Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Mối quan hệ pháp lý giữa chủ sở hữu và người quản lý công ty theo luật doanh nghiệp 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (999.29 KB, 57 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
----------

PHẠM THỊ NGỌC NHẤT

MỐI QUAN HỆ PHÁP LÝ GIỮA CHỦ SỞ HỮU
VÀ NGƢỜI QUẢN LÝ CÔNG TY THEO LUẬT
DOANH NGHIỆP 2014
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƢƠNG MẠI

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
----------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

MỐI QUAN HỆ PHÁP LÝ GIỮA CHỦ SỞ HỮU VÀ NGƢỜI
QUẢN LÝ CÔNG TY THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014

SINH VIÊN THỰC HIỆN: PHẠM THỊ NGỌC NHẤT
Khóa: 38

MSSV: 1353801011154

GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN: ThS. ĐẶNG QUỐC CHƢƠNG


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên là Phạm Thị Ngọc Nhất – sinh viên Trƣờng Đại học Luật Tp. Hồ Chí
Minh, Khoa Luật Thƣơng Mại, Khóa 38 (2013 – 2017), là tác giả của Khóa luận tốt
nghiệp Cử nhân Luật – Chuyên ngành Luật Thƣơng Mại – Đề tài: “Mối quan hệ
pháp lý giữa chủ sở hữu và người quản lý công ty theo Luật Doanh nghiệp 2014”
đƣợc trình bày trong tài liệu này (sau đây gọi là “Khóa luận”).
Tơi xin cam đoan rằng các nội dung đƣợc trình bày trong Khóa luận này là
cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, đƣợc thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn
khoa học của Thạc sỹ Đặng Quốc Chƣơng – Giảng viên Khoa Luật Thƣơng Mại,
Trƣờng Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh. Mọi kết quả nghiên cứu của các cơng trình
khoa học khác đƣợc sử dụng trong luận văn này đều đƣợc giữ ngun ý tƣởng và
đƣợc trích dẫn phù hợp.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 17 tháng 7 năm 2017.
Sinh viên thực hiện

Phạm Thị Ngọc Nhất


LỜI CÁM ƠN

Lời đầu tiên, tác giả xin gửi lời cám ơn chân thành đến quý Thầy Cô trƣờng
Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh đã dạy dỗ, truyền đạt kiến thức cho tác giả trong
thời gian qua.
Tác giả xin gửi lời cám ơn sâu sắc đến Ths. Đặng Quốc Chƣơng đã tận tình
hƣớng dẫn và giúp đỡ tác giả trong suốt q trình nghiên cứu và hồn thành khóa

luận.
Do hạn chế về trình độ nghiên cứu nên chắc chắn khóa luận cịn rất nhiều
thiếu sót, kính mong nhận đƣợc sự đóng góp ý kiến từ phía thầy cơ và các bạn. Tác
giả xin chân thành cám ơn!


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƢỢC VIẾT TẮT

BKS

Ban kiểm sốt

CTCP

Cơng ty cổ phần

CTĐC

Cơng ty đại chúng

ĐHĐCĐ

Đại hội đồng cổ đông

GĐ/TGĐ

Giám đốc/Tổng giám đốc


HĐTV

Hội đồng thành viên

HĐQT

Hội đồng quản trị

LDN 2014

Luật Doanh nghiệp năm 2014

Ngƣời QLCT

Ngƣời quản lý công ty

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................................6
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MỐI QUAN HỆ
PHÁP LÝ GIỮA CHỦ SỞ HỮU VÀ NGƢỜI QUẢN LÝ CÔNG TY ...............6
1.1 Khái quát chung về chủ sở hữu công ty .........................................................6
1.1.1 Khái niệm chủ sở hữu công ty ..............................................................6
1.1.2 Đặc điểm của chủ sở hữu công ty .........................................................8

1.2 Khái quát chung về người quản lý công ty ..................................................10
1.2.1 Khái niệm ngƣời quản lý công ty........................................................10
1.2.2 Đặc điểm ngƣời quản lý công ty .........................................................13
1.3 Xác định mối quan hệ giữa chủ sở hữu và người quản lý công ty dưới góc
độ quản trị cơng ty..............................................................................................15
1.3.1 Mối quan hệ giữa ngƣời quản lý và công ty .......................................16
1.3.2 Mối quan hệ giữa chủ sở hữu và ngƣời quản lý công ty.....................18
CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VỀ MỐI QUAN
HỆ GIỮA CHỦ SỞ HỮU VÀ NGƢỜI QUẢN LÝ CÔNG TY – THỰC
TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ ....................................................................................21
2.1 Thực trạng pháp luật về mối quan hệ pháp lý giữa chủ sở hữu và người
quản lý công ty ...................................................................................................21
2.1.1 Chủ sở hữu công ty trong quan hệ hình thành ngƣời quản lý cơng ty 21
2.1.2 Chủ sở hữu công ty trong quan hệ giám sát ngƣời quản lý công ty ...25
2.1.3 Chủ sở hữu công ty trong quan hệ khởi kiện ngƣời quản lý công ty ..33
2.1.4 Nghĩa vụ của ngƣời quản lý trong mối quan hệ với chủ sở hữu công ty
......................................................................................................................37
2.1.5 Nghĩa vụ của chủ sở hữu trong mối quan hệ với ngƣời quản lý công ty
......................................................................................................................42
2.2 Một số kiếm nghị về mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý công ty
theo Luật doanh nghiệp ......................................................................................44
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, số lƣợng doanh
nghiệp tại Việt Nam tăng lên một cách đáng kể. Cổng thông tin đăng ký doanh
nghiệp quốc gia đã tiến hành cập nhật số liệu về tình hình đăng ký doanh nghiệp tại
Việt Nam vào năm 2016 cho thấy: tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh

nghiệp quay trở lại hoạt động (gia nhập và gia nhập lại thị trƣờng) của cả nƣớc là
136.789 doanh nghiệp, trong đó, số doanh nghiệp thành lập mới đạt kỷ lục với
110.100 doanh nghiệp và số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động là 26.689 doanh
nghiệp1. Đây là một tín hiệu đáng mừng đối với nền kinh tế, tuy nhiên, số lƣợng
doanh nghiệp đƣợc thành lập nhiều nhƣng hiệu quả hoạt động lại không cao. Bộ Kế
hoạch và Đầu tƣ cho biết, tổng số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, chờ giải thể
và phá sản trong năm 2016 vào khoảng 73.000 doanh nghiệp, trong đó, số doanh
nghiệp lâm vào cảnh khó khăn, phải tạm ngừng hoạt động có thời hạn và không thời
hạn là 60.600 doanh nghiệp, số doanh nghiệp phá sản là 12.478 doanh nghiệp2. Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên và một trong những ngun nhân đó liên
quan đến vấn đề quản trị công ty hay là mối quan hệ giữa chủ sở hữu và ngƣời
ngƣời quản lý công ty (QLCT).
Hoạt động kinh doanh muốn thực hiện một cách hiệu quả phụ thuộc rất lớn vào
vai trò của ngƣời QLCT và cơ chế kiểm soát quản trị để điều hịa lợi ích giữa chủ sở
hữu và ngƣời quản lý trong công ty. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp vẫn chƣa đánh
giá đúng vai trò quan trọng của mối quan hệ này nên có những hành động sai lầm
dẫn đến tình trạng tạm ngừng hoạt động, chờ giải thể hoặc phá sản. Đối với những
loại hình cơng ty có sự tách bạch một cách rõ ràng giữa “quyền của chủ sở hữu” và
“quyền của ngƣời quản lý” (nắm sở hữu nhƣng không quản lý hay nắm quản lý
nhƣng không sở hữu) nhƣ công ty cổ phần, đặc biệt là các công ty đại chúng mà các
cổ đông của công ty khơng hiểu rõ đƣợc mối quan hệ giữa mình và những ngƣời
quản lý cơng ty thì rất dễ dẫn đến sự “lạm quyền”, “chuyên quyền”, “trục lợi” của
ngƣời QLCT và với lẽ dĩ nhiên, ngƣời bị thiệt hại không ai khác chính là các cổ
đơng trong cơng ty. Do đó, hiểu biết đƣợc mối quan hệ giữa chủ sở hữu và ngƣời
QLCT là điều cần thiết và quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của công ty,
1

Xuân Thân, “Số lƣợng doanh nghiệp Việt tăng cao kỷ lục”, truy cập ngày 11/7/2017.
2
Mai Anh, “Năm 2016, hơn 73.000 doanh nghiệp ngừng hoạt động, phá sản”, />truy

cập
ngày
11/7/2017.

