Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Năng lực hành vi dân sự của ngƣời tham gia hợp đồng dân sự những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 60 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ THANH NHANH

NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA NGƢỜI
THAM GIA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ - NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

TP. HỒ CHÍ MINH – 2012.


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ THANH NHANH

NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA NGƢỜI
THAM GIA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ - NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ

GVHD: ThS. CHẾ MỸ PHƢƠNG ĐÀI.
SVTH: LÊ THỊ THANH NHANH
MSSV: 0855020199

TP. HỒ CHÍ MINH – 2012.




LỜI CẢM ƠN
Để có thể hồn thành đƣợc đề tài, tác giả đã nhận đƣợc rất nhiều sự giúp đỡ từ gia
đình, thầy cơ và bạn bè. Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến những
ngƣời “đồng hành” đáng quý:
Xin cảm ơn những ngƣời thân yêu trong gia đình đã ln ủng hộ tác giả trong suốt
thời gian qua, động viên tác giả những khi mệt mỏi, giúp đỡ tác giả liên hệ tìm kiếm
tài liệu để hồn thành đề tài.
Xin cảm ơn q thầy cơ Trƣờng Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình
truyền thụ kiến thức cho tác giả trong 4 năm ngồi trên giảng đƣờng đại học.
Đặc biệt gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô Th.S CHẾ MỸ PHƢƠNG ĐÀI ngƣời đã tận
tình hƣớng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả hồn thành đề tài nhƣ hơm nay.
Và lời cảm ơn cuối cùng xin gửi cho những ngƣời bạn đáng quý đã cùng tác giả
vƣợt qua những khó khăn, chia sẽ cùng tác giả những kiến thức trong học tập,
những vui buồn trong cuộc sống.
XIN CẢM ƠN!


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật Dân sự.
BLDS 2005: Bộ luật Dân sự năm 2005.
BLTTDS 2004: Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU. .......................................................................................................1
Chƣơng 1. NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA NGƢỜI THAM GIA HỢP
ĐỒNG DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH. ............5

1.1 Khái niệm năng lực hành vi dân sự của ngƣời tham gia hợp đồng dân sự. ..5
1.1.1 Năng lực hành vi dân sự của cá nhân .........................................................5
1.1.2 Năng lực hành vi dân sự của pháp nhân .....................................................9
1.1.3 Năng lực hành vi dân sự của hộ gia đình. .................................................12
1.1.4 Năng lực hành vi dân sự của tổ hợp tác. ...................................................14
1.2 Sự ảnh hƣởng của yếu tố năng lực hành vi dân sự đến các điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng. ....................................................................................................15
1.2.1 Năng lực hành vi dân sự - một trong những điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng dân sự. .......................................................................................................15
1.2.2 Vi phạm điều kiện về năng lực hành vi dân sự - một căn cứ để Tòa án
tuyên bố hợp đồng vơ hiệu khi có u cầu của người có quyền và lợi ích liên
quan. ...................................................................................................................19
1.3 Hậu quả pháp lý của việc vi phạm điều kiện về năng lực hành vi dân sự của
ngƣời tham gia hợp đồng dân sự. ..........................................................................22
1.3.1Giá trị pháp lý khi hợp đồngdân sự vi phạm điều kiện năng lực hành vi
dân sự của người tham gia hợp đồng dân sự. ....................................................22
1.3.2 Giải quyết lợi ích vật chất của các bên khi hợp đồng dân sự vô hiệu do vi
phạm điều kiện về năng lực hành vi dân sự của người tham gia hợp đồng dân
sự ........................................................................................................................23
1.3.3 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi hợp đồng dân sự bị vô hiệu do vi
phạm điều kiện năng lực hành vi dân sự của người tham gia hợp đồng dân sự.
............................................................................................................................26
1.3.4 Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu ...................28


Chƣơng 2: THỰC TIỄN VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA NGƢỜI THAM GIA HỢP ĐỒNG DÂN
SỰ. ............................................................................................................................30
2.1 Thực trạng pháp luật về điều kiện năng lực hành vi dân sự của ngƣời tham
gia hợp đồng dân sự. ...............................................................................................30

2.1.1Khái niệm về người tham gia giao dịch dân sự khơng được giải thích trong
BLDS. ..................................................................................................................30
2.1.2BLDS khơng có quy định về năng lực hành vi dân sự của pháp nhân, hộ
gia đình, tổ hợp tác. ............................................................................................31
2.1.3 BLDS không quy định điều kiện về năng lực pháp luật dân sự của người
tham gia hợp đồng dân sự. .................................................................................36
2.1.4BLDS không phân biệt sự ảnh hưởng khác nhau của yếu tố năng lực hành
vi dân sự của người chưa thành niên chưa đủ 15 tuổi, người chưa thành niên từ
đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, người mất hoặc người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự đối với các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự. .....................38
2.1.5 Quy định của BLDS về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự chưa
được tách thành một phần riêng biệt..................................................................40
2.2 Thực tiễn áp dụng các quy định về năng lực hành vi dân sự của ngƣời tham
gia hợp đồng dân sự. ...............................................................................................41
2.3 Kiến nghị hƣớng hoàn thiện pháp luật về điều kiện năng lực hành vi dân sự
của ngƣời tham gia hợp đồng dân sự. ...................................................................47
2.3.1 Bổ sung quy định của BLDS về năng lực hành vi dân sự của pháp nhân,
hộ gia đình, tổ hợp tác có năng lực hành vi dân sự. ..........................................48
2.3.2 Bổ sung quy định của BLDS về điều kiện năng lực pháp luật dân sự của
người tham gia hợp đồng dân sự. .......................................................................48
2.3.3 Sửa đổi, bổ sung quy định BLDS nhằm phân biệt hậu quả pháp lý khi hợp
đồng dân sự vô hiệu liên quan đến người chưa thành niên, người khơng có năng
lực hành vi dân sự, người mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. .........49


2.3.4 Xây dựng trong BLDS quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân
sự thành một phần riêng biệt thuộc chế định hợp đồng dân sự. ........................50
2.3.5 Bổ sung quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người xác
lập giao dịch với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. ........................................................50

