Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Nguyên tắc khi xét xử thẩm phán hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
----------***---------BAN ĐIỀU HÀNH
CÁC CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT

NGUYỄN THẢO LINH

NGUYÊN TẮC “KHI XÉT XỬ, THẨM PHÁN, HỘI THẨM
ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT” TRONG TỐ
TỤNG HÀNH CHÍNH

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Khoa: Luật Hành chính
Niên khóa: 2012 - 2016

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: ThS. Dƣơng Hoán
Ngƣời thực hiện: Nguyễn Thảo Linh
MSSV: 1253801010175
Lớp: CLC 37D

TP. Hồ Chí Minh - 2016


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt q trình làm khóa luận, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ tận tình
của các Thầy, Cơ trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện trường
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Tịa án nhân dân Thành phố Nha Trang, gia
đình và bạn bè. Với sự kính trọng và biết ơn, trước hết tác giả xin bày tỏ sự biết ơn
sâu sắc đến các Thầy, Cô trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã truyền
thụ kiến thức cho tác giả trong suốt 4 năm học vừa qua, vốn kiến thức này khơng
chỉ là nền tảng cho q trình thực hiện khóa luận mà cịn là hành trang vững chắc để


tác giả bước vào đời. Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn Thầy Dương Hoán, Giảng
viên khoa Luật Hành chính, trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo
viên hướng dẫn nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp cho tác giả. Dù Thầy rất bận rộn
với công việc của mình nhưng vẫn ln dành thời gian, quan tâm và hướng dẫn tận
tình trong suốt quá trình tác giả thực hiện đề tài.
Tiếp theo, tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn đến Thư viện trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo các điều kiện tốt nhất để tác giả có thể nghiên cứu
đề tài khóa luận của mình.
Xin cảm ơn các Thẩm phán làm việc ở Tòa án TP. Nha Trang đã cho tác giả
những ý kiến, kiến thức thực tế về thực tiễn hoạt động xét xử vụ án hành chính trên
địa bàn TP. Nha Trang nói riêng và trên cả nước nói chung làm cơ sở để tác giả có
thể hồn thành khóa luận của mình.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình đã luôn động viên, hỗ trợ về mọi mặt để tác
giả có thể hồn thành khóa luận và hồn thành tốt cơng việc học tập của mình. Cảm
ơn bạn bè đã luôn bên cạnh và cho tác giả những ý kiến để tác giả có thể hồn thành
tốt khóa luận.
Mặc dù đã cố gắng và nỗ lực nhưng do hạn chế về trình độ nhận thức, kinh
nghiệm thực tiễn của tác giả nên đề tài khó tránh khỏi thiếu sót nhất định. Vì vậy,
tác giả kính mong nhận được ý kiến và góp ý từ Q Thầy, Cơ để khóa luận có thể
hồn thiện hơn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................................... 1
CHƢƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC “KHI XÉT XỬ, THẨM PHÁN,
HỘI THẨM ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT” TRONG TỐ TỤNG
HÀNH CHÍNH ......................................................................................................................... 5
1.1. Khái niệm về nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật” trong tố tụng hành chính ......................................................................... 5

1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật” trong tố tụng hành chính ......................................................................... 9
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội
thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong pháp luật tố tụng hành chính Việt
Nam ................................................................................................................................ 12
1.4. Nội dung của nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật” trong tố tụng hành chính và các quy định pháp luật nhằm bảo đảm
thực hiện nguyên tắc này trong tố tụng hành chính........................................................ 14
1.4.1. Nội dung của nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật” trong tố tụng hành chính ....................................................... 14
1.4.1.1. Thẩm phán và Hội thẩm độc lập khi xét xử .................................... 14
1.4.1.2. Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử ........... 21
1.4.2. Các quy định pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc “Khi xét xử,
Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong tố tụng hành chính
............................................................................................................................... 23
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA NGUYÊN TẮC VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC “KHI XÉT XỬ,
THẨM PHÁN, HỘI THẨM ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT”
TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH .................................................................................... 31
2.1. Thực trạng của nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật” trong tố tụng hành chính ............................................................... 31
2.1.1. Bất cập của pháp luật trong việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc “Khi xét xử,
Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong tố tụng hành chính
............................................................................................................................... 31
2.1.2. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật” trong tố tụng hành chính ............................................ 41


2.1.3. Nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong thực tiễn thực hiện nguyên tắc
“Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong tố

tụng hành chính ..................................................................................................... 52
2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc “Khi xét xử,
Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong tố tụng hành chính .... 58
2.2.1. Các giải pháp về pháp luật ........................................................................... 58
2.2.2. Các giải pháp thực tiễn ................................................................................ 66
KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 69


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bộ máy nhà nước Việt Nam, Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp
- một trong ba nhánh quyền trong cơ cấu quyền lực nhà nước. Tịa án thơng qua
hoạt động xét xử của mình duy trì trật tự pháp lý, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân, góp phần ổn định và mang lại công bằng cho xã hội. Để thực
hiện tốt nhiệm vụ này đòi hỏi Tòa án phải độc lập. Tuy nhiên, Tịa án là một thiết
chế khơng thể tự mình thực hiện được quyền tư pháp (xét xử) mà phải thông qua
con người cụ thể thay mặt Tòa án thực hiện quyền tư pháp, đó là Thẩm phán và Hội
thẩm cho nên tất yếu đòi hỏi để bảo đảm được sự độc lập của Tịa án thì Thẩm
phán, Hội thẩm phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử. Điều này đã được
pháp luật quy định là một nguyên tắc cơ bản trong xuyên suốt quá trình thực hiện
chức năng xét xử của Tòa án. Nguyên tắc cơ bản này được Hiến pháp quy định và
được cụ thể hóa trong Luật Tổ chức Tịa án nhân dân và các văn bản pháp luật tố
tụng chuyên ngành như: Luật Tố tụng hành chính, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật
Tố tụng dân sự. Trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ nghiên cứu nguyên tắc này
trong tố tụng hành chính.
Tố tụng hành chính là một ngành luật còn non trẻ, chỉ mới ra đời từ năm 1996,
trễ hơn so với ngành luật Tố tụng dân sự và Tố tụng hình sự. Tuy nhiên, đây là hoạt
động cho thấy Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhân dân có quyền
phản đối những quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước
hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước mà họ cho rằng là không hợp

pháp, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Chính vì vậy, việc Thẩm
phán, Hội thẩm độc lập khi xét xử các vụ án hành chính có ý nghĩa quan trọng đối
với việc giải quyết xung đột trong mối quan hệ giữa chính quyền và nhân dân, phát
huy tính dân chủ của hoạt động tố tụng hành chính một cách triệt để, xây dựng niềm
tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên với đặc
trưng của tố tụng hành chính là bên bị kiện là cơ quan nhà nước cho nên nguyên tắc
này trên thực tế khó thực hiện, khơng được đảm bảo. Bên cạnh đó, ngày 01/7/2016
là ngày Luật Tố tụng hành chính 2015 có hiệu lực, trong đó có các quy định mới có
1


thể sẽ tác động đến hiệu quả thực hiện nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội
thẩm độc lập và chỉ tn theo pháp luật” trong tố tụng hành chính.
Vì vậy, tác giả chọn đề tài nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong tố tụng hành chính làm khóa luận tốt nghiệp để
thông qua đề tài này, tác giả muốn làm rõ thực trạng, những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng nguyên tắc này khó thực hiện trên thực tế trong tố tụng hành chính và từ
đó đưa ra những kiến nghị đề khắc phục thực trạng trên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật” nói chung đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học như: Luận văn cử nhân:
“Nguyên tắc độc lập khi xét xử của Tòa án nhân dân - thực trạng và kiến nghị”
(2012) của tác giả Phan Trần Nhi, luận văn cử nhân: “Nguyên tắc độc lập trong hoạt
động xét xử của Tòa án nhân dân - thực trạng và kiến nghị” (2013) của tác giả
Nguyễn Thị Dung; các bài báo: “Nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật - thực tiễn và kiến nghị” của tác giả Nguyễn
Quang Hiền (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 23/2012), “Thực tiễn và một số kiến
nghị nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật” của Thạc sỹ Trần Duy Bình (Tạp chí Tịa án nhân
dân số 11/2012), “Tìm hiểu ngun tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập

và chỉ tuân theo pháp luật” của tác giả Hoàng Thị Sơn (Tạp chí Luật học số
5/1996), “Những điều kiện đảm bảo cho Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật” của tác giả Nguyễn Sơn Hà (Tạp chí Tịa án nhân dân số 11/2013). Tuy
nhiên các cơng trình này chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu nguyên tắc này theo hướng
chung trong hoạt động xét xử của Tịa án mà khơng đi sâu vào từng lĩnh vực xét xử
cụ thể. Trong tố tụng hành chính, liên quan đến ngun tắc này hiện nay cũng có
một số cơng trình nghiên cứu nhưng khơng nhiều như: Luận văn cử nhân: “Nhiệm
vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong tố tụng hành chính” (2015) của tác giả Trần
Nguyễn Thủy Tiên; Bài viết “Tịa hành chính xét xử độc lập nhìn từ vụ việc cụ thể”
của tác giả Đặng Hà Phương (Tạp chí Nghề Luật số 24/2007); Bài viết “Những quy
định đảm bảo sự độc lập của Tòa án trong luật Tố tụng hành chính 2015” của tác

2


giả Phạm Thị Phương Thảo (Kỷ yếu hội thảo những điểm mới của Luật Tố tụng
hành chính 2015),...
Nhìn chung các bài viết trên đã khái quát được sơ lược về nguyên tắc này ở
nhiều khía cạnh và mức độ khác nhau nhưng chỉ mới mang tính lý luận chung chứ
chưa đi sâu vào trong lĩnh vực tố tụng hành chính và đặc biệt là chưa đề cập đến
những điểm mới liên quan đến tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
được quy định trong Luật Tố tụng hành chính 2015.
3. Mục đích nghiên cứu
Tác giả chọn đề tài này nhằm phân tích sâu hơn các nội dung chủ yếu của
nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
trong tố tụng hành chính như: Lý luận chung về nguyên tắc, thực trạng các quy định
của pháp luật tác động đến nguyên tắc, thực tiễn áp dụng nguyên tắc này trên thực
tế và từ đó đưa ra các kiến nghị bảo đảm cho nguyên tắc này được thực hiện có hiệu
quả.
4. Phạm vi nghiên cứu

Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật” là nguyên tắc chung cho tất cả hoạt động xét xử của Tòa án, được ghi nhận
trong Hiến pháp, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và các văn bản pháp luật tố tụng.
Trong phạm vi khóa luận, tác giả chỉ chỉ nghiên cứu nguyên tắc này trong lĩnh vực
tố tụng hành chính.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Triết
học Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về pháp
luật và các phương pháp nghiên cứu khoa học khác: so sánh, phân tích, tổng hợp,
thống kê.
6. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống các vấn đề
lý luận cũng như thực tiễn về nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật” trong tố tụng hành chính Việt Nam. Từ đó góp phần thể

3


hiện vai trò của nguyên tắc trong việc đảm bảo tính độc lập của Tịa án khi xét xử
vụ án hành chính.
Việc nghiên cứu đề tài một cách nghiêm túc tích cực góp phần làm sáng tỏ nội
dung ngun tắc cũng như đưa ra những đề xuất hoàn thiện các cơ chế đảm bảo cho
việc thực hiện nguyên tắc. Thông qua đó góp phần tháo gỡ những vướng mắc, nâng
cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc này trong thực tế.
7. Tóm tắt nội dung đề tài
Đề tài ngồi phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì
nội dung sẽ được trình bày trong hai chương chính:
Chương 1: Lý luận chung về nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong tố tụng hành chính.
Chương 2: Thực trạng của nguyên tắc và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu

quả thực hiện nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật” trong tố tụng hành chính.

4


CHƢƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC “KHI XÉT XỬ, THẨM
PHÁN, HỘI THẨM ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT”
TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
1.1. Khái niệm về nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật” trong tố tụng hành chính
Bộ máy nhà nước của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ
chức theo nguyên tắc quyền lực là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư
pháp1. Trong đó, Hiến pháp 2013 lần đầu tiên khẳng định Tòa án nhân dân là cơ
quan xét xử của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp2. Từ đó, ta có thể thấy được Tịa án có một vị trí quan trọng trong bộ máy nhà
nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Cơ quan tư pháp là cơ
quan trọng yếu của chính quyền”3. Để Tòa án phát huy hết vai trò là một cơ quan
thực hiện quyền tư pháp - một trong ba nhánh quyền lực trong cơ cấu quyền lực nhà
nước thì Tịa án phải độc lập. Sự cần thiết của Tòa án độc lập hay tư pháp độc lập
đã được nhiều tác giả nghiên cứu4, trong đó có nghiên cứu của ơng Theodor Meron5
- một học giả hàng đầu trong lĩnh vực luật nhân đạo. Theo Theodor Meron, tư pháp
độc lập là nội dung cơ bản của Nhà nước pháp quyền bởi khi Thẩm phán độc lập từ
1

Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp 2013.
Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp 2013.
3
Vụ Pháp chế, “Tư pháp là cơ quan trọng yếu của chính quyền”,

xem ngày 18/07/2016.
2

4

Luận văn cử nhân: “Nguyên tắc độc lập khi xét xử của Tòa án nhân dân - thực trạng và kiến nghị” (2012)

của tác giả Phan Trần Nhi, luận văn cử nhân: “Nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân
dân - thực trạng và kiến nghị” (2013) của tác giả Nguyễn Thị Dung; các bài báo: “Nguyên tắc khi xét xử,
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật - thực tiễn và kiến nghị” của tác giả Nguyễn
Quang Hiền (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 23/2012), “Thực tiễn và một số kiến nghị nhằm bảo đảm thực
hiện nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” của Thạc sỹ Trần Duy
Bình (Tạp chí Tịa án nhân dân số 11/2012), “Tìm hiểu nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật” của tác giả Hồng Thị Sơn (Tạp chí Luật học số 5/1996), “Những điều kiện
đảm bảo cho Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” của tác giả Nguyễn Sơn Hà (Tạp chí Tịa
án nhân dân số 11/2013),…
5

Theodor Meron được coi là học giả hàng đầu trong lĩnh vực luật nhân đạo. Ông đã từng là Chánh án Tịa

hình sự Quốc tế cho trường hợp Nam Tư cũ và Thẩm phán tòa phúc thẩm cho phiên tịa Nam Tư và Rwanda.
Theodor Meron có những đóng góp rất lớn cho sự phát triển của luật hình sự quốc tế. Ông là tác giả cuốn
sách: “The Making of international Criminal Justice: The View from the Bench: Selected Speeches” (Thủ tục
của Tịa Tư pháp hình sự quốc tế từ góc nhìn của Thẩm phán: những phát biểu được lựa chọn), là tập hợp các
bài viết, phát biểu cung cấp nhận thức sâu sắc về luật tư pháp hình sự quốc tế và luật tố tụng tư pháp hình sự
quốc tế.