1


bởi nếu hiểu rõ về vấn đề này không những giúp các chủ hữu có thể tự bảo vệ mình
mà cịn tránh đƣợc những thiệt hại cho cơng ty do ngƣời quản lý công ty gây ra
trong tƣơng lai.
Để giải quyết vấn đề này, Luật Doanh nghiệp 2014 ra đời đánh dấu sự phát triển
của pháp luật công ty Việt Nam và góp phần tích cực trong việc tạo lập môi trƣờng
thuận lợi cho hoạt động đầu tƣ kinh doanh, đặc biệt là đã hồn thiện những thiếu sót
của Luật Doanh nghiệp 2005 nhằm giải quyết tốt hơn mối quan hệ pháp lý giữa chủ
sở hữu và ngƣời quản lý công ty. Tuy nhiên, việc áp dụng những quy định này trên
thực tế cịn nhiều thiếu sót, bất cập, các chủ sở hữu vẫn chƣa vận dụng đƣợc các
quy định của pháp luật để bảo vệ lợi ích của mình. Thiết nghĩ, vấn đề này cần thiết
phải đƣợc nghiên cứu nhằm mục đích nâng cao tính hiệu quả của những quy định
pháp luật cũng nhƣ giúp các chủ sở hữu vận dụng các quy định của pháp luật nhƣ là
một cơng cụ hữu hiệu để bảo vệ lợi ích của mình và của cơng ty. Nhận thức đƣợc
tầm quan trọng của vấn đề trên, tác giả thực hiện Luận văn tốt nghiệp với đề tài
“Mối quan hệ pháp lý giữa chủ sở hữu và người quản lý công ty theo Luật
Doanh nghiệp 2014”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khi khảo sát tình hình nghiên cứu đề tài, tác giả nhận thấy rằng: khóa luận này
khơng phải là đề tài đầu tiên nghiên cứu những khía cạnh về mối quan hệ pháp lý
giữa chủ sở hữu và ngƣời quản lý công ty. Đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu
về những vấn đề này ở các mức độ, góc độ khác nhau, có thể kể đến nhƣ: Luận văn
Thạc sỹ Luật học năm 2009 “Bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần – So
sánh giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật Vương quốc Anh” của tác giả Nguyễn

Hoàng Thùy Trang; Luận văn Thạc sỹ Luật học năm 2009 “Người quản lý công ty –
Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong pháp luật Việt Nam” của tác giả Huỳnh Đỗ
Phƣơng Anh; Luận văn Thạc sỹ Luật học năm 2010 “Nghĩa vụ của người quản lý
công ty theo Luật Doanh nghiệp 2005 – Thực trạng và hướng hoàn thiện” của tác
giả Nguyễn Thị Thái Vân; Luận văn Thạc sỹ Luật học năm 2011 “Kiểm soát giao
dịch tư lợi của người quản lý công ty theo Luật Doanh nghiệp 2005” của tác giả Lý
Đặng Thƣ; Luận văn Cử nhân Luật học năm 2009 “Pháp luật về bảo vệ quyền lợi
cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần” của tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng; Luận
văn Cử nhân Luật học năm 2012 “Pháp luật bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số
trong công ty cổ phần ở Việt Nam” của tác giả Trƣơng Thị Hồng Hoa; Luận văn Cử
nhân Luật học năm 2014 “Mối quan hệ pháp lý giữa cổ đông và người quản lý công
ty theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Đinh Thị Xuân Ý.
2


Bên cạnh đó cịn có các bài viết, bình luận liên quan đến chủ sở hữu cũng nhƣ
ngƣời quản lý cơng ty trên các tạp chí chun ngành và các trang trên mạng thông
tin điện tử. Các nghiên cứu đáng chú ý nhƣ các bài viết của tác giả Bùi Xuân Hải:
“Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật cơng ty Việt Nam” đăng trên
Tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2007, “Bảo vệ cổ đông: mấy vấn đề lý luận và thực
tiễn trong Luật Doanh nghiệp 2005” đăng trên Tạp chí Khoa học số 1/2009. Ngồi
ra cịn có bài viết “Trách nhiệm “người quản lý” theo luật cơng ty Việt Nam” đăng
trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 04/2014 của tác giả Lê Đức Nghĩa.
Bản thân tác giả xin tiếp thu những thành quả đó để tiếp tục nghiên cứu và có
thêm những đóng góp hữu ích về vấn đề này. Mặc dù, các nghiên cứu trên có đề cập
đến các khía cạnh trong mối quan hệ giữa chủ sở hữu và ngƣời quản lý công ty
nhƣng chỉ là một phần rất nhỏ hoặc nếu có nghiên cứu về mối quan hệ pháp lý giữa
chủ sở hữu và ngƣời quản lý cơng ty thì cũng chỉ mới dừng lại ở mức độ khái quát,
trong phạm vi các quy định của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam, chƣa có sự so
sánh với các văn bản pháp luật của nƣớc ngoài và tất cả đều sử dụng Luật Doanh

nghiệp 2005. Do đó, tác giả muốn nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống cơ sở pháp
lý, những vấn đề lý luận và thực tiễn, từ đó, có so sánh với pháp luật một số nƣớc,
tiếp thu những điểm tiến bộ của họ để đƣa ra những giải pháp nhằm hạn chế những
bất cập, giúp những quy định của pháp luật có tính thực thi trên thực tế.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích của đề tài này là nhằm nghiên cứu, tìm hiểu một cách có hệ thống
những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến chủ sở hữu và ngƣời quản lý công ty
cũng nhƣ mối quan hệ pháp lý giữa chủ sở hữu và ngƣời quản lý công ty theo Luật
Doanh nghiệp 2014. Trên cơ sở đó, so sánh với các quy định pháp luật của một số
nƣớc, tiếp thu những điểm tiến bộ của họ, từ đó đƣa ra những kiến nghị để hoàn
thiện pháp luật về mối quan hệ giữa chủ sở hữu và ngƣời quản lý công ty.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Tác giả tập trung nghiên cứu về mặt bản chất của mối quan hệ pháp lý giữa
chủ sở hữu và ngƣời quản lý trong công ty theo pháp luật doanh nghiệp hiện hành.
Từ đó, tác giả đƣa ra những phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật doanh
nghiệp liên quan đến vấn đề này này nhằm đề xuất những định hƣớng để hoàn thiện
pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa chủ sở hữu và ngƣời quản lý công ty.

3


4.2 Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận chỉ tập trung phân tích các quy định của Luật Doanh nghiệp 2014
về mối quan hệ giữa chủ sở hữu và ngƣời quản lý cơng ty. Bên cạnh đó, cịn có sự
đối chiếu với Luật Doanh nghiệp 2005 để thấy đƣợc những điểm mới và tiến bộ của
Luật Doanh nghiệp 2014, bên cạnh đó, cịn có sự so sánh với pháp luật một số quốc
gia trên thế giới nhƣ là Anh, Mỹ nhằm đề xuất hƣớng tiếp thu một cách phù hợp.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả đã sử dụng các phƣơng pháp

nghiên cứu chủ yếu, đó là thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu dựa trên
nền tảng tƣ duy của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử của
khoa học Mác – Lê Nin. Việc sử dụng linh hoạt và phù hợp những phƣơng pháp
nghiên cứu trên đối với những nội dung cụ thể nhằm có đƣợc một cái nhìn đa chiều,
tổng thể, thích hợp về vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1 Ý nghĩa khoa học
Luận văn đã nghiên cứu tƣơng đối đầy đủ cơ sở lý luận và thực trạng áp
dụng pháp luật về mối quan hệ giữa chủ sở hữu và ngƣời quản lý công ty theo pháp
luật doanh nghiệp Việt Nam, bên cạnh đó, luận văn đã đƣa ra một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến việc điều chỉnh mối quan hệ giữa
chủ sở hữu và ngƣời quản lý công ty.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Những nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể đƣợc sử dụng làm
tài liệu tham khảo cho những ngƣời làm công tác khoa học, các nhà quản lý doanh
nghiệp, các nhà đầu tƣ tƣơng lai trong công ty cổ phần và đặc biệt là sinh viên các
trƣờng có chun ngành luật.
Ngồi ra, một số kiến nghị đƣợc nêu ra trong luận văn có ý nghĩa nhất định
trong việc hồn thiện cơ chế kiểm soát quản trị trong các doanh nghiệp, nâng cao
vai trị của Ban kiểm sốt, hạn chế những rủi ro khơng đáng có cho cơng ty do
ngƣời quản lý công ty gây ra.