KẾT LUẬN ..............................................................................................................52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết chọn đề tài
Vai trị của hợp đồng dân sự đối với các cá nhân, tổ chức nói riêng và đối với

nền kinh tế nói chung là không thể phủ nhận. Cá nhân, tổ chức tham gia quan hệ
hợp đồng dân sự nhằm trao đổi lợi ích để thỏa mãn những nhu cầu nhất định. Trong
nền kinh tế, hợp đồng là hình thức pháp lý chủ yếu của mọi sự trao đổi. Chính vì vai
trị quan trọng đó mà chế định hợp đồng trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam
đã trở thành một chế định đƣợc xem là trung tâm. Trong Bộ luật Dân sự 2005, chế
định hợp đồng đã đƣợc khẳng định với 205/777 điều, từ Điều 388 đến Điều 593. Đó
là chƣa kể 45 điều quy định về hợp đồng liên quan đến quyền sử dụng đất từ Điều
639 đến Điều 732 và các quy định đƣợc dẫn chiếu từ Điều 127 đến Điều 138 trong
phần giao dịch dân sự.
Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên, nhƣng không phải bất kỳ thỏa
thuận nào cũng tạo ra hợp đồng, tạo ra quyền và nghĩa vụ đối với các bên. Hợp
đồng dân sự phải đáp ứng các điều kiện nhất định thì mới đƣợc xem là có hiệu lực.
Tìm hiểu các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự là hết sức cần thiết đối với
ngƣời tham gia hợp đồng dân sự nói riêng và các nhà nghiên cứu nói chung. Việc
hiểu rõ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự giúp ngƣời tham gia hợp
đồng dân sự tự tin, vững vàng khi giao kết, mặt khác tránh đƣợc hậu quả của việc vi
phạm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự dẫn đến hợp đồng dân sự vơ hiệu.
Chính vì vậy, vấn đề điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự đã trở thành đề tài

phân tích, nghiên cứu của nhiều tác giả. Tuy nhiên, điều kiện về năng lực hành vi
dân sự của ngƣời tham gia hợp đồng dân sự vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu chuyên sâu
và toàn diện. Nhận thấy vấn đề điều kiện về năng lực hành vi dân sự là một vấn đề
phức tạp cả về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật. Về mặt lý luận, vấn đề năng
lực hành vi dân sự của pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác là có hay khơng, đƣợc
thể hiện nhƣ thế nào vẫn là vấn đề gây nhiều tranh cải. Về mặt thực tiễn lập pháp,
trong Bộ luật Dân sự 2005, liên quan đến các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
dân sự đƣợc quy định khá cụ thể và hoàn thiện hơn các văn bản trƣớc đó. Tuy


2

nhiên, quy định xoay quanh vấn đề điều kiện năng lực hành vi dân sự của ngƣời
tham gia hợp đồng dân sự đã bộc lộ những thiếu sót, bất cập.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Năng lực hành vi dân sự của
ngƣời tham gia hợp đồng dân sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” để làm đề
tài khóa luận cho mình.
2.

Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, với tầm quan trọng của chế định hợp đồng dân sự, đã có rất nhiều

những đề tài, cơng trình nghiên cứu tập trung khai thác nhiều khía cạnh chung và
riêng của hợp đồng dân sự. Vấn đề điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự là vấn
đề cũng đƣợc rất nhiều tác giả nghiên cứu với những góc độ khác nhau:
Luận án, luận văn:
 Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, luận án tiến sĩ
của Lê Minh Hùng năm 2010. Trong đó, chƣơng 2 đề cập đến điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng và đi sâu vào phân tích điều kiện hình thức của hợp đồng.
 Hình thức hợp đồng dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, luận

văn cử nhân của Lê Thị Thúy An năm 2010. Luận văn nêu ra những vấn đề lý luận
chung về hình thức của hợp đồng dân sự, từ đó, đi vào thực tiễn áp dụng các quy
định về hình thức hợp đồng dân sự rút ra những bất cập và đề ra hƣớng hoàn thiện
các quy định hiện hành có liên quan.
 Hợp đồng vơ hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật – những vấn đề lý luận
và thực tiễn, luận văn cử nhân của Nguyễn Đình Hịa năm 2011. Luận văn nghiên
cứu luật thực định của Việt Nam về hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của
pháp luật, đồng thời tổng hợp một số quy định pháp luật thế giới về hợp đồng vô
hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, có liên hệ với thực tiễn
giải quyết vụ án có liên quan. Theo đó, tác giả đƣa ra một số ý kiến mang tính định
hƣớng cho việc sửa đổi, bổ sung các quy định của BLDS 2005 và các văn bản có
liên quan đến hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm.
Bài viết có liên quan:
 Bài viết “Lừa dối – yếu tố vô hiệu hợp đồng kinh tế” của ThS. Lê Thị Bích
Thọ đăng trên tạp chí khoa học pháp lý số 4.2001.


3

 Bài viết “Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo quy định của
BLDS 2005” của ThS. Nguyễn Thị Tình trích từ www.nclp.org.vn
Tuy nhiên, đối với vấn đề điều kiện năng lực hành vi dân sự của ngƣời tham
gia hợp đồng dân sự, các bài viết chƣa tiếp cận một cách đầy đủ và cụ thể, làm rõ cả
về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng của những quy định này. Trong số ít những tài
liệu có đề cập đến vấn đề điều kiện năng lực hành vi dân sự của ngƣời tham gia hợp
đồng dân sự, đáng chú ý là bài viết “Bàn về hợp đồng vô hiệu do đƣợc giao kết bởi
ngƣời bị mất năng lực hành vi dân sự qua một vụ án”, cùng tài liệu tham khảo của
tác giả Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng, bản án và bình luận bản án, NXB Chính trị
quốc gia, năm 2010.
Từ tình hình nghiên cứu trên, chúng ta có thể thấy “Năng lực hành vi dân sự

của ngƣời tham gia hợp đồng dân sự” là vấn đề cần đƣợc tập trung nghiên cứu một
cách đầy đủ, toàn diện hơn để điều chỉnh hiệu quả các tranh chấp hợp đồng phát
sinh trên thực tế. Với những nội dung đề cập tại đề tài này, tác giả cố gắng và hi
vọng sẽ đóng góp một phần cơng sức vào việc nghiên cứu vấn đề năng lực hành vi
dân sự của ngƣời tham gia hợp đồng dân sự.
Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu

3.

Mục đích nghiên cứu:


Phân tích các quy định của pháp luật về năng lực hành vi dân sự của ngƣời

tham gia hợp đồng dân sự (cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác), tạo nền
tảng lý luận khi đi vào nghiên cứu thực tiễn.


Đối chiếu với thực tiễn áp dụng các quy định liên quan trong thực tế, từ đó

phát hiện ra những bất cập, thiếu sót trong quy định pháp luật hiện hành về năng lực
hành vi dân sự của ngƣời tham gia hợp đồng dân sự.


