Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Ngƣời đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (561.95 KB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

VŨ MẠNH CƢỜNG

NGƢỜI ĐẠI DIỆN HỢP PHÁP
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TSKH Đào Trí Úc

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Vũ Mạnh Cường là học viên lớp Cao học Luật Đồng Nai Khóa 1,
niên khóa 2010 – 2012. Chuyên ngành Luật Hình sự và tố tụng hình sự - Mã số
60380104.
Tơi được Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh phân cơng thực hiện
luận văn thạc sỹ Luật học với đề tài " Ngƣời đại diện hợp pháp trong tố tụng
hình sự Việt Nam "
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tôi.

Người cam đoan

Vũ Mạnh Cƣờng



MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu .................................................................................................................. 1
Chƣơng 1. Khái niệm, vị trí, vai trị của ngƣời đai diện hợp pháp trong tố tụng
hình sự Việt Nam ............................................................................................................. 10
1.1 Khái niệm về người đại diện hợp pháp ..................................................................... 10
1.2 Vị trí, vai trò của người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam ............ 18
Chƣơng 2. Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về ngƣời đại diện hợp
pháp .................................................................................................................................. 24
2.1 Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ; bị can; bị cáo ................................ 24
2.1.1 Người bị tạm giữ và người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ ..................... 26
2.1.2 Bị can và người đại diện hợp pháp của bị can ......................................................... 31
2.1.3 Bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị cáo ........................................................ 36
2.2 Người đại diện hợp pháp của người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án .......................................................... 43
2.2.1 Người bị hại và người đại diện hợp pháp của người bị hại

.................................. 43

2.2.2 Nguyên đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự .............. 51
2.2.3 Bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của bị đơn dân sự ................................ 54
2.2.4 Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ...................................................... 56
Chƣơng 3. Thực tiễn áp dụng các quy định về ngƣời đại diện hợp pháp trong
tố tụng hình sự và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về ngƣời đại diện hợp
pháp .................................................................................................................................. 62
3.1 Thực tiễn áp dụng các quy định về người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình
sự ....................................................................................................................................... 62
3.2 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về người đại diện hợp pháp trong tố tụng
hình sự ............................................................................................................................... 71

Kết luận ........................................................................................................................... 80


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang trên đường đổi mới toàn diện với mọi lĩnh vực của đời
sống, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Do vậy, mở rộng dân chủ, tăng
cường pháp chế, bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
luôn được coi là nhiệm vụ cấp bách của toàn xã hội. Yêu cầu đặt ra đối với pháp
luật trước hết là phải có những quy định chặt chẽ về việc bảo vệ quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Điều 50 Hiến pháp năm 1992 quy định:
“Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam các quyền con người về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được tơn trọng thể hiện ở các quyền công dân được
quy định trong Hiến pháp và pháp luật”. Việc quy định này cũng chỉ là hình thức
nếu nó khơng được thực hiện trong thực tế. Bảo vệ quyền con người là mục tiêu và
nhiệm vụ trọng tâm của các thiết chế nhà nước và pháp luật dân chủ. Bảo đảm thực
hiện có hiệu quả các quyền công dân đã được pháp luật quy định là tiêu chí để đánh
giá sự văn minh, tiến bộ của một xã hội hiện đại.
Trong lĩnh vực tố tụng hình sự con người dễ bị tổn thương và bị vi phạm
quyền, lợi ích hợp pháp hơn so với những lĩnh vực khác do tính chất bất bình đẳng
của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự dễ dẫn đến khả năng người tham gia tố tụng
bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế, bởi xu hướng đề cao lợi ích chung của xã hội
khi giải quyết vụ án… Con người trong tố tụng hình sự, bao gồm những người tham
gia tố tụng (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án…) và người tiến hành
tố tụng đều có khả năng bị gây ra thiệt hại và bị vi phạm quyền con người, trong đó,
người tham gia tố tụng là bị vi phạm nhiều nhất.

“Quyền con người trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trước hết
được thực hiện trong các quy định của pháp luật về quyền con người và quy định về


2

mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân trong thực tế hoạt động Nhà nước” 1. Bảo
vệ quyền con người nói chung, của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
nói riêng được thực hiện trong pháp luật tố tụng hình sự bằng các hình thức, biện
pháp khác nhau, trong đó, các biện pháp quan trọng nhất là ban hành các quy định
đúng đắn, hợp lý, khả thi trong pháp luật tố tụng hình sự và bảo đảm thực hiện các
quy định đó trên thực tế.
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có thể tự mình bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của mình hoặc có thể thông qua những người khác như luật sư,
người đại diện hợp pháp, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác được Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án chấp nhận bảo vệ quyền lợi cho mình. Các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tơn trọng và bảo vệ các quyền, lợi
ích hợp pháp đó. Đây là một nguyên tắc đặc thù của Luật tố tụng hình sự được quy
định tại Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự với nội dung: “ Khi tiến hành tố tụng, Thủ
trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó viện
trưởng Viện kiểm sát, kiểm sát viên, Chánh án, Phó chánh án, Thẩm phán, Hội
thẩm trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tơn trọng và bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của cơng dân…”.
Quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
trong tố tụng hình sự chủ yếu là quyền bình đẳng trước pháp luật được quy định tại
Điều 5 Bộ luật Tố tụng hình sự:“ Tố tụng hình sự được tiến hành theo ngun tắc
mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật, khơng phân biệt dân tộc, nam nữ, tín