5



những áp lực chính trị hay áp lực khác, họ sẽ giải quyết tranh chấp một cách công
bằng, theo hướng dẫn của pháp luật6. Tính độc lập của Tịa án, cần được xem xét ở
hai khía cạnh7. Thứ nhất là tính độc lập của một thiết chế quyền lực nhà nước, nơi
các cá nhân (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân…) làm việc để thực hiện nhiệm vụ xét
xử. Thứ hai là tính độc lập của các cá nhân (Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân) thực
hiện chức năng, vai trò xét xử của Toà án trong các vụ án cụ thể. Nguyên tắc “Khi
xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” sẽ là cơ sở pháp lý
để bảo đảm cho sự độc lập của các cá nhân Thẩm phán, Hội thẩm khi thực hiện
chức năng xét xử.
Bên cạnh sự cần thiết của nguyên tắc này đối với hoạt động xét xử nói chung
của Tịa án thì đối với hoạt động tố tụng hành chính nói riêng, nguyên tắc này càng
thật sự cần thiết. Ở Viêt Nam, tố tụng hành chính là một lĩnh vực tố tụng còn mới so
với tố tụng dân sự hay tố tụng hình sự, ra đời vào năm 1996, kể từ khi Tòa án nhân
dân được giao thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính thơng qua pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/1996.
Tuy nhiên, đây lại là hoạt động thể hiện Việt Nam là Nhà nước dân chủ, của dân, do
dân và vì dân. Thơng qua hoạt động này, nhân dân có quyền phản đối những quyết
định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm
quyền trong cơ quan nhà nước mà họ cho rằng là không hợp pháp, ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Trong tố tụng hành chính, Thẩm phán và Hội
thẩm đóng vai trị là người giải quyết xung đột trong mối quan hệ giữa cơ quan nhà
nước và nhân dân cho nên hơn bao giờ hết, Thẩm phán và Hội thẩm càng phải thực
sự khách quan, công bằng khi xét xử vụ án hành chính. Vì có như thế mới bảo đảm
được niềm tin của nhân dân đối với hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan
nhà nước nói chung và đối với hoạt động xét xử của Tịa án nói riêng.
Theo từ điển tiếng Việt, “nguyên tắc” theo nghĩa chung nhất là “điều cơ bản
định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loại việc làm”8. Trong tổ chức thực
hiện các hoạt động của Nhà nước, “nguyên tắc” được xác định là những tư tưởng
chủ đạo có vai trị định hướng chung cho hành vi của các tổ chức, cá nhân tham gia
vào các hoạt động này. Do đó, các nguyên tắc trong tổ chức thực hiện các hoạt động

6

Meron, T., & Oxford University, P. (2011), Judicial Independence and Judicial Impartiality, The Making of
international Criminal Justice: The View from the Bench: Selected Speeches. Oxford: Oxford University
Press, p. 256-257.
7

Tơ Văn Hịa, Tính độc lập của tịa án: Nghiên cứu pháp lý về các khía cạnh lý luận, thực tiễn ở Đức, Mỹ,
Pháp, Việt Nam và các kiến nghị đối với Việt Nam, Luận án tiến sỹ Luật học, Khoa Luật, Đại học Tổng hợp
Lund, Thụy Điển, 2006, trang 66
8
Hoàng Phê (Chủ biên) (1996), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học , trang 672.

6


của Nhà nước đều được pháp luật quy định. Vì vậy, những nguyên tắc này đều được
xác định là những nguyên tắc pháp lý, việc tuân thủ các nguyên tắc này là yêu cầu
pháp lý bắt buộc đối với các tổ chức, cá nhân tham gia vào các hoạt động của Nhà
nước9. Cũng như các hoạt động khác của Nhà nước, việc giải quyết các vụ án hành
chính theo thủ tục tố tụng hành chính phải tuân thủ những nguyên tắc pháp lý nhất
định. Những nguyên tắc này được pháp luật tố tụng hành chính quy định trên cơ sở
bảo đảm tính thống nhất trong các hoạt động tố tụng hành chính nói chung và sự
phù hợp với những u cầu riêng biệt của hoạt động tố tụng hành chính. Như vậy,
nguyên tắc trong tố tụng hành chính là những quan điểm, tư tưởng mang tính chỉ
đạo, được quy định trong Luật Tố tụng hành chính mà các chủ thế tiến hành và
tham gia tố tụng cũng như mọi cá nhân, tổ chức có liên quan khác phải tuân thủ khi
tham gia q trình tố tụng hành chính10.
Theo giải thích của từ điển tiếng Việt: “Độc lập là đứng một mình, khơng dựa
vào ai, khơng nhờ cậy vào ai, khơng bị ai kiềm chế”11. “Độc lập trong xét xử” là

quyền tự chủ của Thẩm phán, Hội Thẩm. Trong quá trình xét xử, Thẩm phán, Hội
Thẩm không bị phụ thuộc vào bất kỳ ai hay vì bất kỳ lý do gì và sự độc lập đó được
Nhà nước thừa nhận và đảm bảo. Đây là một trong những quyền cơ bản, quan trọng
của Thẩm phán, Hội thẩm, đồng thời nó cịn là trách nhiệm của Thẩm phán, Hội
thẩm khi thực hiện nhiệm vụ xét xử của mình. Bên cạnh yếu tố “độc lập trong xét
xử”, nguyên tắc còn đề cập đến yếu tố “chỉ tuân theo pháp luật”, điều này có nghĩa
là trong quá trình xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm có quyền tự mình đưa ra phán quyết
để giải quyết vấn đề mà không phụ thuộc vào bất kỳ yếu tố nào nhưng việc xét xử
đó phải trên cơ sở pháp luật, trong khuôn khổ của pháp luật.
Sở dĩ “độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” không thể tách rời mà phải đi đơi
với nhau là bởi vì giữa hai yếu tố này có mối quan hệ biện chứng, thống nhất với
nhau. Nếu chỉ quy định Thẩm phán và Hội thẩm có quyền độc lập, tự mình đưa ra
các quyết định mà thiếu sự ràng buộc về nghĩa vụ thì quyền hạn của họ rất lớn. Điều
này có thể dẫn đến tình trạng Thẩm phán, Hội thẩm lạm quyền, quyết định mọi việc
một cách tùy tiện, gây ảnh hưởng đến tính đúng đắn, chính xác, khách quan của
quyết định, bản án. Vì vậy, bên cạnh việc quy định quyền độc lập trong xét xử đối
với Thẩm phán, Hội thẩm, còn quy định về nghĩa vụ chỉ tuân theo pháp luật đối với
Thẩm phán và Hội thẩm như một sự ràng buộc, một sự giới hạn, một khuôn khổ
nhằm hạn chế sự tùy tiện, chủ quan, cảm tính khi đánh giá vấn đề của Thẩm phán
9

Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb Tư pháp, trang 40.
Đại học Luật TP. HCM (2012), Giáo trình tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb Hồng Đức - Hội Luật Gia
Việt Nam, trang 40.
11
Hoàng Phê (Chủ biên) (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, trang 316.
10

7



và Hội thẩm. Bên cạnh đó, sự tuân theo pháp luật cịn là cơ sở để thực hiện tính độc
lập trong xét xử. Để có thể tự mình đưa ra phán quyết Thẩm phán và Hội thẩm phải
có kiến thức pháp luật và phải chấp hành các quy định của pháp luật. Khi nắm vững
các kiến thức pháp luật, Thẩm phán và Hội thẩm mới có điều kiện để thể hiện được
sự độc lập trong phán quyết của mình. Ngồi ra, việc Thẩm phán và Hội thẩm chỉ
tuân theo pháp luật khi xét xử đã loại trừ các tác động gây ảnh hưởng đến hoạt động
xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm, nhờ đó họ mới có thể có được sự độc lập.
Ngược lại, nếu chỉ quy định Thẩm phán và Hội thẩm có nghĩa vụ chỉ tuân theo pháp
luật mà không dành cho họ quyền độc lập khi thực hiện chức năng tố tụng của mình
thì có hai khả năng có thể xảy ra, một là phán quyết của họ sẽ mang tính cứng nhắc
vì áp dụng pháp luật một cách khiên cưỡng, duy lý khơng hợp tình hoặc là dễ thỏa
hiệp khi có sự can thiệp từ bên ngồi vì họ khơng có quyền độc lập. Ngồi ra, độc
lập là biểu hiện của tuân theo pháp luật. Nếu Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc
lập, không chịu bất cứ sự tác động nào thì phán quyết của Hội đồng xét xử mới có
tính khách quan, vơ tư, quyết định của Hội đồng xét xử mới đảm bảo đúng pháp
luật. Độc lập là điều kiện cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm tuân theo pháp luật.
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập chính là biểu hiện và bảo đảm của việc tuân
theo pháp luật.
Đối với phạm vi áp dụng thì nguyên tắc này được áp dụng trong hoạt động xét
xử vụ án hành chính của Thẩm phán và Hội thẩm. Tuy nhiên, khái niệm “xét xử”
được đề cập đến trong nguyên tắc vẫn chưa được hiểu theo một cách thống nhất.
Theo nghĩa rộng thì hoạt động “xét xử” ở đây bắt đầu từ khi Thẩm phán, Hội thẩm
được phân công giải quyết vụ án hành chính cho đến khi vụ án được giải quyết, tức
là hoạt động xét xử bao gồm cả những hoạt động tác nghiệp bổ trợ cho hoạt động
xét xử tại phiên tòa, diễn ra trước khi mở phiên tòa như: nghiên cứu hồ sơ, xác
minh, thu thập chứng cứ và các công việc cần thiết khác và hoạt động xét xử tại
phiên tịa. Theo nghĩa hẹp thì hoạt động “xét xử” chỉ là hoạt động xét xử tại phiên
tòa mà thôi12. Theo tác giả, hoạt động “xét xử” được đề cập đến trong nguyên tắc
này nên được hiểu là toàn bộ tiến trình tố tụng của Thẩm phán và Hội thẩm, từ khi