4


7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có hai
chƣơng:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về mối quan hệ pháp lý giữa chủ sở
hữu và ngƣời quản lý công ty.

Chƣơng 2: Pháp luật doanh nghiệp Việt Nam về mối quan hệ giữa chủ sở hữu
và ngƣời quản lý công ty – Thực trạng và kiến nghị.

5


PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MỐI QUAN HỆ
PHÁP LÝ GIỮA CHỦ SỞ HỮU VÀ NGƢỜI QUẢN LÝ CÔNG TY
1.1 Khái quát chung về chủ sở hữu công ty
1.1.1 Khái niệm chủ sở hữu cơng ty
Quyền sở hữu có nguồn gốc từ sâu xa và đƣợc xem là một trong những quyền
cơ bản và quan trọng trong đời sống xã hội cũng nhƣ nền kinh tế. Quyền sở hữu
thƣờng gắn liền với một số chủ thể nhất định, đó là chủ sở hữu và nó đƣợc xác định
dƣới nhiều góc độ khác nhau. Dƣới góc độ kinh tế, có quan điểm cho rằng, quyền
sở hữu là quyền của một chủ sở hữu sử dụng hàng hoá hoặc tài sản để tiêu dùng và
hoặc tạo thu nhập; nó cũng có thể bao gồm quyền chuyển giao chính nó cho bên
khác, dƣới hình thức bán, quà tặng, hoặc thừa kế và đồng thời chuyển tải quyền ký
hợp đồng3. Dƣới góc độ pháp luật dân sự lại có quan điển cho rằng, quyền sở hữu
theo nghĩa rộng bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản; theo
nghĩa hẹp, quyền sở hữu chỉ mức độ xử sự mà pháp luật cho phép một chủ sở hữu
đƣợc thực hiện các quyền năng của mình4. Hay theo một học thuyết cổ điển về
quyền sở hữu, quyền sở hữu là một quyền có sự kết hợp thống nhất và chặt chẽ giữa
ba quyền: quyền chiếm hữu quản lý, quyền sử dụng và quyền định đoạt; học thuyết
này nhấn mạnh đến tính thống nhất và sự tồn tại kết hợp khơng thể phân chia của cả
ba quyền thành tố5. Nhƣ vậy, vẫn chƣa có khái niệm thống nhất về quyền sở hữu mà
khái niệm quyền sở hữu chỉ đƣợc làm rõ ở một số khía cạnh khác nhau.
Theo Từ điển Black's Law thì “Chủ sở hữu doanh nghiệp là một cá nhân sở
hữu và điều hành một doanh nghiệp dù nó là nhỏ hay lớn”6. Pháp luật doanh nghiệp

Việt Nam cũng có quy định “Góp vốn là việc đƣa tài sản vào công ty để trở thành
chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của cơng ty”7, qua đó có thể thấy rằng để trở
thành chủ sở hữu công ty thì ngƣời đó phải thực hiện hành động góp vốn tức là đƣa
tài sản vào công ty để tạo thành vốn điều lệ của cơng ty, tức là có sự chuyển quyền
sở hữu, từ tài sản của chủ sở hữu sang tài sản của cơng ty. Tài sản sản góp vốn có
3

Dani Rodrik, Mark Rosenzweig (editor) (2010), Handbook of Development Economics (Volume 5),
Elsevier, tr. 26.
4
Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật Dân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia, tr. 109.
5
Hà Thị Thanh Bình (2013), Sự phân tách giữa quyền sở hữu và quản lý, điều hành trong công ty đại chúng,
Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp trƣờng, Trƣờng Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr. 30.
6
Business Owner: “An individual who owns and operates a business whether it be small or large.”
7
Khoản 4 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2005.

6


thể là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất,
giá trị quyền sở hữu trí tuệ, cơng nghệ, bí quyết kỹ thuật và các tài sản khác có thể
định giá đƣợc bằng đồng Việt Nam8. Bên cạnh đó cịn có quy định rằng: Chủ sở hữu
là: (a) các cổ đông (đối với các tổ chức tín dụng thành lập dƣới hình thức cơng ty cổ
phần); (b) thành viên tham gia góp vốn (đối với tổ chức tín dụng đƣợc thành lập
dƣới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn)9. Nhƣ vậy, chủ sở hữu công ty là chủ
thể nắm quyền sở hữu công ty, quyền sở hữu này thể hiện bằng việc thành lập nên

cơng ty hoặc thực hiện việc góp vốn hoặc mua cổ phần, tự mình hoặc thuê ngƣời
quản lý điều hành cơng ty và có quyền định đoạt cơng ty thơng qua phần vốn góp
của mình.
Trong cơng ty hợp danh, thành viên hợp danh là các chủ sở hữu chung của
công ty, cụ thể là từ hai thành viên trở lên cùng nhau thành lập nên công ty và cùng
nhau kinh doanh dƣới một tên chung10. Đối tƣợng để trở thành thành viên hợp danh
chỉ có thể là cá nhân mà không thể là tổ chức và không thuộc các trƣờng hợp bị cấm
thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam. Điều đặc biệt của công ty hợp
danh so với loại hình cơng ty TNHH và CTCP là thành viên hợp danh phải chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty.
Chủ sở hữu của công ty TNHH hai thành viên trở lên là tất cả các thành viên
góp vốn vào công ty, số lƣợng thành viên không vƣợt quá 50 ngƣời, có thể là tổ
chức hoặc cá nhân và chủ sở hữu thực hiện quyền sở hữu của mình thông qua cơ
quan đại diện là Hội đồng thành viên – cơ quan quyết định cao nhất của công ty.
Cách thức xác lập tƣ cách thành viên bao gồm: một là, pháp nhân hoặc cá nhân có
thể trở thành thành viên công ty bằng việc đứng ra thành lập công ty với tƣ cách là
thành viên sáng lập công ty; hai là, pháp nhân, cá nhân có thể mua lại phần vốn góp
của thành viên cơng ty TNHH hai thành viên trở lên; ba là, có thể trở thành thành
viên thơng qua việc góp vốn vào cơng ty khi cơng ty tăng thêm vốn điều lệ bằng
cách kêu gọi vốn góp từ các tổ chức, cá nhân bên ngồi; bốn là, trở thành thành viên
thông qua việc đƣợc thừa kế phần vốn góp của thành viên là cá nhân chết11.
Cịn công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một
cá nhân làm chủ sở hữu, vốn điều lệ công ty do chủ sở hữu cam kết góp vào và chủ
sở hữu có tồn quyền quyết định hoạt động kinh doanh của công ty. Cơ cấu tổ chức
8

Khoản 1 Điều 35 LDN 2014.
Khoản 2 Điều 3 Thông tƣ 34/2011/TT-NHNN.
10
Khoản 1 Điều 172 LDN 2014.

