Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại theo quy định của pháp luật việt nam (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRỊNH ĐỒN HẠNH TRANG

NGHĨA VỤ HẠN CHẾ THIỆT HẠI THEO QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

TRỊNH ĐỒN HẠNH TRANG

NGHĨA VỤ HẠN CHẾ THIỆT HẠI THEO QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ MINH HÙNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả, số
liệu nghiên cứu nêu trong Luận văn là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về tất
cả những số liệu và kết quả nghiên cứu đó. Luận văn này chưa từng được ai cơng bố
trong bất kỳ cơng trình nào khác.

Tác giả luận văn

Trịnh Đoàn Hạnh Trang


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
BTTH
HĐTP
NXB
TANDTC
TTLT
VKSNDTC

Bộ luật Dân sự
Bồi thường thiệt hại
Hội đồng thẩm phán
Nhà xuất bản
Tòa án nhân dân tối cao
Thông tư liên tịch
Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .............................................................................. 3
3. Mục đích, đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài ....................... 5
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 6
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài ............................................... 6
6. Bố cục của luận văn ......................................................................................... 6
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHĨA VỤ HẠN CHẾ THIỆT HẠI .. 7
1.1. Khái quát về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại ..................................................... 7
1.1.1. Lựa chọn thuật ngữ: “nghĩa vụ” hay “trách nhiệm” ................................. 7
1.1.2. Khái niệm về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại ................................................ 10
1.1.3. Các đặc điểm pháp lý của nghĩa vụ hạn chế thiệt hại ............................. 12
1.2. Căn cứ pháp lý phát sinh nghĩa vụ hạn chế thiệt hại ............................... 14
1.2.1. Xuất phát từ nguyên tắc thiện chí, trung thực ........................................ 14
1.2.2. Xuất phát từ quan hệ hợp đồng .............................................................. 16
1.2.3. Xuất phát từ quan hệ ngoài hợp đồng .................................................... 20
1.2.4. Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại trong trường hợp đặc biệt............................. 23
1.2.5. Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại trong các trường hợp miễn trách nhiệm........ 24
1.2.6. Những căn cứ khác mà pháp luật có quy định ....................................... 30
1.3. Thực hiện nghĩa vụ hạn chế thiệt hai ....................................................... 31
1.3.1. Chủ thể thực hiện nghĩa vụ hạn chế thiệt hại ......................................... 31
1.3.2. Các yêu cầu pháp lý của việc thực hiện nghĩa vụ hạn chế thiệt hại ........ 33
1.4. Vi phạm nghĩa vụ và hậu quả pháp lý của việc vi phạm nghĩa vụ hạn chế
thiệt hại ............................................................................................................. 43
1.4.1. Vi phạm nghĩa vụ hạn chế thiệt hại........................................................ 43
1.4.2. Hậu quả pháp lý của việc vi phạm nghĩa vụ hạn chế thiệt hại ................ 45
Kết luận chương 1 ............................................................................................... 47
CHƯƠNG 2. BẤT CẬP CỦA QUY ĐỊNH VỀ NGHĨA VỤ HẠN CHẾ THIỆT
HẠI TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005 VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN . 48
2.1. Bất cập của quy định về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại trong Bộ luật Dân sự
năm 2005 ........................................................................................................... 48

2.1.1. Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại trong hợp đồng ............................................ 48


2.1.2. Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại ngoài hợp đồng ............................................ 52
2.1.3. Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại trong một số trường hợp miễn trách nhiệm .. 56
2.2 Thực tiễn giải quyết liên quan đến nghĩa vụ hạn chế thiệt hại ................ 60
2.2.1. Thực tiễn áp dụng nghĩa vụ hạn chế thiệt hại tại Tòa án ........................ 60
2.2.2. Thực tiễn áp dụng nghĩa vụ hạn chế thiệt hại tại Trọng tài thương mại .. 69
2.3. Những kiến nghị cụ thể ............................................................................. 73
2.3.1. Cần thiết phải quy định về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại trong Bộ luật Dân
sự mới ............................................................................................................. 74
2.3.2. Chủ thể có nghĩa vụ hạn chế thiệt hại .................................................... 76
2.3.3. Nội dung của nghĩa vụ hạn chế thiệt hại, các yêu cầu cụ thể của nghĩa vụ
hạn chế thiệt hại .............................................................................................. 78
2.3.4. Chế tài hay trách nhiệm của chủ thể do vi phạm nghĩa vụ hạn chế thiệt hại .. 79
Kết luận chương 2 ............................................................................................... 81
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bồi thường thiệt hại là chế định lớn trong pháp luật dân sự, để đảm bảo ổn
định trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức
khi có hành vi vi phạm.
Q trình áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự để giải quyết các tranh
chấp về bồi thường thiệt hại nói chung đã bộc lộ những vướng mắc, bất cập không

phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội, trong đó có quy định về “nghĩa vụ hạn chế
thiệt hại” đây là quy định quan trọng nhằm giảm bớt thiệt hại đến mức thấp nhất có
thể xảy ra, người có thể thực hiện được việc hạn chế thiệt hại là người gây thiệt hại,
nhưng người không kém phần quan trọng trong việc hạn chế thiệt hại đó chính là
người bị thiệt hại. Trong thực tiễn đời sống xã hội “người bị thiệt hại” có điều kiện
nhất để thực hiện hành vi của mình nhằm hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại xảy ra
nhưng người bị thiệt hại vẫn để mặc cho thiệt hại phát sinh. Nghĩa vụ hạn chế thiệt
hại nhằm khắc phục hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra lớn hơn, đây là biện pháp
nhằm bảo đảm bên vi phạm sẽ khơng dựa vào hồn cảnh để trục lợi, hơn nữa sẽ
thúc đẩy hai bên thiện chí trong giao dịch dân sự cũng như khi thiệt hại phát sinh.
Ở nước ta hiện nay, trong khoa học pháp lý tồn tại hai loại bồi thường thiệt
hại là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.
Khi giải quyết về bồi thường thiệt hại chúng ta phải xác định được lỗi của người
gây thiệt hại, có hậu quả xảy ra và mối quan hệ nhân - quả. Vấn đề đặt ra khi có sự
vi phạm xảy ra thì nghĩa vụ của các bên phải làm gì để giảm thiểu tối đa thiệt hại.
Vấn đề này trong Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng chưa có quy định thành một điều
luật riêng biệt để điều chỉnh vấn đề này.
Thứ nhất: Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại trong hợp đồng, Bộ luật Dân sự năm
2005 cũng có một số loại hợp đồng dân sự thơng dụng quy định về nghĩa vụ này, ví
dụ như quy định nghĩa vụ trông coi, bảo quản tài sản của bên vận chuyển tài sản nếu
làm mất mát, hư hỏng thì phải bồi thường1; bên bán được giảm mức bồi thường
thiệt hại nếu bên mua không áp dụng các biện pháp cần thiết mà khả năng cho phép
nhằm ngăn chặn, hạn chế thiệt hại2; nghĩa vụ phải trông coi tài sản của bên thuê vận
chuyển tài sản nếu làm mất mát, hư hỏng thì khơng được bồi thường3, nghĩa vụ của
bên gửi giữ tài sản là phải thông báo ngay cho bên giữ tài sản biết tình trạng tài sản
1

Khoản 5 Điều 439 BLDS năm 2005.

2


Khoản 2 Điều 448 BLDS năm 2005.

3

Khoản 2 Điều 541 BLDS năm 2005.