Đƣa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về năng lực hành vi dân

sự của ngƣời tham gia hợp đồng dân sự.
Để đạt được mục đích của đề tài, tác giả đề ra các nhiệm vụ sau phải hồn thành:



Phân tích, lý giải nhằm làm sáng tỏ nội dung các quy định về năng lực hành

vi dân sự của ngƣời tham gia hợp đồng dân sự, các quy định về hợp đồng dân sự vô
hiệu do vi phạm điều kiện về năng lực hành vi dân sự của ngƣời tham gia hợp đồng
dân sự.


4



Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp

luật về điều kiện năng lực hành vi dân sự của ngƣời tham gia hợp đồng dân sự để
xác định hiệu lực của hợp đồng.


Tìm ra những bất cập, vƣớng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật về năng

lực hành vi dân sự của ngƣời tham gia hợp đồng dân sự. Qua đó, đƣa ra một số định
hƣớng nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề đã nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu: những nội dung về điều kiện năng lực hành vi dân sự của
ngƣời tham gia hợp đồng dân sự đƣợc nghiên cứu dựa trên các quy định của pháp
luật dân sự hiện hành (Bộ luật Dân sự 2005) và các văn bản pháp luật có liên quan,
đặt trong sự so sánh với những quy định của pháp luật Việt Nam đƣợc ban hành
trƣớc đó.
4. Các phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Phƣơng pháp nghiên cứu chủ đạo, xuyên suốt khóa luận là các phƣơng pháp
của Chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lênin. Bên cạnh đó, cũng sử dụng các
phƣơng pháp khác nhƣ: logic pháp luật, phân tích, tổng hợp, so sánh…

5. Bố cục:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa
luận gồm 2 chƣơng:
Chƣơng 1: Năng lực hành vi dân sự của ngƣời tham gia hợp đồng dân sự theo
quy định của pháp luật hiện hành.
Chƣơng 2: Thực tiễn và hƣớng hoàn thiện pháp luật về năng lực hành vi dân
sự của ngƣời tham gia hợp đồng dân sự.


5

CHƢƠNG 1: NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA NGƢỜI THAM GIA
HỢP ĐỒNG DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH.
1.1

KHÁI NIỆM NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ CỦA NGƢỜI THAM

GIA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ.
Ngƣời tham gia hợp đồng dân sự bao gồm chủ thể hợp đồng, ngƣời đại diện
xác lập thực hiện hợp đồng và những chủ thể khác (ngƣời đƣợc ủy quyền đàm phán
hợp đồng, ngƣời vận chuyển trong hợp đồng mua bán hàng hóa…). Chủ thể hợp
đồng dân sự là những ngƣời tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự, có quyền,
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng và phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền,
nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng1. Trong hai khái niệm vừa nêu, khái niệm ngƣời
tham gia hợp đồng có nội hàm rộng và bao quát hơn. Sau đây, tác giả sẽ phân tích
khái niệm năng lực hành vi dân sự của ngƣời tham gia hợp đồng dân sự là: cá nhân
(công dân Việt Nam, ngƣời nƣớc ngồi, ngƣời khơng quốc tịch), pháp nhân, hộ gia
đình, tổ hợp tác và nhà nƣớc CHXHCN Việt Nam tham gia hợp đồng dân sự với tƣ
cách chủ thể đặc biệt.
1.1.1 Năng lực hành vi dân sự của cá nhân

Cá nhân là chủ thể phổ biến của các quan hệ xã hội, quan hệ pháp luật dân sự
nói chung và quan hệ hợp đồng nói riêng. Cá nhân bao gồm: ngƣời Việt Nam,
ngƣời nƣớc ngồi, ngƣời khơng quốc tịch. Khi tham gia vào quan hệ hợp đồng, để
làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự đƣợc nhà nƣớc đảm bảo thực hiện thì cá nhân
phải có tƣ cách chủ thể. Tƣ cách chủ thể là khả năng chủ thể có quyền và nghĩa vụ
theo quy định của pháp luật và khả năng bằng hành vi của chính mình tham gia vào
các quan hệ pháp luật, thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ đó.
Nói đến tƣ cách chủ thể của cá nhân, khoa học pháp lý đề cập đến hai vấn đề là
năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự.
Theo khoản 1 Điều 14 BLDS 2005: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là
khả năng của cá nhân có quyền và nghĩa vụ dân sự.”
Theo Điều 17 BLDS 2005: “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng
của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự”
1

Lê Minh Hùng, Hiệu lực hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, luận án tiến sĩ, 2010.


6

Qua quy định của pháp luật cho thấy, nếu nhƣ năng lực pháp luật dân sự là
nhƣ nhau với mỗi cá nhân thì năng lực hành vi dân sự phụ thuộc vào khả năng nhận
thức và độ tuổi của cá nhân đó. Căn cứ vào các tiêu chí trên, mức độ năng lực hành
vi dân sự của cá nhân đƣợc phân chia thành các mức độ sau đây:
Ngƣời có năng lực hành vi dân sự đầy đủ:
Điều 19 BLDS 2005 quy định: “Ngƣời thành niên có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ, trừ trƣờng hợp quy định tại Điều 22, Điều 23 của Bộ luật này.”
Theo đó, ngƣời từ đủ 18 tuổi trở lên (ngƣời thành niên theo Điều 18 BLDS
2005) khơng bị Tịa án tun bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc tuyên bố hạn chế
năng lực hành vi dân sự là ngƣời có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Ngƣời từ đủ 18

tuổi trở lên là những ngƣời đã phát triển cả về thể chất, tinh thần, cả tâm sinh lý, vì
vậy họ có đủ khả năng nhận thức tƣơng đối tồn diện mọi vấn đề, có khả năng
quyết định độc lập. Ngƣời này đƣợc phép tham gia vào tất cả các hợp đồng dân sự
và chịu trách nhiệm đối với hành vi bằng tài sản của mình.
Ngƣời có năng lực hành vi dân sự một phần:
Ngƣời từ đủ sáu tuổi đến chƣa đủ 18 tuổi là ngƣời có năng lực hành vi dân sự
một phần. Ngƣời này đƣợc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự (hợp đồng dân
sự) phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi, cịn với những giao
dịch khác phải có sự đồng ý của ngƣời đại diện theo pháp luật (khoản 1 Điều 20
BLDS 2005). Thế nào là giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày và
thế nào là phù hợp với lứa tuổi thì cho đến nay chƣa có văn bản hƣớng dẫn nào.
Theo cách hiểu thơng thƣờng, thì đó là các giao dịch có giá trị nhỏ, phục vụ những
nhu cầu học tập, vui chơi trong cuộc sống (mua dụng cụ học tập, ăn quà…). Việc
thực hiện những giao dịch loại này là khơng cần có sự đồng ý của ngƣời đại diện
theo pháp luật.
Trong trƣờng hợp ngƣời từ đủ mƣời lăm tuổi đến chƣa đủ mƣời tám tuổi có tài
sản riêng đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập thực hiện giao dịch
dân sự (hợp đồng dân sự) mà không cần phải có sự đồng ý của ngƣời đại diện theo
pháp luật, trừ trƣờng hợp pháp luật có quy định khác (khoản 2 Điều 20 BLDS
2005). Quy định này tạo điều kiện cho cá nhân khi có đủ tài sản thực hiện nghĩa vụ