11
Trƣờng ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Pháp luật về chủ thể kinh doanh, NXB Hồng Đức,
tr.179.
9

7


quản lý của cơng ty TNHH sẽ có độ phức tạp khác nhau tùy theo chủ sở hữu là cá
nhân hay tổ chức.
Trong CTCP, vốn điều lệ đƣợc chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần, ngƣời nắm cổ phần đƣợc gọi là cổ đông, họ đƣợc coi là ngƣời sở hữu công
ty12 và thực hiện quyền sở hữu của mình thơng qua cơ quan đại diện là ĐHĐCĐ –
cơ quan quyết định cao nhất của CTCP. Cổ đông CTCP có thể là tổ chức hoặc cá
nhân, tổ chức phải có tƣ cách chủ thể của pháp luật sở hữu mới có thể trở thành cổ
đơng. Tƣ cách cổ đơng của tổ chức, cá nhân có thể đƣợc xác lập trong các trƣờng
hợp: (1) tổ chức, cá nhân đăng ký và mua cổ phần khi công ty đƣợc thành lập; (2) tổ
chức, cá nhân mua cổ phần do công ty chào bán trong phạm vi cổ phần đƣợc quyền
chào bán; (3) tổ chức, cá nhân nhận chuyển nhƣợng cổ phần từ cổ đông của công ty;
(4) tổ chức, cá nhân thừa kế cổ phần thuộc di sản của ngƣời để lại thừa kế; (5) tổ
chức, cá nhân đƣợc cổ đông của công ty tặng, cho cổ phần; (6) tổ chức, cá nhân
mua cổ phần đƣợc bán đấu giá để thi hành án13.
Các chủ sở hữu thực hiện quyền sở hữu của mình trên cơ sở quy định của
pháp luật và Điều lệ công ty. Nhƣ vậy, chủ sở hữu là những ngƣời đặt nền móng
đầu tiên cho sự tồn tại và phát triển của cơng ty cũng nhƣ đóng vai trị quyết định
đối với cơng ty, tuy nhiên, mức độ sở hữu cơng ty, các quyền, lợi ích, nghĩa vụ của
chủ sở hữu tƣơng ứng với giá trị phần vốn góp hoặc đƣợc biểu hiện cụ thể bằng số
lƣợng cổ phần mà cổ đông sở hữu.
1.1.2 Đặc điểm của chủ sở hữu công ty
Dựa vào quy định của pháp luật về chủ sở hữu công ty cũng nhƣ những phân

tích ở trên thì chủ sở hữu cơng ty có một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, chủ sở hữu là những tổ chức hoặc cá nhân có góp vốn để thành lập
hoặc tham gia thành lập công ty. Đây là đặc điểm cơ bản nhất để phân biệt chủ sở
hữu và các thành viên khác trong công ty và thể hiện đúng nhất bản chất của chủ sở
hữu. Công ty khơng thể tự mình hình thành và hoạt động mà nó phải đƣợc thành lập
nên bởi một hoặc một số chủ thể nhất định, chủ thể này sẽ thực hiện hành vi góp
vốn, chuyển tài sản của mình thành tài sản của cơng ty vì cơng ty là một pháp nhân
nên cần có sự độc lập về mặt tài sản, tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó và chủ thể
này khơng ai khác chính là chủ sở hữu công ty. Chủ sở hữu công ty, đặc biệt là cổ
12

Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009), Cơng ty, vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật doanh
nghiệp 2005, NXB Tri Thức, tr. 153.
13
Trƣờng Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2013), tlđd, tr. 243.

8


đông thƣờng hay bị nhầm lẫn với nhà đầu tƣ. Các chủ sở hữu có thể là những nhà
đầu tƣ thuần túy nhằm tìm kiếm lợi nhuận nhƣng khơng phải nhà đầu tƣ nào cũng
đƣợc xem là chủ sở hữu công ty. Nhà đầu tƣ là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động
đầu tƣ kinh doanh14. Mà hoạt động đầu tƣ kinh doanh đƣợc xác định là việc nhà đầu
tƣ bỏ vốn đầu tƣ để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ
chức kinh tế; đầu tƣ góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu
tƣ theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tƣ15. Nhƣ vậy, nhà đầu tƣ có
phạm vi rộng hơn chủ sở hữu, có trƣờng hợp nó là chủ sở hữu nhƣng có trƣờng hợp
lại không phải. Trong trƣờng hợp, các nhà đầu tƣ chỉ thực hiện dự án đầu tƣ thông
qua hợp đồng hợp tác kinh doanh mà khơng cần phải góp vốn thành lập cơng ty để
thực hiện dự án thì lúc này nhà đầu tƣ không mang tƣ cách chủ sở hữu cơng ty. Góp

vốn, mua cổ phần đƣợc coi là một trong số các hình thức đầu tƣ tại Việt Nam. Do
đó, nhà đầu tƣ muốn trở thành chủ sở hữu cơng ty thì phải thơng qua việc thành lập
hoặc đầu tƣ vốn góp, mua cổ phần, phần vốn góp của cơng ty để xác lập tƣ cách của
chủ sở hữu và phải đáp ứng các điều kiện là khơng thuộc trƣờng hợp pháp luật cấm
thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của doanh nghiệp.
Thứ hai, chủ sở hữu cơng ty có quyền định đoạt phần vốn góp của mình. Chủ
sở hữu cơng ty TNHH hai thành viên trở lên có quyền định đoạt phần vốn góp của
mình bằng cách chuyển nhƣợng một phần hoặc tồn bộ phần vốn góp mà mình sở
hữu cho chủ thể khác16 . Cịn đối với CTCP, cổ đơng đƣợc tự do chuyển nhƣợng,
tặng, cho hoặc để lại thừa kế cổ phần của mình cho ngƣời khác, trừ cổ đơng sáng
lập muốn chuyển nhƣợng thì phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp
luật về doanh nghiệp. Đây là quyền đặc trƣng của chủ sở hữu và chỉ có chủ sở hữu
mới có đƣợc, cịn ngƣời QLCT chỉ có thể nhân danh cơng ty sử dụng tài sản của
công ty để thực hiện hoạt động kinh doanh chứ khơng có quyền định đoạt đối với
tài sản đó.
Thứ ba, để trở thành chủ sở hữu cơng ty thì cá nhân và tổ chức phải đáp ứng
những quy định của pháp luật doanh nghiệp. Trƣớc hết, chủ sở hữu phải đáp ứng
những điều kiện cơ bản về nhân thân nhƣ về độ tuổi và trình độ nhận thức. Chủ sở
hữu phải thành niên và không thuộc trƣờng hợp bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
hoặc mất năng lực hành vi dân sự đối với cá nhân còn đối với tổ chức thì phải có tƣ
cách pháp nhân. Bên cạnh đó, chủ sở hữu khơng đƣợc thuộc các trƣờng hợp mà
pháp luật cấm thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào cơng ty cổ
14

Khoản 13 Điều 3 Luật Đầu tƣ 2014.
Khoản 5 Điều 3 Luật Đầu tƣ 2014.
16
Khoản 6 Điều 50 LDN 2014.
15


9


phần, công ty TNHH, công ty hợp danh theo quy định tại Luật doanh nghiệp 2014.
Ngồi ra, Điều lệ cơng ty có thể quy định thêm những điều kiện khác để một cá
nhân đƣợc trở thành chủ sở hữu công ty nhƣng không đƣợc trái với những quy định
của pháp luật về doanh nghiệp.
Thứ tƣ, quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu đƣợc quy định theo pháp luật doanh
nghiệp. Chủ sở hữu có các quyền nhƣ biểu quyết đối với những vấn đề quan trọng
của công ty, đƣợc chia lợi nhuận, tự do định đoạt phần vốn góp của mình, có quyền
bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm ngƣời QLCT. Bên cạnh đó, chủ sở hữu phải có những
nghĩa vụ nhƣ góp đủ, đúng hạn số vốn đã cam kết, chịu trách nhiệm về các khoản
nợ và thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật doanh nghiệp. Đây là
những quyền và nghĩa vụ cơ bản của chủ sở hữu đƣợc phát luật về doanh nghiệp
quy định một cách rõ ràng và cụ thể. Ngoài ra, quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu
còn đƣợc quy định trong Điều lệ cơng ty. Tùy vào tính chất và lĩnh vực cơng ty hoạt
động mà Điều lệ cơng ty có thể bổ sung thêm một số quyền hạn cho chủ sở hữu
hoặc ràng buộc thêm nghĩa vụ nhƣng không đƣợc trái với các quy định của Luật
doanh nghiệp.
1.2 Khái quát chung về ngƣời quản lý công ty
1.2.1 Khái niệm người quản lý công ty
Quản lý là một hoạt động quan trọng diễn ra trong nhiều lĩnh vực của đời sống
xã hội. Khái niệm này đƣợc giải thích theo nhiều góc độ khác nhau. Theo Từ điển
Tiếng việt, quản lý là “tổ chức, điều khiển hoạt động của một số đơn vị, cơ quan”17.
Trên phƣơng diện nghiên cứu về con ngƣời và xã hội thì Các Mác cho rằng “Bất kỳ
lao động xã hội hay lao động chung nếu điều hành trên quy mơ khá lớn đều u cầu
phải có sự quản lý để điều khiển, điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện
những công việc chung”18, Ănghen cũng cho rằng “Quản lý là tất yếu khi nhiều
ngƣời cùng hoạt động chung với nhau, khi có sự tác nghiệp của một số ngƣời, khi
có sự phối hợp của nhiều ngƣời”19. Theo Từ điển Luật học thì “Quản lý là làm cho

các hoạt động, tƣ duy của từng ngƣời riêng lẻ và hoạt động của các tổ chức, các cơ
chế trong doanh nghiệp cùng hành động phù hợp với mục đích sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp nhằm đạt hiệu quả tốt nhất”20. Theo Nguyễn Ngọc Bích và
Nguyễn Đình Cung, quản lý điều hành trong cơng ty là q trình đạt đƣợc các mục
tiêu của tổ chức kinh doanh bằng cách kết hợp tối ƣu các nguồn lực con ngƣời, vật
17