2

và biện pháp bảo quản thích hợp đối với tài sản gửi giữ, nếu khơng thực hiện nghĩa
vụ này thì không được bồi thường4... Tuy nhiên, các quy định này cịn mờ nhạt,
khơng rõ ràng và chỉ tồn tại trong một vài trường hợp đặc biệt của pháp luật dân sự,
chưa có quy định điều chỉnh chung cho tất cả các hợp đồng.
Thứ hai: Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại ngồi hợp đồng thì Bộ luật Dân sự năm
2005 khơng có một điều luật quy định về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại của người gây
thiệt hại cũng như người bị thiệt hại, trong khi đó khoản 3 Điều 307 Bộ luật Dân sự
năm 2005 quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất bao gồm cả chi
phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại do bên vi phạm gây ra. Tuy
nhiên điều luật lại khơng quy định bên bị vi phạm có nghĩa vụ hạn chế thiệt hại
trong khả năng có thể làm cho bên bị vi phạm không chủ động thực hiện những biện
pháp hạn chế thiệt hại sau khi hành vi vi phạm đã xảy ra và điều luật cũng không
buộc bên bị vi phạm phải gánh chịu trách nhiệm về những thiệt hại lẽ ra đã có thể
hạn chế được nhưng do bên bị thiệt hại để mặc nên hậu quả mới phát sinh.
Rõ ràng, việc quy định nghĩa vụ hạn chế thiệt hại của các bên, làm cho mỗi
bên đều có trách nhiệm đối với chính bản thân mình trong việc thực hiện quyền
nghĩa vụ trong đời sống xã hội, nhằm ngăn chặn một phần thiệt hại xảy ra, tránh tổn
thất lớn về kinh tế xã hội. Vì vậy, khi người có khả năng hạn chế thiệt hại mà không
thực hiện, trường hợp này phải xem người bị thiệt hại cũng có lỗi một phần để xét
mức độ thiệt hại phải bồi thường. Nếu thiệt hại được xác định đầy đủ và chính xác

thì vấn đề ấn định mức bồi thường tương đối dễ dàng, bảo đảm tính pháp chế, bảo
vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại, đồng thời người có trách
nhiệm bồi thường cũng được pháp luật bảo vệ thông qua việc bồi thường cho người
bị thiệt hại.
Theo Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì mục tiêu chung là “Hoàn thiện pháp luật
dân sự, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi tham gia giao
dịch, thúc đẩy các quan hệ dân sự phát triển lành mạnh, hoàn thiện chế định hợp
đồng, bồi thường, bồi hoàn ... ”. Điều này cho thấy nhu cầu hồn thiện quy định về
bồi thường thiệt hại nói chung, nghĩa vụ hạn chế thiệt hại nói riêng là một nhu cầu
thực tiễn mà Đảng và nhà nước quan tâm. Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về
nghĩa vụ hạn chế thiệt hại theo quy định của pháp luật Việt Nam là cần thiết và có
tính thực tiễn cao khi nước ta đang tiến hành sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự năm

4

Khoản 1 Điều 560 BLDS năm 2005.


3

2005. Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại theo
quy định của pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề nghĩa vụ hạn chế thiệt hại trong Bộ luật Dân sự Việt Nam là một quy
định khá mới mẽ, chưa được quan tâm và nghiên cứu của các nhà khoa học pháp lý,
luật sư và những người học luật nói chung.
Qua tìm hiểu và nghiên cứu tác giả nhận thấy chưa có một đề tài nào ở cấp
độ Luận án tiến sỹ, Luận văn cao học hay ở cấp độ cử nhân nghiên cứu liên quan
đến nghĩa vụ hạn chế thiệt hại. Các sách chuyên khảo, giáo trình, bình luận … cũng

không đề cập nhiều đến loại nghĩa vụ này, chỉ có một số bài viết trong sách chuyên
khảo có liên quan đến vài khía cạnh nhỏ của vấn đề này như:
Đỗ Văn Đại (2010), Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án,
(tái bản lần thứ 2), NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Đỗ Văn Đại (2013), Các biện
pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam, (tái bản
có sửa chữa, bổ sung), Sách chuyên khảo, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Đỗ
Văn Đại (2014), Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án, tập 2 (tái
bản lần thứ 4), NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Đỗ Văn Đại (2014), Luật bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng - Bản án và bình luận bản án, NXB. Đại học quốc
gia - Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh. Các cơng trình khoa học này chuyên
sâu bình luận những bản án đã được công bố và trong các cuốn chuyên khảo này tác
giả đã dành một chuyên đề để phân tích về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại. Tuy nhiên, vì
đây là sách chuyên khảo giải quyết khá nhiều vấn đề pháp lý về hợp đồng, về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng nên nghĩa vụ hạn chế thiệt hại chưa được nghiên
cứu toàn diện mà chỉ dừng lại ở gốc độ bình luận, phân tích, góp ý và nêu ra sự cần
thiết phải thừa nhận quy định nghĩa vụ hạn chế thiệt hại trong pháp luật Việt Nam.
Đồng thời, có một số bài báo khoa học đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Tạp chí Luật học … nghiên cứu có liên quan tới một
số khía cạnh pháp lý về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại như:
Phạm Kim Anh (2003), “Khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự”, tạp chí
Khoa học pháp lý, số 03/2003. Theo tác giả một cá nhân hay pháp nhân, được coi là
khơng có lỗi nếu khi áp dụng tất cả mọi biện pháp để thực hiện đúng nghĩa vụ đã
biểu hiện sự quan tâm chu đáo mà tính chất của nghĩa vụ và điều kiện lưu thông dân
sự yêu cầu đối với họ.
Đỗ Thành Công (2010), “Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng”,
tạp chí Khoa học pháp lý, số 04/2010. Tác giả cũng phân tích một số quy định về


4


nghĩa vụ hạn chế thiệt hại trong Luật Thương mại và Bộ luật dân sự Việt Nam. Tuy
nhiên, bài viết chỉ mới đề cập đến nghĩa vụ hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
Dương Anh Sơn, Nguyễn Ngọc Sơn (2007), “Tác động của các hình thức lỗi
đến việc xác định trách nhiệm hợp đồng nhìn từ góc độ trung thực và thiện chí”, tạp
chí Khoa học pháp lý, số 01/2007. Theo quan điểm của các tác giả thì nghĩa vụ hạn
chế thiệt hại của người bị thiệt hại trong trường hợp vi phạm hợp đồng là thật sự cần
thiết. Tuy nhiên, nghĩa vụ này chỉ đặt ra trong trường hợp vi phạm hợp đồng do lỗi
vơ ý cịn vi phạm hợp đồng do lỗi cố ý thì khơng buộc bên bị thiệt hại phải có nghĩa
vụ hạn chế thiệt hại.
Đồng thời tác giả Nguyễn Xuân Quang, trao đổi về bài “Tác động của các
hình thức lỗi đến việc xác định trách nhiệm hợp đồng nhìn từ góc độ trung thực và
thiện chí”, tạp chí Khoa học pháp lý, số 02/2007. Theo tác giả một bên, mặc dù đã
có hành vi cố ý vi phạm hợp đồng với đối tác nhưng khơng có nghĩa rằng pháp luật
quy định bên đối tác hành xử bằng một hành vi không thiện chí với bên đã vi phạm.
Khơng vì lý do trước đó bên đối tác đã có hành vi vi phạm pháp luật mà bên bị vi
phạm bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Điều quan trọng là pháp luật quy định những giải
pháp để một mặt xử lý những hành vi vi phạm và mặt khác, hạn chế một cách tối đa
những thiệt hại, tổn thất không cần thiết trong các giao lưu dân sự.
Hay Lê Trường Sơn (2014), “Việc ghi nhận nghĩa vụ cung cấp thông tin tiền
hợp đồng, thực tiễn thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam”, tạp chí Khoa học pháp
lý số 5/2014. Phùng Trung Tập (2004), “Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng”, tạp chí Luật học, số 10/2004. Đinh Văn Thanh (1999), “Đặc trưng
pháp lý của hợp đồng dân sự”, tạp chí Luật học, số 04/1999. Nguyễn Anh Thư
(2014), “Nguyên tắc thiện chí và vấn đề hồn thiện Bộ luật Dân sự Việt Nam, tạp
chí Nhà nước và Pháp luật”, số 10(318)/2014…
Các cơng trình nghiên cứu trên là những tài liệu tham khảo vô cùng quý báu,
nhiều thông tin quan trọng, là nguồn nhận thức cơ bản giúp cho tác giả có định
hướng và phục vụ việc nghiên cứu đề tài của mình. Tuy nhiên, vì đối tượng nghiên
cứu của các tài liệu này là rất nhiều nên các tác giả chưa đi sâu nghiên cứu những
vấn đề cơ bản của nghĩa vụ hạn chế thiệt hại theo quy định của pháp luật Việt Nam

là gì, ai là người phải hạn chế thiệt hại, hoàn cảnh nào cần phải hạn chế thiệt hại,
cách thức hạn chế thiệt hại, hậu quả khi vi phạm nghĩa vụ và mức bồi thường khi
các bên đã thực hiện nghĩa vụ hạn chế thiệt hại cũng như mức bồi thường khi các
bên không cố gắng hạn chế thiệt hại … và cũng chưa có một cơng trình nào đưa ra
những giải pháp để hồn thiện quy định trên.


