầu hồn trả, cịn LTM 2005 là u cầu bồi hồn, có tính
tới các khoản thu nhập có được từ việc thực hiện hợp đồng. Đó là do bản chất của
việc hủy bỏ hợp đồng. Hủy bỏ hợp đồng làm chấm dứt quan hệ hợp đồng nhưng
trong thời gian trước khi hợp đồng bị hủy bỏ, các bên đã thi hành nghĩa vụ và
hưởng quyền từ việc thực hiện hợp đồng. Nếu như hợp đồng khơng có hiệu lực từ
thời điểm giao kết thì việc giải quyết hậu quả phải bao gồm cả việc bồi hồn các lợi
ích đã thu được từ việc thực hiện nghĩa vụ của bên kia.
Về hậu quả của hủy bỏ hợp đồng, chúng ta có thể đặt nó trong sự so sánh với
hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Khi hợp đồng bị tuyên là vô hiệu theo BLDS 2005

thì hợp đồng đó khơng làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự
của các bên kể từ thời điểm xác lập; các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hồn
trả cho nhau những gì đã nhận. Nếu khơng hồn trả được bằng hiện vật thì phải
hồn trả bằng tiền15. Hợp đồng bị vơ hiệu và hợp đồng bị hủy bỏ toàn bộ giống nhau
là chúng khơng có hiệu lực kể từ thời điểm ký kết, song những gì mà các bên đã
13

Xem Điều 314 LTM 2005.
Xem Điều 425 BLDS 2005.
15
Xem Điều 137 BLDS 2005.
14

14


thực hiện được trong hợp đồng bị hủy bỏ không thể xem như là chưa từng tồn tại và
do đó khơng thể hồn trả về đúng hiện trạng như trước khi hợp đồng được thực hiện
giống như hợp đồng vô hiệu được. Bởi vậy hợp đồng khi đã hủy bỏ thì các bên sẽ
có quyền địi lại lợi ích do việc đã thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng,
quyền này cũng gần như đồng nghĩa với việc các bên được thanh toán giá trị phần
hợp đồng đã được thực hiện như trong trường hợp hợp đồng đã được thực hiện đúng
thỏa thuận. Hợp đồng bị vô hiệu không làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại cho các bên, nhưng nếu hợp đồng bị hủy bỏ thì bên bị thiệt hại sẽ được bồi
thường16. Điểm khác nữa giữa hậu quả của hợp đồng bị hủy bỏ với hợp đồng bị vô
hiệu là hợp đồng khi bị tuyên bố vơ hiệu thì các bên hồn trả cho nhau những gì đã
thực hiện trước đó bằng hiện vật, nếu khơng hồn trả được bằng hiện vật thì phải trả
bằng tiền, cịn hợp đồng khi bị tun hủy bỏ thì các bên có quyền địi lại lợi ích do
việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Điều này có nghĩa là đối
với hợp đồng vơ hiệu thì việc hồn trả được tính bằng hiện vật cịn với hợp đồng bị

hủy bỏ thì việc hồn trả được tính bằng việc thanh tốn giá trị phần lợi ích mà một
bên đã thực hiện cho bên còn lại. Tuy nhiên việc xác định trong trường hợp nào là
“khơng hồn trả được bằng hiện vật” khi hợp đồng vô hiệu vẫn chưa được BLDS
2005 quy định, và chúng ta chỉ có thể dựa vào Điểm b.1 Mục 1 Phần II Nghị quyết
số 04/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao: “khơng
thể hồn trả được tài sản đã nhận bằng hiện vật khi tài sản đã nhận từ việc thực hiện
hợp đồng kinh tế đó được đưa vào khai thác, sử dụng”.
Hủy bỏ hợp đồng có hai dạng là hủy bỏ một phần hoặc hủy bỏ toàn bộ hợp
đồng. Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các
nghĩa vụ của hợp đồng. Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một
phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Lưu ý là
hủy bỏ hợp đồng chỉ xảy ra khi có vi phạm cơ bản hợp đồng, bởi vậy việc hủy bỏ
từng phần hợp đồng cũng phải dựa trên nhận định chắc chắn là sẽ có vi phạm cơ
bản đối với những lần giao hàng sau. Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn
toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng. Khi một
hợp đồng bị hủy bỏ tồn bộ, hợp đồng được xem là khơng có hiệu lực từ thời điểm
ký kết. Các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp
đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng và giải
quyết tranh chấp.
Hủy bỏ hợp đồng gây ra hậu quả rất nặng nề cho mỗi bên. Trước hết là nó
làm cho hợp đồng khơng đạt được những lợi ích mà các bên mong muốn lúc giao
kết hợp đồng; Thứ nữa là nó làm xấu đi quan hệ làm ăn giữa các đối tác kinh doanh,
làm tổn hại tới uy tín của người bị hủy bỏ hợp đồng, từ đó ảnh hưởng khơng nhỏ
16

Xem Khoản 3 Điều 314 LTM 2005.