Trần Văn Độ (2010), “ Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng
hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt
Nam, tr.98.
1


3

ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều
bị xử lý theo pháp luật”.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể quy định tại Điều 6 Bộ luật Tố tụng
hình sự như sau:
“Khơng ai bị bắt, nếu khơng có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê
chuển của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ
người phải theo quy định của Bộ luật này. Nghiêm cấm mọi hành thức truy bức,
nhục hình”.
Quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản quy
định tại Điều 7 Bộ luật Tố tụng hình sự: “Cơng dân có quyền được pháp luật bảo
hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật.
Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người
thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài
sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần
thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật”. Quyền bình đẳng trước Tịa án quy
định tại Điều 19 Bộ luật Tố tụng hình sự: “Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương
sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu
cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án”. Và quyền bào chữa được quy định tại

Điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự với nội dung: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có
quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tịa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền
bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này”.
Quyền này tiếp tục được quy định tại Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự:
“Người bào chữa do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp
của họ lựa chọn” và tại Điều 305 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Người đại
diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên có thể


4

lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo. Trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp
pháp của họ không lựa chọn được người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tịa án phải u cầu Đồn luật sư phân cơng Văn phòng luật sư cử người bào
chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên
của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình”.
Cùng với sự pháp triển của pháp luật tố tụng hình sự các quyền, lợi ích hợp
pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ngày càng được tôn trọng
và mở rộng hơn, đồng thời tạo những điều kiện tốt nhất để người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án thực hiện các quyền của mình. Điều đó thể hiện bản chất dân
chủ của pháp luật nước ta.
Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự trong những năm qua cho thấy mặc dù
pháp luật đã quy định khá chặt chẽ và tương đối đầy đủ nhưng các quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chưa được triệt để tôn
trọng và chưa được các cơ quan tiến hành tố tụng tạo điều kiện để người bị tạm giữ,

bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện. Tình trạng vi phạm các quyền tố tụng,
khơng đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án; xác định sai tư cách người tham gia tố tụng, người đại diện hợp
pháp hoặc không đưa người đại diện hợp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án tham gia tố tụng theo quy định vẫn còn xảy ra dẫn đến xét xử sai phải
sửa, hủy bản án, quyết định để điều tra, xét xử sơ thẩm lại từ đầu. Nguyên nhân, do
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chưa nhận thức được vị trí,
vai trị của người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự và việc bảo vệ quyền, lợi


5

ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có ý nghĩa và tầm
quan trọng như việc xử lý nghiêm minh đối với người phạm tội.
Do vậy, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử họ thường chú ý khía cạnh
khơng bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vộ tội và xem nhẹ việc tham gia tố
tụng của người đại diện hợp pháp cũng như việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến
quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, dẫn đến tình trạng vi
phạm quyền con người trong tố tụng hình sự. Điều này là khơng thể chấp nhận, làm
mất lịng tin của nhân dân đối với Nhà nước và pháp luật, đi ngược lại với quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về quyền con người được pháp luật bảo đảm thực
hiện và được bảo vệ không bị xâm phạm.
Nghiên cứu đề tài Người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự có ý nghĩa

quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, giúp các cơ
quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn
chế án bị hủy, sửa.
Mặt khác, hiện nay chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm
với u cầu và địi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan
người vô tội, vi phạm quyền tự do dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân,
làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp.
Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau do vậy, việc nghiên cứu vấn đề
Người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự góp phần vào việc thực hiện một số
nhiệm vụ trọng tâm của công tác cải cách tư pháp trong thời gian tới mà Nghị quyết
08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số vấn đề trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới” đã đề ra, nó khơng những chỉ có ý nghĩa khoa học
mà cịn có giá trị thực tiễn sâu sắc.


6

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đền người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự hiện chưa có cơng
trình khoa học nghiên cứu chun sâu nào đề cập đến. Chỉ có một số đề tài, bài viết
được đăng trên các tạp chí để phân tích, bình luận hoặc đưa ra những quan điểm
khác nhau về người đại diện hợp trong tố tụng hình sự, như: Tác giả Đỗ Văn Chỉnh
với đề tài: Bàn về người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự; tác giả Trần Văn
Độ với đề tài: Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố
tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp; tác giả Nguyễn Hữu Thế Trạch với
đề tài: Đảm bảo quyền con người của bị can, bị cáo là người chưa thành niên theo
quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003; tác giả Lê Nguyên Thanh với đề
tài: Quyền của người bị hại và vấn đề bảo vệ người bị hại trong tố tụng hình sự Việt
Nam; tác giả Phạm Hồng Hải với đề tài: Mơ hình lý luận Bộ Luật tố tụng hình sự
Việt Nam. Các bài viết trên chỉ tập trung nghiên cứu chỉ ra những vướng mắc, khó