Từ điển Tiếng việt, Nxb Chính trị Quốc gia.
Mác Ănghen Tồn tập (1960), Nxb Sự thật, Hà Nội.
19
Mác Ănghen, Tlđd, tập 18.
20
Từ điển Luật học (1999), Nxb Từ điển Bách khoa Hà Nội, tr. 633.
18

10


chất, tài chính21. Nhƣ vậy, có thể hiểu quản lý cơng ty là việc tổ chức, điều khiển,
tác động có chủ đích của chủ thể quản lý đối với đối tƣợng đƣợc quản lý trong công
ty nhằm vận hành các đối tƣợng này theo mục đích sản xuất kinh doanh của công ty
và đáp ứng các quy định của pháp luật nhằm tìm kiếm lợi nhuận.
Mặc dù khái niệm quản lý vẫn chƣa có sự thống nhất, nhƣng nhìn chung hoạt
động quản lý đƣợc cấu thành từ nhiều yếu tố, đó là chủ thể quản lý, khách thể quản
lý, mục đích quản lý, mơi trƣờng và điều kiện tổ chức22. Trong đó, chủ thể quản lý
là nhân tố vơ cùng quan trọng góp phần tạo nên hiệu quả của hoạt động quản lý, đặc
biệt là trong các tổ chức kinh tế nói chung và cơng ty nói riêng. Trong trƣờng hợp
này, chủ thể quản lý chính là ngƣời quản lý cơng ty (ngƣời QLCT). Chủ thể này có
vai trị rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của công ty, là yếu tố hàng đầu
giúp các công ty đứng vững, có khả năng cạnh tranh với các cơng ty khác và “chèo

lái” con thuyền doanh nghiệp đi đúng hƣớng nhằm thực hiện mục tiêu của hoạt
động kinh doanh là tìm kiếm lợi nhuận. Do đó, khái niệm ngƣời QLCT là một trong
những nội dung quan trọng đƣợc quy định trong pháp luật về công ty của hầu hết
các quốc gia. Trong pháp luật doanh nghiệp Việt Nam, ngƣời QLCT đƣợc quy định:
“Người quản lý doanh nghiệp là người quản lý công ty và người quản lý doanh
nghiệp tư nhân, bao gồm chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, Chủ tịch
Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch
Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và
cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh cơng ty ký kết giao
dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty”23.
Từ quy định trên cho thấy ngƣời QLCT đƣợc xác định nhƣ sau: ngƣời quản
lý của công ty hợp danh bao gồm tất cả các thành viên hợp danh; trong cơng ty
TNHH thì ngƣời QLCT là Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành
viên, GĐ/TGĐ và cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh
công ty ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ cơng ty; trong CTCP
thì ngƣời QLCT là Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên HĐQT, GĐ/TGĐ và cá
nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh cơng ty ký kết giao dịch
của công ty theo quy định tại Điều lệ cơng ty. Qua đó cho thấy, pháp luật doanh
nghiệp Việt Nam xác định ngƣời QLCT chủ yếu dựa vào chức danh mà ngƣời đó
21

Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009), tlđd, tr.277.
Nguồn Doanh nhân 360, “Lí thuyết quản lý – Quản lý là gì? Sự thống nhất hồn hảo giữa lý luận và thực
tiễn”.
Nguồn từ: o/vn/Tin-tuc/Ly-thuyet-quan-ly/34-Quan-ly-la-gi-Su-thong-nhat-hoanhao-giua-ly-luan-va-thuc-tien.aspx. Truy cập ngày 10/06/2017.
23
Khoản 18 Điều 4 LDN 2014.
22

11



nắm giữ. Khác với pháp luật doanh nghiệp Việt Nam, trong luật công ty của các
nƣớc theo truyền thống common law nhƣ Anh, Mỹ, Úc, Canada, pháp luật công ty
của họ xác định ngƣời QLCT không chỉ đơn thuần dựa vào chức danh mà ngƣời đó
nắm giữ mà căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ mà ngƣời đó đảm nhiệm. Theo pháp
luật của các nƣớc theo mơ hình Anh – Mỹ thì Giám đốc cơng ty đƣợc hiểu là tất cả
những ai (i) là thành viên của Hội đồng giám đốc (Board of Directors) hay (ii) là
ngƣời mà giữ vị trí (occupying) hoặc thực hiện vai trị (acting) trong vị trí của một
GĐ (the position of director) bất luận chức danh của họ đƣợc gọi là gì, hoặc (iii) là
ngƣời đƣa ra các chỉ đạo (directions) để các GĐ làm theo24. Nhƣ vậy, khái niệm
ngƣời quản lý công ty trong pháp luật của các nƣớc theo mơ hình Anh – Mỹ đƣợc
hiểu khá rộng, không chỉ bao gồm những ngƣời có chức danh quản lý mà cịn bao
gồm cả những ngƣời khơng đƣợc chỉ định chính thức làm ngƣời quản lý cơng ty.
Trong hoạt động xét xử, các Tịa án xác định ai là ngƣời quản lý công ty theo chức
năng, cơng việc mà ngƣời đó làm chứ khơng phải chỉ theo chức danh, vì thế, một
ngƣời khơng đƣợc bổ nhiệm chính thức làm GĐ vẫn có thể bị Tịa án coi là GĐ và
phải chịu trách nhiệm nhƣ GĐ, đấy là điểm khác biệt với phƣơng pháp xác định
ngƣời quản lý công ty của Luật doanh nghiệp Việt Nam25.
Mặc dù, LDN 2014 cũng quy định tƣơng tự nhƣ LDN 2005 trong việc xác
định ngƣời QLCT theo chức danh mà ngƣời đó nắm giữ, tuy nhiên, LDN 2014
dƣờng nhƣ đã quy định rõ hơn về điều kiện để xác định ngƣời quản lý khác của
cơng ty, theo đó, ngƣời quản lý khác của công ty đƣợc xác định là cá nhân và cá
nhân này phải có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết các giao dịch của công ty
theo quy định tại Điều lệ công ty. Cách quy định này của LDN 2014 bƣớc đầu quy
định về ngƣời quản lý thực tế của công ty, khi một cá nhân nào đó của cơng ty tuy
khơng giữ chức danh quản lý nhƣng lại thực hiện hoạt động quản lý, điều hành công
ty bằng cách nhân danh công ty ký kết các giao dịch của công ty theo quy định tại
Điều lệ cơng ty, hay có thể nói rằng họ đã thực hiện hoạt động trong vị trí, vai trị
của ngƣời QLCT thì cũng đƣợc xác định là ngƣời QLCT. Nhƣ vậy, mặc dù LDN

2014 vẫn chƣa quy định một cách rõ ràng ngƣời quản lý khác của công ty nhƣng
đây đƣợc coi là một quy định mở rộng của LDN 2014 so với LDN 2005 trong việc
xác định ngƣời QLCT, điều này là hoàn toàn phù hợp với nhu cầu của thực tiễn.
Bên cạnh đó, Luật doanh nghiệp Việt Nam khơng có quy định cơng ty phải
có nhiều GĐ hay nhiều TGĐ, do đó, các cơng ty ở Việt Nam thƣờng chỉ có một GĐ
24

Bùi Xuân Hải (2005), “Ngƣời quản lý cơng ty theo Luật Doanh nghiệp 1999 – Nhìn từ góc độ Luật so
sánh”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 04/2005, tr. 15.
25
Bùi Xuân Hải (2005), tlđd, tr. 15.