vụ án được phân công giải quyết cho đến khi vụ án được phán quyết bằng quyết
định hoặc bản án. Hoạt động “xét xử” ở đây không phải chỉ là hoạt động xét xử diễn
ra tại phiên tòa, mà còn bao gồm những hoạt động tác nghiệp bổ trợ cho hoạt động
xét xử tại phiên tòa, diễn ra trước khi mở phiên tòa như: nghiên cứu hồ sơ, xác
minh, thu thập chứng cứ và các công việc cần thiết khác. Bởi vì “xét xử” là một q
12

Hồng Hồng Phương (2011), Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Luận
văn Thạc sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa luật, trang 9.

8


trình, các hoạt động như nghiên cứu hồ sơ, xác minh, thu thập chứng cứ là những
hoạt động tác nghiệp bổ trợ cho hoạt động xét xử tại phiên tòa. Nếu các hoạt động
này không được diễn ra một cách khách quan, độc lập, đúng pháp luật thì hoạt động
xét xử tại phiên tịa cũng khơng thể nào khách quan, độc lập, đúng pháp luật được.
Những phân tích trên đã khái quát cơ bản về những yếu tố cấu thành nên
nguyên tắc, phạm vi áp dụng của nguyên tắc cũng như tầm quan trọng của nguyên
tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong tố
tụng hành chính.
1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật” trong tố tụng hành chính
Nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật” có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động xét xử của Tịa án, có thể khái qt ý
nghĩa của nguyên tắc thành ba nhóm như sau:
Ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội
Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật” trong tố tụng hành chính góp phần xác định vị trí, vai trị của Tịa án trong bộ
máy nhà nước Việt Nam. Thẩm phán, Hội thẩm nói riêng và Tịa án nói chung có

độc lập thì mới đảm bảo được tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật, có khả năng
kiểm sốt và giới hạn các cơ quan nhà nước khác. Chỉ có Tịa án mới có quyền xét
xử và khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Không
một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào được can thiệp, gây ảnh hưởng đến hoạt động xét
xử của Tòa án và sự độc lập này trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật,
không tuân theo bất cứ sự chỉ đạo nào ngoài pháp luật, trái pháp luật.
Trong tố tụng hành chính, ngun tắc này có ý nghĩa rất quan trọng bởi vì tố
tụng hành chính có một đặc trưng riêng biệt mà đặc trưng này có thể gây ảnh hưởng
đáng kể đến hoạt động xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Đó là người bị kiện trong
tố tụng hành chính là cơ quan nhà nước hoặc là người có thẩm quyền trong cơ quan
nhà nước và đối tượng bị kiện ở đây là các quyết định hành chính, hành vi hành
chính thuộc về những chủ thể mang quyền lực nhà nước này. Nếu như trong các
lĩnh vực tố tụng khác thì người bị kiện có thể là cá nhân, tổ chức nhưng không liên
quan đến “công quyền”, vị trí của người bị kiện và người khởi kiện đều ngang nhau
và có thể xem đều là thế yếu trước Tịa án, thì trong tố tụng hành chính lại khơng
như vậy, người bị kiện trong tố tụng hành chính lại là cơ quan nhà nước hoặc người
có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước, họ đều là những chủ thể mang quyền lực
nhà nước, thay mặt Nhà nước trong việc ra các quyết định hành chính hay thực hiện
9


các hành vi hành chính. Người bị kiện trong tố tụng hành chính bao giờ cũng là
những người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước và nếu những chủ thể
này có bị thua kiện thì chức vụ, quyền hạn của họ vẫn không mất đi, đây cũng là
một đặc trưng riêng biệt chỉ có trong tố tụng hành chính, khác biệt với tố tụng dân
sự và tố tụng hình sự. Chính vì những đặc trưng này cho nên khi xét xử các vụ án
hành chính, tâm lý của Hội đồng xét xử có thể bị ảnh hưởng khiến cho hoạt động
xét xử của họ không được khách quan, đúng pháp luật. Bên cạnh đó, xét xử vụ án
hành chính là phán quyết về tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi
hành chính của cơ quan nhà nước, của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan

nhà nước cho nên dù chưa kể đến kết quả vụ án như thế nào nhưng trước hết uy tín
của những cơ quan nhà nước bị kiện có thể đã bị ảnh hưởng. Vì vậy, tâm lý của các
cơ quan nhà nước nói chung và lãnh đạo cơ quan nhà nước nói riêng là khơng mong
muốn có một nguy cơ nào gây ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan mình, nhất là liên
quan đến tính hợp pháp của các quyết định từ phía cơ quan. Với tâm lý ấy thì việc
“tìm mọi cách” để gây tác động, ảnh hưởng đến Thẩm phán, Hội thẩm, nhằm làm
cho các phán quyết nghiêng về hướng có lợi cho mình là điều khó tránh khỏi. Chính
vì vậy, việc quy định ngun tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật” trong tố tụng hành chính là cơ sở pháp lý quan trọng, để bảo
đảm cho hoạt động xét xử vụ án hành chính trên thực tế của Thẩm phán, Hội thẩm
được khách quan, đúng pháp luật, từ đó các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức sẽ được bảo vệ một cách thỏa đáng.
Bên cạnh đó, ngun tắc này cịn đảm bảo sự công bằng trong hoạt động xét
xử, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Cơ quan nhà nước cũng như người
dân, người nào làm sai thì đều phải chịu trách nhiệm trên cơ sở bản án, quyết định
của Tịa án, khơng có một sự thiên vị nào ở đây cho dù một trong các đương sự
trong vụ án hành chính là cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ
quan nhà nước. Ngoài ra, nguyên tắc này là một trong những yếu tố bảo đảm tính
dân chủ vì tố tụng hành chính là một hoạt động thể hiện tính dân chủ, người dân có
quyền phản đối các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà
nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước mà họ cho rằng là không
hợp pháp, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ bằng cách khởi kiện
các chủ thể này ra Tịa án. Trong tố tụng hành chính, Thẩm phán, Hội thẩm sẽ là
người giải quyết xung đột trong mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân cho nên
hơn ai hết Thẩm phán, Hội thẩm phải khách quan, độc lập, cơng bằng khi xét xử vì
có như thế tính dân chủ của tố tụng hành chính mới được phát huy triệt để. Do đó,
10


nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”