khăn trong thực tiễn giải quyết các vụ án khi xác định tư cách của người đại diện
hợp pháp tham gia tố tụng hình sự, để từ đó đưa ra những quan điểm khác nhau về
người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự nhằm mục đích trao đổi giữa các
đồng nghiệp.
Đề tài Người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam là một
nghiên cứu chuyên sâu ở bậc cao học. Đề tài nghiên cứu, phân tích trên cơ sở khoa
học pháp lý nhằm đưa ra khái niệm về người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình
sự. Trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về
người đại diện hợp pháp.
3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là người đại diện hợp pháp trong tố tụng
hình sự Việt Nam. Trong luận văn tác giả khơng chỉ nghiên cứu, phân tích những
quy định của pháp luật về người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại
diện hợp pháp của những đối tượng này mà còn chú trọng khai thác một số vướng
mắc, mâu thuẫn không thống nhất giữa những quy định của pháp luật và thực tiễn


7

về người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự để từ đó đưa ra những giải pháp
nhằm hồn thiện chế định này trong thời gian tới, góp phần vào việc ban hành, sửa
đổi Bộ luật Tố tụng hình sự cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và yêu cầu của hệ
thống pháp luật nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Phạm vi nghiên cứu luận văn của tác giả tập trung phân tích, đánh giá, so
sánh những vấn đề về lý luận và thực tiễn có liên quan đến người đại diện hợp pháp
trong tố tụng hình sự Việt Nam những năm gần đây. Trên cơ sở phân tích người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, luận văn đi sâu phân tích về vai trị của người đại
diện hợp pháp khi tham gia tố tụng. Để góp phần hoàn thiện chế định về người đại

diện hợp pháp trong tố tụng hình sự, tác giả trình bày một số quan điểm cá nhân và
kiến nghị. Việc đưa ra các kiến nghị dựa trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá,
giải quyết mâu thuẫn giữa lý luận và thực tiễn khi thực hiện chế định này. Nhằm
hoàn thiện chế định người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự cho phù hợp với
tiến trình dân chủ trong giai đoạn đổi mới tồn diện mà trước mắt là góp phần tạo
sự chuyển biến mạnh mẽ trong cải cách tư pháp, xây dựng các cơ quan tư pháp
trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng các quan điểm, phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử), các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật, về quyền
con người nói chung và quyền cơng dân trong xã hội, phát huy dân chủ, bảo đảm
thực hiện quyền cơng dân có hiệu quả.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu bao gồm: Phương pháp phân
tích, đánh giá, tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp kết hợp giữa lý luận và
thực tiễn.


8

5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài.
Luận văn là một cơng trình nghiên cứu khoa học trình bày một cách có hệ
thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện chế định về người đại diện hợp pháp
trong tố tụng hình sự. Trong q trình hồn thành luận văn, tác giả đã nghiên cứu
những cơng trình nghiên cứu khoa học, những bài viết của các tác giả đăng trên các
tạp chí như: Tạp chí tịa án nhân dân, Tạp chí Viện kiểm sát; các bài bình luận,
nghiên cứu hoặc bản án của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp huyện và
cấp tỉnh ở địa phương.

Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử và thực trạng thực hiện chế định người đại
diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đã được nghiên cứu,
tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm thực hiện chế định người đại diện hợp pháp
trong tố tụng hình sự đạt hiệu quả nhất, tránh trường hợp án bị hủy sửa do vi phạm
nghiên trọng thủ tục tố tụng. Những kiến nghị mà tác giả đưa ra vừa có ý nghĩa như
một đề xuất mang tính khoa học để góp phần hồn thiện chế định người đại diện
hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam, vừa có giá trị thực tiễn góp phần vào việc
thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc cải cách tư pháp trong thời gian
tới mà Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số vấn đề
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã đề ra.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liện tham khảo, luận văn được
chia thành 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Khái niệm, vị trí, vai trị của người đại diện hợp pháp trong tố
tụng hình sự.
1.1 Khái niệm về người đại diện hợp pháp.
1.2 Vị trí, vai trò người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về người đại diện hợp
pháp.


9

2.1 Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ; bị can; bị cáo.
2.1.1 Người bị tạm giữ và người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ.
2.1.2 Bị can và người đại diện hợp pháp của người bị can
2.1.3 Bị cáo và người đại diện hợp pháp của người bị cáo
2.2 Người đại diện hợp pháp của người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn
dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

2.2.1 Người bị hại và người đại diện hợp pháp của người bị hại.
2.2.2 Nguyên đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự
2.2.3 Bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của bị đơn dân sự.
2.2.4 Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện
hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định về người đại diện hợp pháp trong
tố tụng hình sự và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về người đại diện hợp pháp.
3.1 Thực tiễn áp dụng các quy định về người đại diện hợp pháp trong tố tụng
hình sự.
3.2 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về người đại diện hợp pháp.