12


hoặc một TGĐ làm cho mức độ quản lý công ty không cao. Điều này khác với quy
định trong pháp luật của các quốc gia trên thế giới. Theo quy định Luật mẫu Công
ty kinh doanh Mỹ đƣợc sửa đổi năm 2002 (The Model Business Corporation Act,
MBCA) thì: hoạt động kinh doanh của công ty đƣợc quản lý bởi hay dƣới sự chỉ
đạo của một Hội đồng các giám đốc (A Board of Directors)26 hay theo Đạo luật
công ty Anh năm 2006 (The Companies Act 2006) thì hoạt động kinh doanh của
một công ty đại chúng đƣợc tiến hành theo sự quản lý bởi hay dƣới sự chỉ đạo của ít
nhất hai giám đốc27. Nhƣ vậy, theo pháp luật công ty Mỹ và Anh thì các giám đốc
chính là ngƣời QLCT và hoạt động quản lý công ty đƣợc thực hiện dƣới sự chỉ đạo
của nhiều GĐ.
Ngoài ra, trong luật công ty Anh, Mỹ, Úc và các nƣớc theo truyền thống
common law, khái niệm “giám đốc thực tế” (defactor director) và “giám đốc giấu
mặt” (shadow director) đã đƣợc quy định một cách cụ thể. Trong khi đó, pháp luật
doanh nghiệp Việt Nam lại khơng có quy định nào liên quan đến các vấn đề này.
Mặt khác, các Thẩm phán Việt Nam lại khơng có chức năng sáng tạo luật hay giải

thích pháp luật nhƣ các nƣớc common law nên trong nhiều trƣờng hợp các thẩm
phán đã lúng túng, không biết xử lý vấn đề nhƣ thế nào và nhƣ vậy đã gây khó khăn
trong việc bảo vệ quyền lợi cho chủ sở hữu, chủ nợ cũng nhƣ những ngƣời có liên
quan trong công ty.
1.2.2 Đặc điểm người quản lý công ty
Dựa vào quy định của pháp luật về ngƣời QLCT cũng nhƣ những phân tích ở
trên, ta có thể thấy ngƣời QLCT có một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, ngƣời quản lý công ty là cá nhân. Theo quy định của pháp luật
doanh nghiệp Việt Nam thì ngƣời QLCT là thành viên hợp danh, Chủ tịch Hội đồng
thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng
quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân
giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch của
công ty theo quy định tại Điều lệ cơng ty28. Qua đó cho thấy LDN 2014 quy định
ngƣời QLCT phải là cá nhân và khơng có điều luật nào quy định tổ chức có thể trở
thành ngƣời quản lý công ty. Đây cũng là một điểm khác biệt giữa pháp luật Việt
Nam với một số nƣớc khác khi họ thừa nhận pháp nhân cũng có thể trở thành ngƣời
QLCT. Cụ thể, luật của Pháp ngày 15/5/2001 (Luật NRE) cho phép pháp nhân có
26

Điều 8.01 Luật mẫu Công ty kinh doanh Mỹ (The Model Business Corporation Act).
Điều 154 Đạo luật công ty năm 2006 của Anh..
28
Khoản 18 Điều 4 LDN 2014.
27

13


thể trở thành thành viên của HĐQT tƣơng tự nhƣ đối với cá nhân, nhƣng chỉ với
một điều kiện: pháp nhân này phải cử một đại diện thƣờng trực tại trụ sở của công

ty và ngƣời này phải tuân thủ các điều kiện và chịu trách nhiệm tƣơng tự nhƣ một
thành viên HĐQT là thể nhân29. Luật công ty của Anh năm 2006 cũng cho phép GĐ
có thể là thể nhân (natural person director) và cả pháp nhân (corporate director) và
quy định mỗi cơng ty phải có ít nhất một GĐ là thể nhân30.
Thứ hai, ngƣời quản lý công ty phải đáp ứng các điều kiện và tiêu chuẩn theo
quy định của pháp luật về doanh nghiệp và Điều lệ công ty. Để trở thành ngƣời
QLCT phải đáp ứng các điều kiện và tiêu chuẩn theo quy định của LDN 2014.
Muốn trở thành ngƣời QLCT thì đầu tiên ngƣời đó phải không thuộc trƣờng hợp
không đƣợc quản lý công ty theo quy định tại khoản 2 Điều 18 LDN 2014 và nếu là
thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT) độc lập thì phải đáp ứng các tiêu chuẩn và
điều kiện nhƣ độc lập về mặt nhân thân, độc lập về mặt kinh tế đối với công ty, cụ
thể đƣợc quy định tại khoản 2 Điều 151 LDN 2014.
Ngoài ra, tiêu chuẩn và điều kiện của ngƣời QLCT còn phụ thuộc vào Điều lệ
của mỗi công ty. Các điều kiện trong pháp luật chỉ mới là những điều kiện tối thiểu,
trong Điều lệ cơng ty có thể quy định thêm những điều kiện khác mà ngƣời QLCT
phải đáp ứng và những quy định này phải phù hợp với LDN 2014. Trong những
cơng ty có hoạt động sản xuất kinh doanh bình thƣờng và khơng mang tính đặc thù
thì trong bản Điều lệ của công ty thƣờng không quy định cụ thể và chi tiết các tiêu
chuẩn để trở thành ngƣời QLCT. Cụ thể bản điều lệ của Công ty cổ phần sữa Việt
Nam (Vinamilk) tại khoản 1 điều 26 quy định về điều kiện và tiêu chuẩn bổ nhiệm
Tổng giám đốc thì chỉ quy định một cách khái quát rằng Tổng giám đốc không đƣợc
là ngƣời thuộc trƣờng hợp bị pháp luật cấm giữ chức vụ này và liệt kê ra những
trƣờng hợp những ngƣời không đƣợc làm ngƣời QLCT nhƣ các quy định của
LDN2014. Cịn những tổ chức có những hoạt động kinh doanh mang tính chất đặc
thù nhƣ cơng ty dƣợc phẩm hay ngân hàng thì bản Điều lệ của doanh nghiệp còn
quy định thêm những điều khoản cụ thể riêng biệt về tiêu chuẩn bổ nhiệm Tổng
giám đốc và các điều khoản này không những phải phù hợp với luật doanh nghiệp
mà còn phải phù hợp với các quy định của pháp luật chuyên ngành.
Thứ ba, quyền và nghĩa vụ của ngƣời quản lý công ty đƣợc ghi nhận trong
nhiều cơ sở pháp lý khác nhau. Để xác định quyền và nghĩa vụ của ngƣời QLCT,


29

Lê Minh Hiếu (2006), “Các loại hình doanh nghiệp phổ biến ở Pháp”, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số
5/2006, tr. 46-55.
30
Điều 155 Luật công ty năm 2006 của Anh.

14


trƣớc hết phải xem trong LDN 2014 và các văn bản hƣớng dẫn thi hành. Theo đó,
đối với cơng ty TNHH hai thành viên trở lên, quyền và nghĩa vụ đƣợc quy định tại
Điều 56 LDN 2014, đối với công ty cổ phần thì quyền của ngƣời QLCT đƣợc quy
định tại Điều 152 (đối với Chủ tịch HĐQT), khoản 3 Điều 157 (đối với GĐ/TGĐ)
và trách nhiệm của ngƣời QLCT đƣợc quy định tại Điều 160 LDN 2014. Đây là
những quy định chung mà các chủ thể khi tham gia quản lý cơng ty phải tn thủ,
chấp hành. Ngồi ra, quyền và nghĩa vụ của ngƣời QLCT còn đƣợc ghi nhận trong
các văn bản khác nhƣ Điều lệ công ty, quyết định bổ nhiệm đối với chức danh
ngƣời quản lý hoặc hợp đồng lao động trong trƣờng hợp thuê ngƣời QLCT.
Điều lệ công ty đƣợc xem nhƣ kim chỉ nam giúp cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty đƣợc đi đúng hƣớng và phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận.
Những quy định về quyền và nghĩa vụ của ngƣời QLCT trong Điều lệ không đƣợc
trái với những quy định trong LDN 2014 và các văn bản hƣớng dẫn thi hành. Thông
qua Điều lệ công ty, ngƣời QLCT biết đƣợc một cách rõ ràng quyền và nghĩa vụ của
mình đối với cơng ty, từ đó đem lại hiệu quả trong hoạt động quản lý. Trên thực tế,
trong trƣờng hợp ngƣời QLCT đƣợc thuê hoặc đƣợc bổ nhiệm, ngƣời QLCT với tƣ
cách là ngƣời lao động và công ty là ngƣời sử dụng lao động thì quyền và nghĩa vụ
của ngƣời QLCT còn đƣợc quy định trong hợp đồng lao động hoặc quyết định bổ
nhiệm. Những quy định trong hợp đồng thuê hoặc quyết định bổ nhiệm này không

