Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Nhận diện hành vi vi phạm pháp luật thuế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (982.77 KB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI


NGUYỄN THANH TRUNG

NHẬN DIỆN HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT THUẾ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP. HCM – 2009


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

NHẬN DIỆN HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT THUẾ

SVTH
KHĨA
MSSV
GVHD

:
:
:
:



NGUYỄN THANH TRUNG
30
3020206
ThS. PHAN PHƯƠNG NAM

TP HỒ CHÍ MINH. NĂM 2009


LỜI CAM ĐOAN
Trong phạm vi nghiên cứu và viết khóa luận này. Với những hiểu biết của bản thân
về vấn đề, cùng sự tìm tịi, học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước và sự giúp
đỡ tận tình của Thầy giáo hướng dẫn. Tôi cam đoan Luận văn này là do chính kiến
thức tự học hỏi và của bản thân tơi để viết.
Nếu có sự vi phạm, sai trái trong khóa luận này. Tơi xin chịu hồn tồn trách
nhiệm.

Tác giả khóa luận

Nguyễn Thanh Trung


MỤC LỤC
Trang
Lời cám ơn.
Lời cam đoan.
Mục lục.
Lời nói đầu ..................................................................................................................... 01
Chương 1: NHẬN DIỆN HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT THUẾ_LÍ
LUẬN VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH...................... 05

1.1.

Lý luận về nhận diện hành vi vi phạm pháp luật thuế ..................................... 05

1.1.1.

Khái niệm ......................................................................................................... 05

1.1.2.

Dấu hiệu cơ bản của hành vi vi phạm pháp luật thuế ...................................... 08

1.1.3.

Cấu thành của hành vi vi phạm pháp luật thuế ................................................ 10

1.1.3.1. Mặt khách quan của hành vi vi phạm pháp luật thuế ...................................... 10
1.1.3.2. Mặt chủ quan của hành vi vi phạm pháp luật thuế .......................................... 12
1.1.3.3. Chủ thể của hành vi vi phạm pháp luật thuế .................................................... 13
1.1.3.4. Khách thể của hành vi vi phạm pháp luật thuế ................................................ 13
1.1.4.

Phân loại hành vi vi phạm pháp luật thuế ........................................................ 14

1.2.

Nhận diện hành vi vi phạm pháp luật thuế của người nộp thuế theo
quy định của pháp luật hiện hành .................................................................... 17

1.2.1.


Dấu hiệu xác định ranh giới giữa hành vi vi phạm hành chính về thuế
(vi phạm thuế) và hành vi vi phạm hình sự về thuế (tội phạm thuế)
của người nộp thuế theo quy định của pháp luật hiện hành ............................ 17

1.2.2.

Nhận diện hành vi vi phạm hành chính về thuế của người nộp thuế
theo quy định của pháp luật hiện hành ............................................................ 20

1.2.2.1. Nhận diện dấu hiệu chủ thể của các hành vi vi phạm hành chính về
thuế của người nộp thuế ................................................................................... 20
1.2.2.2. Nhận diện các hành vi vi phạm thủ tục thuế .................................................... 25


1.2.2.3. Nhận diện nhóm hành vi chậm nộp tiền thuế .................................................. 30
1.2.2.4. Nhận diện nhóm các hành vi khai sai dẫn đến thiếu số thuế phải nộp
hoặc tăng số tiền thuế được hồn ..................................................................... 31
1.2.2.5. Nhận diện nhóm hành vi trốn thuế, gian lận thuế ............................................ 33
1.2.3.

Nhận diện ranh giới giữa các hành vi vi phạm hành chính thuế của
người nộp thuế ................................................................................................. 36

1.2.3.1. Dấu hiệu nhận diện hành vi trốn thuế, gian lận thuế với hành vi vi
phạm nghĩa vụ đăng ký, kê khai, nộp, quyết toán thuế ................................... 36
1.2.3.2. Nhận diện hành vi khai sai trong nhóm khai sai dẫn đến thiếu số tiền
thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn với hành vi khai sai
trong nhóm chậm nộp tiền thuế ....................................................................... 38
1.2.3.3. Nhận diện hành vi trốn thuế, gian lận thuế với hành vi khai sai dẫn

đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn .................. 40
Chương 2: NHẬN DIỆN HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT THUẾ CỦA
NGƯỜI NỘP THUẾ_THỰC TRẠNG, NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ
GIẢI PHÁP .................................................................................................................. 43
2.1.

Thực trạng về nhận diện hành vi vi phạm pháp luật thuế của người
nộp thuế ............................................................................................................ 43

2.1.1.

Tổng quan về thực trạng phát hiện, xử lý vi phạm hành chính thuế của
người nộp thuế tại Thành phố Hồ Chí Minh. .................................................. 43

2.1.2.

Thực trạng của các nhóm hành vi vi phạm hành chính thuế của người
nộp thuế ............................................................................................................ 45

2.1.2.1. Nhóm hành vi vi phạm thủ tục thuế................................................................. 45
2.1.2.2. Nhóm hành vi chậm nộp tiền thuế ................................................................... 46
2.1.2.3. Nhóm hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng
số tiền thuế được hồn và nhóm hành vi trốn thuế, gian lận thuế ................... 46
2.2.

Những vấn đề đặt ra trong việc nhận diện hành vi vi phạm hành chính
thuế của người nộp thuế và kiến nghị giải pháp ............................................. 50


2.2.1.


Những vấn đề đặt ra trong việc nhận diện các hành vi vi phạm hành
chính thuế của người nộp thuế. ........................................................................ 50

2.2.1.1. Về chính sách thuế và quy định của pháp luật thuế ......................................... 50
2.2.1.2. Về cơ quan hành thu ........................................................................................ 53
2.2.1.3. Về người nộp thuế............................................................................................ 54
2.2.2.

Một số kiến nghị trong việc nhận diện các hành vi vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thuế ........................................................................................... 56

2.2.2.1. Giải pháp trước mắt ......................................................................................... 56
2.2.2.2. Giải pháp lâu dài .............................................................................................. 57
Lời kết ............................................................................................................................ 60
Danh mục tham khảo.
Phụ lục.


LỜI NĨI ĐẦU
 TÍNH CẤP THIẾT VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
Tình hình kinh tế thế giới trong những năm gần đây có nhiều biến động. Cơn bão
khủng hoảng tài chính thế giới đang đẩy nền kinh tế Việt Nam tới nhiều thách thức khó
lường. Theo các chuyên gia kinh tế, dự báo sẽ có những thách thức đối với kinh tế Việt
Nam1 :
 Thách thức lớn nhất với kinh tế Việt Nam là đối mặt với những tình huống tiềm
ẩn khó lường của cuộc khủng khoảng tài chính thế giới, các dư chấn của nó tiếp tục gây
ra các tác động xấu đến tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam: về thương mại,
thị trường xuất khẩu sẽ bị thu hẹp; thị trường tài chính, ngân hàng sẽ có nhiều biến
động khó lường về tỷ giá và lãi suất ngoại tệ, đáng lưu ý là tỷ giá và lãi suất USD; việc