10

CHƢƠNG 1
KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRỊ CỦA NGƢỜI ĐẠI DIỆN HỢP
PHÁP TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1Khái niệm về ngƣời đại diện hợp pháp
Trước khi tìm hiểu các quy định hiện hành về địa vị pháp lý của người đại diện
hợp pháp trong tố tụng hình sự, cơ sở lý luận của những quy định đó và các vấn đề
có liên quan đến người đại diện hợp pháp, thì cần làm sáng tỏ thuật ngữ “người đại
diện hợp pháp”.
Về mặt ngơn ngữ, khi đề cập đến “người” thì khái niệm này vừa có ý nghĩa
sinh học vừa có ý nghĩa xã hội học, “người” được hiểu theo phương diện xã hội
học là một thực thể xã hội, một thành viên của xã hội và có quan hệ hữu cơ với xã
hội vì con người là tổng hịa các quan hệ xã hội – Karl Marx2. Từ “người” ở đây
cịn đóng vai trị là từ để phân loại, cá thể hóa khi kết hợp với các từ loại khác để
biểu thị các nhóm người trong xã hội với các đặc trưng về nghề nghiệp, trình độ văn
hóa, tuổi tác, giới tính, đặc điểm pháp lý hình sự… như người nơng dân, người công
nhân, người bị hại, người bào chữa, người đại diện hợp pháp…

Theo Từ điển Luật học xuất bản năm 2006 của Bộ Tư pháp Viện khoa học
pháp lý thì:
Đại diện là việc một người, một cơ quan, tổ chức nhân danh người, cơ
quan, tổ chức khác xác lập, thực hiện hành vi pháp lý trong phạm vi
thẩm quyền đại diện.
Hợp pháp là hoạt động của cá nhân, cơ quan, tổ chức phù hợp với các
quy định của pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật, các quyết định
hành chính của các cơ quan nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp,
không được trái với quy định của các cơ quan nhà nước cấp trên, bảo

2

Đại học luật Hà Nội (2003), Giáo trình triết học Mac-Lênin, Nhà xuất bản Hà Nội, Hà Nội, tr.57.


11

đảm tính đồng bộ, thống nhất của cả hệ thống pháp luật, khơng được
vượt ra ngồi phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định, tôn trọng, bảo
đảm các quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của cá nhân và các cơ quan
tổ chức.3
Theo quy định tại khoản 1 Điều 139 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì khái niệm
Đại diện là việc một người (gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của
người khác (gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong
phạm vi thẩm quyền đại diện.
Đại diện được xem là một quan hệ pháp luật, chủ thể của quan hệ đại diện
bao gồm người đại diện và người được đại diện. Người đại diện là người nhân danh
người được đại diện xác quan hệ với người thứ ba, vì lợi ích của người được đại
diện. Người được đại diện là người tiếp nhận các hậu quả pháp lý từ quan hệ do
người đại diện xác lập, thực hiện đúng thẩm quyền đại diện. Người được đại diện có

thể là cá nhân khơng có năng lực hành vi, chưa đủ năng lực hành vi nên theo quy
định của pháp luật, phải có người đại diện trong quan hệ pháp luật. Cá nhân có đầy
đủ năng lực hành vi có thể ủy quyền cho người khác là đại diện theo ủy quyền của
mình. Các chủ thể khác của quan hệ dân sự là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác
đều hoạt động thông qua hành vi của những người nhất định có thẩm quyền đại diện
cho chủ thể đó.
Quan hệ đại diện có thể được xác định theo quy định của pháp luật hoặc
được xác định theo ý chí của các chủ thể tham gia và sẽ được thực hiện dưới hình
thức bằng một giấy ủy quyền hoặc một hợp đồng ủy quyền. Trong phạm vi thẩm
quyền đại diện, người đại diện được quyền xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự
để đem lại quyền và nghĩa vụ cho người được đại diện. Có hai loại đại diện gồm đại
diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền.

Bộ Tư pháp viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa và
nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, tr.225, 403.
3


12

Điều 140 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Đại diện theo pháp luật là
đại diện được xác lập theo quy định của pháp luật hoặc theo quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền”.
Đại diện theo pháp luật có bản chất mặc nhiên, ổn định về người đại diện, về
thẩm quyền đại diện… Đó là các trường hợp: cha, mẹ đại diện cho con chưa thành
niên, người đứng đầu pháp nhân đại diện cho pháp nhân, người giám hộ đương
nhiên đại diện cho người được giám hộ, chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình, tổ
trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác… đại diện theo quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền được coi là đại diện theo quyết định của cơ quan hành chính
trong những quyết định riêng biệt. Đó là các trường hợp người giám hộ cử đối với