15



tới hoạt động quản lý nhà nước về kinh doanh thương mại. Đây là chế tài không
nhằm khôi phục quyền lợi hay bù đắp thiệt hại mà chỉ trong chừng mực nhất định
hạn chế thiệt hại cho bên có quyền lợi bị vi phạm trong hợp đồng. Do vậy các bên
trong hợp đồng nên thỏa thuận kỹ về điều khoản hủy bỏ hợp đồng cũng như là
những trường hợp miễn trách nhiệm khi có vi phạm hợp đồng xảy ra.
 Thứ sáu là chế tài Bồi thường thiệt hại
Phổ biến và an toàn nhất cho các bên tham gia hợp đồng khi bị vi phạm
hợp đồng là sử dụng chế tài bồi thường thiệt hại. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi
phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi
phạm. Bồi thường thiệt hại có chức năng chủ yếu là bồi hồn, bù đắp, khơi phục
những lợi ích vật chất bị tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra.
Để áp dụng chế tài này thì cần hội tụ đủ ba yếu tố: có hành vi vi phạm hợp
đồng, có hậu quả là thiệt hại vật chất, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi
phạm và hậu quả. Thiệt hại vật chất theo LTM 2005 phải là thiệt hại thực tế, trực
tiếp, bao gồm cả khoản lợi đáng lẽ được hưởng mà bên có quyền lợi bị vi phạm đã
không được hưởng17. Tổn thất thực tế được hiểu là những tổn thất có thể tính toán
được dựa trên những căn cứ xác thực và hợp lý. Tuy nhiên, không phải mọi tổn thất
thực tế đều được bồi thường, bên bị vi phạm chỉ được bồi thường những tổn thất
thực tế trực tiếp. Số tiền bồi thường thiệt hại không thể cao hơn giá trị tổn thất và
những khoản lợi đáng lẽ được hưởng. Thiệt hại trực tiếp bao gồm:
-Hàng hóa bị mất mát hay hư hỏng;
-Chi phí đã được sử dụng hay sẽ được sử dụng để phục hồi hoặc loại bỏ
khuyết tật của hàng hóa;
-Khoản tiền mà bên bị vi phạm phải đền bù cho đối tác do khơng thực hiện
nghĩa vụ của mình.
Khoản lợi đáng lẽ được hưởng là những khoản lợi đáng lẽ bên bị thiệt hại
được hưởng trong điều kiện bình thường nếu phía bên kia thực hiện nghĩa vụ của
mình.
Ngun tắc bồi thường thiệt hại là thiệt hại phải được đền bù kịp thời và đầy
đủ. Tức là thiệt hại phải được đền bù đầy đủ để có thể khơi phục lại lợi ích vật chất

bị tổn thất và bên bị thiệt hại không được phép nhận sự đền bù vượt quá phạm vi
cần thiết để khắc phục lợi ích vật chất bị tổn thất của mình18, nói cách khác là bên bị
thiệt hại không được hưởng lợi do sự bồi thường thiệt hại của bên vi phạm. Như
vậy, mục đích của chế tài bồi thường thiệt hại là đặt lợi ích vật chất của bên bị thiệt

17
18

Xem Điều 302 LTM 2005.
Dương Ngọc Sơn, Lê Thị Bích Thọ, Nguyễn Văn Luyện, tlđd, tr. 57-58.