5

Từ thực tiễn tình hình nghiên cứu như trên, việc lựa chọn nghiên cứu về
“Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại theo quy định của pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận
văn thạc sĩ nhằm nghiên cứu chuyên sâu để làm rõ quy định về nghĩa vụ hạn chế
thiệt hại là rất có ý nghĩa và cần thiết, đồng thời không trùng với các đề tài nghiên
cứu trước đây. Việc nghiên cứu cần được đầu tư một cách toàn diện, chuyên sâu
góp phần tạo cơ sở lý luận và thực tiễn trong công cuộc sửa đổi, bổ sung Bộ luật
Dân sự năm 2005.
3. Mục đích, đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu: Thông qua việc nghiên cứu, đánh giá thực tiễn giải
quyết các vụ án về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại tại Tòa án các cấp, tại Trọng tài
thương mại Việt Nam. Đối chiếu với Bộ luật Dân sự năm 2005, Nghị quyết của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và các văn bản pháp luật khác của Việt
Nam có quy định liên quan về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại, đồng thời so sánh, tham
chiếu với những nội dung tương ứng của pháp luật quốc tế và một số quốc gia trên
thế giới về quy định này nhằm góp phần làm rõ, làm phong phú thêm về cơ sở lý
luận, thực tiễn của nghĩa vụ hạn chế thiệt hại.
Trên cơ sở kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, tác giả đề xuất một số kiến nghị
cần được quy định về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại trong Bộ luật Dân sự hiện hành, từ
đó góp phần tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong hoạt động áp dụng pháp luật của các
Tòa án, đồng thời đưa quy định nghĩa vụ hạn chế thiệt hại của pháp luật Việt Nam
tương đồng với các hệ thống pháp luật trên thế giới.

* Đối tượng nghiên cứu:
Do Bộ luật Dân sự năm 2005 chưa quy định hạn chế thiệt hại như một nghĩa
vụ nên đối tượng nghiên cứu mà tác giả hướng đến chính là những quy định trong
Bộ luật Dân sự có đề cập đến một khía cạnh nào đó ngằm hiểu là loại nghĩa vụ này.
Trước tiên, luận văn nghiên cứu những vấn đề cơ bản về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại,
từ những vấn đề cơ bản xoay quanh loại nghĩa vụ này, tác giả nghiên cứu những bất
cập của pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng và cuối cùng đưa ra một số kiến nghị
cần được bổ sung, hoàn thiện trong Bộ luật Dân sự sửa đổi, bổ sung.
* Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Trong phạm vi đề tài này, tác giả tập trung
nghiên cứu những vấn đề cơ bản về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại với các nội dung như
sau: Khái niệm, các đặc điểm, căn cứ pháp lý phát sinh, đặc biệt là xác định chủ thể
và các yêu cầu pháp lý của việc thực hiện nghĩa vụ hạn chế thiệt hại cũng như hậu
quả pháp lý của việc vi phạm nghĩa vụ hạn chế thiệt hại. Bất cập của quy định về
nghĩa vụ hạn chế thiệt hại trong Bộ luật Dân sự năm 2005 và kiến nghị hoàn thiện.


6

4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng đan xen các phương pháp phân
tích, tổng hợp, đánh giá thực tiễn và bình luận án.
Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp luật được sử dụng hầu hết trong
toàn bộ các chương của luận văn và tập trung nhất trong chương những vấn đề cơ
bản về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại (chương 1 của luận văn). Cụ thể, luận văn sẽ phân
tích các quy định của Bộ luật Dân sự, tổng hợp các bài viết và ý kiến của các tác giả
liên quan đến vấn đề nghĩa vụ hạn chế thiệt hại. Bên cạnh đó, luận văn cũng sử
dụng một phương pháp rất quan trọng nhằm từng bước đưa pháp luật Việt Nam
tương đồng với pháp luật các nước tiến bộ, đó là phương pháp so sánh pháp luật. So
sánh quy định hiện hành và thực tiễn áp dụng nghĩa vụ hạn chế thiệt hại ở nước ta,
cũng như so sánh với quy định của các Công ước quốc tế, các nguyên tắc pháp luật

hợp đồng quốc tế được thừa nhận rộng rãi. Phương pháp này áp dụng xuyên suốt
các mục của luận văn.
Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn: Được sử dụng trong việc hoàn
thiện pháp luật về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại, phương pháp này được sử dụng chủ
yếu ở chương 2. Ngồi ra, tác giả cịn sử dụng phương pháp bình luận án để làm rõ
thực trạng áp dụng pháp luật. Từ đó, tổng hợp cuối cùng để đưa ra một số kiến nghị
hoàn thiện đề tài đang nghiên cứu.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ trong khoa học pháp
lý những vấn đề cơ bản về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại, tìm ra mối liên hệ giữa thực
tiễn áp dụng với các quy định của pháp luật hiện hành để thấy được những bất cập
trong quá trình áp dụng pháp luật, chứng minh tầm quan trọng của loại nghĩa vụ này
và sự cần thiết phải được quy định nghĩa vụ hạn chế thiệt hại trong Bộ luật Dân sự
Việt Nam. Luận văn đưa ra những đề xuất cần được luật hóa và mong muốn được
quan tâm trong đợt sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự năm 2005 lần này. Kết quả
nghiên cứu đề tài có thể được sử dụng làm nguồn tài liệu tham khảo phục vụ cho
việc học tập, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật của sinh viên và cho những ai quan tâm
đến những vấn đề được đề cập trong nội dung đề tài.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung đề tài gồm hai chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại.
Chương 2: Bất cập của quy định về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại trong Bộ luật
Dân sự năm 2005 và kiến nghị hoàn thiện.


7

CHƯƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHĨA VỤ HẠN CHẾ THIỆT HẠI


1.1. Khái quát về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại
1.1.1. Lựa chọn thuật ngữ: “nghĩa vụ” hay “trách nhiệm”
Theo Từ điển Luật học, “Nghĩa vụ là việc phải làm theo bổn phận của mình,
là mối quan hệ phát sinh giữa một hay nhiều chủ thể phải làm một công việc, thực
hiện một hành vi hoặc không được làm một cơng việc, một hành vi, vì lợi ích của
một hoặc nhiều chủ thể khác”5. Theo quy định của BLDS năm 2005 thì “nghĩa vụ
dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể phải chuyển giao vật, chuyển
giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không thực
hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác”6. Theo đó,
nghĩa vụ được đề cập ở đây được hiểu là những cơng việc mà chủ thể có nghĩa vụ
phải thực hiện nhằm thỏa mãn lợi ích của bên có quyền.
Qua định nghĩa này có thể suy rộng ra, nghĩa vụ thể hiện sự ràng buộc giữa
các bên có liên quan trong những mối quan hệ cụ thể. Như vậy, hiểu theo nghĩa
rộng, nghĩa vụ là một quan hệ pháp luật dân sự, trong đó một bên chủ thể là một
hoặc nhiều người phải làm hoặc không được làm một hoặc một số cơng việc nhất
định vì lợi ích của chủ thể phía bên kia gọi là người có nghĩa vụ. Bên được hưởng
lợi ích có quyền u cầu phía bên kia thực hiện hoặc khơng thực hiện một cơng việc
vì quyền lợi của mình được gọi là người có quyền. Phần lớn các quan hệ nghĩa vụ,
mỗi bên chủ thể đều có quyền yêu cầu bên kia thực hiện những hành vi nhất định
nhằm đem lại lợi ích cho mình. Ngược lại họ cũng phải thực hiện những nghĩa vụ
nhất định nhằm đáp ứng lợi ích cho phía bên kia. Nghĩa là trong quan hệ nghĩa vụ,
mỗi bên chủ thể vừa là người có quyền, vừa là người có nghĩa vụ, trừ những quan
hệ đơn vụ thì quyền của bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia. Vì vậy, phải
xác định mỗi chủ thể có những quyền nào và phải thực hiện những hành vi gì, từ đó
xác định phương thức thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự của các chủ thể.
Khác với nghĩa vụ dân sự, trách nhiệm dân sự chỉ có thể là hậu quả pháp lý
bất lợi mà một bên phải gánh chịu trước bên kia do có hành vi xâm phạm đến quyền
5


Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, NXB. Từ điển Bách Khoa và
NXB. Tư pháp, tr.560.
6

Điều 280 BLDS năm 2005.