người được giám hộ, người được Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự. Một số trường hợp nhất định người đứng đầu pháp nhân có thể được
xác định theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Theo khoản 1 Điều 142 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Đại diện theo
ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người
được đại diện”.
Uỷ quyền là phương tiện pháp lý cần thiết để cá nhân, pháp nhân và các chủ
thể khác của quan hệ dân sự có thể tham gia vào các giao dịch dân sự một cách
thuận lợi nhất bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm bảo đảm thỏa mãn nhanh
chóng các lợi ích vật chất và tinh thần. Đại diện theo ủy quyền là trường hợp quan
hệ đại diện được xác lập theo ý chí của hai bên gồm: Bên đại diện và bên được đại
diện, thông qua một hợp đồng ủy quyền hoặc một giấy ủy quyền. Điều này hoàn
toàn khác với đại diện theo pháp luật là đại diện đương nhiên do pháp luật quy định
hoặc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Nội dung ủy quyền, phạm vi
thẩm quyền đại diện và trách nhiệm của người đại diện theo ủy quyền được xác
định thông qua sự thỏa thuận của người đại diện và người được đại diện.
Người đại diện của đương sự tham gia tố tụng dân sự có ý nghĩa rất lớn và
quan trọng. Một mặt, việc tham gia tố tụng của họ có tác dụng đối với việc bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, đặc biệt trong trường hợp đương sự là người


13

bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi tố tụng dân sự. Mặt khác, việc tham gia tố
tụng của họ cịn có tác dụng nhất định trong việc làm rõ sự thật vụ việc dân sự và
giúp người được đại diện về mặt pháp lý. Để thực hiện được các quyền, nghĩa vụ tố
tụng của đương sự, người đại diện của đương sự phải là người có đầy đủ năng lực
hành vi tố tụng dân sự. Những người khơng có năng lực hành vi tố tụng hành vi dân
sự thì khơng thể thực hiện được các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự. Xuất phát từ tính đa dạng của các quan hệ pháp luật tố

tụng dân sự nên người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự cũng rất đa dạng,
bao gồm: người đại diện theo pháp luật, người đại diện do Tòa án chỉ định và người
đại diện theo ủy quyền.
Người đại diện theo pháp luật là người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự theo quy định của pháp luật. Người đại diện
theo pháp luật của đương sự bao gồm: cha, mẹ của con chưa thành niên; người giám
hộ của người được giám hộ; người đứng đầu cơ quan, tổ chức; chủ hộ gia đình và cá
nhân, tổ chức khởi kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Người đại diện theo pháp luật của đương sự tham gia tố tụng là bắt buộc khi
vụ việc dân sự có đương sự thuộc trường hợp cần có người đại diện. Khi tham gia tố
tụng họ phải chứng minh là cha, mẹ; người giám hộ; chủ hộ gia đình; tổ hợp tác
v.v…Phạm vi tham gia tố tụng của người đại diện theo pháp luật của đương sự
khơng bị hạn chế, họ có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của đương sự.
Người đại diện do Tòa án chỉ định tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, trong tố tụng dân sự các đương sự có quyền tự
định đoạt nên Tòa án chỉ tiến hành chỉ định người đại diện cho đương sự trong
trường hợp đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà khơng có
người đại diện hoặc khơng ai chịu đứng ra làm người đại diện hoặc người đại diện
theo pháp luật của họ thuộc một các trường hợp không được đại diện quy định tại
khoản 1 Điều 75 Bộ luật Tố tụng dân sự. Để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự thì Tịa án khơng được chỉ định những người thuộc diện không được làm
người đại diện theo pháp luật làm người đại diện cho đương sự.


14

Người đại diện do Tòa án chỉ định tham gia tố tụng kể từ khi có quyết định
của Tịa án chỉ định họ đại diện cho đương sự. Phạm vi tham gia tố tụng của người
đại diện do Tòa án chỉ định khơng bị hạn chế và họ cũng có đầy đủ các quyền,
nghĩa vụ của đương sự.

Người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho đương sự thơng qua việc ủy quyền của đương sự. Khác với người đại
diện theo pháp luật và người đại diện do Tòa án chỉ định, đương sự được đại diện là
người có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng nên người đại diện theo ủy quyền chỉ
được quyền tham gia tố tụng khi được đương sự ủy quyền thay mặt họ tham gia tố
tụng dân sự.
Người đại diện hợp pháp là cá nhân, pháp nhân được ủy quyền hoặc được
pháp luật quy định có quyền đại diện cho cá nhân, pháp nhân khác thực hiện các
giao dịch pháp lý, họ nhân danh và vì lợi ích của người được đại diện. Mặc dù đã ủy
quyền cho người đại diện nhưng đương sự vẫn có quyền tự mình tham gia tố tụng
hoặc Tịa án cũng có quyền triệu tập đích thân đương sự tham gia tố tụng khi xét
thấy cần thiết. Người có nhược điểm về thể chất (mù, câm, điếc, liệt…) vẫn có
quyền ủy quyền cho một người khác tham gia tố tụng vì họ khơng phải là người
khơng có năng lực hành vi dân sự.
Theo pháp luật kinh tế, việc ký kết hợp đồng kinh tế thì đại diện là một hoạt
động phổ biến tất yếu trong các lĩnh vực có sự phân công lao động đối với sản xuất,
phân phối hàng hóa và dịch vụ. Nhà sản xuất giao việc mua nguyên vật liệu cho một
người được ủy quyền, công ty giao cho nhân viên bán sản phẩm… Do rất nhiều
nguyên nhân khác nhau, những người này thay vì phải trực tiếp tham gia, thực hiện
ký kết các giao dịch nhưng họ không thể hoặc không muốn trực tiếp thực hiện các
hành vi đó. Pháp nhân chỉ có thể tham gia và quan hệ hợp đồng kinh tế thông qua
người đại diện của mình và người đại diện nhất thiết phải hành động nhân danh
pháp nhân và vì pháp nhân. Đại diện hợp pháp của pháp nhân hoặc người đứng tên
đăng ký kinh doanh có thể ủy quyền bằng văn bản cho người khác thay mình ký


15

hợp đồng kinh tế. Những người có thẩm quyền ký kết hợp pháp kinh tế là đại diện
hợp pháp hoặc đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp.