7

có thể chủ động, độc lập giao kết hợp đồng mà không phải phụ thuộc vào ngƣời đại
diện, cho dù cá nhân lúc này vẫn chƣa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Ngƣời khơng có năng lực hành vi dân sự:
Ngƣời chƣa đủ sáu tuổi thì khơng có năng lực hành vi dân sự. Mọi hợp đồng
liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời khơng có năng lực hành vi dân
sự phải do ngƣời đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện (Điều 21 BLDS). Ngƣời

đại diện ở đây có thể là cha mẹ - đại diện đƣơng nhiên hoặc ngƣời giám hộ.
Ngƣời bị mất năng lực hành vi dân sự:
Theo khoản 1 Điều 22 BLDS 2005 thì khi một ngƣời do bị bệnh tâm thần hoặc
mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của mình thì theo
yêu cầu của ngƣời có quyền, lợi ích liên quan, Tịa án ra quyết định tuyên bố mất
năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định.
Nhƣ vậy, về mặt pháp lý một ngƣời chỉ bị coi là mất năng lực hành vi dân sự khi có
quyết định của Tịa án tun bố ngƣời đó mất năng lực hành vi dân sự. Để tuyên
một ngƣời là mất năng lực hành vi dân sự thì Tịa án phải có đầy đủ các căn cứ:


Có yêu cầu của ngƣời có quyền và lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu

quan (Điều 319 BLTTDS 2004).


Ngƣời bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự là ngƣời bị bệnh tâm

thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của mình


Có kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền.
Hậu quả pháp lý của việc một cá nhân bị Tòa án tuyên bố là bị mất năng lực

hành vi dân sự là ngƣời này khơng đƣợc tự mình xác lập, thực hiện mọi giao dịch
dân sự. Mọi giao dịch dân sự của ngƣời mất năng lực hành vi dân sự phải do ngƣời
đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
“Nguồn gốc” của việc một ngƣời bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự là bị
bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi
của mình. Vậy, khi ngƣời đó khỏi bệnh, khơi phục lại khả năng nhận thức thì khơng

cịn lý do gì để xem ngƣời đó là mất năng lực hành vi dân sự nữa. Tuy nhiên, không
phải đƣơng nhiên một ngƣời đã bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự lại
đƣợc khôi phục năng lực hành vi dân sự dù trên thực tế là đã khơng cịn bị rơi vào
trƣờng hợp mất năng lực hành vi dân sự nhƣ quy định tại Điều 22 BLDS 2005. Chỉ


8

Tịa án có thẩm quyền tun một ngƣời là mất năng lực hành vi dân sự thì cũng chỉ
Tịa án mới có quyền ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành
vi dân sự đối với một cá nhân. Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất
năng lực hành vi dân sự khi:
 Khơng cịn căn cứ tun bố một ngƣời mất năng lực hành vi dân sự;
 Có yêu cầu của chính ngƣời bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc của
ngƣời có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan (Điều 322
khoản 1 BLTTDS 2004).
Và tất nhiên, việc ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố một cá nhân là
mất năng lực hành vi dân sự phải tuân theo thủ tục luật định.
Ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố một ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
khi:


Ngƣời đó nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài

sản của gia đình;


Có u cầu của ngƣời có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan


(Điều 319 BLTTDS 2004)
Tuy nhiên, do khả năng nhận thức chỉ là bị hạn chế mà không phải là mất hẳn
nên ngƣời bị tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự vẫn đƣợc thiết lập các giao
dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày, còn các giao dịch dân sự liên quan
đến tài sản của ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của
ngƣời đại diện theo pháp luật. Ngƣời đại diện theo pháp luật và phạm vi đại diện
của ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là do Tòa án quyết định.
Ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi dân sự sẽ đƣợc Tòa án ra quyết định hủy
quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự khi:


Khơng cịn căn cứ tuyên bố một ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;



Có u cầu của chính ngƣời đã bị tuyên bố hạn chế năng lực hành vi hoặc

của ngƣời có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan (Điều 322 khoản 1
BLTTDS 2004).
Về nguyên tắc, chỉ khi đƣợc Tòa án ra quyết định hủy quyết định tuyên bố hạn
chế năng lực hành vi dân sự thì ngƣời từng bị tuyên bố hạn chế năng lực hành vi


9

dân sự đó mới có thể đƣợc khơi phục năng lực hành vi dân sự và đƣợc tham gia vào
các giao dịch dân sự nhƣ một ngƣời có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
1.1.2 Năng lực hành vi dân sự của pháp nhân
Pháp nhân đƣợc xem là chủ thể “trẻ” của luật dân sự Việt Nam bên cạnh chủ
thể truyền thống là cá nhân. Cùng với sự phát triển của pháp luật dân sự, địa vị pháp

lý của pháp nhân ngày càng đƣợc khẳng định qua các quy định tại Nghị định
17/HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng Bộ trƣởng, hƣớng dẫn Pháp lệnh hợp đồng
kinh tế 1989 và Pháp lệnh Hợp đồng dân sự 1991, BLDS 1995 và BLDS 2005.
Theo luật hiện hành, một tổ chức để đƣợc công nhận là pháp nhân khi đáp ứng các
điều kiện:


Đƣợc thành lập hợp pháp;



Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;



Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng
tải sản đó;



Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.2

Để có thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự nói chung và quan hệ hợp đồng
dân sự nói riêng, pháp nhân phải có năng lực chủ thể. Nếu với cá nhân, năng lực
chủ thể đƣợc biết đến với hai yếu tố là năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành
vi dân sự thì với pháp nhân vấn đề năng lực hành vi dân sự của pháp nhân vẫn là
một vấn đề bỏ ngõ. Bàn về việc pháp nhân có năng lực hành vi dân sự hay khơng có
hai quan điểm nhƣ sau:
Thứ nhất, quan điểm cho phép lập pháp nhân. Nội dung của quan điểm này là
thừa nhận sự tồn tại của pháp nhân về mặt pháp lý, cho rằng pháp nhân chỉ là sự mô

phỏng của thể nhân nên pháp nhân chỉ có quyền năng mà khơng có năng lực của
hành vi. Pháp nhân khơng có năng lực hành vi thực. Quyền năng và nghĩa vụ thực
tế của pháp nhân chỉ phát sinh từ hành vi của cơ quan đại diện pháp nhân hay nói
đúng hơn là từ các cá nhân đảm nhận các chức vụ cụ thể của cơ quan đại diện pháp
nhân. Suy cho cùng, pháp nhân luôn phải đƣợc đại diện từ khi thành lập cho đến khi
chấm dứt, trong tất cả các hoạt động của mình. Năng lực hành vi dân sự của pháp

2

Điều 84 BLDS 2005


10

nhân là năng lực hành vi do pháp nhân vay mƣợn của những con ngƣời mà pháp
nhân hóa thân vào3.
Thứ hai, quan điểm thực tế tồn tại pháp nhân. Quan điểm này cho rằng pháp
nhân thực hiện các chức năng xã hội nhất định cho nên thừa nhận pháp nhân có thể
thực hiện hành vi để đạt mục đích của mình. Nói cách khác, hành vi của cơ quan đại
diện pháp nhân là hành vi của pháp nhân4.
BLDS 2005 không quy định về năng lực hành vi dân sự của pháp nhân. Liệu
có phải các nhà làm luật đồng tình với quan điểm thứ nhất. Ở đây cần lƣu ý rằng,
việc BLDS không trực tiếp quy định về năng lực hành vi dân sự của pháp nhân
khơng có nghĩa là thừa nhận pháp nhân khơng có năng lực hành vi dân sự. Bởi lẽ,
về phƣơng diện lý luận năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của
chủ thể là hai yếu tố không thể tách rời. Đó là hai mặt của một vấn đề. Nếu năng lực
pháp luật dân sự là khả năng pháp nhân có quyền và nghĩa vụ theo quy định của
pháp luật thì năng lực hành vi dân sự của pháp nhân là khả năng pháp nhân bằng
hành vi của mình xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự đó. Chính vì vậy
mà khi xem xét năng lực hành vi dân sự của pháp nhân cần xem xét ở góc độ khác

so với khi xem xét năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Trong khi năng lực hành vi
dân sự của cá nhân phụ thuộc vào độ tuổi và khả năng nhận thức thì năng lực hành
vi dân sự của pháp nhân là những hoạt động mà pháp nhân thực hiện dựa trên ý chí
của pháp nhân:
Ý chí của pháp nhân thể hiện thơng qua ý chí của cơ quan lãnh đạo cao nhất
hoặc những ngƣời đại diện hợp pháp của pháp nhân. Ý chí của pháp nhân là nhân tố
cơ bản của năng lực hành vi dân sự của pháp nhân. Do không phải là một cá nhân
nên ý chí của pháp nhân đƣợc biểu hiện thơng qua ý chí của những con ngƣời cụ thể
là ngƣời đại diện hoặc các thành viên của pháp nhân.
Ngƣời đại diện của pháp nhân là ngƣời đƣợc thay mặt và nhân danh pháp nhân
xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự, trong phạm vi đại diện làm phát sinh quyền
và nghĩa vụ của pháp nhân.
3

Nguyễn Ngọc Điện, Chủ thể quan hệ pháp luật dân sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.
Tập bài giảng những vấn đề lý luận chung về luật dân sự, Trƣờng Đại học luật Tp. HCM, 2008 – 2009, Tr.
146, 147, 207.
4


11

Thành viên của pháp nhân là những ngƣời thừa hành nhiệm vụ của pháp nhân,
trong phạm vi trách nhiệm đƣợc giao, thực hiện các hành vi thể hiện ý chí của pháp
nhân. Do là những con ngƣời cụ thể, độc lập với pháp nhân nên ý chí của thành
viên, ngƣời đại diện của pháp nhân có thể khác hoặc thậm chí là đối lập với ý chí
của pháp nhân. Dù ý chí của thành viên, ngƣời đại diện pháp nhân có thể khơng
trùng với ý chí của pháp nhân nhƣng khi hành động nhân danh pháp nhân thì phải
phục tùng ý chí của pháp nhân, vì lợi ích của pháp nhân. Chỉ khi đó, hoạt động của
thành viên, ngƣời đại diện pháp nhân mới đƣợc xem là hoạt động của pháp nhân,

làm phát sinh quyền dân sự, nghĩa vụ dân sự, trách nhiệm dân sự đối với pháp nhân.
Đối với pháp nhân cơng pháp, ý chí của pháp nhân bị ảnh hƣởng bởi nội quy, quy
chế hành chính hoặc quyết định thành lập pháp nhân. Đối với pháp nhân tƣ pháp, ý
chí của pháp nhân thể hiện tập trung trong các quy chế nội bộ, nội quy hoặc điều lệ,
nghị quyết hoặc các quyết định của cơ quan lãnh đạo cao nhất của pháp nhân hoặc
của đại hội toàn thể các thành viên pháp nhân5.
Hoạt động của pháp nhân là mọi hành vi pháp lý cần thiết của những ngƣời đại
diện, thành viên, các cơ quan của pháp nhân để thực hiện các mục đích, chức năng,
nhiệm vụ của pháp nhân đã đƣợc đề ra khi thành lập pháp nhân6.
Mỗi pháp nhân khi ra đời đều có một mục đích nhất định. Đó là những lợi ích
hợp pháp mà pháp nhân hƣớng tới và mong muốn đạt đƣợc trong quá trình hoạt
động của pháp nhân. Để đạt đƣợc mục đích của mình pháp nhân phải có cơ chế biểu
hiện ý chí. Khơng phải là cá nhân để thể hiện ý chí qua các bộ phận cơ thể, pháp
nhân phải biểu hiện “hành vi” thông qua hoạt động của các cơ quan của pháp nhân.
Hành vi là một hoạt động của ý chí, hành vi của pháp nhân cũng là một hoạt động
của ý chí. Ý chí của pháp nhân thể hiện thơng qua ý chí của ngƣời đại diện hoặc các
thành viên của pháp nhân, hành vi của pháp nhân cũng đƣợc thể hiện thông qua
hành vi của cơ quan điều hành, ngƣời đại diện của pháp nhân. Vấn đề ở đây là, hành
vi của ngƣời đại diện thực hiện khơng theo ý chí riêng của ngƣời đó mà theo ý chí

5

Tập bài giảng những vấn đề lý luận chung về luật dân sự, Trƣờng Đại học luật Tp. HCM, 2008 - 2009
Tr.208.
6
Tập bài giảng những vấn đề lý luận chung về luật dân sự, Trƣờng Đại học luật Tp. HCM, 2008 – 2009,
Tr.209.