huy động các nguồn vốn cho nền kinh tế khơng cịn thuận lợi như trước. Đầu tư trực
tiếp nước ngoài(FDI) và viện trợ phát triển chính thức(ODA) sẽ chững lại, dịng kiều
hối sẽ khơng dồi dào như những năm trước;
 Sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế còn nhiều bất trắc. Những tác động
trực tiếp và gián tiếp của khủng khoảng kinh tế thế giới đã, đang và sẽ ảnh hưởng tới
mục tiêu phát triển bền vững của nền kinh tế nước ta. Đặc biệt, sự thiếu vốn sẽ dẫn đến
việc các công trình trọng điểm, như các cơng trình cơ sở hạ tầng phục vụ các nhu cầu
phát triển trước mắt và lâu dài rất dễ lâm vào tình trạng thi cơng dang dở, chậm đưa
vào sử dụng và phát huy hiệu quả;
 Việc huy động các tiềm năng vào phát triển kinh tế những năm qua, chưa có một
chiến lược ổn định và thống nhất, mặt khác lại thiếu sự lựa chọn sáng suốt trong khai
thác và quản lý, đến nay khi nền kinh tế gặp khó khăn, nó đã bộc lộ những khiếm
khuyết, bất lợi cho nền kinh tế.
Kinh tế phát triển chậm, tăng trưởng thiếu bền vững, các nguồn lực lại chưa được
chú ý trong sử dụng khai thác, dẫn đến nhiều vấn đề xã hội càng khó khăn thêm. Khả
năng ứng phó với các tình huống bất lợi do khủng hoảng của Nhà nước càng khó khăn
hơn khi sản xuất đình trệ, hiện tượng người lao động khơng đủ việc làm, dẫn đến
khơng có thu nhập, đời sống hàng ngày đã khó khăn càng khó khăn thêm. Cơng cuộc
xố đói giảm nghèo càng trở nên cấp bách. Tất cả những khó khăn trong đời sống xã
hội đó sẽ gây sức ép với nền kinh tế, đổ dồn gánh nặng lên ngân sách quốc gia. Thực
tiễn đang đặt ra nhiều vấn đề cho Nhà nước trong hoạt động quản lý của mình.

1

“Kinh tế Việt Nam năm 2009: Thách thức và giải pháp vượt qua”. Nguồn: MOF
( />
1


Thực trạng ấy càng trở nên cấp thiết đối với lĩnh vực quản lý thuế. Chính sách mở

cửa, hội nhập với thế giới trước hồn cảnh kinh tế khó khăn, khủng hoảng gây nhiều
hoang mang cho nhiều người nộp thuế. Đứng trước tình cảnh khó khăn ấy, người nộp
thuế vừa phải tích cực lao động sản xuất để thu được lợi nhuận cho bản thân mình đã
khó, nhưng đồng thời cũng phải chia sẽ một phần lợi nhuận ấy cho Ngân sách Nhà
nước. Có khi nghĩa vụ thuế trở thành gánh nặng cho chính người nộp thuế.
Thế nên, bên cạnh những tổ chức, cá nhân kinh doanh nghiêm chỉnh chấp hành
pháp luật thuế, thì vẫn cịn nhiều đối tượng ln tìm cách lách luật, vi phạm pháp luật
thuế để trốn tránh nghĩa vụ thuế của mình với Nhà nước. Thực tiễn cho thấy, ngày càng
phát sinh nhiều thủ đoạn, hành vi vi phạm pháp luật mới về thuế; xu hướng phát triển
của hành vi vi phạm ngày càng tinh vi và khó phát hiện, trong khi hoạt động quản lý
thuế của Nhà nước chưa đủ lực và vật chất để quản lý, kiểm sốt tình hình.
Vì vậy, vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý thuế, tăng cường công tác phát
hiện, nhận diện, xử lý hành vi vi phạm pháp luật thuế đặt ra một cách cấp thiết ở góc độ
nghiên cứu khoa học, xây dựng pháp luật lẫn góc độ thực tiễn.
“Nhận diện hành vi vi phạm pháp luật thuế” là vấn đề mà tác giả chọn để làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp của mình. Trước tình hình thế giới khủng hoảng về nhiều mặt, đặt
nền kinh tế Đất nước trong những thử thách khó lường. Công tác quản lý thuế, cách
riêng hoạt động phát hiện, nhận diện, xử lý hành vi vi phạm pháp luật thuế đặt ra cấp
thiết. Luận văn là một nghiên cứu khoa học nhỏ, để góp phần hồn thiện pháp luật quản
lý thuế. Đặc biệt trong việc nhận diện được bản chất của hành vi vi phạm pháp luật
thuế trên cơ sở lý luận, quy định của pháp luật thuế và thực tiễn pháp lý của hoạt động
nhận diện các hành vi này.
 TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
“Nhận diện hành vi vi phạm pháp luật thuế” không phải là vấn đề mới. Và dường
như đã quá rõ ràng về lý luận của bản chất một hành vi vi phạm pháp luật, trong đó có
liên hệ đến lĩnh vực thuế.
Tuy nhiên, trong khi thực tiễn vốn thay đổi, phát sinh những vấn đề mới, đặt ra yêu
cầu mới trong vấn đề nhận diện bản chất của hành vi vi phạm pháp luật thuế. Thì việc
nghiên cứu vấn đề này chưa được quan tâm nhiều lắm, chỉ thể hiện qua một số bài viết,
tạp chí, giáo trình nhưng rất sơ lược. Các cơng trình nghiên cứu mang tính chun sâu

và tồn diện dành riêng cho đối tượng này là khơng nhiều. Điển hình như các bài khóa
luận liên quan của tác giả: Hồng Thị Hồng Hà (2002) về “Pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực thuế ở Việt Nam thực trạng và hướng hoàn thiện”; Lê

2


Thị Hương (2006) về đề tài “Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế. Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn”;...
Do đó, việc nghiên cứu một cách toàn diện nhằm “nhận diện” rõ bản chất của hành
vi vi phạm pháp luật thuế trên cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn là nhu cầu cấp thiết.
Để có cái nhìn, nhận thức rõ ràng, đúng đắn hơn và toàn diện về đối tượng và vận dụng
cho phù hợp với thực tiễn.
 MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Từ sự nhận thức của bản thân về vấn đề nghiên cứu, tác giả khóa luận muốn chuyển
tải một cách khái quát nhất trên cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn về vấn đề “nhận diện
hành vi vi phạm pháp luật thuế”. Theo đó, làm nổi rõ:
 Bản chất của hành vi vi phạm pháp luật thuế (thông qua những đặc điểm đặc
trưng; dấu hiệu trong cấu thành hành vi...);
 Nhận diện hành vi vi phạm pháp luật thuế với những hành vi vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực khác, cũng như phân biệt xác định ranh giới giữa các hành vi vi phạm
pháp luật thuế với nhau;
 Vấn đề thực tiễn: phản ánh những vướng mắc, tồn tại trong quy định của pháp
luật thuế và hoạt động quản lý thuế thông qua thực trạng phát hiện, nhận diện, xử lý vi
phạm hành chính thuế của người nộp thuế (chủ yếu tại khu vực Tp Hồ chí minh);
 Và từ đó, đưa ra giải pháp cho hiệu quả của công tác quản lý thuế và nói riêng
với hoạt động nhận diện hành vi vi phạm hành chính thuế của người nộp thuế.
 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là vấn đề:“Nhận diện hành vi vi phạm pháp
luật thuế”. Đây là vần đề mang tính khái quát rộng, khá sâu sắc về lý luận cũng như

thực tiễn. Vì vậy, trong giới hạn của luận văn, tác giả chỉ tiếp cận vấn đề “nhận diện
hành vi vi phạm pháp luật thuế” trong phạm vi nghiên cứu:
 Những vấn đề lý luận chung nhất về hành vi vi phạm pháp luật thuế;
 Nhận diện hành vi vi phạm hành chính về thuế của đối tượng là người nộp thuế
trên cơ sở pháp luật thuế hiện hành và thực tiễn vi phạm hành chính thuế của người nộp
thuế tại khu vực Tp. Hồ chí minh.
 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, cũng như tư tưởng đường lối của Đảng, Nhà nước về
3