trong tố tụng hành chính được coi là cơng cụ pháp lý để đảo bảo tính dân chủ của
hoạt động tố tụng hành chính nói riêng và của hoạt động xét xử của Tịa án nói
chung. Nếu nguyên tắc này được thực hiện đúng đắn thì tính chất dân chủ của tố
tụng hành chính mới phát huy, tạo niềm tin của người dân đối với hoạt động quản lý
nhà nước của cơ quan nhà nước nói chung và hoạt động xét xử của Tịa án nói
riêng. Bên cạnh đó, nguyên tắc này góp phần phát huy trí tuệ tập thể. Hoạt động xét
xử khơng phải là hoạt động của một cá nhân mà là hoạt động của một tập thể, chỉ
khi các cá nhân là các thành viên trong Hội đồng xét xử độc lập với nhau thì mới
phát huy được trí tuệ tập thể, ngược lại thì hoạt động xét xử chỉ phát huy được trí
tuệ của cá nhân, từ đó tính chính xác, khách quan của bản án, quyết định được đưa
ra sẽ không được bảo đảm.
Ý nghĩa về mặt pháp lý
Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật” trong tố tụng hành chính là cơ sở pháp lý để Thẩm phán và Hội thẩm tiến hành
hoạt động xét xử vụ án hành chính được độc lập, khách quan. Một khi Thẩm phán,
Hội thẩm được độc lập, khách quan trong xét xử thì pháp luật mới được tuân thủ
một cách đúng đắn cho nên nguyên tắc này chính là cơ sở đảm bảo cho Hiến pháp
và pháp luật được thực thi một cách nghiêm túc. Nói cách khác, pháp luật chỉ có ý
nghĩa và có tác dụng khi nguyên tắc “độc lập xét xử” được tuân thủ một cách triệt
để.
Nguyên tắc này góp phần tạo lập cơ chế tranh tụng trong tố tụng hành chính
bởi vì ngun tắc tranh tụng đặt ra đối với Thẩm phán, Hội thẩm là khi xét xử,
Thẩm phán, Hội thẩm khơng chỉ dựa vào chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án mà
phải tiến hành xác minh, đánh giá độ tin cậy những chứng cứ này bằng cách thẩm
vấn những người có liên quan tham gia phiên tịa, lắng nghe q trình tranh luận
giữa các đương sự, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các đương sự, lắng
nghe ý kiến của những chủ thể khác từ đó rút ra những đánh giá, nhận định của
riêng mình. Ngun tắc tranh tụng cịn cho phép Thẩm phán, Hội thẩm được thẩm
vấn những người tham gia phiên tòa để làm sáng tỏ một số tình tiết hoặc những
điểm nghi ngờ của vụ án. Chỉ sau khi nghe ý kiến của tất cả những người tham gia

phiên tòa, Hội đồng xét xử mới tiến hành nghị án để đưa ra những bản án, quyết
định đúng đắn nhất về vụ án. Do đó, để có thể đảm bảo được nguyên tắc tranh tụng
thì Thẩm phán, Hội thẩm phải thật sự khách quan, độc lập, công minh trong xét xử.
Để làm được điều này, Thẩm phán, Hội thẩm phải tuân thủ nguyên tắc “Khi xét xử,
Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
11


Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật” trong tố tụng hành chính góp phần đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp
của người dân khi bị xâm phạm bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính
của cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước. Ngược
lại nếu như các quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan nhà
nước này là hợp pháp thì thơng qua bản án, quyết định của Tịa án, tính hợp pháp
của các quyết định này càng được khẳng định hơn. Thực hiện tốt nguyên tắc này thì
sẽ phát huy được tính dân chủ của hoạt động tố tụng hành chính, đem lại niềm tin
của nhân dân đối với hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan nhà nước nói chung
và hoạt động xét xử của Tịa án nói riêng.
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm
phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong pháp luật tố tụng
hành chính Việt Nam
Trong tố tụng hành chính nói riêng và trong các lĩnh vực tố tụng nói chung,
khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không phải nhân danh cá nhân họ hay Hội đồng
xét xử mà nhân danh Nhà nước để phân định đúng, sai trong các vụ việc, tranh chấp
dân sự, hành chính, lao động, hơn nhân gia đình và để định tội danh, quyết định
hình phạt trong vụ án hình sự. Do đó, khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm phải tuân
thủ nghiêm ngặt những nguyên tắc nhất định, trong đó nguyên tắc cơ bản và quan
trọng nhất là nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật”. Nguyên tắc này bảo đảm cho hoạt động xét xử vụ án hành chính nói

riêng và các vụ án nói chung được khách quan, công bằng, đúng pháp luật. Nhận
thấy được tầm quan trọng của nguyên tắc này, Luật Tố tụng hành chính 2015 được
Quốc Hội khóa XIII thơng qua ngày 25/11/2015, có hiệu lực từ ngày 01/7/2016 đã
ghi nhận nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật” tại Điều 13 của Luật Tố tụng hành chính 2015. Tuy nhiên, nếu tìm hiểu
về lịch sử hình thành nguyên tắc trong pháp luật tố tụng hành chính thì chúng ta sẽ
thấy được sự ghi nhận nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật” trong pháp luật tố tụng hành chính có phần muộn hơn trong các
văn bản pháp luật khác, chỉ mới được ghi nhận gần đây trong Luật Tố tụng hành
chính 2010 tại Điều 14, còn trong Pháp lệnh Thủ tục giải các vụ án hành chính năm
1996 - văn bản pháp luật chuyên ngành đầu tiên của tố tụng hành chính chưa có sự
ghi nhận nguyên tắc này. Trong khi đó, nguyên tắc này đã được ghi nhận từ rất sớm
trong Hiến pháp, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và cả trong văn bản pháp luật
chuyên ngành của tố tụng hình sự, tố tụng dân sự. Cụ thể là:
12


Sau Cách mạng tháng Tám, ngày 24/01/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí Sắc
lệnh số 13/SL về Tổ chức tịa án và các ngạch Thẩm phán, trong đó có quy định:
“Tòa án tư pháp sẽ độc lập với các cơ quan hành chính. Các vị Thẩm phán sẽ chỉ
trọng pháp luật và công lý. Các cơ quan khác không được can thiệp vào việc tư
pháp”13, “Mỗi Thẩm phán xử án quyết định theo pháp luật và lương tâm của mình.
Khơng quyền lực nào được can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào công việc xử án”14.
Mặt khác, Điều 24 Sắc lệnh số 13/SL còn quy định: “Các phụ thẩm nhân dân có
bổn phận lấy lí trí sáng suốt và lương tâm ngay thẳng ra xét mọi việc rồi phát biểu
ý kiến một cách cơng bằng, khơng vì nể, vì sợ một thế lực nào, vì lợi ích riêng hay
tư thù mà bênh vực hay làm hại ai”. Các quy định nêu trên của Sắc lệnh số 13/SL
đã được ghi nhận vào bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Hiến pháp 1946 quy định: “Trong khi xét xử các viên Thẩm phán chỉ tuân theo
pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp”15. Những quy định trên đã thể

hiện rất rõ tinh thần của nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật”. Hiến pháp 1959 ra đời, nguyên tắc này được ghi nhận một
cách rõ nét hơn: “Khi xét xử, tịa án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật”16. Năm 1980, Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
toàn vẹn ra đời. Trên cơ sở Hiến pháp, Luật Tổ chức tòa án nhân dân 1981 được
ban hành, nguyên tắc này đã được khẳng định cụ thể hơn rằng: “Khi xét xử, Thẩm
phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”17. Năm 1988, Bộ luật Tố
tụng hình sự đầu tiên của Việt Nam ra đời. Trong đó, nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm
phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” được ghi nhận tại Điều 17 của
Bộ luật18. Nối tiếp đó, năm 1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
ngày 07/12/1989 cũng ghi nhận nguyên tắc này tại Điều 619. Đến Hiến pháp 1992,
một lần nữa nguyên tắc này tiếp tục được khẳng định tại Điều 130 Hiến pháp. Trên
tinh thần Hiến pháp 1992, Luật Tổ chức tòa án nhân dân 2002, Pháp lệnh Thẩm
phán, Hội thẩm tòa án nhân dân 2002, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, Bộ luật Tố
tụng dân sự 2004 tiếp tục quy định và cụ thể hóa nguyên tắc này. Gần đây nhất,
13

Điều 47 Sắc lệnh 13/SL về tổ chức tòa án và các ngạch Thẩm phán ngày 24/01/1946.
Điều 50 Sắc lệnh 13/SL về tổ chức tòa án và ngạch Thẩm phán ngày 24/01/1946.
15
Điều 69 Hiến pháp 1946.
16
Điều 100 Hiến pháp 1959 và Điều 4 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960.
14

17

Điều 131 Hiến pháp 1980, Điều 6 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 1981.