8

và lợi ích hợp pháp của bên kia. Trách nhiệm dân sự thường gắn liền với những hệ
quả bất lợi và nếu người có trách nhiệm mà khơng tự nguyện thực hiện thì cịn bị
cưỡng chế thực hiện. Theo Điều 7 BLDS năm 2005 quy định: “Các bên phải
nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình và tự chịu trách nhiệm về việc
không thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa vụ, nếu khơng tự nguyện thực
hiện thì có thể bị cưỡng chế thực hiện theo quy định của pháp luật”. Như vậy, trách
nhiệm là khái niệm thể hiện trên cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực. Trước hết
theo khía cạnh tích cực là việc cá nhân, tổ chức phải hành động phù hợp với quy
định của pháp luật, lựa chọn phương án hành động tối ưu và hợp lí nhất. Nếu thực
hiện khơng đúng, khơng đầy đủ, vi phạm pháp luật thì sẽ gánh chịu những hậu quả
do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình.
Tại khoản 1 Điều 302 BLDS năm 2005 cũng quy định: “Bên có nghĩa vụ mà
khơng thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân
sự đối với bên có quyền”. Trách nhiệm dân sự như chính là hệ quả của sự vi phạm
nghĩa vụ hoặc hệ quả của hành vi xâm phạm tới các quyền, lợi ích hợp pháp của chủ
thể khác. Theo nghĩa hẹp, trong lĩnh vực nghĩa vụ hợp đồng thì nghĩa vụ có trước,
trách nhiệm có sau, có nghĩa là khi một người có nghĩa vụ phải thực hiện trước bên
có quyền nhưng đã khơng thực hiện đúng nghĩa vụ của mình trước bên có quyền thì
mới bị buộc phải gánh chịu trách nhiệm.
Ví dụ, trong hợp đồng mua bán nhà, bên bán có nghĩa vụ giao nhà nhưng
người có nghĩa vụ giao nhà đã khơng thực hiện việc giao nhà nên phải có trách

nhiệm giao nhà và nếu do không giao nhà mà gây thiệt hại thì cịn phải bồi thường
thiệt hại (BTTH) cho bên kia. Như vậy, trách nhiệm (buộc phải giao nhà) chỉ đặt ra
khi đã vi phạm nghĩa vụ giao nhà và trách nhiệm BTTH chỉ đặt ra nếu không giao
nhà mà gây thiệt hại cho bên kia.
Đối với quan hệ nghĩa vụ ngồi hợp đồng, cơ chế hình thành trách nhiệm có
khác biệt, đó là việc phát sinh trách nhiệm: trách nhiệm ngồi hợp đồng thơng
thường7 phát sinh do hành vi (trái pháp luật) xâm phạm đến quyền và lợi ích của
chủ thể khác được pháp luật bảo vệ. Ví dụ: khi đi xe máy đã gây tai nạn cho người
khác là đã xâm phạm đến lợi ích của người đó được bảo vệ, khi xâm phạm thì người
xâm phạm phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý. Như vậy, trách nhiệm tồn tại khi có
vi phạm nghĩa vụ hoặc vi phạm pháp luật mới phát sinh trách nhiệm.
7

Thường thì trách nhiệm ngồi hợp đồng phát sinh do hành vi trái pháp luật, nhưng cũng có nhiều trường
hợp phát sinh do “bất tác vi” hoặc do đồ vật, súc vật, cây cối, nguồn nguy hiểm cao độ… gây ra. Trong các
trường hợp đó, chỉ có “việc gây thiệt hại” là trái pháp luật, chứ khơng có “hành vi gây thiệt hại” cụ thể.


9
Nghĩa vụ hình thành do cam kết, thỏa thuận hoặc theo luật định8, đã là nghĩa
vụ thì ràng buộc người có nghĩa vụ phải thực hiện, phải hành động vì lợi ích của các
bên nhưng trách nhiệm dân sự chỉ xuất hiện khi đã có hành vi vi phạm của bên chủ
thể chịu trách nhiệm dân sự. Chủ thể chịu trách nhiệm có thể chính là người gây
thiệt hại (tự mình gây thiệt do hoạt động của bản thân chủ thể) hoặc cũng có thể là
pháp nhân, cha mẹ của người chưa thành niên dưới 15 tuổi, người sử dụng lao động,
người dạy nghề… phải chịu trách nhiệm do hành vi của người của pháp nhân, người
chưa thành niên dưới 15 tuổi, người làm công, học nghề gây ra... Việc vi phạm
nghĩa vụ của bên này sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích vật chất của bên kia thì
phải gánh chịu những hậu quả bất lợi như phải BTTH để thỏa mãn quyền lợi chính
đáng của người bị vi phạm, khắc phục những hậu quả vật chất cho người bị vi phạm

nên đây là một hình thức cưỡng chế của nhà nước.
Theo một tác giả thì trong nhiều hệ thống luật, thuật ngữ “nghĩa vụ hạn chế
thiệt hại” theo nghĩa của “nghĩa vụ dân sự” không được sử dụng. Bởi nghĩa vụ dân
sự phải có hai chủ thể là bên có quyền và bên có nghĩa vụ, bên có quyền được yêu
cầu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ. Bản chất này không thể hiện rõ trong quan
hệ mà chúng ta đang nghiên cứu. Nếu là quan hệ nghĩa vụ dân sự thì thơng thường
có thể cưỡng chế bên có nghĩa vụ thực hiện, trong khi đó khả năng cưỡng chế này
khơng tồn tại ở đây. Vì vậy, tác giả sử dụng thuật ngữ có nghĩa chung hơn là “trách
nhiệm hạn chế thiệt hại”9. Cũng có tác giả đồng ý với quan điểm trên10.
Qua nghiên cứu, có những nghĩa vụ tự nhiên mà khơng ai có quyền, có
những cái mà người có quyền nhưng khơng tương ứng với ai có nghĩa vụ, do đây là
quyền tự nhiên, nghĩa vụ tự nhiên nên không phải nhất thiết ai có quyền thì mới có
nghĩa vụ đối kháng và ngược lại. Ví dụ như việc thờ cúng tổ tiên hay như quyền
nhân thân, quyền được hưởng thừa kế, quyền tặng cho tài sản… thì khơng nhất thiết
phải có người có nghĩa vụ. Trong nhiều quy định của BLDS, kể cả trong lĩnh vực
hợp đồng, pháp luật còn quy định các loại nghĩa vụ mà không gắn với “một địa chỉ”
được hưởng quyền cụ thể nào, ví dụ như nghĩa vụ thông báo trong một số trường
hợp luật định: khoản 1 Điều 187 BLDS năm 2005 quy định về nghĩa vụ “thông
báo” của người phát hiện được tài sản bị đánh rơi, bỏ qn, chơn giấu, chìm đắm;
8

Điều 281 BLDS năm 2005.

9

Đỗ Văn Đại (2013), Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam,
(tái bản có sửa chữa, bổ sung), Sách chuyên khảo, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 258 - 259.
10

Đỗ Thành Công (2010), “Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng”, tạp chí Khoa học pháp lý, số

04/2010, từ tr.22.