Đại diện hợp pháp là người được pháp luật quy định hoặc cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền quyết định có thẩm quyền ký kết hợp đồng kinh tế. Đại diện hợp
pháp của pháp nhân là người được bổ nhiệm hoặc được bầu vào chức vụ đứng đầu
một pháp nhân và đương giữ chức vụ đó. Đứng đầu pháp nhân có thể là giám đốc
(Tổng giám đốc) đối với doanh nghiệp Nhà nước, là chủ tịch hội đồng quản trị đối
với các công ty. Người đứng đầu pháp nhân do điều lệ pháp nhân hoặc quyết định
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định. Theo đó đại diện theo pháp luật là
người được pháp luật quy định hoặc được ghi nhận trong điều lệ của tổ chức đó.
Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người
đại diện và người được đại diện. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản. Đại
diện hợp pháp của pháp nhân hoặc người đứng tên đăng ký kinh doanh có thể ủy
quyền bằng văn bản cho người khác thay mình ký kết hợp đồng kinh tế. Người
được ủy quyền chỉ được ký hợp đồng trong phạm vi được ủy quyền và không được
ủy quyền lại cho người thứ ba, trong trường hợp muốn ủy quyền lại cho người thứ
ba thì phải được sự đồng ý của người ủy quyền. Người ủy quyền khi tham gia giao
kết các giao dịch phải hành động nhân danh và vì lợi ích của người ủy quyền.
Pháp luật tố tụng hình sự khơng khái niệm thế nào người đại diện hợp pháp,
cũng như khơng có điều luật riêng về người đại diện hợp pháp nhưng tại nhiều điều
luật trong Bộ luật Tố tụng hình sự lại có quy định. Bao gồm người đại diện hợp
pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Cụ thể như:
Tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự về người bị hại quy định:
“Người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền đưa ra tài liệu, đồ
vật, yêu cầu; được thông báo về kết quả điều tra; đề nghị thay đổi người tiến hành
tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định…”. Khoản 3 Điều 51 Bộ
luật Tố tụng hìh sự quy định: “Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu


16


của người bị hại quy định tại Điều 105 của Bộ luật này thì người bị hại hoặc người
đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tịa”.
Khoản 5 Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Trong trường hợp người
bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của họ có những quyền quy định tại Điều
này” và tại khoản 2 Điều 52 Bộ luật Tố tụng hình sự về nguyên đơn dân sự thì quy
định: “Nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền: Đưa ra
tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Được thông báo về kết quả điều tra; Đề nghị thay đổi
người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ
luật này…”.
Khoản 2 Điều 53 Bộ luật Tố tụng hình sự về bị đơn dân sự thì quy định: “Bị
đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền: Khiếu nại việc địi bồi
thường của ngun đơn dân sự; Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Được thông báo
kết quả điều tra liên quan đến việc địi bồi thường…”.
Về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, tại khoản 1 Điều 54 Bộ
luật Tố tụng hình sự có quy định: “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền: Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
Tham gia phiên tòa, phát biểu ý kiến, tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình…”.
Hoặc người đại diện hợp pháp được quy định trong việc lựa chọn và thay đổi
người bào chữa tại Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự: “1. Người bào chữa người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn; 2. Trong
những trường hợp sau đây, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của
khơng mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tịa án phải
u cầu Đồn luật sư phân cơng Văn phịng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc
đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử
người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình…”.
Tại khoản 1 Điều 305 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về bào chữa cho người
tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên: “Người đại diện hợp pháp của



17

người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên có thể lựa chọn người
bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”.
Ngồi ra, về trình tự thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án theo thủ
tục sơ thẩm, phúc thẩm Bộ luật Tố tụng hình sự quy định người đại diện hợp pháp
được nhận các quyết định của Tòa án, khoản 1 Điều 182 Bộ luật Tố tụng hình sự
quy định: “Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được giao cho bị cáo, người đại
diện hợp pháp của họ và người bào chữa, chậm nhất là mười lăm ngày trước khi
mở phiên tòa. Trong trường hợp xét xử vắng mặt bị cáo thì quyết định đưa vụ án ra
xét xử và bản cáo trạng được giao cho người bào chữa hoặc người đại diện hợp
pháp của bị cáo…”
Khoản 4 Điều 200 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Kiểm sát viên, bị cáo,
người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bảo vệ quyền lợi của đương sự hoặc người
đại diện hợp pháp của những người đó được xem biên bản phiên tịa, có quyền u
cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa và ký xác nhận”.
Hoặc tại Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về người có quyền
kháng cáo: “Bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án
hoặc quyết định sơ thẩm. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp
pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc
bồi thường thiệt hại. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại
diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên
quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ”.
Trên cơ sở các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về người đại diện hợp
pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thì người đại diện hợp
pháp tong tố tụng hình sự có một số dặc điểm:
- Người đại diện hợp pháp có thể trực tiếp tham gia cùng với người được đại
diện hoặc thay mặt, nhân danh người được đại diện tham gia trong quá trình giải

quyết vụ án hình sự.