18


Điều 17. Thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
19

Điều 6. Thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Khi xét xử, thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

13


Hiến pháp 2013, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014 lại một lần nữa kế thừa các
bản Hiến pháp trước quy định về nguyên tắc quý báu này của ngành tư pháp với
quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm
cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội
thẩm”20. Có thể thấy trong các giai đoạn của sự phát triển kinh tế, xã hội, nguyên
tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” luôn
được ghi nhận trong Hiến pháp, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, các văn bản pháp
luật chuyên ngành của tố tụng dân sự, tố tụng hình sự và trở thành một trong những
nguyên tắc cơ bản, những căn cứ tối thượng để bảo đảm cho hoạt động xét xử của
Thẩm phán và Hội thẩm được đúng pháp luật, công bằng, khách quan.
Việc thiếu ghi nhận nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật” trong pháp luật tố tụng hành chính trước khi Luật tố tụng
hành chính 2010 có hiệu lực có thể gây ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện ngun
tắc này vì khơng tạo được sự thống nhất trong việc áp dụng nguyên tắc này giữa
Hiến pháp, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và pháp luật tố tụng hành chính. Các chủ
thể áp dụng pháp luật có thể có quan điểm khơng thống nhất với nhau về việc áp
dụng nguyên tắc này trong tố tụng hành chính.
1.4. Nội dung của nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật” trong tố tụng hành chính và các quy định pháp

luật nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc này trong tố tụng hành chính
Nội dung của nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật” trong tố tụng hành chính sẽ là cơ sở để đánh giá việc thực hiện
nguyên tắc này trên thực tế. Và nếu chỉ ghi nhận ngun tắc này trong pháp luật mà
khơng có những quy định pháp luật khác để bảo đảm thực hiện nguyên tắc thì
ngun tắc này khó có thể được thực hiện có hiệu quả.
1.4.1. Nội dung của nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong tố tụng hành chính
1.4.1.1. Thẩm phán và Hội thẩm độc lập khi xét xử
Tố tụng hành chính là một lĩnh vực tố tụng đặc biệt vì người bị kiện trong tố
tụng hành chính là cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà
nước cho nên trong quá trình xét xử các vụ án hành chính, Thẩm phán, Hội Thẩm
có thể bị tác động bởi những chủ thể này, gây ảnh hưởng đến sự khách quan, chính
xác, đúng pháp luật của hoạt động xét xử vụ án hành chính. Do đó, ngun tắc “Khi
xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” đã được ghi nhận
20

Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp 2013, Điều 9 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014.

14


trong Luật Tố tụng hành chính 2015, Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân 2014 như một công cụ pháp lý để loại bỏ những tác động tiêu cực đến hoạt
động xét xử các vụ án hành chính của Thẩm phán và Hội thẩm. Trong nguyên tắc
này, có hai yếu tố cơ bản đó là yếu tố “độc lập trong xét xử” và yếu tố “chỉ tuân
theo pháp luật”. Yếu tố đầu tiên được đề cập đến trong nguyên tắc này là yếu tố
“độc lập trong xét xử”. Sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm trong xét xử được
thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
Một là sự độc lập giữa các thành viên trong Hội đồng xét xử.

Sự độc lập giữa các thành viên trong Hội đồng xét xử được thể hiện ở hai
nội dung chính là: Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với nhau; sự độc lập giữa các
Thẩm phán trong trường hợp Hội đồng xét xử có từ hai Thẩm phán trở lên, sự độc
lập giữa các Hội thẩm với nhau.
Thứ nhất, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với nhau. Sự độc lập giữa Thẩm
phán và Hội thẩm được thể hiện qua việc họ độc lập nhau cả về mặt tổ chức và về
mặt tố tụng. Về mặt tổ chức, “Thẩm phán là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo
quy định của Luật này được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử”21, còn
Hội thẩm là do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giới thiệu để Hội đồng nhân dân
cùng cấp bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm22. Từ đó ta có thể thấy được giữa hai chủ thể
này có sự độc lập về quy chế hoạt động, chủ thể quản lý và thủ tục bầu, bổ nhiệm,
miễn nhiệm. Về mặt tố tụng, sự độc lập giữa Thẩm phán và Hội thẩm được thể hiện
ở những nội dung sau:
Trước hết, cần phải làm rõ một vấn đề đó là trong Hội đồng xét xử chức
danh chủ tọa phiên tòa được đặt ra là để tổ chức, điều khiển hoạt động tố tụng, hành
vi tố tụng tại phiên tòa xét xử, để các hoạt động tố tụng, hành vi tố tụng được diễn
một cách trật tự. Do đó, việc Chủ tọa phiên tịa là Thẩm phán khơng đồng nghĩa với
việc Thẩm phán là cấp trên, chỉ huy đối với hoạt động xét xử của Hội thẩm. Khi
biểu quyết về quyết định giải quyết vụ án, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với
Thẩm phán23. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm phải độc
lập nghiên cứu hồ sơ, tự đánh giá tình tiết và chứng cứ liên quan, xem xét các khía
cạnh của vụ án từ khái quát đến cụ thể, tự chuẩn bị kế hoạch hỏi tại phiên tịa. Tại
phiên tịa, tính độc lập được thể hiện ở việc Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán
khi biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử24. Thẩm phán
21

Khoản 1 Điều 65 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014.
Khoản 1 Điều 86 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014.
23
Khoản 2 Điều 12 Luật Tố tụng hành chính 2015.

24
Khoản 4 Điều 39 Luật Tố tụng hành chính 2015.
22

15


và Hội thẩm bình đẳng và độc lập trong việc hỏi tại phiên tòa, Thẩm phán hỏi trước,
Hội thẩm hỏi sau, “Việc đặt câu hỏi phải rõ ràng, nghiêm túc, không trùng lặp,
không lợi dụng việc hỏi và trả lời để xâm phạm danh dự, nhân phẩm của những
người tham gia tố tụng”25. Khi nghị án, Thẩm phán và Hội thẩm được bình đẳng
trong việc biểu quyết về từng vấn đề của vụ án. Hội thẩm biểu quyết trước, Thẩm
phán biểu quyết sau cùng. Ý kiến biểu quyết của Thẩm phán và Hội thẩm có giá trị
như nhau. Mặc dù bản án được hình thành trên cơ sở ý kiến của đa số nhưng các ý
kiến thiểu số được bảo lưu bằng văn bản trong hồ sơ vụ án.
Thẩm phán là người được đào tạo chuyên sâu về kiến thức pháp luật lẫn kỹ
năng nghiệp vụ và thường có nhiều kinh nghiệm xét xử hơn so với Hội thẩm. Để
được bổ nhiệm làm Thẩm phán, họ phải thỏa mãn các tiêu chuẩn do pháp luật quy
định như: có trình độ cử nhân luật trở lên, được đào tạo nghiệp vụ xét xử, có thời
gian làm cơng tác thực tiễn pháp luật và phải thông qua được kỳ thi tuyển chọn
Thẩm phán26. Trong khi đó, luật quy định tiêu chuẩn của Hội thẩm chỉ mang tính
chung chung, chỉ cần là cơng dân Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh
chính trị vững vàng, có kiến thức pháp luật, có hiểu biết xã hội là có thể được làm
Hội thẩm27 mà khơng địi hỏi trình độ pháp lý cao như Thẩm phán. Tuy nhiên trong
quá trình xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm vẫn phải độc lập với nhau. Thẩm phán
không được chi phối, đưa ra hướng giải quyết vụ án, gợi ý hay bắt buộc Hội thẩm
phải theo ý kiến chủ quan của mình28. Hội thẩm cũng khơng được có thái độ ỷ lại
Thẩm phán mà phải tích cực, chủ động và có trách nhiệm đưa ra chính kiến trong
hoạt động xét xử vụ án.
Bên cạnh sự độc lập giữa Thẩm phán và Hội thẩm thì vẫn cần có sự phối

hợp chặt chẽ giữa Thẩm phán và Hội thẩm trong việc trao đổi kinh nghiệm, kỹ năng
xét xử. Có thể nói, Thẩm phán ở đây là người đại diện cho Nhà nước còn Hội thẩm
là người đại diện cho nhân dân tham gia hoạt động tư pháp, mối quan hệ giữa Thẩm
phán và Hội thẩm có thể nói là mối quan hệ giữa lý và tình. Nếu giữa Thẩm phán và
Hội thẩm độc lập với nhau trong xét xử và bên cạnh đó cũng có sự phối hợp chặt
chẽ với nhau thì sẽ phát huy được trí tuệ tập thể, cách nhìn nhận các vấn đề trong
một vụ án cũng bao qt và tồn diện hơn, từ đó các quyết định và bản án sẽ càng
đúng đắn, chính xác, khách quan hơn.