đƣợc trái với những quy định của LDN 2014, các văn bản hƣớng dẫn thi hành và
điều lệ của công ty. Bên cạnh đó, cơng ty và ngƣời QLCT thơng qua hợp đồng lao
động có thể thỏa thuận bổ sung thêm một số quyền hoặc nghĩa vụ cho ngƣời QLCT
phù hợp với mục đích kinh doanh của cơng ty.
1.3 Xác định mối quan hệ giữa chủ sở hữu và ngƣời quản lý cơng ty dƣới góc
độ quản trị cơng ty
Ngun tắc tách bạch quyền sở hữu và quyền quản lý điều hành đƣợc xem nhƣ
nguyên tắc nền tảng trong lý thuyết quản trị công ty hiện đại. Theo nghĩa rộng nhất,
quản trị công ty đƣợc dùng để chỉ tất cả các quy định và quy tắc liên quan đến việc
thông qua quyết định của công ty. Tuy nhiên, theo nghĩa hẹp, thuật ngữ này đƣợc
dùng để ràng buộc trách nhiệm của ngƣời QLCT trong việc phục vụ lợi ích của các
cổ đông trong công ty, đặc biệt là các công ty đại chúng31. Hay nói cách khác, quản
trị cơng ty là vấn đề đƣợc dùng để giải quyết các vấn đề phát sinh từ sự tách bạch
trong mối quan hệ giữa chủ sở hữu và ngƣời QLCT. Do đó, để hiểu rõ hơn về mối
quan hệ này thì nên tìm hiểu nó dƣới góc độ quản trị cơng ty, cụ thể nhƣ sau:
31

Harwell Wells (2010), “The birth of corporate governance”, Seatle University Law Review, Vol.33, No.4,
tr. 1252.

15


1.3.1 Mối quan hệ giữa người quản lý và công ty
Theo Điều 1832 Bộ luật dân sự Pháp thì cơng ty do hai hay nhiều ngƣời
thành lập trên cơ sở thỏa thuận bằng hợp đồng, sử dụng tài sản hoặc cơng nghệ của
mình vào việc kinh doanh chung nhằm chia lãi hoặc thu lợi nhuận. Qua đó cho thấy
cơng ty là một thực thể pháp lý, nó khơng thể tự mình thành lập và hoạt động để tìm
kiếm lợi nhuận cho bản thân nó đƣợc mà điều đó đƣợc thực hiện thông qua những
con ngƣời cụ thể. Chủ sở hữu là ngƣời đã thành lập và giữ vai trò quan trọng trong

việc tồn tại của cơng ty, cịn ngƣời quản lý là chủ thể đại diện cho chủ sở hữu thực
hiện các hoạt động quản lý công việc kinh doanh của cơng ty nhằm tìm kiếm lợi
nhuận cho cơng ty cũng nhƣ cho chủ sở hữu.
Mối quan hệ giữa ngƣời quản lý và công ty mang bản chất là mối quan hệ
giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động, ngƣời QLCT là ngƣời lao động hay
ngƣời làm thuê đặc biệt trong cơng ty. Nói ngƣời QLCT là ngƣời lao động đặc biệt
bởi vì quy trình bầu, bổ nhiệm cũng nhƣ miễm nhiệm, bãi nhiệm ngƣời QLCT đƣợc
các quy định của pháp luật điều chỉnh. Pháp luật doanh nghiệp quy định bầu thành
viên HĐQT bằng phƣơng thức bầu dồn phiếu, nếu Điều lệ công ty không quy định
khác và cơ chế miễn nhiệm, bãi nhiệm cũng đƣợc quy định cụ thể trong trong pháp
luật doanh nghiệp và Điều lệ công ty chứ không hề đơn giản nhƣ việc thuê một
ngƣời lao động bình thƣờng trong cơng ty. Ngƣời QLCT cũng là một chủ thể đặc
biệt trong việc đại diện cho công ty thực hiện các giao dịch theo đúng mục tiêu hoạt
động mà cơng ty đề ra và có quyền sử dụng trực tiếp tài sản của công ty để thực
hiện hoạt động kinh doanh. Do đó, ngƣời QLCT mặc dù mang danh nghĩa là ngƣời
làm thuê cho công ty nhƣng lại có quyền hành rất lớn, ngƣời QLCT thực hiện quyền
và nghĩa vụ của mình thơng qua hoạt động của cơ quan HĐQT. HĐQT là cơ quan
quản lý của cơng ty, có tồn quyền nhân danh cơng ty để thực hiện các quyết định
của công ty theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty. Bên cạnh đó, chế độ thù
lao và các lợi ích khác của thành viên HĐQT cũng đƣợc pháp luật điều chỉnh, đây
là một vấn đề nhạy cảm cần tính tốn và cân nhắc, nếu thù lao thấp, sẽ không mang
lại động lực làm việc nhƣng nếu thù lao cao thì sẽ gây ra tâm lý thành viên HĐQT
thay vì bảo vệ quyền lợi của cổ đơng, của cơng ty thì họ sẽ tìm cách duy trì địa vị
của mình nên Điều lệ cơng ty cũng cần có những quy định cụ thể về vấn đề này.
Công ty với tƣ cách là ngƣời sử dung lao động còn ngƣời quản lý là ngƣời
lao động thì với lẽ dĩ nhiên ngƣời QLCT bắt buộc phải nghĩa vụ cũng nhƣ trách
nhiệm đối với công ty. LDN 2014 vẫn chƣa có quy định riêng về nghĩa vụ của thành
viên HĐQT mà chỉ quy định nghĩa vụ của HĐQT và quy định về trách nhiệm của
16



ngƣời QLCT. Theo đó, thành viên HĐQT, GĐ/TGĐ và ngƣời quản lý khác có trách
nhiệm thực hiện các quyền và nghĩa vụ đƣợc giao theo đúng quy định của pháp luật,
thực hiện một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích tối đa của
cơng ty, đồng thời, trung thành với các lợi ích của cơng ty và cổ đơng, bên cạnh đó,
ngƣời QLCT khơng đƣợc sử dụng thơng tin về tình hình kinh doanh của cơng ty, lợi
dụng chức vụ, địa vị, tài sản của công ty để tƣ lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức,
cá nhân khác. Ngoài các quy định của pháp luật thì nghĩa vụ của ngƣời QLCT cịn
đƣợc Điều lệ cơng ty quy định. Khi ngƣời QLCT có hành vi vi phạm nghĩa vụ thì
phải chịu trách nhiệm trƣớc cơng ty, đền bù thiệt hại (nếu có) và pháp luật cũng trao
những công cụ phù hợp cho chủ sở hữu cơng ty nhằm bảo vệ lợi ích cho cơng ty
tránh sự lạm quyền từ ngƣời quản lý.
Ngƣời QLCT là thành viên của HĐQT hay HĐTV còn ngƣời điều hành hoạt
động hàng ngày của công ty là GĐ hoặc TGĐ. Về mặt luật pháp, ngƣời quản lý là
ngƣời đƣợc các cổ đơng ủy quyền quản lý cơng ty cịn GĐ/TGĐ đƣợc HĐQT bổ
nhiệm trong số họ hoặc đƣợc thuê theo hợp đồng lao động và đƣợc trả lƣơng. Theo
luật cúa các nƣớc Anh, Mỹ, thành viên HĐQT và ban điều hành không phải chịu
trách nhiệm đối với công ty khi họ gây ra mất mát, thiệt hại cho công ty do các
quyết định về kinh doanh đã đƣa ra; tức là nếu công ty làm ăn thua lỗ họ không phải
chịu trách nhiệm gì. Tuy nhiên, chỉ với điều kiện là họ đã quyết định với niềm tin
trong sáng, nghĩa là: (i) đã hành động một cách chu đáo, cẩn thận và tài ba nhƣ một
ngƣời lƣơng thiện bình thƣờng khi nắm vị trí tƣơng tự; (ii) đã xử sự bằng cách làm
hay khơng làm một việc gì đó dựa theo lời khuyên của những ngƣời tƣ vấn của
công ty, dựa theo các thông tin do nhân viên công ty cung cấp mà họ có lý do để tin
rằng đó là những thơng tin chính xác hay có kiểm nhận32. Đây là quy định cần thiết
để ngƣời QLCT dám quyết định và chủ động trong việc nám bắt cơ hội kinh doanh
nhằm đem lại lợi nhuận cho công ty. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp 2014 vẫn chƣa
có quy định cụ thể nhƣ thế này nhƣng các cơng ty có thể quy định trong Điều lệ
công ty.
Pháp luật doanh nghiệp không những quy định trách nhiệm của ngƣời QLCT

mà cịn có một cơ chế giám sát phù hợp đối với ngƣời QLCT tránh những thiệt hại
mà ngƣời QLCT gây ra cho công ty. Chủ sở hữu lập nên Ban kiểm soát để giám sát
hoạt động quản lý của ngƣời QLCT nói riêng và cơng việc kinh doanh của cơng ty
nói chung. Với tƣ cách là ngƣời lao động đặc biệt trong công ty, cũng là ngƣời sử
dụng tài sản của công ty để kinh doanh đem lại lợi ích cho cơng ty, do đó, ngƣời
32

Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009), tlđd, tr. 332.