10

hay nghĩa vụ thông báo được quy định tại Điều 285, Điều 286 BLDS năm 2005…
Liên quan đến nguyên tắc thiện chí, trung thực thì ta có thể hiểu khi người có quyền
có khả năng để hạn chế được thiệt hại phát sinh mà khơng thực hiện thì người có
nghĩa vụ có thể yêu cầu giảm bớt thiệt hại phát sinh hoặc người có quyền đã thực
hiện nghĩa vụ hạn chế thiệt hại mà đã bỏ ra những chi phí cần thiết để thực hiện thì
người có nghĩa vụ phải bồi thường những chi phí này. Như vậy có nghĩa người có
quyền trong khía cạnh hạn chế thiệt hại này trở thành người có nghĩa vụ và người
có nghĩa vụ trở thành người có quyền. Nếu người có quyền khơng thực hiện việc
hạn chế thiệt hại mà để thiệt hại phát sinh lớn hơn thì người có quyền khơng được
bồi thường thiệt hại phát sinh, đó là chế tài cưỡng chế đối với người không thực
hiện việc hạn chế thiệt hại, là việc hành xử công bằng đối với các bên. Vì vậy, nghĩa
vụ hạn chế thiệt hại là một dạng nghĩa vụ dân sự có đầy đủ các chủ thể tham gia.
Ví dụ: A hợp đồng thuê nhà B năm tháng với giá 2.000.000 đồng/01tháng,
nhưng mới 03 tháng thì A trả nhà là vi phạm hợp đồng. Sau đó có người đến hỏi
th nhà nhưng B khơng cho th mà để phòng trống để yêu cầu A phải BTTH.
Như vậy, trong khía cạnh hợp đồng th nhà thì B là người có quyền và A là người
có nghĩa vụ nhưng sau khi A vi phạm hợp đồng phát sinh việc hạn chế thiệt hại thì ở
khía cạnh này A là người có quyền và B là người có nghĩa vụ hạn chế thiệt hại.
Việc hạn chế thiệt hại đặt ra khi xem hạn chế thiệt hại như là nghĩa vụ, đã là
nghĩa vụ sẽ ràng buộc người có khả năng hạn chế thiệt hại phải thực hiện trong điều
kiện có thể. Vì vậy, theo tác giả dùng từ “nghĩa vụ ” là phù hợp. Do đó, tác giả sử
dụng thuật ngữ “nghĩa vụ hạn chế thiệt hại” trong toàn bộ luận văn của mình.
1.1.2. Khái niệm về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại
Khi quan hệ nghĩa vụ phát sinh, bên có nghĩa vụ phải thực hiện hoặc khơng
được thực hiện những cơng việc nhất định vì lợi ích của bên có quyền. Tuy thế,

khơng phải trong mọi trường hợp, quan hệ nghĩa vụ đều diễn ra theo đúng mong
muốn của các bên và đúng quy định pháp luật. Vì những lý do chủ quan hoặc khách
quan, có thể xảy ra trường hợp bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ gây thiệt hại cho
bên có quyền. Trong hồn cảnh đó bên có quyền khơng hành xử thụ động, để mặc
cho thiệt hại xảy ra mà cần phải tiến hành các biện pháp hợp lý nhằm giảm thiểu
hoặc chặn đứng thiệt hại. Theo đó chế định “Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại” ra đời.
Thụy Sỹ là nước theo hệ thống dân luật và đã ghi nhận nghĩa vụ hạn chế thiệt
hại đối với người bị thiệt hại trong BLDS11. Bộ luật Dân sự Cộng hòa liên bang Đức
11

Dẫn theo Đỗ Văn Đại (2010), Luật Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam, sách chuyên khảo,


11

cũng quy định về nghĩa vụ hạn chế thiệt hại trong một số trường hợp như trong
trường hợp đổ nhà: “…Nghĩa vụ bồi thường không phát sinh nếu người chiếm giữ
đã chú trọng tới các biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn mối nguy hiểm đó…”. Hay
quy định về trách nhiệm của người công chức khi vi phạm nghĩa vụ: “Nghĩa vụ bồi
thường không phát sinh, nếu người bị thiệt hại cố ý hoặc vô ý để mặc không sử
dụng các biện pháp pháp lý nhằm ngăn chặn thiệt hại”12.
Điều 114 Những nguyên tắc chung của luật Dân sự nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa quy định: “Bên bị thiệt hại do bên kia vi phạm hợp đồng gây ra phải áp
dụng mọi biện pháp để ngăn chặn thiệt hại tiếp theo. Bên bị thiệt hại khơng được
quyền địi bồi thường những thiệt hại quá mức xảy ra do mình đã khơng có hành
động ngăn chặn thiệt hại”.
Ở Việt Nam “nghĩa vụ hạn chế thiệt hại” chưa được quy định trong BLDS
hiện hành nhưng BLDS lại quy định chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc
phục thiệt hại thì được bồi thường13. Tuy nhiên, Dự thảo BLDS sửa đổi đã đưa
nghĩa vụ này vào Điều 386 “Bên yêu cầu BTTH phải áp dụng các biện pháp cần

thiết, hợp lý để hạn chế thiệt hại cho mình”. Đây là điểm tiến bộ của BLDS sửa đổi.
Vậy, nghĩa vụ hạn chế thiệt hại là gì?
Theo Từ điển Luật học, thiệt hại là tổn thất về tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân; tài sản,
danh dự, uy tín của pháp nhân hoặc chủ thể khác được pháp luật bảo vệ14. Theo
Đại từ điển tiếng việt, thiệt hại là mất mát, hư hỏng nặng nề về người và của15.
Theo ý kiến của các nhà bình luận BLDS, thiệt hại là sự giảm sút về lợi ích
vật chất của người bị thiệt hại mà họ đã có hoặc sự mất mát lợi ích vật chất mà
chắc chắn họ sẽ có lợi (lợi nhuận chắc chắn sẽ thu được)16.
Trong thực tế, thiệt hại xảy ra do vi phạm nghĩa vụ dân sự bao gồm: Những
tài sản bị mất mát hoặc bị hủy hoại hoàn toàn, những hư hỏng, giảm sút giá trị về tài
sản, những chi phí mà người bị vi phạm phải bỏ ra để ngăn chặn, hạn chế và khắc

NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.325 - 326.
12

Điều 839, Điều 839 Bộ luật Dân sự Cộng hòa liên bang Đức.

13

Khoản 2 Điều 302, khoản 4 Điều 608, khoản 1 Điều 611 BLDS năm 2005.

14
15
16

Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Sđd 5, tr.713.
Nguyễn Như Ý (Cb) (1998), Đại từ điển tiếng việt, NXB. Văn hóa thơng tin, Hà Nội, tr.1571.

Hồng Thế Liên (Cb) (2013), Bình luận khoa học Bộ Luật Dân sự, tập 2, NXB. Chính trị quốc gia, Hà

Nội, tr.713.


12

phục những hậu quả do người vi phạm nghĩa vụ gây ra, những tổn thất do thu nhập
thực tế bị mất, bị giảm sút. Về mặt lí luận, người ta chia thiệt hại nói trên thành hai
loại, thiệt hại trực tiếp là những thiệt hại đã xảy ra một cách khách quan trong thực
tế mà mức thiệt hại dễ dàng xác định như: Chi phí thực tế và hợp lí là những khoản
tiền hoặc những lợi ích vật chất khác mà người bị thiệt hại phải bỏ ra ngoài dự định
của mình để khắc phục những tình trạng xấu do hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên
kia gây ra; tài sản bị hư hỏng, mất mát … Những thiệt hại gián tiếp là những thiệt
hại mà phải dựa trên sự tính tốn khoa học mới xác định được mức độ thiệt hại.
Thiệt hại này còn được gọi là thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút17.
Hạn chế thiệt hại là giới hạn lại thiệt hại có thể xảy ra lớn hơn, không làm
cho thiệt hại phát sinh, trầm trọng thêm. Là biện pháp phòng ngừa mà người có khả
năng hạn chế phải thực hiện. Mục đích của hành vi hạn chế thiệt hại là nhằm chặn
đứng hoặc giảm bớt nguy cơ gây thiệt nên biện pháp hạn chế thiệt hại trong từng
trường hợp cũng khác nhau, thực hiện việc hạn chế một cách hợp lý và thuận tiện
nhất để thiệt hại phải nhỏ hơn thiệt hại đáng lẽ xảy ra nếu không thực hiện việc hạn
chế thiệt hại và đây là việc làm tích cực, có lợi cho xã hội cần phải ràng buộc các
bên phải thực hiện. Vì vậy, như đã phân tích ở Mục 1.1.1 và từ những phân tích nêu
trên, theo tác giả, “Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại là việc mà người bị vi phạm phải áp
dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý trong khả năng của mình để ngăn chặn, hạn
chế nguy cơ gây ra thiệt hại hoặc thiệt hại đang xảy ra”.
1.1.3. Các đặc điểm pháp lý của nghĩa vụ hạn chế thiệt hại
Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại là nghĩa vụ đảm bảo tính cơng bằng hợp lý bảo vệ
người có quyền và cũng là bảo vệ người có nghĩa vụ, bên cạnh những đặc điểm của
nghĩa vụ dân sự thơng thường thì nghĩa vụ hạn chế thiệt hại cịn có những đặc điểm
riêng phân biệt với các nghĩa vụ thông thường khác như sau:

- Nguồn gốc của nghĩa vụ hạn chế thiệt hại xuất phát từ quan hệ hợp đồng và
xuất phát từ quan hệ ngoài hợp đồng hoặc các trường hợp miễn trách nhiệm, các
trường hợp khác do pháp luật quy định. Nói chung là phát sinh từ quan hệ dân sự,
do các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
- Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại đặt ra khi người có nghĩa vụ đã khơng thực hiện
đúng nghĩa vụ hoặc một người đã có hành vi gây thiệt hại cho người khác, có nghĩa
là đã có hành vi vi phạm xảy ra thì mới phát sinh nghĩa vụ hạn chế. Nghĩa vụ hạn
17

Đinh Văn Thanh & Nguyễn Minh Tuấn (Cb) (2008), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam – Đại học Luật Hà
Nội, tập 2, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.49 – 50.


13

chế thiệt hại có thể là nghĩa vụ đã có từ khi ký kết hợp đồng bảo hiểm (do hợp đồng
bảo hiểm có quy định nghĩa vụ này), hoặc nghĩa vụ hạn chế thiệt hại trong hợp đồng
gửi giữ, bảo đảm …
- Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại tác động đến mức thiệt hại trong thực tế là làm
cho thiệt hại nghiêm trọng hơn, trầm trọng hơn hay không chứ không ảnh hưởng tới
sự tồn tại hay không tồn tại của trách nhiệm BTTH. Thiệt hại lẽ ra có thể hạn chế
được thường là thiệt hại gián tiếp nên mục đích của việc hạn chế thiệt hại là nhằm
ngăn chặn, hạn chế thiệt hại phát sinh hay trầm trọng hơn. Vì vậy, nếu trước khi xảy
ra vi phạm, bên bị vi phạm thực hiện những hành vi nhằm mục đích hạn chế thiệt
hại thì bên bị vi phạm khơng được quyền u cầu bồi hồn cho những chi phí này.
- Việc không thực hiện đúng hợp đồng là do lỗi của phía có nghĩa vụ hoặc
việc gây thiệt hại là do lỗi của người gây ra thiệt hại chứ không phải lỗi của người
bị thiệt hại. Nếu là do lỗi của phía bên có quyền hay của người bị thiệt hại thì khơng
cần áp dụng quy định này.
- Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại đặt ra khi người bị thiệt hại, người có quyền có

khả năng hạn chế được thiệt hại.
- Việc hạn chế thiệt hại trong điều kiện có thể khơng những có lợi cho người
có hành vi xâm phạm mà cho cả chính người bị thiệt hại nên nghĩa vụ hạn chế thiệt
hại là nghĩa vụ tích cực, gần gũi với nguyên tắc thiện chí, trung thực. Nếu các bên
mà hoạt động có trách nhiệm với nhau trên tinh thần hợp tác, thiện trí, trung thực thì
sẽ giảm bớt thiệt hại cho cá nhân, tổ chức, giảm bớt tổn thất, lãng phí cho xã hội.
Nếu các bên mà không thực hiện việc hạn chế thiệt hại trong khả năng của mình
đồng nghĩa với việc họ đã khơng có thiện chí, khơng hợp tác tốt thì họ khơng xứng
đáng được bồi thường những thiệt hai phát sinh.
- Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại còn đặt ra khi tài sản có nguy cơ đe dọa gây ra
thiệt hại và khi có u cầu của người khác. Ví dụ như trong một số biện pháp bảo
đảm: cấm cố, thế chấp.
- Hậu quả của nghĩa vụ hạn chế thiệt hại là nếu bên bị vi phạm tiến hành hạn
chế thiệt hại mà phát sinh chi phí thì những chi phí này bên vi phạm phải thanh
tốn. Nếu bên bị vi phạm khơng thực hiện việc hạn chế thiệt hại thì bên vi phạm
được viện dẫn việc không hạn chế thiệt hại để giảm mức bồi thường hoặc không bồi
thường phần thiệt hại đáng lẽ ra có thể hạn chế được. Ngược lại người có thể hạn
chế được thiệt hại mà khơng thực hiện thì cịn có thể phải BTTH cho phía bên kia.


14

1.2. Căn cứ pháp lý phát sinh nghĩa vụ hạn chế thiệt hại
Nghĩa vụ hạn chế thiệt hại là một hiện tượng xuất hiện trong thực tế cuộc
sống và là một bộ phận của nghĩa vụ dân sự được pháp luật điều chỉnh. Vì vậy việc
phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ nghĩa vụ khi xuất hiện các căn cứ do pháp
luật quy định.
1.2.1. Xuất phát từ nguyên tắc thiện chí, trung thực
Theo nghĩa tiếng việt thiện chí là ý định tốt, mong muốn đi đến một kết quả
tốt khi giải quyết một công việc; trung thực là ngay thẳng, thật thà, đúng sự thực,

không làm cho sự việc sai lệch đi. Ở Việt Nam, nguyên tắc thiện chí, trung thực là
nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự đã được thể hiện tại Điều 6 BLDS năm
2005: “Trong quan hệ dân sự, các bên phải thiện chí trung thực trong việc xác lập,
thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự, không bên nào được lừa dối bên nào”. Theo đó
được hiểu thiện chí, trung thực là khơng lừa dối, lợi dụng lòng tin của người khác,
trong quan hệ dân sự liên quan đến tài sản thì nguyên tắc này được hiểu là khơng vụ
lợi, khơng vì lợi ích của mình mà làm thiệt hại đến lợi ích của người khác. Đây là
nguyên tắc rất quan trọng, bởi vì trong nhiều trường hợp, nghĩa vụ dân sự khơng
được thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhưng xuất phát từ thiện chí của người
vi phạm là bảo đảm quyền lợi của bên bị vi phạm hay mức độ thiệt hại của người
gây ra thiệt hại nhiều hay ít cịn phù thuộc vào thiện chí hành động của người bị
thiệt hại. Hơn nữa, trong mối quan hệ dân sự giữa các bên chủ thể với nhau ngoài
nghĩa vụ phải thi hành đúng thì cũng cần phải có sự phối hợp tốt với nhau để cùng
thực hiện thành công quan hệ nghĩa vụ giữa các bên hay cùng giúp nhau vượt qua
những khó khăn, khắc phục thiệt hại.
Trong nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ dân sự thì tại Điều 283 BLDS năm
2005 quy định: “Người có nghĩa vụ dân sự phải thực hiện nghĩa vụ của mình một
cách trung thực, theo tinh thần hợp tác, đúng cam kết, không trái pháp luật, đạo
đức xã hội”. Theo nguyên tắc này, các bên phải thực hiện đúng, đầy đủ các điều
khoản đã được xác định một cách thật thà, ngay thẳng. Trong quá trình thực hiện
nghĩa vụ, các bên hợp tác để tương trợ, giúp đỡ và thông tin cho nhau là một việc
làm cần thiết để đáp ứng nhu cầu và bảo đảm lợi ích cho các bên trong quan hệ
nghĩa vụ. Đồng thời, các bên phải luôn quan tâm đến nhau, tạo điều kiện giúp nhau
khắc phục khó khăn trong quá trình thực hiện nghĩa vụ. Người có quyền khơng
được thờ ơ, bàng quan trước những khó khăn của người có nghĩa vụ mà phải tạo
điều kiện thuận lợi cho người đó vượt được khó khăn để thực hiện đầy đủ và
nghiêm chỉnh các nghĩa vụ của mình. Mặt khác, người có nghĩa vụ khơng ỷ lại, vin