25

Khoản 2 Điều 177 Luật Tố tụng hành chính 2015.
Điều 67, 68 Luật Tổ chức Tịa án nhân dân 2014.
27
Điều 85 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014.
28
Dương Thị Thanh Hiếu (2009), Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong
tố tụng hình sự và cơ chế bảo đảm thực hiện, luận văn cử nhân, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, trang 26.
26

16


Thứ hai là sự độc lập giữa các Thẩm phán và sự độc lập giữa các Hội
thẩm. Trong xét xử sơ thẩm mà Hội đồng xét xử có hai Thẩm phán29, trong hội
đồng xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm chỉ có Thẩm phán tham gia xét
xử, khơng có Hội thẩm30 thì sự độc lập ở đây có nghĩa là các Thẩm phán phải tự
mình đưa ra những quyết định dựa trên các chứng cứ thu thập được và các quy định
của pháp luật chứ không bị chi phối bởi ý kiến của những Thẩm phán còn lại.
Trong Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hành chính có thể có hai hoặc ba Hội

thẩm31. Do đó, trong quá trình xét xử, các Hội thẩm cũng phải độc lập với nhau.
Luật Tố tụng hành chính quy định Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán khi biểu
quyết các vấn đề giải quyết vụ án cho nên các Hội thẩm không được lợi dụng quy
định này của pháp luật, liên kết với nhau để buộc vụ án có thể được giải quyết theo
ý muốn chủ quan của họ.
Như vậy, nếu như chúng ta đảm bảo được sự độc lập ở các mối quan hệ là
giữa Thẩm phán và Hội thẩm, giữa Thẩm phán với nhau, giữa Hội thẩm với nhau
trong hoạt động xét xử thì sẽ làm cho hoạt động xét xử có hiệu quả, đảm bảo được
sự thật khách quan của vụ án. Từ đó nâng cao được chất lượng xét xử của tịa án
trong cơng cuộc bảo vệ và giữ vững nền tảng công lý cho xã hội.
Hai là sự độc lập giữa Tòa án cấp trên với Tòa án cấp dưới; giữa Thẩm
phán, Hội thẩm với Chánh án.
Thứ nhất, sự độc lập giữa các Tòa án.
Theo Điều 3 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014, ở nước Cộng hịa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có các Tòa án sau đây:
1. Tòa án nhân dân tối cao.
2. Tòa án nhân dân cấp cao.
3. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
4. Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương
đương.
5. Tòa án quân sự.
Về mặt tổ chức, hiện nay các Tòa án nhân dân đều do Tòa án nhân dân tối
cao thống nhất quản lý32. Luật Tổ chức tòa án nhân dân 2014 quy định về nguyên

29

Điều 154 Luật Tố tụng hành chính 2015.
Do tính chất xét xử phúc thẩm là xem xét lại vụ án án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị và tính chất xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm là xét lại bản
án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị, cho nên địi hỏi cần phải có những

người có trình độ chuyên môn cao để giải quyết những vấn đề phức tạp của vụ án.
31
Điều 154 Luật Tố tụng hành chính 2015.
32
Khoản 5 Điều 20 Luật Tổ chức Tịa án nhân dân 2014.
30

17


tắc tổ chức Tòa án ở nước ta là các Tòa án được tổ chức độc lập theo thẩm quyền
xét xử33. Các Tịa án độc lập có nghĩa là khi xét xử các Tòa án tối cao, Tòa án cấp
cao, Tòa án cấp tỉnh, Tòa án cấp huyện là các Tòa án độc lập với nhau, Tòa án nào
khi tuyên án cũng là nhân danh nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khơng
tịa nào hơn tịa nào, khơng phân biệt tòa cấp trên - cấp dưới. Các Tòa án cấp trên
khơng được chỉ đạo Tịa cấp dưới giải quyết theo quan điểm của mình, khơng gây
ảnh hưởng đối với tòa án cấp dưới. Sự hướng dẫn, chỉ đạo về cơng tác chun mơn
của Tịa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới là sự hướng dẫn chung chứ không
hướng dẫn cá biệt đối với từng vụ án. Trong trường hợp Tòa án cấp dưới xin ý kiến
của Tòa án cấp trên (còn gọi là thỉnh thị án) vì có thể do pháp luật quy định chưa rõ,
có mâu thuẫn trong các quy định pháp luật hoặc Thẩm phán chưa nhận thức rõ được
vấn đề thì ý kiến của Tịa án cấp trên chỉ mang tính hướng dẫn, giải thích nội dung
và cách thức áp dụng pháp luật chứ không quyết định các vấn đề đang được giải
quyết trong vụ án. Về nguyên tắc, Hội thẩm và Thẩm phán đang xét xử vụ án cụ thể
hồn tồn có quyền quyết định khác so với những hướng dẫn, trả lời của cấp trên 34.
Các Tịa án đều có chức năng chung là xét xử, mang lại công bằng, dân chủ
cho xã hội. Tuy nhiên, ở mỗi Tòa án lại có nhiệm vụ, quyền hạn và giới hạn xét xử
khác nhau. Đối với các vụ án hành chính, pháp luật tố tụng hành chính cũng có
những quy định cụ thể để xác định thẩm quyền xét xử của từng Tòa án35. Ngồi ra,
pháp luật tố tụng hành chính cịn quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của từng

người tiến hành tố tụng như: Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm... nhằm mục đích tạo
sự rõ ràng về mặt thẩm quyền của từng chủ thể, để Thẩm phán, Hội thẩm được độc
lập với Chánh án Tịa án nơi mình làm việc.
Mối quan hệ giữa các cấp Tòa án (cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm) phải là
mối quan hệ tố tụng, khơng phải là mối quan hệ Tịa cấp trên - cấp dưới. Do đó, Tịa
án cấp phúc thẩm khơng có chức năng quản lý về mặt tổ chức, nhân sự, nghiệp vụ,
kinh phí đối với Tịa án cấp sơ thẩm. Tịa án cấp phúc thẩm có quyền độc lập với
Tịa án cấp sơ thẩm trong việc đánh giá chứng cứ, tài liệu chứ không nhất thiết phải
dựa vào lý lẽ, cách giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm. Cịn đối với giám đốc
thẩm, tái thẩm thì do tính chất của hai thủ tục này có hiệu lực thi hành từ ngày ra
quyết định nên việc đảm bảo tính khách quan khi ra quyết định là cần thiết, cho nên
tính độc lập của Thẩm phán là rất quan trọng. Tính độc lập trong trường hợp này
33

Điều 5 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014.
Đại học Luật TP. HCM (2012), Giáo trình tố tụng hành chính Việt Nam, Nxb Hồng Đức - Hội Luật Gia
Việt Nam, trang 67 - 68.
35
Điều 31, 32 Luật Tố tụng hành chính 2015.
34