18

- Người đại diện hợp pháp được tham gia tất cả các giai đoạn tố tụng trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
được đại diện.
Vậy, người đại diện hợp pháp là người tham gia tố tụng để thay mặt, nhân
danh người được đại diện thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người được đại diện.
1.2 Vị trí, vai trò của ngƣời đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự Việt
Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, cơng tác tư pháp là vấn đề luôn được sự quan tâm
sát sao của Đảng và Nhà nước ta. Yêu cầu của cải cách tư pháp và ý tưởng cải cách
lĩnh vực này được thể hiện trong các Nghị quyết Trung ương 8 khóa VIII, Nghị
quyết Đại hội đại biểu Đảng tồn quốc lần IX… Theo đó, Đảng ta đặt ra cho các cơ
quan tư pháp là phải xây dựng được một nền tư pháp công bằng, dân chủ, nghiêm
minh, phục vụ nhân dân. Đặc biệt, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của
Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm cơng tác tư pháp trong thời gian tới” là
Nghị quyết đầu tiên của Bộ Chính trị đề cập một cách tồn diện về nhiệm vụ cải
cách tư pháp, đề ra những định hướng, quan điểm chỉ đạo, biện pháp cụ thể đối với
công tác tư pháp. Nghị quyết nhấn mạnh:
Khi xét xử các Tịa án phải đảm bảo cho mọi cơng dân đều bình đẳng
trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn
cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tịa, trên cơ sở xem xét đầy
đủ, tồn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị
cáo, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để
đưa ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và

trong thời hạn pháp luật quy định…4

Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số vần đề trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới.
4


19

Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tiếp tục định hướng:
Đổi mới việc tổ chức phiên tịa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền
hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
theo hướng đảm bảo tính cơng khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao
chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi là khâu đột phá của
hoạt động tư pháp…5
Đặc điểm của kiểu tố tụng tranh tụng là trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự hình thành hai bên: Bên buộc tội và bên gỡ tội (bên bào chữa). Bên buộc tội gồm
công tố viên, người bị hại, nguyên đơn dân sự và những người đại diện hợp pháp,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Bên gỡ tội gồm người bị buộc tội,
người bào chữa, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp hoặc người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của những người này. Các bên phải được triệu tập để biết yêu
cầu, chứng cứ và lý lẽ của bên kia; được đưa ra chứng cứ, yêu cầu và phản bác yêu
cầu, chứng cứ, lý lẽ của đối phương6.
Theo kiểu tố tụng tranh tụng thì Tịa án là trọng tài điều khiển sự tranh tụng
tại giữa hai bên và ra phán quyết cuối cùng trên cơ sở kết quả tranh tụng tại tịa. Tố
tụng hình sự tranh tụng hơn hẳn các kiểu tố tụng hình sự khác ở chổ bản thân tranh
tụng là một nguyên tắc của tố tụng hình sự nó khẳng định ở đâu có buộc tội, ở đó có
gở tội (bào chữa). Tranh tụng phải được thể hiện trong tất cả các giai đoạn của tố
tụng hình sự từ khởi tố điều tra, truy tố, xét xử ở tất cả các cấp Tòa án. Trong tố

tụng hình sự tranh tụng thì tranh tụng là phương pháp để tìm ra sự thật khách quan
của vụ án. Tuy nhiên, nói đến tranh tụng thường người ta nghĩ đó là sự tranh tụng
giữa một bên là cơng tố viên (kiểm sát viên) và một bên là Luật sư hay Bào chữa
viên nhân dân mà không nghĩ đến vai trò của người đại diện hợp pháp trong việc
tranh tụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện tại phiên tòa.
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiếc lược cải cách tư pháp đến năm
2020.
6
Trịnh Tiến Việt (2003), “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa”, Nghiên cứu lập pháp, (Số
7), tr.59.
5