chính sách thuế. Nghiên cứu vấn đề trong mối tương quan so sánh, đối chiếu giữa lý
luận, pháp lý và thực tiễn đời sống xã hội. Luận văn được nghiên cứu dựa trên sự kết
hợp nhiều phương pháp phân tích, tồng hợp, đối chiếu, so sánh, chứng minh, quy
nạp...để làm rõ vấn đề.
 KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài lời cam đoan, mục lục, lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
Nội dung của đề tài được trình bày theo từng chương như sau:
Chương 1: Nhận diện hành vi vi phạm pháp luật thuế-lí luận và những quy
định của pháp luật hiện hành;
Chương 2: Nhận diện hành vi vi phạm pháp luật thuế của người nộp thuế-thực
trạng, những vấn đề đặt ra và giải pháp.
Khóa luận được xem là cơng trình nghiên cứu đầu tay của bản thân, do thời gian
hạn hẹp và đây cũng là một đề tài rộng, nhiều vấn đề liên quan cần phải được đề cập.
Song khả năng và kinh nghiệm nghiên cứu của tác giả cịn nhiều hạn chế, do vậy khóa
luận khơng thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tác giả mong q thầy cơ góp ý
để tác giả rút kinh nghiệm hồn thiện hơn trong cơng tác nghiên cứu khoa học và bổ
sung kiến thức cho bản thân.
Tác giả chân thành cám ơn sự đóng góp quý báu của các thầy cơ và các độc giả có

quan tâm đến đề tài.
Trân trọng.
Tác giả khóa luận

4


Chương 1
NHẬN DIỆN HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT THUẾ-LÍ LUẬN VÀ NHỮNG
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
1.2. Lý luận về nhận diện hành vi vi phạm pháp luật thuế
1.1.1. Khái niệm
 Hành vi vi phạm pháp luật thuế:
Khái niệm hành vi vi phạm pháp luật thuế có thể được tiếp cận ở hai góc độ: theo
cách hiểu thơng thường và theo khoa học pháp lý.
Theo cách hiểu thông thường, Từ điển tiếng việt phổ thông hiểu hành vi là “tồn bộ
nói chung những phản ứng, cách biểu hiện ra bên ngoài của một người trong một hoàn
cảnh cụ thể nhất định; vi phạm là không tuân theo hoặc làm trái lại những điều quy
định”. Và thuế là “khoản tiền hay hiện vật nộp cho nhà nước theo mức quy định trong
sản xuất, kinh doanh”2.
Như vậy, theo cách hiểu thông thường, hành vi vi phạm pháp luật thuế là tất cả
những phản ứng, cách biểu hiện ra bên ngoài của một người đã không tuân theo hoặc
làm trái lại với những điều được quy định về việc phải nộp khoản tiền hay hiện vật cho
nhà nước theo mức quy định trong sản xuất, kinh doanh.
Tuy nhiên, theo cách hiểu này sẽ không thể hiện rõ được bản chất của vấn đề:
 Thứ nhất, về chủ thể thực hiện hành vi không bao quát hết đối tượng: từ “một
người”_một người này khơng chỉ là cá nhân mà cũng có thể là pháp nhân, tổ chức;
 Thứ hai, những quan hệ mà chủ thể hành vi không tuân thủ hoặc làm trái lại
không chỉ giới hạn ở phạm vi là việc nộp thuế (nộp khoản tiền hay hiện vật) cho nhà
nước, mà còn bao gồm cả những nghĩa vụ khác về chấp hành quyết định, khai báo,

đăng ký về thuế. Ví dụ: khi hết thời hạn theo pháp luật quy định mà khơng đăng ký
thuế, khơng khai báo nộp thuế thì vẫn coi đó là hành vi vi phạm pháp luật thuế.
 Thứ ba, cách hiểu này không làm nỗi rõ biểu hiện tâm lý bên trong của người
thực hiện là cố ý hay vô ý.
Trong khoa học pháp lý, khái niệm hành vi vi phạm pháp luật thuế cũng được tiếp
cận dưới nhiều góc độ khác nhau: theo Giáo trình luật thuế Việt Nam: “vi phạm pháp
luật về thuế là hành vi làm trái các quy định pháp luật về thuế, do tổ chức, cá nhân
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, gây thiệt hại đến trật tự công cộng và phải chịu
trách nhiệm pháp lý về hành vi đó của mình”3.

2
3

Theo Đại từ điển tiếng việt, Nguyễn Như Ý chủ biên.
Trường Đh Luật Hà nội (2007), “Giáo trình luật thuế Việt Nam”, NXB Tư Pháp Hà nội, Hà nội, tr. 311.

5


Tuy không trực tiếp đưa ra khái niệm về hành vi vi phạm pháp luật thuế, nhưng qua
định nghĩa về vi phạm pháp luật4 của Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật-Trường
Đh Luật Hà nội. Có thể đưa ra khái niệm về hành vi vi phạm pháp luật thuế như sau:
hành vi vi phạm pháp luật thuế là hành vi trái pháp luật thuế, có lỗi do chủ thể có năng
lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật thuế bảo
vệ.
Cũng tương tự, Từ điển luật học đưa ra khái niệm về hành vi vi pháp luật5 mà
khơng có khái niệm riêng cho lĩnh vực thuế. Nhưng theo đó vẫn có thể nhận định: hành
vi vi phạm pháp luật thuế là một dạng hành vi pháp luật thể hiện ở hành vi của cá
nhân, cơ quan, tổ chức không tuân thủ các nghĩa vụ do pháp luật thuế quy định (không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định pháp luật) hoặc đã làm những việc

mà pháp luật về thuế cấm, gây thiệt hại hoặc dẫn đến nguy cơ gây thiệt hại cho các lợi
ích khác nhau.
Luật quản lý thuế 2006, Bộ luật hình sự 1999 và các văn bản pháp luật liên quan
trong lĩnh vực thuế, khơng có quy định cụ thể thế nào là hành vi vi phạm pháp luật
thuế? Hoặc có quy định nhưng cũng chỉ là những biểu hiện của mặt khách quan (quy
định các hành vi là hành vi vi phạm pháp luật thuế). Cho nên việc tiếp cận khái niệm
hành vi vi phạm pháp luật thuế là vấn đề rất cần thiết dưới góc độ khoa học pháp lý lẫn
góc độ thực tiễn.
Và cho dù theo quan điểm nào, lập luận ra sao, trực tiếp hay gián tiếp đưa ra nhận
định về khái niệm này, thì theo tác giả quan điểm chung thừa nhận:
 Thứ nhất, hành vi vi phạm pháp luật thuế là hành vi làm trái pháp luật thuế
(không thực hiện, thực hiện không đúng các quy định pháp luật thuế hoặc thực hiện
những điều cấm);
 Thứ hai, là hành vi này phải có yếu tố lỗi của chủ thể (là cá nhân,cơ quan, tổ
chức) thực hiện;
 Thứ ba, hành vi vi phạm pháp luật thuế là hành vi xâm phạm các quan hệ xã hội
được pháp luật về thuế bảo vệ (các quy định của pháp luật thuế về nghĩa vụ thuế, các
điều luật hình sự cấm về lĩnh vực thuế);

4

Trường ĐH Luật Hà nội (2008), “Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật”, NXB Công an nhân dân, Hà nội,
tr.500: “vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện,
xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ”.
5
Từ điển Luật học, tr.324: “hành vi vi phạm pháp luật là một dạng hành vi pháp luật thể hiện ở hành vi của cá
nhân, cơ quan, tổ chức không tuân thủ các nghĩa vụ do pháp luật quy định (không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng các quy định pháp luật) hoặc đã làm những việc mà pháp luật cấm, gây thiệt hại hoặc dẫn đến nguy
cơ gây thiệt hại cho các lợi ích khác nhau”.