16


hại vào vị trí đáng lẽ ra họ phải có nếu phía bên kia thực hiện nghĩa vụ của mình
(nếu hợp đồng được thực hiện nghiêm chỉnh).
Một vấn đề khi xác định phạm vi thiệt hại được bồi thường là xác định
khoản lợi đáng lẽ ra được hưởng. Thiệt hại do uy tín bị giảm sút có được xem là
khoản lợi đáng lẽ được hưởng hay khơng và có được bồi thường hay không? Pháp
luật thương mại nước ta cũng như pháp luật nhiều nước không quy định về vấn đề
này nhưng thiết nghĩ chúng ta nên công nhận uy tín bị giảm sút cũng là một hình
thức thiệt hại. Bởi uy tín thương mại một trong những lợi thế cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp, phản ánh vị trí, tình hình hoạt động và phát triển của một doanh
nghiệp. Mặt khác, khả năng phát triển của một doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn và
chịu ảnh hưởng rất lớn vào uy tín và danh tiếng của doanh nghiệp. Biểu hiện của
việc uy tín bị thiệt hại có thể dưới dạng là doanh nghiệp bị mất đi những khách hàng
và những đối tác lâu dài hoặc tiềm năng, làm mất đi những cơ hội mở rộng thị
trường, giảm sút uy tín của lực lượng lãnh đạo doanh nghiệp… Do đó uy tín doanh
nghiệp rất dễ là đối tượng dễ bị xâm hại bởi hành vi trái pháp luật và nếu một khi nó
bị xâm hại thì thiệt hại của nó là nhìn thấy được, do vậy cần phải được bồi thường

đầy đủ. Pháp luật cạnh tranh cũng có những quy định điều chỉnh trường hợp hành vi
vi phạm của các đối thủ cạnh tranh không lành mạnh làm tổn hại tới uy tín doanh
nghiệp19. Ngày 14 tháng 10 năm 2003, thơng tin về việc Ông Tổng giám đốc của
ngân hàng ACB bỏ trốn làm cho cả một khu vực xung quanh trụ sở của ngân hàng
xáo trộn, làm cho tình hình kinh doanh của ngân hàng ACB rối loạn một thời gian
không ngắn, thậm chí Thống đốc ngân hang nhà nước Việt Nam vào cuộc mà vẫn
không chấm dứt ngay được sụ xáo động của tình hình kinh doanh. Cho đến nay
ngồi ngân hàng ACB, khó ai biết chính xác những khoản thiệt hại mà họ phải gánh
chịu, người gửi tiền được một phen hú vía. Trong đó chắc chắn có những khách
hang một đi không trở lại để khỏi phải gánh chịu những thảm trạng tâm lý đó nữa20.
Điều 4.7.2 Bộ nguyên tắc Unidriot trong việc xác định phạm vi thiệt hại
được đền bù cũng nhắc đến khoản thiệt hại phi tiền tệ bắt nguồn từ nỗi đau thể chất
hoặc tinh thần trong đó có những thiệt hại do mất uy tín. Việc pháp luật thương mại
Việt Nam khơng quy định về khoản bồi thường này cho thấy có độ vênh giữa LTM
2005 với pháp luật thương mại quốc tế và đây khơng phải là thiếu sót dễ bỏ qua
trong q trình hội nhập kinh tế thế giới.
Theo Điều 305 LTMVN 2005, bên đòi bồi thường thiệt hại phải áp dụng
những biện pháp được coi là hợp lý trong trường hợp cụ thể đó để hạn chế tổn thất.
19

Xem điều 39, 43 Luật Cạnh tranh. Điều 43: “Cấm doanh nghiệp gièm pha doanh nghiệp khác bằng hành vi
trực tiếp hoặc gián tiếp đưa ra thông tin không trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính
và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó”.
20
/>
17


Nếu bên địi bồi thường khơng áp dụng những biện pháp hạn chế tổn thất thì bên vi
phạm có thể yêu cầu giảm mức bồi thường thiệt hại bằng số tiền đáng lẽ có thể hạn