20

Mặc dù, pháp luật tố tụng hình sự có quy định tại Điều 56 Bộ luật Tố tụng
hình sự về người bào chữa có thể là: “Luật sư; Người đại diện hợp pháp của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân” và tại Điều 59 Bộ luật Tố tụng
hình sự quy định về người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự với nội
dung: “Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án hình sự có quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc
người khác được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án chấp nhận bảo vệ quyền
lợi cho mình”.
Tuy nhiên, do chưa nhận thức được tầm quan trọng của người đại diện hợp
pháp trong tố tụng hình sự nhất là các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng. Họ thường đề cao vai trò của Luật sư, Bào chữa viên nhân dân khi tham gia tố
tụng trong các vụ án hình sự và tranh tụng tại phiên tòa để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
của công dân mà xem nhẹ vị trí, vai trị của người đại diện hợp pháp nên khơng đưa
người đại diện hợp pháp vào tham gia vụ án hoặc không chấp nhận người đại diện
hợp pháp là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; là người bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Bên cạnh đó, vẫn cịn tồn tại một số
quan điểm cho lại rằng trong số người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự theo quy định của pháp tố tụng hình sự thì chỉ có Luật sư là
người bào chữa chuyên nghiệp, là người có đủ điều kiện (điều kiện về địa vị pháp lý
và kiến thức pháp luật) để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Còn người
đại diện hợp pháp thì khơng chun nghiệp, khơng có năng lực, trình độ, kiến thức
pháp luật và sự tự tin để bào chữa cho người được bào chữa hay bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự trước các cơ quan tiến hành tố tụng nên không đồng ý
để người đại diện hợp pháp làm người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp cho mình.
Thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự hiện nay cho thấy sự hiện diện của Luật
sư với tư cách là người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương
sự trong các vụ án hình sự rất phổ biến cịn sự hiện diện của người đại diện hợp


21

pháp tại các cơ quan tiến hành tố tụng là rất ít. Những nguyên nhân trên đã ảnh
hưởng rất nhiều đến quá trình giải quyết và làm rõ sự thật khách quan vụ án, vi
phạm nghiêm trọng quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự. Vì khơng
phải mọi trường hợp đều có Luật sư tham gia với tư cách là người bào chữa, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Thực tiễn cho thấy không phải tất cả người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người
bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án đều có điều kiện về kinh tế để thuê Luật sư làm người bào chữa hoặc
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Ngồi ra hiện nay tồn tại tình
trạng vụ án hình sự có Luật sư tham gia theo chỉ định được quy định tại khoản 2
Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng sự tham gia của họ chỉ mang tính hình thức.
Ngun nhân trên xuất phát từ nhiều lý do khác nhau như: bào chữa khơng có thù

lao, do phải tham gia nhiều vụ án hoặc do trình độ nghiệp vụ hạn chế... nên tâm lý
của một số Luật sư khi tham gia bào chữa thường khơng hết trách nhiệm của mình.
Vì vậy, các biện pháp nghiệp vụ như: nghiên cứu, sao chụp hồ sơ, thu thập tài liệu
chứng cứ… được thực hiện một cách qua loa, không sâu sát. Đặc biệt có trường hợp
Luật sư khơng nghiên cứu sao chụp hồ sơ, thu thập tài liệu chứng cứ và các nghiệp
vụ khác trước khi tham gia phiên tòa. Việc tranh luận làm rõ sự thật khách quan của
vụ án trong trường hợp này tại phiên tòa của Luật sư cũng chưa hết mình mà họ chỉ
bào chữa cho hết “nghĩa vụ”. Từ đó khơng đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
người được bào chữa, ảnh hưởng đến việc tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải
cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
Người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình sự tham gia với hai tư cách: vừa
là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; vừa là người bảo vệ quyền
lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án. Với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo thì người
đại diện hợp pháp sẽ khắc phục được những hạn chế của bị can, bị cáo trong thực
hiện quyền bào chữa thông qua sự giúp đỡ của họ. Vì khi bị khởi tố, tạm giữ, tạm
giam thì bị can, bị cáo sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc thực hiện quyền bào


22

chữa của mình. Người đại diện hợp pháp có ưu thế hơn bị can, bị cáo về địa vị pháp
lý trong tố tụng hình sự, các điều kiện để thực hiện quyền bào chữa được quy định
tại khoản 2 Điều 58 Bộ luật Tố tụng hình sự về quyền của người bào chữa: Có mặt
khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can; xem các biên bản về hoạt
động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người
mà mình bào chữa; thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; đọc ghi chép, sao
chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc
điều tra; tham gia hỏi tranh luận tại phiên tòa; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng

của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết
định của Tòa án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về
tâm thần hoặc thể chất…
Với tư cách là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thì người đại diện
hợp pháp tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của họ bị xâm phạm. Người
đại diện hợp pháp có thể tham gia trực tiếp cùng với người được đại diện trong quá
trình tố tụng hoặc có thể thay mặt họ tham gia tố tụng thông qua ủy quyền và được
thực hiện các quyền năng tố tụng theo quy định của pháp luật.
Từ những phân tích trên và theo các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về
người đại diện hợp pháp thì thấy người đại diện hợp pháp của những người được
đại diện trong tố tụng hình sự có vai trị và vị trí rất quan trọng. Họ là người bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của những người được đại diện, là người góp phần vào việc
làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Người đại diện hợp pháp còn là người giúp đỡ
người được đại diện về kiến thức pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án7.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Trịnh Tiến Việt (2010), “Người bào chữa trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Tịa án nhân dân, (Số
10), tr.28.
7


×