6


 Và cuối cùng là hành vi vi phạm pháp luật thuế gây thiệt hại hoặc dẫn đến nguy
cơ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được pháp luật thuế bảo vệ nêu trên.
Từ đó có thể đưa ra khái niệm về hành vi vi phạm pháp luật thuế như sau:
Hành vi vi phạm pháp luật thuế là hành vi làm trái các quy định của pháp luật
thuế6, thể hiện ở hành động hoặc không hành động của cá nhân, cơ quan, tổ chức, cố ý
hoặc vô ý không tuân thủ các nghĩa vụ do pháp luật thuế quy định hoặc đã làm những
việc mà pháp luật thuế cấm. Gây thiệt hại hoặc dẫn đến nguy cơ gây thiệt hại cho các
quan hệ xã hội được pháp luật thuế xác lập, bảo vệ và phải chịu trách nhiệm pháp lý
về hành vi đó của mình.
 Nhận diện hành vi vi phạm pháp luật thuế.
Khái niệm hành vi vi phạm pháp luật thuế là cơ sở cho việc xác định khái niệm
nhận diện hành vi vi phạm pháp luật thuế.
Thuật ngữ “nhận diện” có thể được hiểu dưới nhiều góc độ tùy theo mục đích,
phương pháp nghiên cứu. Trên phương diện thuật ngữ thơng thường, “nhận diện” là
nhìn mặt mà nhận ra, chỉ ra người đang che dấu tên thật hay người đang cần tìm (Từ
điển Tiếng việt phổ thơng). Nói cách khác nhận diện là nhìn nhận, xem xét để chỉ ra,
xác định một cái gì đó khơng rõ, ẩn dấu và khó xác định.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, “nhận diện” không đơn thuần như vậy, mà là tổng
hợp các hoạt động nghiệp vụ liên quan nhằm phân tích, chứng minh trên cơ sở các dấu
hiệu luật định đồng thời địi hỏi tính chính xác, trung thực và phải đúng pháp luật.
Như vậy có thể hiểu theo cách chung nhất: Nhận diện hành vi vi phạm pháp luật
thuế là việc xem xét, nhìn nhận thơng qua những đặc điểm, dấu hiệu nhất định, để xác
định chính xác và hợp pháp một hành vi của chủ thể quan hệ pháp luật thuế là hành vi
vi phạm pháp luật thuế hay khơng; thuộc nhóm vi phạm hành chính, tội phạm nào
trong lĩnh vực thuế.
Theo khái niệm này thì nhận diện hành vi vi phạm pháp luật thuế có:
 Đối tượng để nhận diện là hành vi của các chủ thể trong quan hệ pháp luật thuế;

 Cách thức thực hiện là xem xét, nhìn nhận (trên phương diện lý luận và quy định
pháp luật) thông qua các dấu hiệu, đặc điểm nhất định_dấu hiệu, đặc điểm này có thể là
những dấu hiệu cơ bản của một hành vi vi phạm pháp luật thuế; đặc điểm trong cấu
thành của từng hành vi phạm pháp luật thuế; dấu hiệu xác định ranh giới giữa vi phạm
hành chính thuế (vi phạm thuế) và tội phạm thuế...;
6

“Pháp luật thuế ở đây được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trìnhthu, nộp thuế giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn
thu ngân sách nhà nước để thực hiện các mục tiêu xác định trước”
(Trường Đh Luật Hà Nội (2007), “GT Luật Thuế Việt Nam”, NXB Tư Pháp Hà nội, Hà nội, Tr.25).

7


 Mục đích của việc nhận diện hành vi vi phạm pháp luật thuế nhằm xác định một
hành vi của chủ thể quan hệ pháp luật thuế là hành vi vi phạm pháp luật thuế hay
khơng, thuộc nhóm vi phạm, tội phạm thuế nào. Qua đó góp phần quan trọng cho hoạt
động phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm, ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật
thuế mới.
1.1.2. Dấu hiệu cơ bản của hành vi vi phạm pháp luật thuế.
Pháp luật thuế được ban hành thể hiện vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động
của Bộ máy nhà nước. Đồng thời cũng đòi hỏi Nhà nước phải đấu tranh phòng và
chống vi phạm pháp luật thuế, đặc biệt là tội phạm thuế mà trước hết phải nhận diện
thế nào là hành vi vi phạm pháp luật thuế.
Để nhận diện một hành vi vi phạm pháp luật thuế thì phải tìm hiểu bản chất của nó,
bản chất đó gắn với những nguyên nhân, điều kiện đã sinh ra chúng, thể hiện qua
những dấu hiệu cơ bản của chúng. Nhìn một cách tổng qt có thể nhận diện hành vi vi
phạm pháp luật thuế qua các dấu hiệu cơ bản sau:
 Hành vi vi phạm pháp luật thuế là hành vi có tính nguy hiểm cho quan hệ

pháp luật thuế.
Pháp luật đặt ra là để điều chỉnh hành vi của con người, cho nên vi phạm pháp luật
trước hết phải là hành vi của cá nhân hoặc là hoạt động của tổ chức, cơ quan (các chủ
thể pháp luật) mang tính nguy hiểm hoặc có khả năng gây ra sự nguy hiểm cho xã hội.
Khi xác định vi phạm pháp luật thuế thì dấu hiệu hành vi là khơng thể thiếu được,
hành vi đó có thể biểu hiện bằng hành động hay không hành động gây phương hại đến
quan hệ xã hội được pháp luật thuế bảo vệ. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
được xác định tùy thuộc vào mức độ xâm hại của hành vi vi phạm pháp luật thuế đến
lợi ích (khách thể), từ đó để xác định mức độ cũng như loại chế tài tương ứng sẽ áp
dụng đối với hành vi đó.
Hành vi vi phạm pháp luật thuế phải là hành vi nguy hiểm cho quan hệ pháp luật
thuế, hành vi ấy gắn liền với tính chất gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan
hệ pháp luật thuế. Pháp luật không điều chỉnh những suy nghĩ, những ý định hoặc
những đặc tính cá nhân khác của con người nhằm vi phạm pháp luật thuế nếu như nó
khơng biểu hiện thành các hành vi cụ thể.
Những suy nghĩ, ý định, những đặc tính cá nhân khác của các chủ thể pháp luật thuế
và cả sự biến pháp lý cho dù có nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến các quan hệ được
pháp luật thuế xác lập, bảo vệ thì cũng khơng bị coi là hành vi vi phạm phạm pháp luật
thuế.

8


 Hành vi vi phạm pháp luật thuế là hành vi trái pháp luật về thuế, xâm hại
tới các quan hệ xã hội được pháp luật về thuế xác lập và bảo vệ.
Hành vi vi phạm pháp luật thuế không chỉ là hành vi nguy hiểm cho xã hội, cho
quan hệ pháp luật thuế mà hành vi đó cịn phải trái với pháp luật thuế, xâm hại tới các
quan hệ được pháp luật thuế xác lập, bảo vệ. Vì vậy, những hành vi hợp pháp hay
những hành vi khác không trái với các quy định của pháp luật thuế thì khơng bị coi là
hành vi vi phạm pháp luật thuế.