chế được. Nhìn từ góc độ thương mại thì những biện pháp hạn chế tổn thất thông
dụng nhất là: Người bán bán hàng cho người khác và người mua mua hàng thay thế
hoặc là ngừng thực hiện hợp đồng; Cũng có thể là yêu cầu đối tác đảm bảo bằng
văn bản thực hiện nghĩa vụ của họ nếu họ có cơ sở để nghi ngờ rằng họ sẽ khơng
thực hiện nghĩa vụ của mình khi hợp đồng hết thời hạn; Hoặc người mua tự mình
sữa chữa kịp thời khuyết tật để hạn chế mức độ thiệt hại. Quy định này cho thấy
pháp luật thương mại Việt Nam đã bảo đảm tính thiện chí và trung thực của các bện
trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng.
 Những biện pháp chế tài khác do các bên tự thỏa thuận
Đây là một quy định mở của LTM 2005. Thực tế thì vẫn chưa có loại chế
tài như thế trong thực tế thương mại trong nước cũng như nước ngồi. Có thể các
bên trong hợp đồng ngại khi phải áp dụng một chế tài mới mà chưa có một sự kiểm
chứng về mức độ hiệu quả trong việc ngăn chặn những vi phạm hợp đồng trong
tương lai. Tác động của quy định này là mở thêm khả năng lựa chọn biện pháp trách
nhiệm cho bên bị vi phạm hợp đồng và dự phòng cách thức giải quyết tranh chấp
trước những biến đổi phức tạp của những vi phạm trong kinh doanh thương mại.
Quy định như Khoản 7 Điều 292 LTM 2005 đã mở rộng và tôn trọng quyền tự do
thỏa thuận của các bên trong hợp đồng, là một điểm tiến bộ so với những văn bản
pháp luật thương mại trước đó của Việt Nam và nó thực sự rất có ý nghĩa đối với
những chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh thương mại.
1.2.2 Quan hệ giữa các chế tài thương mại
1.2.2.1 Áp dụng chế tài thương mại trong trường hợp có vi phạm cơ bản
và không cơ bản
Khi một bên vi phạm hợp đồng và vi phạm đó là vi phạm cơ bản thì bên
kia có quyền hủy bỏ hợp đồng, ngừng thực hiện hợp đồng hoặc đình chỉ thực hiện
hợp đồng. Thực tiễn tranh chấp trong kinh doanh quốc tế và trong nước cho thấy
khơng dễ dàng gì xác định đâu là vi phạm cơ bản hay vi phạm không cơ bản.
Vi phạm cơ bản là một chế định mới trong LTM 2005, được đưa ra dựa
trên sự học hỏi pháp luật thương mại Quốc tế. Việc phân biệt vi phạm cơ bản và
không cơ bản là điều có ý nghĩa lớn. Thứ nhất, hậu quả pháp lý của chúng là khác

nhau, tức là chỉ khi có vi phạm cơ bản thì mới được áp dụng chế tài tạm ngừng thực
hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng. Đối với vi phạm
khơng cơ bản thì các chế tài bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm sẽ được áp dụng;
Thứ hai là đảm bảo được sự công bằng trong kinh doanh thương mại, tránh trường

18


hợp một trong các bên lấy cớ vi phạm hợp đồng để yêu cầu hủy bỏ hợp đồng trong
trường hợp sự vi phạm là không đáng kể.
LTM 2005 cũng như là pháp luật dân sự Việt Nam đều có quy định thế nào
là vi phạm cơ bản. Vi phạm cơ bản là vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại
cho bên kia tới mức làm cho bên kia khơng đạt được mục đích của giao kết hợp
đồng (Khoản 13 Điều 3 LTMVN 2005). Tuy nhiên các văn bản điều chỉnh pháp luật
hợp đồng này lại không đưa ra cách xác định vi phạm nào là cơ bản hay khơng cơ
bản. Điều này đã gây ra khó khăn cho những người áp dụng pháp luật và các doanh
nghiệp. Khác với pháp luật việt Nam, pháp luật thương mại các nước và các văn
bản pháp lý thương mại quốc tế đều đưa ra căn cứ cho phép nhận định đâu là vi
phạm cơ bản, chẳng hạn như quy định tại điều 25 CISG. Theo những văn bản pháp
luật này thì vi phạm hợp đồng được coi là vi phạm cơ bản nếu vi phạm đó gây ra
một tổn thất, một khoản lợi đáng kể mà họ phải có được trên cơ sở hợp đồng, ngoại
trừ trường hợp, bên vi phạm khơng nhìn thấy hậu quả đó và những người bình
thường trong những hồn cảnh, tình huống tương tự cũng khơng thể nhìn thấy trước
được. Và theo quy định của điều 25 CISG thì dấu hiệu chủ yếu để phân biệt vi
phạm cơ bản và không cơ bản là dựa vào mức độ ảnh hưởng tới mục đích mong
muốn cuối cùng của hợp đồng có được thực hiện hay khơng21. Vì pháp luật Việt
Nam chưa có quy định này rõ ràng nên thiết nghĩ trong hợp đồng các bên nên có sự
thỏa thuận trước loại vi phạm nào có thể cho phép hủy bỏ hay đình chỉ, tạm ngừng
thực hiện hợp đồng.
Thực tiễn thương mại quốc tế đã từng xảy ra nhiều tranh chấp do không