17


QLCT có nhiều khả năng để tìm kiếm lợi ích cho riêng mình từ lợi ích chung của
cơng ty nên chủ sở hữu thông qua công ty thực hiện quyền giám sát của mình tránh
sự “lạm quyền” từ phía ngƣời QLCT.
1.3.2 Mối quan hệ giữa chủ sở hữu và người quản lý công ty
CTCP với số lƣợng cổ đông lớn và cơ cấu tổ chức phức tạp, đặc biệt là công ty
đại chúng nên sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý là điều rất cần thiết.
Một khi đã có sự phân tách này thì địi hỏi một cơ chế quản trị phù hợp hay nói cách
khác, quản trị công ty là cơ chế đƣợc dùng để giải quyết các vấn đề đại diện phát
sinh từ sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý điều hành công ty. Công
ty với tƣ cách là một pháp nhân – một thực thể pháp lý độc lập (a separate legal
entity), tự bản thân nó khơng thể hành động cho chính mình mà chỉ có thể hành
động thơng qua con ngƣời cụ thể - ngƣời quản lý công ty33. Cũng chính vì thế, cơng
ty ln cần có ngƣời đại diện trong giao dịch để thực hiện hoạt động kinh doanh
đem đến lợi nhuận cho cơng ty hay chính là đem đến lợi nhuận cho chủ sở hữu công
ty. Adam Smith34 cho rằng ngƣời quản lý có vai trị nhƣ một “ngƣời đại diện” cho
những “ông chủ” – các cổ đông và nghĩa vụ của ngƣời đại diện là ln tạo ra cac lợi
ích phục vụ ơng chủ. Do đó, thực chất mối quan hệ giữa chủ sở hữu với ngƣời
QLCT là mối quan hệ đại diện hay còn gọi là “quan hệ ủy thác”.

Lý thuyết về mối quan hệ giữa cổ đông và ngƣời QLCT xuất hiện cùng sự
phát triển của các công ty hiện đại với sự phân tách giữa quyền sở hữu và quyền
quản lý ở các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây. Bởi lẽ chủ sở hữu là cổ đơng hoặc thành
viên góp vốn thành lập nên cơng ty với mục đích cơ bản của hoạt động kinh doanh
là lợi nhuận. Trong trƣờng hợp các chủ sở hữu là các nhà đầu tƣ thuần túy, ví dụ
nhƣ trong công ty đại chúng, họ thƣờng không muốn hoặc không đủ khả năng để
điều hành công ty, do vậy, chủ sở hữu thƣờng có xu hƣớng thuê ngƣời có đủ các
yếu tố thích hợp đại diện cho họ để thực hiện vai trị quản lý cơng ty. Qua đó cho
thấy, mối quan hệ đại diện xuất hiện khi các cơng ty có sự tách bạch giữa quyền sở
hữu và quyền quản lý. Trên thế giới có nhiều học thuyết bàn về mối quan hệ giữa
các cổ đông và ngƣời QLCT nhƣ học thuyết về đại diện (agency theory) và học
thuyết về ngƣời quản gia, song đáng chú ý nhất là học thuyết về đại diện (agency
theory). Các học thuyết về đại diện xuất hiện nhiều trong các nghiên cứu của giáo
sƣ luật, kinh tế, quản trị ở phƣơng Tây, đặc biệt là ở các nƣớc theo mơ hình luật

33

Bùi Xuân Hải (2007), “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam”, Tạp chí
Khoa học Pháp lý, số 04/2007, tr. 21.
34
Harwell Wells (2010), tlđd, tr. 1251.

18


công ty Anglo – American. Theo học thuyết này, quan hệ giữa các cổ đông và
ngƣời QLCT đƣợc hiểu nhƣ quan hệ đại diện – hay quan hệ ủy thác. Mối quan hệ
này đƣợc coi nhƣ là quan hệ hợp đồng mà theo đó các cổ đơng (những ngƣời chủ principals), bổ nhiệm, chỉ định ngƣời khác, ngƣời quản lý công ty (ngƣời thụ ủy –
agents), để thực hiện việc quản lý cơng ty cho họ mà trong đó bao gồm cả việc trao
thẩm quyền để ra quyết định định đoạt tài sản của công ty35.

Mối quan hệ đại diện ngày càng phát triển ở các mơ hình cơng ty hiện đại và
đã đƣợc pháp luật về công ty của các nƣớc điều chỉnh. Mối quan hệ này đƣợc pháp
luật xác lập và thừa nhận, cụ thể, khi tham gia vào mối quan hệ này, ngƣời QLCT
phải chịu sự ràng buộc các nghĩa vụ đối với chủ sở hữu công ty, những nghĩa vụ
này đƣợc quy định trong các văn bản pháp lý và có thể đƣợc quy định một cách kỹ
lƣỡng tại Điều lệ của công ty hoặc hoặc hợp đồng lao động mà ngƣời QLCT ký với
công ty. Qua đó cho thấy, thơng qua cơng ty, mối quan hệ đại diện giữa ngƣời
QLCT và chủ sở hữu công ty đƣợc hình thành. Chủ sở hữu là bên có quyền sở hữu
đối với công ty và đƣợc hƣởng các quyền lợi từ phần vốn góp của mình, cịn ngƣời
QLCT là bên sau khi đƣợc bổ nhiệm tƣ cách, có quyền “sử dụng” cơng ty đó, tức là
sử dụng tài sản của công ty để thực hiện hoạt động kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi
nhuận cho chủ sở hữu, chịu sự ràng buộc nghĩa vụ và chịu trách nhiệm trƣớc chủ sở
hữu khi vi phạm nghĩa vụ đƣợc giao. Bên cạnh đó, lý thuyết về đại diện cho rằng,
nếu cả hai bên trong mối quan hệ này (cổ đông và ngƣời QLCT) đều muốn tối đa
hóa lợi ích của mình thì ngƣời QLCT sẽ khơng ln ln hành động vì lợi ích tốt
nhất cho ngƣời chủ, tức là cổ đơng công ty36. Tuy nhiên, cả ngƣời đại diện (ngƣời
QLCT) và ngƣời đƣợc đại diện (chủ sở hữu công ty) đều có những lợi ích cá nhân,
về bản chất ngƣời đại diện phải hành động vì lợi ích của ngƣời đƣợc đại diện nhƣng
đôi khi, ngƣời đại diện lại muốn thu về những lợi ích cá nhân mà khơng hành động
vì các lợi ích của ngƣời đƣợc đại diện. Nhƣ là một hệ quả tất yếu của học thuyết đại
diện, khi có sự tách bạch giữa quyền quản lý và quyền sở hữu thì đồng nghĩa với
việc xung đột lợi ích giữa hai chủ thể này cũng xuất hiện, vì vậy, chủ sở hữu cơng
ty cần có cơ chế quản trị, giám sát phù hợp nhằm đảm bảo lợi ích của mình.
Quan hệ đại diện – quan hệ giữa cổ đơng (công ty) và ngƣời QLCT – vẫn chƣa
thể hiện rõ ràng và đƣợc hiểu đúng trong thực tế nên kinh tế chuyển đổi ở Việt
Nam, nơi mà nhiều yếu tố, tàn dƣ của chế độ kế hoạch hóa phi thị trƣờng vẫn tồn tại

35
36


Bùi Xuân Hải (2007), tlđd, tr. 22.
Hà Thị Thanh Bình (2013), tlđd, tr. 26.

19


×