Nói một cách khác, hành vi vi phạm pháp luật thuế chính là hành vi làm trái những
gì mà pháp luật thuế đòi hỏi phải tuân thủ ở chủ thể pháp luật khi họ tham gia vào quá
trình hành thu thuế, thí dụ như hành vi trốn thuế; vi phạm các quy định về thu, nộp tiền
thuế, tiền phạt; hành vi tham ơ tiền thuế…
Như vậy tính trái pháp luật thuế (xâm phạm tới các quan hệ xã hội được các văn
bản pháp luật thuế xác lập, bảo vệ) là dấu hiệu không thể thiếu của hành vi bị coi là vi
phạm pháp luật thuế.
 Hành vi vi phạm pháp luật thuế có lỗi của chủ thể thực hiện.
Hành vi vi phạm pháp luật thuế bao giờ cũng phản ánh mức độ lỗi (cố ý hoặc vô ý)
của người thực hiện. Dấu hiệu trái pháp luật thuế mới chỉ biểu hiện mặt bên ngoài của
hành vi, mà ta phải xem xét cả mặt “bên trong” của hành vi, nghĩa là phải xác định cả
trạng thái tâm lý_ yếu tố lỗi thể hiện thái độ của chủ thể với hành vi trái pháp luật của
mình.
Nếu một hành vi trái pháp luật thuế được thực hiện do những điều kiện và hoàn
cảnh khách quan, chủ thể hành vi đó khơng cố ý và cũng không vô ý thực hiện hoặc
không thể nhận thức được, từ đó khơng thể lựa chọn cách thức xử sự mà pháp luật thuế
địi hỏi, thì chủ thể thực hiện hành vi đó khơng bị coi là có lỗi và hành vi đó khơng bị
coi là vi phạm pháp luật thuế.
Những hành vi trái pháp luật thuế mang tính khách quan, khơng có lỗi của chủ thể
thực hiện hành vi đó thì khơng thể coi là hành vi vi phạm pháp luật thuế. Có thể nói
rằng tất cả mọi hành vi vi phạm pháp luật thuế trước hết phải là hành vi trái pháp luật
thuế, nhưng không phải tất cả mọi hành vi trái pháp luật thuế đều bị coi là hành vi vi
phạm pháp luật thuế. Chỉ những hành vi trái pháp luật thuế nào có lỗi mới có thể bị coi
là hành vi vi phạm pháp luật thuế.
 Chủ thể của hành vi có năng lực trách nhiệm pháp lý.
Năng lực trách nhiệm pháp lý là khả năng phải chịu trách nhiệm pháp lý của chủ thể
do nhà nước quy định, mặc dù dấu hiệu này không phải là dấu hiệu đặc trưng của vi
phạm pháp luật thuế nhưng đó là đặc điểm cơ bản, tất yếu cùa một hành vi vi phạm

9



pháp luật, và lại rất quan trọng trong việc nhận diện một hành vi như thế nào là vi
phạm pháp luật.
Vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm pháp luật thuế nói riêng địi hỏi chủ thể
thực hiện phải có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi của mình, có điều kiện
lựa chọn, quyết định cách thức xử sự cho mình và tự chịu trách nhiệm độc lập về hành
vi đó (có khả năng lý trí và tự do ý chí).
Khi một chủ thể quan hệ pháp luật thuế thực hiện một hành vi trái pháp luật thuế
nhưng khơng có hoặc mất khả năng lý trí và tự do ý chí thì họ khơng phải chịu trách
nhiệm pháp lý với hành vi đó của mình, khơng bị coi là hành vi vi phạm pháp luật thuế.
Như theo quy định của pháp luật, năng lực trách nhiệm pháp lý của cá nhân thể hiện ở
quy định của pháp luật là khi cá nhân đạt đến một độ tuổi nhất định và không thuộc các
trường hợp không chịu trách nhiệm pháp lý luật định:
Với năng lực trách nhiệm pháp lý hành chính thì cá nhân là “người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi bị xử phạt hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16
tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra”(Điều 6
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002), như vậy những cá nhân chưa đủ 14 tuổi thì
khơng là chủ thể của hành vi vi phạm hành chính thuế. Và cũng “khơng xử lý vi phạm
hành chính trong các trường hợp thuộc tình thế cấp thiết, phịng vệ chính đáng, sự kiện
bất ngờ hoặc vi phạm hành chính trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh
khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình”(Khoản
6 Điều 3 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002);
Với năng lực trách nhiệm pháp lý hình sự thì cá nhân là “người từ đủ 16 tuổi trở lên
phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng
chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” (Điều 12 BLHS 1999).
Như vậy người chưa đủ 14 tuổi và không phạm tội thuộc trường hợp tội phạm rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng và thuộc các trường hợp
khác (mắc bệnh tâm thần hay các bệnh khác) dẫn đến không làm chủ, không tự điều

khiển được theo trường hợp luật định thì khơng phải chịu trách nhiệm pháp lý hình sự
về thuế.
1.1.3. Cấu thành của hành vi vi phạm pháp luật thuế.
Hành vi vi phạm pháp luật thuế là một sự kiện pháp lý, được cấu thành bởi mặt
khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể.
1.1.3.1. Mặt khách quan của hành vi vi phạm pháp luật thuế.
Mặt khách quan của hành vi vi phạm pháp luật thuế là những biểu hiện ra bên ngoài
của hành vi vi phạm pháp luật thuế, bao gồm những yếu tố sau:
10


 Hành vi trái pháp luật thuế.
Bất kỳ một vi phạm pháp luật thuế nào cũng được cấu thành bởi hành vi trái pháp
luật thuế. Nghĩa là nếu trong thực tế không tồn tại hành vi trái pháp luật thuế của các
chủ thể quan hệ pháp luật thuế thì khơng có vi phạm pháp luật thuế xẩy ra, và hành vi
của một cá nhân, tổ chức chỉ bị coi là vi phạm pháp luật thuế nếu pháp luật thuế thể
hiện cụ thể trong quy định của nó.
Điều này thể hiện trong nguyên tắc xử lý vi phạm pháp luật về thuế: “cá nhân, tổ
chức chỉ bị xử lý vi phạm khi có hành vi vi phạm pháp luật về thuế đã được quy định
tại các luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật về thuế; vi phạm quy định
của Luật Quản lý thuế và Nghị định này”(Khoản2 Điều2 Nghị định 98/2007/NĐ-CP về
xử phạt vi phạm hành chính về thuế và thi hành biện pháp cưỡng chế). Cũng như một
hành vi vi phạm pháp luật thuế chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về thuế khi Bộ luật
hình sự có quy định: “chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định
mới phải chịu trách nhiệm hình sự”(Điều2 BLHS 1999).
Hành vi đó có thể được thực hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động, ví
dụ hành vi vi phạm pháp luật thuế là hành động như: hành vi sử dụng hàng hoá được
miễn thuế khơng đúng với mục đích quy định mà không khai thuế; hành vi cấu kết với
người gửi hàng để nhập khẩu hàng hố nhằm mục đích trốn thuế; khai sai dẫn đến thiếu
số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hồn…

Hành vi ấy có thể thể hiện dưới dạng không hành động như: không cung cấp số
liệu, tài liệu, sổ kế toán liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế khi được cơ quan có
thẩm quyền yêu cầu trong thời gian kiểm tra, thanh tra thuế tại trụ sở người nộp thuế;
không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu, chi liên quan đến việc xác định số tiền
thuế phải nộp; không xuất hoá đơn khi bán hàng hoá, dịch vụ...
 Hậu quả (sự thiệt hại) do hành vi trái pháp luật thuế gây ra cho quan hệ
pháp luật thuế.
Ở những mức độ khác nhau hành vi trái pháp luật thuế đều gây nguy hiểm, gây hại
cho quan hệ được pháp luật thuế xác lập, bảo vệ (gây rối loạn hoạt động quản lý thuế
của cơ quan nhà nước; gây tổn hại các khoản thu, tài sản của ngân sách nhà nước).
Mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật thuế được xác định phụ thuộc vào tính
chất và mức độ thiệt hại thực tế hoặc nguy cơ gây thiệt hại mà nó gây ra.
 Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật thuế với hậu quả (sự
thiệt hại) mà nó gây ra.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật thuế với hậu quả mà nó gây ra
cho quan hệ pháp luật thuế thể hiện ở chỗ sự thiệt hại chính là do hành vi trái pháp luật
thuế đó trực tiếp gây ra. Nói cách khác thì sự gây thiệt hại, đe dọa gây thiệt hại là hậu
11


quả tất yếu của hành vi trái pháp luật thuế. Nếu giữa hành vi trái pháp luật thuế và sự
thiệt hại khơng có mối quan hệ nhân quả thì sự thiệt hại cho quan hệ được pháp luật
thuế xác lập, bảo vệ không phải do hành vi trái pháp luật thuế đó trực tiếp gây ra mà có
thể do những nguyên nhân khác.
Dấu hiệu hành vi trái pháp luật trong mặt khách quan của hành vi vi phạm pháp luật
thuế đóng vai trị quan trọng và bắt buộc trong cấu thành của mọi hành vi vi phạm pháp
luật thuế. Còn dấu hiệu hậu quả và mối quan hệ nhân quả chỉ đóng vai trị hỗ trợ, bổ
sung, đặc biệt trong cấu thành của hành vi vi phạm hành chính thuế thì thường chỉ cần
xét đến dấu hiệu hành vi là đủ. Nhưng đối với hành vi là tội phạm thuế thì trong nhiều
trường hợp dấu hiệu hậu quả và mối quan hệ nhân quả đặt ra bắt buộc, ví dụ: với hành