15


vào những khó khăn khách quan, lấy đó làm nguyên cớ để không thực hiện nghĩa vụ
mà phải thi hành các biện pháp trong khả năng cho phép để khắc phục những khó
khăn khách quan đó. Ngồi ra ngun tắc này cịn địi hỏi cả hai bên phải cùng nhau
tìm mọi biện pháp và thi hành các biện pháp cần thiết để ngăn chặn, hạn chế những
thiệt hại. Nếu bên nào có điều kiện mà khơng thực hiện các biện pháp ngăn chặn sẽ
bị coi là có lỗi và phải gánh chịu thiệt hại.
Khi quy định chi tiết về hợp đồng và liên quan đến thực hiện quyền và nghĩa
vụ của hợp đồng thì ngun tắc thiện chí, trung thực càng quan trọng hơn. BLDS
năm 2005 một lần nữa khẳng định tại khoản 2 Điều 389 rằng “việc giao kết hợp
đồng dân sự phải tuân theo nguyên tắc thiện chí, trung thực”. Thực ra, nguyên tắc
thiện chí, trung thực trong giai đoạn xác lập quyền và nghĩa vụ của hợp đồng còn
thể hiện một cách gián tiếp trong nhiều quy định của BLDS như khi một người xác
lập hợp đồng dân sự với sự lừa dối, đe dọa thì được hiểu là người này khơng thiện
chí, khơng trung thực nên hợp đồng vô hiệu. Tương tự tại Điều 134 BLDS năm
2005 quy định: Tòa án cho các bên một khoảng thời gian để thực hiện hình thức bắt
buộc là thể hiện nguyên tắc thiện chí, trung thực trong giai đoạn giao kết hợp đồng
giúp các bên tự nguyện thỏa thuận nhằm giảm bớt những mâu thuẫn, giảm bớt lãng
phí trong q trình tranh chấp. Hay “bên bán có nghĩa vụ cung cấp cho bên mua
thông tin cần thiết về tài sản mua bán”18, quy định này cũng thể hiện nguyên tắc
thiện chí, trung thực nếu là những thơng tin có lợi cho bên mua tài sản và cũng là
cách thức để hạn chế thiệt hại có thể xảy ra cho bên mua tài sản.
Đối với lĩnh vực bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng thì “chi phí hợp lý để
hạn chế thiệt hại” thì được bồi thường, đây cũng là một biểu hiện của nguyên tắc
thiện chí, trung thực khuyến khích người bị thiệt hại có thiện chí khắc phục thiệt hại
và chi phí này được bồi thường.
Thực ra, khi các quy định cụ thể không đủ để giải quyết một vấn đề cụ thể
hoặc chưa được quy định trong luật thì chúng ta hồn tồn có thể khai thác nguyên
tắc chung. Trong nghĩa vụ hạn chế thiệt hại thì có thể hiểu nếu bên có khả năng hạn
chế thiệt hại nhưng đã không thực hiện hoặc thực hiện qua loa, đại khái, không đến

nơi đến chốn là chưa thực hiện đúng nghĩa vụ một cách thiện chí, trung thực vì lợi
ích của đối phương mà cũng là lợi ích của bản thân mình đáng ra được hưởng. Như
vậy, nghĩa vụ hạn chế thiệt hại có nguồn gốc từ nguyên tắc thiện chí, trung thực.
Đây là cơng cụ pháp lý rất hiệu quả đối với nghĩa vụ hạn chế thiệt hại trong khi văn
bản quy định về vấn đề nghĩa vụ hạn chế thiệt hại chưa thật sự đầy đủ, rõ ràng.
18

Điều 442 BLDS năm 2005.


16

1.2.2. Xuất phát từ quan hệ hợp đồng
Cũng như pháp luật của các quốc gia khác, trong hệ thống pháp luật Việt
Nam tồn tại nhiều loại hợp đồng: hợp đồng dân sự, hợp đồng hợp tác kinh doanh,
hợp đồng đầu tư, hợp đồng kinh doanh bảo hiểm…Với tư cách là luật gốc của hệ
thống luật tư, BLDS dành sự quan tâm đặc biệt điều chỉnh quan hệ hợp đồng, nói
chính xác theo BLDS là “hợp đồng dân sự”.
Trước tiên, hợp đồng là một loại giao dịch dân sự19 và BLDS cũng định
nghĩa “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”20. Theo một tác giả “Hợp đồng có thể được
coi là kết quả của việc thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên, được thể hiện
trong các điều khoản cụ thể về quyền, nghĩa vụ của mỗi bên để có cơ sở cùng nhau
thực hiện”21. Như vậy, bản chất của hợp đồng được tạo nên bởi hai yếu tố là sự thỏa
thuận và sự ràng buộc pháp lý giữa các bên22. Chính vì vậy, khi các bên đã thỏa
thuận giao kết hợp đồng với nhau thì các bên phải thực hiện nghĩa vụ mà các bên đã
cam kết và những nghĩa vụ khác không được ghi nhận trong hợp đồng nhưng pháp
luật có quy định với các bên khi giao kết hợp đồng. Việc không thực hiện đúng hợp
đồng thường phát sinh thiệt hại và bên khơng thực hiện đúng hợp đồng có trách
nhiệm BTTH.

Như đã phân tích ở Mục 1.1.3 thì khi đã có hành vi vi phạm xảy ra thì mới
phát sinh nghĩa vụ hạn chế. Ở phần này chúng ta đang nghiên cứu căn cứ phát sinh
nghĩa vụ hạn chế thiệt hại xuất phát từ quan hệ hợp đồng. Có nghĩa là giữa các bên
tồn tại quan hệ hợp đồng, tuy nhiên khơng phải chỉ khi có sự vi phạm nghĩa vụ của
hợp đồng mà sự vi phạm đó có nguy cơ gây ra thiệt hại cho bên có quyền thì lúc đó
nghĩa vụ hạn chế thiệt hại của bên có quyền mới bắt đầu phát sinh mà thậm chí
nghĩa vụ này còn phát sinh từ khi xác lập hợp đồng hoặc từ khi lợi ích của các bên
tồn tại. Bỡi lẽ, nghĩa vụ hạn chế thiệt hại không hẳn phát sinh từ sự vi phạm nghĩa
vụ trong hợp đồng mà còn phát sinh từ yêu cầu của nguyên tắc thiện chí, trung thực.
Ví dụ: Trong hợp đồng bảo hiểm, một người đã mua hợp đồng chống cháy
nhà kho cho mình nhưng từ khi xác lập hợp đồng này, người mua bảo hiểm vẫn
19

Điều 121 BLDS năm 2005, Điều 130 BLDS năm 1995.

20

Điều 394 BLDS năm 1995, Điều 388 BLDS năm 2005.

21

Đinh Văn Thanh (1999), “Đặc trưng pháp lý của hợp đồng dân sự”, Tạp chí Luật học, số 04/1999, tr.19.

22

Lê Minh Hùng (2010), Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật
học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.13.


17


phải có nghĩa vụ phịng ngừa chống cháy như cẩn thận nguồn lửa, điện, các chất xúc
tác… dễ dẫn đến cháy nổ hoặc khơng có sự “vi phạm” của bên bảo hiểm nhưng do
sự kiện tự nhiên xảy đến như sét đánh cháy nhà kho.. thì bên được bảo hiểm vẫn
phải có nghĩa vụ hạn chế thiệt hại vì đây là thể hiện sự thiện chí, trung thực.
Vậy, nghĩa vụ của hợp đồng là gì? Nghĩa vụ được cấu thành từ một mối ràng
buộc pháp lý và hợp đồng chính là một trong các ràng buộc pháp lý đó. Vì thế nghĩa
vụ hợp đồng được hiểu là nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mà theo đó bên có nghĩa
vụ phải thực hiện đúng các thỏa thuận trong hợp đồng đối với bên có quyền.
Theo một tác giả thì “nghĩa vụ của hợp đồng” tại BLDS hiện hành bao gồm
cả những nghĩa vụ các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng và nghĩa vụ được quy định
tại các văn bản pháp luật liên quan đến hợp đồng được giao kết23. Tác giả luận văn
đồng ý với quan điểm trên, nghĩa vụ của hợp đồng cần phải được hiểu theo nghĩa
hẹp là những nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng và theo nghĩa rộng
là những nghĩa vụ được quy định trong pháp luật hợp đồng chứ không chỉ là nghĩa
vụ mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Theo khoản 12 Điều 3 LTM năm 2005 quy định: “Vi phạm hợp đồng là việc
một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của luật này”. Có ý kiến cho
rằng: “Khơng thực hiện được hiểu bao gồm tất cả các hình thức có thực hiện nhưng
khơng đúng như giao kết cũng như hồn tồn khơng thực hiện”24. Đây là một nhận
định đúng.
So sánh pháp luật các nước, chúng ta thấy cũng có sự điều chỉnh “vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng bằng cách phân loại. Chẳng hạn, BLDS Nhật Bản phân loại các
trường hợp giúp xác định vi phạm hợp đồng đó là: chậm thực hiện, khơng có khả
năng thực hiện và thực hiện không đầy đủ. Ở Pháp, vi phạm nghĩa vụ hợp đồng là
chậm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng và khơng thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, trong đó
khơng thực hiện nghĩa vụ hợp đồng bao gồm tất cả hình thức thể hiện khơng thực
hiện và thực hiện khơng đúng nghĩa vụ hợp đồng.