12


của pháp nhân, vì lợi ích của pháp nhân, để đạt đƣợc mục đích của pháp nhân, nên
đƣợc xem là hành vi của pháp nhân.
Từ những phân tích trên, tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng pháp nhân
cũng có năng lực hành vi dân sự. Bởi trên thực tế pháp nhân đã, đang và sẽ tham gia
vào quan hệ hợp đồng, pháp nhân có thể thực hiện hành vi để đạt đƣợc mục đích
của mình. Hành vi của ngƣời đại diện, thành viên pháp nhân là hành vi của chính
pháp nhân, dựa trên ý chí của pháp nhân, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ, trách
nhiệm dân sự đối với pháp nhân.
1.1.3 Năng lực hành vi dân sự của hộ gia đình.
Hộ gia đình khơng phải là chủ thể truyền thống của Luật Dân sự. Ở Việt Nam,
hộ gia đình và kinh tế hộ gia đình tồn tại và hoạt động phổ biến trong các lĩnh vực
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngƣ nghiệp, thủ công nghiệp, tiểu thƣơng nghiệp. Đƣợc
pháp luật thừa nhận tƣ cách chủ thể, nhƣng hai mặt của tƣ cách chủ thể là năng lực
pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của hộ gia đình khơng đƣợc pháp luật
quy định rõ ràng. Tuy vậy, cũng giống nhƣ pháp nhân, năng lực chủ thể của hộ gia
đình khơng thể đƣợc xem xét theo cách mà chúng ta đã xem xét về năng lực chủ thể
của cá nhân7:
Năng lực pháp luật dân sự của hộ gia đình là khả năng của hộ gia đình có
quyền và nghĩa vụ dân sự do pháp luật quy định. Năng lực pháp luật của hộ gia đình
khơng đƣợc BLDS quy định rõ ràng. Dựa trên tinh thần của Điều 106 BLDS 2005,
các nhà khoa học pháp lý cho rằng, “hộ gia đình có tƣ cách chủ thể hạn chế, là chủ
thể đặc biệt, không tƣ cách chủ thể đầy đủ, trọn vẹn, ổn định nhƣ cá nhân, pháp
nhân”8. Theo đó, hộ gia đình chỉ có thể tham gia vào những quan hệ cụ thể đƣợc liệt
kê tại Điều 106 BLDS: “sản xuất nông, lâm, ngƣ nghiệp hoặc một số lĩnh vực khác
do pháp luật quy định”. Mặt khác, sự hạn chế của hộ gia đình cịn thể hiện ở việc,
hộ gia đình chỉ trở thành chủ thể “khi tham gia vào các quan hệ dân sự thuộc các
lĩnh vực (nói trên). Nói tóm lại, quan điểm xem hộ gia đình là chủ thể hạn chế cho
thấy, sự hạn chế năng lực chủ thể của hộ gia đình thể hiện chủ yếu ở hai mặt là: tính
7


Tập bài giảng những vấn đề lý luận chung về luật dân sự, Trƣờng Đại học luật Tp. HCM, 2008 – 2009, tr.
263.
8
Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý-Bộ Tƣ pháp, Bình luận khoa học BLDS Việt Nam, tập I, Nxb. CTQG,
H. 2001, tr. 255.


13

chất có giới hạn về các lĩnh vực mà hộ gia đình đƣợc phép tham gia và tính chất
khơng tham gia thƣờng xuyên vào các quan hệ pháp luật9.
Pháp luật hiện hành cũng khơng có quy định nào đề cập đến năng lực hành vi
dân sự của hộ gia đình. Hộ gia đình khơng phải là một thể nhân. Năng lực hành vi
dân sự của hộ gia đình, nếu có, cũng không dựa trên yếu tố nhận thức, độ tuổi và
khả năng điều khiển hành vi. Bởi vậy, cũng giống nhƣ với pháp nhân, khi xem xét
năng lực hành vi dân sự của hộ gia đình cần xem xét ở một góc độ khác. Ta thấy hộ
gia đình cũng có năng lực hành vi dân sự để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Năng lực hành vi dân sự của hộ gia đình là khả năng hộ gia đình, bằng các điều kiện
thực tế của mình để xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự đƣợc pháp luật
quy định. Năng lực hành vi dân sự của hộ gia đình đƣợc thể hiện thơng qua các yếu
tố: thành viên, chủ hộ gia đình, tài sản chung, hoạt động kinh tế chung… Hộ gia
đình hoạt động dựa trên nguyên tắc nhất trí và theo cơ chế đại diện:


Hành vi của ngƣời đại diện: chủ hộ là ngƣời đại diện cho hộ gia đình xác lập,

thực hiện các giao dịch dân sự nhân danh và vì lợi ích của hộ. Chủ hộ có thể ủy
quyền cho thành viên khác đã thành niên thay mặt chủ hộ xác lập, thực hiện các
giao dịch nhân danh cho hộ gia đình10. Hành vi của ngƣời đại diện xác lập, thực

hiện các giao dịch nhân danh quyền lợi của hộ đƣợc coi là “hành vi” của hộ gia
đình, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình11.


Ý chí của hộ gia đình: đối với hộ gia đình, ý chí của ngƣời đại diện cho hộ

khi xác lập, thực hiện giao dịch nhân danh cho lợi ích của hộ, đƣợc coi là ý chí của
hộ gia đình. Với tài sản chung của hộ gia đình là tài sản thơng thƣờng, việc thực
hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt dựa trên nguyên tắc thỏa thuận, nhất
trí12. Riêng đối với các tài sản của hộ gia đình là tƣ liệu sản xuất, tài sản chung có
giá trị lớn thì phải đƣợc tất cả các thành viên từ 15 tuổi trở lên đồng ý; đối với các

9

Tập bài giảng những vấn đề lý luận chung về luật dân sự, Trƣờng Đại học luật Tp. HCM, 2008 – 2009, tr.
270, 271, 272.
10
Khoản 1 Điều 107 BLDS 2005. Mặc dù vậy, pháp luật cũng không cấm hộ gia đình ủy quyền cho chủ thể
khác theo quy định chung của pháp luật dân sự.
11
Khoản 2 Điều 107 BLDS 2005.
12
Khoản 1 Điều 109 BLDS 2005.


14

tài sản khác phải đƣợc đa số thành viên từ 15 tuổi trở lên đồng ý, trừ trƣờng hợp
pháp luật có quy định khác13.
1.1.4 Năng lực hành vi dân sự của tổ hợp tác.