vi trốn thuế đòi hỏi hậu quả của hành vi trốn thuế là đã không nộp thuế, nộp với mức
thấp hơn với số tiền trốn thuế từ năm mươi triệu đồng trở lên (Khoản 1 Điều 161
BLHS 1999).
Ngoài ra mặt khách quan của hành vi vi phạm pháp luật thuế còn bao gồm các yếu
tố khác như thời gian, địa điểm, cách thức vi phạm...
1.1.3.2. Mặt chủ quan của hành vi vi phạm pháp luật thuế.
Mặt chủ quan của một hành vi vi phạm pháp luật thuế là những biểu hiện tâm lý
bên trong cuả chủ thể vi phạm pháp luật thuế, bao gồm những yếu tố sau:
 Lỗi của chủ thể vi phạm pháp luật thuế.
“Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi vi phạm cuả mình và hậu quả
do hành vi đó gây ra. Lỗi thể hiện thái độ tiêu cực của chủ thể đối với xã hội”7. Tính
chất lỗi của người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật thuế thể hiện ở chỗ, chủ thể của
hành vi hồn tồn có khả năng tránh được sự vi phạm nhưng họ đã khơng tránh hoặc cố
ý thực hiện vì một mục đích hay một động cơ thúc đẩy. Tùy thuộc vào mức độ tiêu cực
trong thái độ của chủ thể mà lỗi có thể là:
 Lỗi cố ý (trực tiếp hoặc gián tiếp): chủ thể thực hiện hành vi nhận thức rõ hành
vi của mình là xâm phạm đến trực tự quản lý thuế, làm thiệt hại khoản thu thuế vào
Ngân sách nhà nước, là gây nguy hiểm cho xã hội và thấy trước hậu quả mà hành vi
của mình gây ra nhưng mong muốn điều đó xẩy ra hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả
đó xẩy ra.
Yếu tố lỗi cố ý thể hiện rất rõ ở các hành vi như: hành vi sử dụng hoá đơn, chứng từ
bất hợp pháp để hạch toán hàng hoá, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh
nghĩa vụ thuế nhằm trốn thuế, gian lận thuế; hành vi huỷ bỏ chứng từ kế toán, sổ kế

7

Trường ĐH Luật Hà Nội (2006), “GT Lý luận nhà nước và Pháp luật”, NXB Tư Pháp Hà Nội, Hà nội, Tr.501.

12



toán làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn, số thuế miễn, giảm;
cấu kết với người gửi hàng để nhập khẩu hàng hoá nhằm mục đích trốn thuế...
 Lỗi vơ ý (vì q tự tin, do cẩu thả): chủ thể vi phạm pháp luật thuế nhận thấy
trước hậu quả nguy hiểm cho quan hệ pháp luật thuế do hành vi của mình gây ra nhưng
hy vọng và tin tưởng hậu quả sẽ không xẩy ra, có thể ngăn chặn được. Hoặc chủ thể vi
phạm đã không nhận thấy trước hậu quả mà hành vi vi phạm của mình gây ra mặc dù
có thể hoặc cần phải nhận thức trước hậu quả đó.
Lỗi vơ ý của chủ thể vi phạm thường thể hiện rõ ở các vi phạm về thủ tục thuế, có
thể dẫn ra một số hành vi vô ý như: vô ý để hết hạn nộp hồ sơ đăng ký thuế mới thực
hiện nộp hồ sơ đăng ký thuế, chậm nộp tiền thuế do vô ý để hết han phải nộp, các
trường hợp vô ý vi phạm thủ tục thuế khác.
 Động cơ và mục đích vi phạm.
Động cơ của hành vi vi phạm pháp luật thuế là cái (động lực) thúc đẩy chủ thể thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật thuế. Thông thường hành vi trái pháp luật thuế được
thực hiện bởi một động cơ nhất định, như động cơ vụ lợi để nhằm trốn tránh hoặc giảm
bớt các nghĩa vụ tài chính về thuế của họ đối với nhà nước.
Mục đích là kết quả cuối cùng mà trong suy nghĩ của mình chủ thể mong muốn đạt
được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật thuế (như kéo dài thời gian nộp thuế, kéo
dài thời gian chấp hành quyết định cưỡng chế thuế của cơ quan có thẩm quyền, trốn
thuế).
Mục đích cho thấy mức độ nguy hiểm của hành vi, nhưng không phải lúc nào kết
quả cuối cùng của hành vi cũng trùng với mục đích mà chủ thể mong muốn, ví dụ: thực
hiện hành vi gian lận thuế, trốn thuế và bị phát hiện sớm chưa kịp thực hiện mục đích
chiếm số tiền thuế được hồn, số tiền từ việc tăng số tiền miễn, giảm thuế…
1.1.3.3. Chủ thể của hành vi vi phạm pháp luật thuế.
Hành vi vi phạm pháp luật thuế là hành vi luôn được thực hiện bởi các chủ thể là tổ
chức, cơ quan hoặc cá nhân có liên quan đến hoạt động hành thu thuế8. Bởi vì những
chủ thể này thường được trao các thẩm quyền và có các nghĩa vụ pháp lý nhất định khi
tham gia vào quá trình hành thu thuế (vì lợi ích riêng của họ hoặc lợi ích chung), nhưng

đã không thực hiện đúng các thẩm quyền, nghĩa vụ đó như đòi hỏi của pháp luật.
8

2. Đối tượng bị xử lý vi phạm pháp luật về thuế, bao gồm:
a) Người nộp thuế có hành vi vi phạm pháp luật về thuế;
b) Cơ quan thuế, công chức quản lý thuế vi phạm pháp luật về thuế;
c) Người có thẩm quyền và trách nhiệm xử lý vi phạm pháp luật về thuế;
d) Cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân khác liên quan đến việc xử lý vi phạm pháp luật về thuế.
(Theo khoản 2 Điều 1 Nghị Định 98/2007/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành
quyết định hành chính thuế).

13


Điều đó cho thấy, vi phạm pháp luật thuế bao giờ cũng liên quan đến những chủ thể
được pháp luật thuế quy định các quyền, nghĩa vụ nhất định và việc quy định những
quyền và nghĩa vụ này khơng ngồi mục đích nhằm đảm bảo lợi ích chung, trên cơ sở
dùng pháp luật để điều chỉnh hành vi của họ.
1.1.3.4. Khách thể của hành vi vi phạm pháp luật thuế.
Khách thể vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng
bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại, hành vi vi phạm pháp luật thuế đã phương hại
đến những lợi ích cụ thể được pháp luật thuế bảo vệ. Những lợi ích này có thể chỉ là lợi
ích riêng của tổ chức, cá nhân (các quyền lợi, công bằng trong thủ tục thuế, lợi ích về
miễn, giảm thuế, hồn thuế...) hoặc là lợi ích chung của toàn xã hội (quyền được nhà
nước bảo đảm các lợi ích kinh tế trong q trình thực hiện nghĩa vụ thuế nhằm duy trì
cơng bằng chính xác, cơng bằng về thủ tục, chính sách; lợi ích xã hội từ tiền thuế của
nhân dân mà nhà nước quản lý).
Tùy thuộc vào mức độ xâm hại của hành vi vi phạm pháp luật thuế đến lợi ích
(khách thể), mà người ta xác định được mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, và
từ đó có thể xác định được mức độ cũng như loại chế tài tương ứng sẽ áp dụng với