18


được thể hiện ở phạm vi giám đốc thẩm, tái thẩm, cụ thể là hội đồng xét xử giám
đốc thẩm, tái thẩm có quyền xem xét lại tồn bộ nội dung vụ án mà không bị hạn
chế trong nội dung phần kháng nghị36. Tòa án xét xử phúc thẩm hoặc giám đốc
thẩm, tái thẩm cho dù có hủy bản án của tòa án xét xử sơ thẩm để đưa về xét xử sơ
thẩm lại nhưng khơng có quyền chỉ đạo tòa sơ thẩm thu thập, đánh giá chứng cứ
hay đưa ra phương hướng xét xử cũng như việc quy định trước điều khoản pháp luật

nào sẽ được áp dụng khi xét xử.
Thứ hai, sự độc lập giữa Thẩm phán, Hội thẩm với Chánh án. Chánh án là
người lãnh đạo một Tòa án. Trong mối quan hệ giữa Thẩm phán và Chánh án, nếu
xét về mặt tổ chức thì đó là quan hệ giữa Thủ trưởng và nhân viên. Theo đó, Thẩm
phán phải tuân theo các quyết định của Chánh án về việc phân công, đề bạt, thuyên
chuyển, khen thưởng, kỷ luật nhưng về mặt tố tụng thì quan hệ giữa hai chủ thể này
chỉ là quan hệ giữa hai Thẩm phán, có quyền biểu quyết ngang nhau khi xét xử. Do
đó, họ cũng phải độc lập với nhau và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử. Ở đây có sự
phân định rõ ràng giữa thẩm quyền về mặt tổ chức và thẩm quyền về mặt tố tụng
của Chánh án. Nếu xét thẩm quyền về mặt tổ chức thì Thẩm phán phải tuân theo các
quyết định của Chánh án, còn nếu xét về mặt tố tụng thì Thẩm phán độc lập với
Chánh án khi xét xử. Trong những trường hợp Thẩm phán hỏi ý kiến Chánh án do
gặp phải những vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, pháp luật quy định chưa rõ, Thẩm
phán chưa biết hoặc đang phân vân về phương hướng giải quyết thì những ý kiến
của Chánh án chỉ mang tính chất tham khảo. Thẩm phán không được xem ý kiến
của Chánh án là căn cứ để đưa ra phán quyết và ngược lại Chánh án cũng không
được bắt buộc Thẩm phán phải xét xử theo ý kiến chỉ đạo của mình. Đây cũng là
quan điểm mà Chánh án Tòa án nhân dân tối cao năm 1988 từng phát biểu tại hội
nghị tổng kết ngành Tòa án năm 1988.37
Ba là sự độc lập giữa Thẩm phán, Hội thẩm với ý kiến của Viện kiểm sát.
Luật Tố tụng hành chính 2015 được thơng qua đã tiếp tục kế thừa Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính 1996 và Luật Tố tụng hành chính 2010 về
vai trò của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính. Luật tố tụng hành chính 2015 đã
quy định thêm một quyền năng mới cho Kiểm sát viên đó là trong phiên tịa sơ thẩm
ngồi phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng, Kiểm sát viên còn phát
biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án38. Điểm mới này giúp nâng cao vị thế của Kiểm
36

Điều 271, 286 Luật Tố tụng hành chính 2015.
Nguyễn Hồng Hà, “Độc lập xét xử và chuyện từ 20 năm trước”, xem ngày 06/07/2016.

38
Điều 190 Luật Tố tụng hành chính 2015.
37

19


sát viên nói riêng và Viện kiểm sát nói chung trong phiên tịa sơ thẩm, đồng thời
góp phần giúp Tịa án đưa ra phán quyết chính xác; bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên đương sự. Tuy nhiên, trong q trình xét xử, Thẩm phán, Hội
thẩm khơng được dựa dẫm vào ý kiến của Kiểm sát viên khi đưa ra phán quyết và
Kiểm sát viên cũng không được có những hành vi tác động, gây ảnh hưởng đến
Thẩm phán, Hội thẩm nhằm buộc họ phải đưa ra phán quyết theo ý kiến của mình.
Trong trường hợp khơng đồng ý với các phán quyết của Tòa án về vụ án hành chính
thì Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật để yêu cầu Tịa
án cấp trên xem xét lại các phán quyết đó. Như vậy, ý kiến của Kiểm sát viên đại
diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án hành chính khơng có tính áp đặt, bắt
buộc mà chỉ có ý nghĩa tham khảo đối với Thẩm phán và Hội thẩm trong q trình
giải quyết vụ án hành chính.
Bốn là sự độc lập giữa Thẩm phán, Hội thẩm với các đương sự
Phán quyết của Tòa án bao giờ cũng làm xuất hiện những nhóm mâu thuẫn
về lợi ích, trong tố tụng hành chính đó là mâu thuẫn lợi ích giữa người bị kiện (cơ
quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước có quyết định
hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện) và người khởi kiện (cá nhân, cơ quan,
tổ chức khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước
đó). Ai cũng mong muốn kết quả xét xử phải đưa lại quyền lợi tối ưu cho họ. Do đó,
những chủ thể này thường tìm các cách để vụ án được giải quyết theo hướng có lợi
cho họ nhất. Trong đó, người bị kiện là chủ thể có khả năng tác động, ảnh hưởng
đến tâm lý của Thẩm phán, Hội thẩm, khiến họ khơng độc lập, khách quan trong
q trình xét xử vụ án hành chính nhất bởi vì các người bị kiện trong tố tụng hành

chính chính là cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà
nước. Điều này khiến cho sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm trong xét xử vụ
án hành chính là dễ bị xâm phạm nhất. Tuy nhiên, cho dù là vậy nhưng Thẩm phán
và Hội thẩm vẫn phải thực hiện theo đúng tinh thần của nguyên tắc “Khi xét xử,
Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong việc xét xử độc lập
với các yêu cầu của đương sự. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc không ai được
phép tác động đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. Điều này đã được
quy định cụ thể tại Điều 320 Luật Tố tụng hành chính 2015: “Người nào bằng ảnh
hưởng của mình có hành vi tác động dưới bất kỳ hình thức nào đối với Thẩm phán,
thành viên Hội đồng xét xử nhằm làm cho việc giải quyết vụ án không khách quan,
không đúng pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử
phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của
pháp luật”.
20


1.4.1.2. Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử
Các Mác đã từng có câu: “Cấp trên của quan tòa là luật pháp”39. Nghĩa là
khi xét xử, Tịa án khơng có cấp trên, cấp trên của Hội đồng xét xử chính là pháp
luật. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không bị ràng buộc, không bị chi phối bởi
bất kỳ ý kiến của ai. Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập không có nghĩa là
xét xử tùy tiện mà việc xét xử phải tuân theo pháp luật, có thể tham khảo ý kiến của
các cơ quan chuyên môn, của bất kỳ ai, nắm bắt dư luận xã hội, nhưng khi quyết
định, Thẩm phán và Hội thẩm phải thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp của mình, xem xét
mọi vấn đề một cách độc lập, khơng được để cho ý kiến bên ngồi làm ảnh hưởng
tới tính khách quan của bản án, quyết định. Việc khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm
chỉ tuân theo pháp luật địi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm khơng được xa rời pháp
luật, khơng có bất kỳ một sự lẩn tránh nào đối với pháp luật. Như vậy, có thể nói
“hoạt động của Thẩm phán và Hội thẩm ln phải trên cơ sở pháp luật”40. Việc xét
xử của Thẩm phán và Hội thẩm chỉ dựa trên những quy định của pháp luật và pháp

luật là căn cứ duy nhất để quyết định các vấn đề giải quyết vụ án. Pháp luật là tối
thượng như lời của Luật sư Xixeron thời La mã cổ đại đã từng nói: “Quan tịa - đó
là một đạo luật biết nói, cịn đạo luật là một vị quan tòa câm”. Nội dung Thẩm phán
và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính biểu hiện ở những
khía cạnh sau:
Một là tuân thủ pháp luật nội dung.
Khi xét xử những vụ án hành chính, Thẩm phán, Hội thẩm phải tuân theo
các quy định của Luật Hành chính khi xem xét các quyết định, hành vi hành chính
của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước để từ đó
làm cơ sở để ra bản án, quyết định đúng đắn, chính xác, cơng bằng, khách quan.
Các quy phạm pháp luật hành chính khơng nằm tập trung ở một văn bản pháp luật
nhất định, nó khơng giống như các quy phạm pháp luật hình sự được tập trung trong
Bộ luật Hình sự. Các quy phạm pháp luật hành chính nằm rải rác trong nhiều văn
bản pháp luật chuyên ngành khác nhau như trong luật đất đai, luật bảo vệ mơi
trường,.. cũng có quy phạm pháp luật hành chính. Do đó, để xác định được văn bản
pháp luật nào sẽ được áp dụng để giải quyết vụ án hành chính, Thẩm phán, Hội
thẩm phải xác định được lĩnh vực liên quan đến vụ án để từ đó xác định văn bản
pháp luật chuyên ngành điều chỉnh.
39

Trần Văn Kiểm, “Bảo đảm nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật”, xem ngày 18/07/2016.
40
Hoàng Thị Sơn (1996), “Tìm hiểu nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật”, Luật học, (5) trang. 17-21.

21



×