23

Ngô Thị Minh Loan (2014), Hủy bỏ hợp đồng do bị vi phạm trong BLDS Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật
học, Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.17.
24

Trần Thăng Long và Hà Thị Hạnh (2013), “Các biện pháp khắc phục do vi phạm hợp đồng (contract
remedies) theo pháp luật hợp đồng Hoa Kỳ và một số so sánh với pháp luật Việt Nam”, Tài liệu Hội thảo
Tìm hiểu pháp luật hợp đồng trong hệ thống thông luật, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh tháng
5/2013, tr.65.


18

Tại Điều 5.1.4 Bộ nguyên tắc Unidroit quy định: “Người có nghĩa vụ kết quả
phải cung cấp kết quả đã cam kết; Người có nghĩa vụ phương tiện phải thực hiện
cơng việc đó với sự cẩn trọng và trách nhiệm như một người bình thường có cùng
khả năng ở cùng hoàn cảnh”. Như vậy, Bộ nguyên tắc Unidroit phân loại nghĩa vụ
thành nghĩa vụ kết quả và nghĩa vụ phương tiện.
BLDS năm 2005 hồn tồn khơng có điều luật nào định nghĩa “vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng” hay “vi phạm hợp đồng” là gì? Nhưng nó lại được điều chỉnh
gián tiếp qua các điều luật khác, cụ thể như Điều 302 BLDS năm 2005 quy định:
“Bên có nghĩa vụ mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải
chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền”. Vì trách nhiệm hợp đồng là một
dạng cụ thể của trách nhiệm dân sự nên Điều 302 cũng được áp dụng đối với trách
nhiệm hợp đồng. Do đó, khi một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ hợp đồng thì sẽ chịu trách nhiệm hợp đồng.
Theo tác giả luận văn vi phạm hợp đồng cần được hiểu là không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng những nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng cũng như
nghĩa vụ tại các quy định liên quan về hợp đồng. Như vậy, khi giao kết hợp đồng

mà có vi phạm xảy ra thì phải thực hiện việc hạn chế thiệt hại hoặc chưa có sự vi
phạm xảy ra nhưng có nguy cơ đe dọa gây thiệt hại thì chủ thể có khả năng hạn chế
thiệt hại phải hành động. Nếu không hành động hạn chế thiệt hại đều coi là vi phạm
hợp đồng. Vi phạm hợp đồng thì phát sinh thiệt hại, thiệt hại ở đây gồm thiệt hại do
vi phạm hợp đồng và thiệt hại do hành vi không hạn chế thiệt hại gây ra, nếu thực
hiện tốt việc hạn chế thiệt hại thì thiệt hại do khơng hạn chế không xảy ra.
Khi xem xét nghĩa vụ hạn chế thiệt hại phát sinh từ hợp đồng cũng cần xem
xét đến yếu tố nhân - quả: Mối quan hệ nhân - quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng
và thiệt hại xảy ra được hiểu là giữa chúng có mối liên hệ nội tại, tất yếu. Trong đó,
hành vi vi phạm là nguyên nhân, thiệt hại xảy ra là kết quả. Chỉ khi nào thiệt hại xảy
ra là hậu quả tất yếu của hành vi vi phạm thì người vi phạm mới phải BTTH.
Nguyên nhân và kết quả có mối liên hệ nối tiếp nhau, nguyên nhân bao giờ
cũng đi trước, là cái sinh ra kết quả. Vì vậy hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra tất
yếu phải là hai giai đoạn gắn bó nhau của một quá trình vận động. Mặt khác, một
kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra và một nguyên nhân có thể làm phát
sinh nhiều kết quả. Nếu có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến thiệt hại thì khi
xác định trách nhiệm bồi thường thuộc về ai, cần xem xét hành vi vi phạm của họ
có quan hệ như thế nào đối với thiệt hại xảy ra. Nếu không xác định chính xác mối
quan hệ này rất dễ dẫn đến những sai lầm khi áp dụng trách nhiệm dân sự.


19

Thơng thường thì thiệt hại lẽ ra có thể hạn chế được khơng có mối quan hệ
nhân - quả với hành vi vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, xem xét “mổ xẻ” ở đoạn sau
khi đã vi phạm và phát sinh nghĩa vụ hạn chế thiệt hại thì ta thấy rằng có yếu tố
nhân - quả. Về mặt thời gian, nguyên nhân phải có trước kết quả, ở đây nguyên
nhân là không thực hiện việc hạn chế thiệt hại nên thiệt hại xảy ra lớn hơn thiệt hại
ban đầu, thiệt hại lớn hơn này là kết quả.
Ví dụ: A làm nước chảy vào ướt gạo nhà B, B thấy nên đã cố gắng vận

chuyển 09 bao gạo ra chỗ khác nên chỉ bị ướt một bao gạo nằm ngoài. Trong trường
hợp này nếu B để im cho nước cứ chảy vào và lần lượt ướt 10 bao gạo. Như vậy, A
làm nước chảy vào nhà B là nguyên nhân đầu tiên và bắt đầu phát sinh nghĩa vụ hạn
chế thiệt hại, tiếp đến B không hạn chế thiệt hại là nguyên nhân, ướt 10 bao gạo là
hậu quả nên rõ ràng trong nghĩa vụ hạn chế thiệt hại có yếu tố nhân - quả giữa việc
không hạn chế thiệt hại của bên có quyền với phần thiệt hại gia tăng.
Bên cạnh đó cịn phải xem xét đến u tố lỗi trong nghĩa vụ hạn chế thiệt hại:
Người không thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu
trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vơ ý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác”25. Như vậy, nếu khơng có thỏa thuận hoặc pháp
luật khơng có quy định khác thì chỉ khi nào người vi phạm nghĩa vụ dân sự có lỗi
mới phải BTTH. Tuy nhiên, về nguyên tắc, người đã được xác định là có nghĩa vụ
mà không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ đó đương nhiên
bị coi là có lỗi.
Về bản chất, lỗi được các ngành luật xác định giống nhau. Đó là quan hệ
giữa khả năng nhận thức của chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật với đòi hỏi,
yêu cầu chung nhất của xã hội đối với hành động của chủ thể trong một hồn cảnh
thơng thường và mang tính phổ biến, mà nội dung của nó là việc chủ thể đã hành
động (hoặc không hành động) theo hướng phủ định những yêu cầu của xã hội đã
được thể hiện thông qua các quy định của pháp luật. Khi một người có đủ nhận thức
và điều kiện để lựa chọn cách xử sự sao cho xử sự đó phù hợp với pháp luật, tránh
thiệt hại cho chủ thể khác nhưng vẫn thực hiện hành vi gây thiệt hại thì người đó bị
coi là có lỗi. Như vậy, lỗi là thái độ tâm lí của người có hành vi gây thiệt hại, phản
ánh nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ đã thực
hiện. Căn cứ vào nhận thức của người gây thiệt hại đối với hành vi và hậu quả của
hành vi mà họ thực hiện, lỗi được chia thành các hình thức và trạng thái khác nhau
như sau: Lỗi cố ý, lỗi vô ý.
25

Khoản 1 Điều 308 BLDS năm 2005.



×