hành vi đó, ví dụ: hành vi trốn thuế, tùy thuộc vào tính nghiêm trọng của hành vi (
thường được xác định dựa vào mức tiền thuế trốn lậu) mà hành vi này có thể bị xử lý
hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự 1999, hay bị xử lý hành chính.
1.1.4. Phân loại hành vi vi phạm pháp luật thuế.
Trong thực tiễn pháp lý, hành vi vi phạm pháp luật thuế diễn ra hết sức phức tạp với
nhiều dạng thức khác nhau. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi, có
thể chia hành vi vi phạm pháp luật thuế thành các loại hành vi vi phạm cơ bản sau:
 Vi phạm hành chính về thuế.
Về mặt lý luận, vi phạm hành chính về thuế là hành vi do tổ chức, cá nhân thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý của nhà nước trong lĩnh vực
thuế mà chưa đến mức bị xử lý hình sự và theo quy định của pháp luật phải chịu trách
nhiệm hành chính. Có thể nhận diện các hành vi vi phạm hành chính về thuế thơng qua
những dấu hiệu cơ bản:
Một là, đối tượng bị các hành vi vi phạm hành chính thuế xâm phạm là các quy
phạm pháp luật hành chính thuế được quy định trong các đạo luật về thuế (Luật thuế
thu nhập doanh nghiệp; Luật thuế xuất nhập khẩu; Luật thuế tiêu thụ đặc biệt;…) và
các Pháp lệnh về thuế (Pháp lệnh Thuế nhà, đất; Pháp lệnh thuế tài nguyên;…)
Hai là, hành vi vi phạm chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Một vi phạm
pháp luật thuế chỉ bị xử lý hành chính khi hành vi chưa phải là thật sự nghiêm trọng,
nguy hiểm cao cho xã hội. Nếu hành vi đó gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội hoặc
14


tính chất của nó là rất nguy hiểm cho xã hội đến mức cần phải răng đe, ngăn chặn bằng
biện pháp hình sự thì khơng thể chỉ xử phạt hành chính mà phải chuyển qua xử lý bằng
các biện pháp hình sự.
Ba là, chủ thể của hành vi vi phạm hành chính thuế là tất cả các cá nhân, tổ chức vi
phạm. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế có thể áp dụng cho các cá nhân, tổ chức
vi phạm trong lĩnh vực thuế nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, trong
khi đó việc truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ mới áp dụng cho các cá nhân vi phạm

trong lĩnh vực thuế đã đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì vậy có thể xem đây là
dấu hiệu đặc trưng của hành vi vi phạm hành chính thuế phân biệt với vi phạm hình sự
thuế.
Bốn là, cơ quan hành chính và các cơng chức hành chính có thẩm quyền có quyền
tun bố một hành vi là vi phạm hành chính về thuế, do phần lớn quy phạm pháp luật
thuế là quy phạm pháp luật hành chính nên cơ quan hành chính và các cơng chức hành
chính sẽ là người giải quyết, quyết định một hành vi là vi phạm hành chính thuế hay
khơng, sự tuyên bố này thể hiện bằng một quyết định xử phạt vi phạm hành chính ban
hành theo đúng thể thức luật định.
 Vi phạm hình sự về thuế.
Về mặt lý luận, vi phạm hình sự về thuế (hay tội phạm thuế) là hành vi nguy hiểm
cho xã hội được pháp luật hình sự quy định, do chủ thể có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện một cách cố ý hoặc vơ ý xâm phạm đến các lợi ích phát sinh trong quan hệ
pháp luật thuế được luật hình sự bảo vệ. Có thể nhận diện vi phạm hình sự về thuế
thơng qua những dấu hiệu cơ bản của nó, đồng thời phân biệt nó với hành vi vi phạm
hành chính thuế như sau:
Một là, đối tượng của hành vi vi phạm hình sự về thuế là các quy định có liên quan
đến lĩnh vực thuế được quy định trong Bộ luật hình sự 1999 và các văn bản hướng dẫn
thi hành (tính trái pháp luật hình sự của hành vi vi phạm pháp luật thuế). Tuy nhiên Bộ
luật hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành chỉ quy định hành vi vi phạm pháp luật
thuế nào là tội phạm, còn thủ tục xử lý như thế nào, giải quyết theo trình tự ra sao thì
thuộc các quy định của quy phạm tố tụng hình sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự và các
quy định pháp luật liên quan.
Xét về đối tượng của hành vi thì khác với vi phạm hành chính, hành vi vi phạm
hình sự thuế (tội phạm thuế) phải là hành vi được Bộ luật hình sự 1999 quy định, mọi
hành vi khơng trái với quy định của Bộ luật hình sự 1999 thì không thể coi là tội phạm
thuế mà là hành vi vi phạm hành chính thuế hay vi phạm khác.
Hai là, vi phạm hình sự về thuế là hành vi có mức độ nguy hiểm cao, gây hậu quả
nghiêm trọng cho xã hội nên việc xử lý hành chính khơng thể bảo đảm tính tương xứng
15



với tính chất, mức độ của hành vi, mà cần được xử lý nghiêm khắc bằng các hình phạt
theo quy định của Bộ luật hình sự 1999. Mọi hành vi vi phạm hình sự thuế đều được
coi là tội phạm, đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, phải phát hiện sớm, xử lý
nghiêm minh bằng hình luật để trừng trị đối với người phạm tội và ngăn ngừa người
khác phạm tội.
Xét về tính chất của hành vi thì hành vi vi phạm hình sự thuế mang tính nguy hiểm
cao hơn, và nghiêm trọng hơn so với vi phạm hành chính, do vậy một hành vi vi phạm
hành chính thuế nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc tính chất nguy hiểm thì có thể
bị truy cứu theo trách nhiệm hình sự mà khơng xử phạt vi phạm hành chính thuế nữa.
Xét về hậu quả pháp lý của hành vi thì đây cũng chính là dấu hiệu rõ ràng để nhận diện
hành vi vi phạm hình sự thuế với hành vi vi phạm hành chính thuế
Ba là, việc tuyên bố một hành vi vi phạm hình sự về thuế là tội phạm, chỉ thuộc
thẩm quyền của Tòa án. Chỉ Tịa án mới có quyền phán quyết một hành vi vi phạm
pháp luật thuế là tội phạm hay không phải là tội phạm. Khơng như hành vi vi phạm
hành chính thuế có thể chịu sự phán quyết của nhiều tổ chức, cá nhân được nhà nước
trao quyền xử phạt, mà trong xử lý hình sự thì khơng cơ quan, cá nhân nào trừ Tịa án
có thẩm quyền phán xét, tun án.
Bốn là, chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hình sự thuế chỉ có thể là cá nhân, vì
hiện nay pháp luật nước ta không áp dụng trách nhiệm hình sự cho tổ chức , pháp nhân
có hành vi vi phạm hình sự thuế. Xét ở phương diện này thì phạm vi chủ thể thực hiện
hành vi của vi phạm hành chính là rộng hơn, bao gồm tất cả tổ chức, pháp nhân và cá
nhân có hành vi vi phạm, cịn vi phạm hình sự thuế chỉ áp dụng với cá nhân có hành vi
vi phạm mà thơi.
 Các vi phạm khác về thuế.
Theo lý luận pháp lý, sẽ vẫn tồn tại những vi phạm pháp luật không thuộc vi phạm
hình sự, cũng khơng phải là vi phạm hành chính, và hệ quả là trách nhiệm pháp lý cũng
khơng thuộc trách nhiệm hành chính hay hình sự. Do vi phạm hình sự thuế và hành
chính thuế được coi là chủ yếu nên những vi phạm khác về thuế không được đề cập