xác định đúng những vi phạm cơ bản. Có thể lấy dẫn chứng về một vụ tranh chấp
giữa bên mua là các công ty của Argentina và của Hungary, bên bán là một công ty
của Nga. Từ năm 1991, người bán Nga (một tổ chức chính phủ) ký kết một số hợp
đồng mua bàn nhôm cho một số người mua ở Argentina và Hungary. Việc giao
hàng được tiến hành đúng thời hạn cho tới khi công ty người bán chuyển giao
quyền sở hữu cho một công ty tư nhân. Công ty này ngay lập tức tuyên bố sẽ không
tiếp tục thực hiện việc giao hàng. Bên mua trong quá trình trao đổi thư từ đã lưu ý
bên bán là bên mua sẽ phải chịu những thiệt hại nặng nề nếu như hàng hóa khơng
được giao đúng hạn. Bên bán đưa ra những hóa đơn chưa thanh tốn tiền hàng
trước đó của bên mua và họ rằng việc bên mua trì hỗn việc thanh tốn tiền những
lơ hàng trước đây đã dẫn tới vi phạm cơ bản nghĩa vụ của bên mua, do đó bên bán
có quyền từ chối thực hiện hợp đồng. Bên mua muốn đàm phán nhưng bên bán từ
chối, bên mua kiện bên bán ra Hội đồng trọng tài ở Zurich, áp dụng Công Ước Viên
1980 (CISG) để yêu cầu bồi thường thiệt hại. Hội đồng trọng tài nhận định: Việc
người bán ngừng giao hàng dẫn tới vi phạm cơ bản về nghĩa vụ của người bán theo
21

Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội,
tr. 382.

19


điều 30 CISG. Hơn nữa người bán lại tuyên bố từ chối thực hiện nghĩa vụ giao
hàng, điều này khiến cho vi phạm của người bán cấu thành vi phạm cơ bản theo
điều 25 CISG và vì vậy bên mua được quyền tuyên bố hủy bỏ hợp đồng mà không
cần phải gia hạn cho người bán (Điều 49.1.a CISG). Việc người mua vi phạm nghĩa
vụ thanh toán, dựa theo Điều 73.2 CISG, Trọng tài lập luận rằng khơng có chứng
cứ chỉ ra việc bên mua khơng thể hay khơng có thiện chí thực hiện nghĩa vụ thanh
tốn của mình, vì trên thực tế bên mua vẫn có khả năng thanh toán và vẫn muốn

đàm phán về việc thực hiện hợp đồng. Hơn nữa bên bán đã không gia hạn cho bên
mua trong việc trả tiền và vì thế khơng được địi quyền hủy bỏ hợp đồng. Bên bán
cịn khơng muốn đàm phán với bên mua nghĩa là đi ngược lại với nguyên tắc thiện
chí. Cuối cùng Trọng tài ra phán quyết buộc người bán phải bồi thường cho người
mua những thiệt hại thực tế, bao gồm chi phí lưu kho và chi phí tài chính phát sinh
do việc ngừng giao hàng, theo Điều 74 CISG22.
Tranh chấp trên cung cấp cho chúng ta những bài học kinh nghiệm rất bổ
ích trong hoạt động kinh doanh thương mại, cụ thể:
Một là, nếu khơng vì lý do bất khả kháng, người bán khơng nên tự tuyên bố
ngừng thực hiện hợp đồng, nếu không vi phạm của người bán sẽ bị coi là vi phạm
cơ bản và người bán sẽ phải bồi thường những thiệt hại với người mua do việc vi
phạm hợp đồng;
Hai là, người mua nếu chậm thanh tốn tiền hàng thì đây không phải là vi
phạm cơ bản, người bán không có quyền ngay lập tức hủy bỏ hợp đồng. Người bán
phải gia hạn một thời gian hợp lý để người mua thực hiện nghĩa vụ. Chỉ khi hết thời
gian gia hạn mà người mua vẫn khơng thanh tốn thì người bán mới được hủy bỏ
hợp đồng và đòi bồi thường thiệt hại; Ba là việc từ chối đàm phán của bên nào trong
hợp đồng cũng thể hiện sự không thiện chí, trung thực, thiếu hơp tác. Đây là điểm
bất lợi cho bên đó trong q trình giải quyết khiếu nại tố tụng.
Cũng từ những quy định của LTM 2005 và dẫn chứng về tranh chấp
thương mại quốc tế trên, chúng ta thấy được mối quan hệ giữa các chế tài trong
thương mại khi có vi phạm cơ bản xảy ra. Sự phân biệt vi phạm cơ bản và vi phạm
không cơ bản có ý nghĩa trong việc làm căn cứ để bên có quyền lựa chọn những
biện pháp bảo hộ pháp lý thích hợp. Cụ thể là trừ trường hợp có thỏa thuận khác,
bên bị vi phạm khơng được áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ
thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng (Điều 293 LTM 2005) khi có vi phạm
khơng cơ bản.
22

/>

20


×