Tổ hợp tác là đơn vị kinh tế tập thể tự chủ và tồn tại phổ biến trong nền kinh tế
thị trƣờng có nhiều thành phần kinh tế. Tổ hợp tác là một sự liên kết giữa các cá
nhân, các hộ kinh tế cá thể để tạo thành một tổ chức kinh tế tập thể, nhƣng chƣa tới
mức đáp ứng đủ các điều kiện để trở thành pháp nhân. Tổ hợp tác tham gia sâu rộng
vào nền kinh tế cũng nhƣ mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Năng lực hành vi dân sự của tổ hợp tác là khả năng của tổ hợp tác, bằng năng
lực chủ quan của mình để xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự. Năng
lực hành vi của tổ hợp tác chủ yếu đƣợc thể hiện thông qua hoạt động của tổ hợp
tác. Các hoạt động của tổ hợp tác đƣợc thể hiện qua hành vi của ngƣời đại diện của
tổ hợp tác, dựa trên ý chí chung của tổ hợp tác.


Hoạt động của tổ hợp tác: khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với tổ

hợp tác, các chủ thể khác không phải trực tiếp giao dịch với từng thành viên mà chỉ
cần giao dịch trực tiếp với ngƣời đại diện của tổ hợp tác, đó là tổ trƣởng tổ hợp tác.
Nói cách khác, tổ hợp tác hoạt động thông qua cơ chế đại diện. Các hoạt động đƣợc
tiến hành thông qua ngƣời đại diện, dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và
cùng có lợi.


Đại diện của tổ hợp tác:
Tổ trƣởng là ngƣời đại diện theo pháp luật của tổ hợp tác, có quyền nhân danh

tổ hợp tác xác lập, thực hiện các giao dịch vì quyền lợi của tổ. Tổ trƣởng cịn là
ngƣời điều hành công việc chung của tổ hợp tác. Trong trƣờng hợp cần thiết, tổ hợp
tác có thể bầu ban điều hành. Tổ trƣởng là trƣởng ban điều hành. Tổ trƣởng có thể
ủy quyền cho tổ viên khác thay mặt mình xác lập, thực hiện các giao dịch nhân
danh tổ hợp tác. Các giao dịch đƣợc xác lập, thực hiện bởi ngƣời đại diện của tổ làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ cho cả tổ hợp tác14.


13
14

Khoản 2 Điều 109 BLDS 2005.
Điều 113 BLDS 2005, Điều 16 – Điều 18 Nghị Định 151/2007.


15



Ý chí chung của tổ hợp tác: đƣợc thể hiện chủ yếu và tập trung trong hợp

đồng hợp tác và trong các quyết định chung của tổ hợp tác, thông qua các thỏa
thuận dựa trên nguyên tắc dân chủ và tự nguyện.
Hợp đồng hợp tác xác định rõ những lĩnh vực mà tổ hợp tác lựa chọn để tiến
hành các hoạt động. Các “hành vi” hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ hợp tác
đƣợc tiến hành trong phạm vi đƣợc xác định trong hợp đồng hợp tác. Các lĩnh vực
này không bị hạn chế, trừ những trƣờng hợp pháp luật có quy định cấm đốn hoặc
quy định các điều kiện kinh doanh hoặc điều kiện hành nghề, thì phải tuân thủ các
điều kiện đó.
Các tổ viên quản lý và sử dụng tài sản chung của tổ dựa trên phƣơng thức đã
thõa thuận, đƣợc thể hiện trong hợp đồng hợp tác hoặc trong các cuộc hợp thƣờng
kỳ và đột xuất của tổ hợp tác. Việc định đoạt tài sản là tƣ liệu sản xuất của tổ hợp
tác đƣợc toàn thể tổ viên đồng ý; đối với tài sản thông thƣờng khác của tổ phải đƣợc
đa số tổ viên đồng ý.
1.2

SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA YẾU TỐ NĂNG LỰC HÀNH VI DÂN SỰ ĐẾN


CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG.
1.2.1 Năng lực hành vi dân sự - một trong những điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng dân sự.
Khi tham gia quan hệ hợp đồng để hƣớng đến những lợi ích nhất định, ngƣời
tham gia hợp đồng luôn mong muốn hợp đồng mình xác lập có hiệu lực. Hiệu lực
ràng buộc của hợp đồng là giá trị pháp lý của hợp đồng, đƣợc pháp luật bảo vệ và
đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp chế tài thích hợp, nhằm buộc các bên tham
gia phải tôn trọng, thực hiện đúng hợp đồng15.
Hiệu lực của hợp đồng là tạo ra quyền và nghĩa vụ riêng cho các bên chứ
khơng có hiệu lực bắt buộc chung nhƣ pháp luật. Hiệu lực của hợp đồng không phải
là hiệu lực vƣợt lên trên pháp luật mà chỉ là hiệu lực đƣợc đảm bảo bởi pháp luật.
Sự đảm bảo của pháp luật đƣợc thể hiện ở nhiều khía cạnh nhƣng nổi bật nhất là
việc quy định cụ thể về điều kiện, yếu tố pháp lý cần thiết để đảm bảo cho giá trị

15

Lê Minh Hùng, Hiệu lực hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, luận án tiến sĩ, 2010.


16

pháp lý của hợp đồng đƣợc các bên tham gia, các cá nhân, tổ chức và cả cơ quan
nhà nƣớc có thẩm quyền liên quan phải tơn trọng, tn thủ16.
Hợp đồng dân sự phải đáp ứng những điều kiện nhất định mới đƣợc xem là có
hiệu lực. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự là tổng hợp những yêu cầu
pháp lý mà một hợp đồng phải đáp ứng, là một nội dung cơ bản quyết định sự ổn
định, tính hợp lý, tính hiệu quả của hợp đồng. Để ngƣời tham gia hợp đồng thoát
khỏi tâm lý hoang mang; tự tin tham gia vào quan hệ hợp đồng, tránh những hậu
quả khó lƣờng cho nền kinh tế và xã hội, tránh sự tùy tiện trong quá trình áp dụng

pháp luật của các chủ thể có liên quan thì pháp luật cần có những quy định cụ thể,
rành mạch về vấn đề này.
Vậy pháp luật đã quy định hợp đồng dân sự đáp ứng những điều kiện nào thì
đƣợc coi là có hiệu lực? Trong BLDS 2005 khơng trực tiếp quy định các điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng dân sự, chỉ quy định về điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự. Tuy nhiên, hợp đồng dân sự cũng là một giao dịch dân sự17, theo đó
điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự cũng là điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng dân sự.
“Điều 122. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau:
a) Ngƣời tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
c) Ngƣời tham gia giao dịch hồn tồn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong
trƣờng hợp pháp luật có quy định.”
Qua quy định trên cho thấy, hợp đồng dân sự có hiệu lực thì điều kiện cần là
phải đáp ứng các điều kiện chung về năng lực hành vi dân sự của ngƣời tham gia
hợp đồng dân sự, về mục đích, nội dung của hợp đồng, về yếu tố tự nguyện. Ngồi
ra cịn phải đáp ứng điều kiện về hình thức trong trƣờng hợp pháp luật có quy định.
16

Tập bài giảng Pháp luật về hợp đồng và bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng, Trƣờng Đại học Luật Tp.
HCM.
17
Điều 121 BLDS 2005: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phƣơng làm phát sinh,
thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.


17


Một trong những điều kiện tiên quyết để một hợp đồng dân sự có hiệu lực là
điều kiện về năng lực hành vi dân sự của ngƣời tham gia hợp đồng dân sự. Quy
định về điều kiện này là hết sức cần thiết, vì xuất phát từ bản chất của hợp đồng dân
sự. Bản chất của hợp đồng dân sự đƣợc thể hiện:


Là sự thỏa thuận giữa các bên;



Là sự thỏa thuận để tạo ra sự ràng buộc pháp lý giữa các bên;



Thỏa thuận chỉ có thể tạo lập hiệu lực pháp lý nếu thỏa thuận đó tuân thủ các
điều kiện do pháp luật quy định.
Nhƣ vậy, bản chất của hợp đồng dân sự trƣớc tiên là sự thỏa thuận giữa các

bên. Thỏa thuận trong Từ điển tiếng Việt có nghĩa là: đi tới sự đồng ý sau khi cân
nhắc, thảo luận18. Thỏa thuận cũng có nghĩa là sự nhất trí chung (khơng bắt buộc
phải đƣợc nhất trí hồn tồn), đƣợc thể hiện ở chỗ khơng có một ý kiến đối lập của
bất cứ một bộ phận nào trong số các bên liên quan đối với những vấn đề quan trọng
và thể hiện qua một quá trình mà mọi quan điểm của các bên liên quan đều phải
đƣợc xem xét và dung hòa đƣợc tất cả các tranh chấp; là việc các bên có ý định
chung, tự nguyện cùng nhau thực hiện những nghĩa vụ mà họ đã cùng nhau chấp
nhận vì lợi ích của các bên. Một chủ thể khơng có năng lực hành vi dân sự hoặc
khơng có mức độ năng lực hành vi dân sự phù hợp thì khơng có khả năng xác lập,
thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự. Khi ấy, chủ thể cũng sẽ khơng có khả năng
cùng chủ thể khác thảo luận, cân nhắc để thiết lập một thỏa thuận, từ đó tạo ra sự

ràng buộc pháp lý giữa các bên. Chỉ có những ngƣời có năng lực hành vi thì mới có
ý chí riêng, mới nhận thức đƣợc hành vi của họ để có thể tự mình xác lập các quyền
và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch đồng thời phải tự chịu trách nhiệm trong giao
dịch. Mặt khác, việc quy định chủ thể phải có năng lực hành vi dân sự phù hợp với
quan hệ pháp luật dân sự mà các bên tham gia cũng chính là bảo vệ cho các bên
tránh khỏi hoặc giảm thiểu các rủi ro khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự nói
chung và quan hệ hợp đồng nói riêng.
Vậy thế nào là có năng lực hành vi dân sự và có mức độ năng lực hành vi dân
sự phù hợp để tham gia quan hệ hợp đồng, đảm bảo cho hợp đồng dân sự đáp ứng
18

/>

18

điều kiện về năng lực hành vi để có hiệu lực? Nhƣ đã nêu ở mục 1.1, với các chủ
thể khác nhau thì yêu cầu về năng lực hành vi dân sự cũng khác nhau khi tham gia
các quan hệ hợp đồng.
Với cá nhân: các cá nhân ở mức độ năng lực hành vi dân sự nào thì đƣợc xác
lập, thực hiện các hợp đồng phù hợp với mức độ năng lực hành vi dân sự đó:
Cá nhân khơng có năng lực hành vi dân sự (chƣa đủ sáu tuổi) thì khơng đủ
điều kiện để xác lập hợp đồng. Mọi hợp đồng của ngƣời này đều phải do ngƣời đại
diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
Cá nhân có năng lực hành vi dân sự một phần (ngƣời từ đủ sáu tuổi đến chƣa
đủ 18 tuổi) đƣợc xác lập, thực hiện các hợp đồng phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng
ngày phù hợp với lứa tuổi và các hợp đồng khác khi đƣợc sự đồng ý của ngƣời đại
diện theo pháp luật. Trƣờng hợp ngƣời từ đủ 15 tuổi đến chƣa đủ 18 tuổi có tài sản
riêng đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện hợp đồng mà
khơng cần có sự đồng ý của ngƣời đại diện theo pháp luật, trừ trƣờng hợp pháp luật
có quy định khác.

Cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (ngƣời từ đủ 18 tuổi khơng bị Tịa
án tun bố mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự) đƣợc tham gia xác lập, thực
hiện tất cả các hợp đồng.
Cá nhân bị mất năng lực hành vi dân sự thì khơng đƣợc tự mình xác lập, thực
hiện mọi hợp đồng. Khi ấy đối tƣợng này đã khơng cịn đáp ứng u cầu về năng
lực hành vi để thiết lập một thỏa thuận tạo sự ràng buộc cho mình. Mọi hợp đồng
của ngƣời này phải do ngƣời đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
Cá nhân bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì chỉ đƣợc xác lập, thực hiện các
hợp đồng phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày và các hợp đồng liên quan đến tài
sản của mình khi có sự đồng ý của ngƣời đại diện theo pháp luật.
Nếu cá nhân xác lập, thực hiện các hợp đồng không phù hợp với mức độ năng
lực hành vi dân sự của mình thì bị xem là vi phạm điều kiện về năng lực hành vi
dân sự - một căn cứ để Tịa án tun bố hợp đồng dân sự vơ hiệu khi có yêu cầu của
ngƣời có quyền và lợi ích liên quan (sẽ phân tích ở mục 1.2.2)
Với pháp nhân: năng lực hành vi dân sự là những hoạt động mà pháp nhân
thực hiện dựa trên ý chí của pháp nhân. Khi thành lập thì pháp nhân đƣợc thực hiện


×