nhiều nên lý thuyết về nó rất nghèo nàn.
Trên thực tế, xét về bản chất thì những hành vi vi phạm pháp luật hành chính hay
hình sự về thuế là những vi phạm pháp luật nội dung, mà thực tế vẫn còn tồn tại những
quy định pháp luật về thuế được coi là quy phạm pháp luật hình thức như quy định về
hình thức đơn khiếu nại và khởi kiện về thuế, hình thức đơn xin miễn giảm và hồn
thuế, hình thức của văn bản kê khai thuế.
Về bản chất thì những hành vi làm trái các quy định này cũng được coi là vi phạm
pháp luật thuế nhưng chúng khơng thuộc vi phạm hành chính hay hình sự về thuế, nên
16


chế tài áp dụng khơng là chế tài hành chính hay chế tài hình sự. Chế tài xử lý với
những vi phạm này việc Nhà nước không thừa nhận giá trị pháp lý của các văn bản do
người nộp thuế lập hoặc cơ quan có thẩm quyền lập khơng đúng với hình thức luật định
trong hành thu thuế.
Như vậy, qua những lý luận về nhận diện hành vi vi phạm pháp luật thuế, đã đặt ra
một cái nhìn tồn diện về cơ sở lý luận của hành vi vi phạm pháp luật thuế: khái niệm
(hành vi vi phạm pháp luật thuế; nhận diện hành vi vi pháp luật thuế); dấu hiệu cơ bản,
cấu thành và phân loại hành vi vi phạm pháp luật thuế. Nhận diện hành vi vi phạm
pháp luật thuế trên cơ sở lý luận tạo tiền đề, nền tảng cho sự nhận thức tiếp cận quy
định của pháp luật hiện hành về hành vi vi phạm pháp luật thuế.
1.2. Nhận diện hành vi vi phạm pháp luật thuế của người nộp thuế theo quy
định của pháp luật hiện hành.
Theo Luật quản lý thuế 2006 và các văn bản hướng dẫn, quy định các hành vi vi
phạm hành chính về thuế gồm:
Nhóm hành vi vi phạm các thủ tục thuế;
Nhóm hành vi chậm nộp tiền thuế;
Nhóm hành vi trồn thuế, gian lận thuế;
Nhóm hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền
thuế được hồn.

Và theo Bộ Luật hình sự 1999 (BLHS) và các văn bản hướng dẫn thi hành, các
hành vi vi phạm pháp luật về thuế của đối tượng nộp thuế sau sẽ được BLHS xác định
là tội phạm về thuế:
Tội buôn lậu (Điều 153 BLHS);
Tội trốn thuế (Điều 161 BLHS);
Đây là hai loại tội phạm chủ yếu trong lĩnh vực thuế mà người nộp thuế thực hiện,
những hậu quả do hai hành vi vi phạm này là rất lớn đối với nền kinh tế.
Ngoài ra, tiểu mục 2.1 mục 2 Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT/BCA-TANDTCVKSNDTC-BTP ngày 23/11/04 hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người mua, bán, sử dụng trái phép hóa đơn giá trị gia tăng cịn quy định: đối với hành
vi bán hóa đơn giá trị gia tăng cho người khác, mà biết rõ mục đích sử dụng hóa đơn
của người mua, nếu người mua bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trốn thuế thì
người bán bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trốn thuế với vai trị đồng phạm.
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì một hành vi vi phạm pháp luật
thuế có thể là hành vi vi phạm hành chính (theo quy định của luật quản lý thuế và các
văn bản pháp luật liên quan) và cũng có thể là tội phạm thuế được quy định trong
17


BLHS, vấn đề đặt ra là dấu hiệu để xác định ranh giới giữa vi phạm và tội phạm thuế
theo quy định của pháp luât thuế hiện hành là gì?
1.2.3. Dấu hiệu xác định ranh giới giữa hành vi vi phạm hành chính về thuế
(vi phạm thuế) và hành vi vi phạm hình sự về thuế (tội phạm thuế) của người nộp
thuế theo quy định của pháp luật hiện hành.
Một hành vi vi phạm pháp luật tùy mức độ theo quy định của pháp luật sẽ bị truy
cứu trách nhiệm hành chính hay trách nhiệm hình sự. Trong lĩnh vực thuế việc quy
định của pháp luật trong việc xác định ranh giới giữa tội phạm thuế và vi phạm thuế có
ý nghĩa hết sức quan trọng trong thực thi pháp luật về thuế (xác định được hành vi nào
là tội phạm thuế? hành vi nào là vi phạm thuế?), đảm bảo trật tự quan hệ quản lý thuế,
đồng thời đem lại cho các chủ thể quan hệ pháp luật thuế sự cơng bằng, bình đẳng
trong q trình truy cứu trách nhiệm pháp lý về thuế.

Có thể dẫn ra một số căn cứ theo quy định của BLHS và các văn bản hướng dẫn
liên quan về phân định ranh giới giữa vi phạm và tội phạm trong lĩnh vực thuế sau đây:
dấu hiệu về số tiền trồn thuế, số lượng, giá trị kinh tế của đối tượng bị hành vi vi phạm
tác động; dấu hiệu về thái độ của chủ thể vi phạm (đã bị xử phạt vi phạm hành chính
nhưng cịn tái phạm); dấu hiệu về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi (đã phạm
tội, chưa xóa án tích mà cịn vi phạm) các dấu hiệu phân biệt ranh giới này thể hiện rõ
nhất trong cấu thành của tội trốn thuế.
 Dấu hiệu về số tiền trốn thuế, số lượng, giá trị kinh tế của đối tượng bị hành
vi tác động.
Đối tượng bị tác động bởi hành vi vi phạm pháp luật thuế có thể là hàng hố, tiền
Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, số tiền thuế phải nộp do pháp luật quy định,
đã bị chủ thể hành vi tác động xâm hại quan hệ xã hội được pháp luật thuế điều chỉnh,
bảo vệ. Và dựa vào số lượng, giá trị kinh tế của chúng để xác định là tội phạm hay vi
phạm thuế, vì một hành vi vi phạm hình sự thuế sẽ là hành vi nguy hiểm cao, xâm hại
đến đối tượng bị tác động với số lượng lớn, giá trị kinh tế cao gây nguy hiểm, đe dọa
gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại cho xã hội.
Số lượng, giá trị kinh tế của đối tượng bị xâm hại do pháp luật quy định, hay nói
một cách khác đi là một hành vi vi phạm pháp luật thuế để thỏa mãn dấu hiệu trong cấu
thành về hành vi được quy định trong BLHS trước hết phải thỏa mãn về số lượng, giá
trị kinh tế, số tiền gây thiệt hại đến đối tượng bị tác động theo luật định. Hành vi đó sẽ
bị coi là tội phạm thuế vì tính chất, mức độ của hành vi có tính nguy hiểm cao cần truy
cứu trách nhiệm hình sự để xử lý thỏa đáng, răng đe và ngăn ngừa tội phạm. Những
hành vi vi phạm pháp luật thuế không thỏa mãn về số lượng cũng như giá trị kinh tế, số

18


tiền quy định mà nó tác động đến đối tượng tác động thì chỉ chịu trách nhiệm hành
chính, hành vi đó chỉ là vi phạm hành chính.
Ranh giới giữa vi phạm và tội phạm thuế là một số lượng hàng hóa, hoặc một số

tiền luật định, khi thỏa mãn ranh giới theo quy định của pháp luật đó thì một hành vi vi
phạm có thể bị coi là tội phạm thuế và ngược lại chỉ bị coi là vi phạm thuế. Ví dụ:
 Với hành vi trốn thuế, pháp luật quy định: người nào trốn thuế với số tiền từ
năm mươi triệu đồng đến dưới một trăm năm mươi triệu đồng hoặc phạm tội trốn thuế
với số tiền từ một trăm năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng hoặc phạm
tội trốn thuế với số tiền từ năm trăm triệu đồng trở lên…thì bị truy cứu trách nhiệm
hình sự lần lượt theo các khoản 1,2,3 Điều 161 BLHS, những hành vi trốn thuế với số
tiền dưới năm mươi triệu đồng thì đó là vi phạm thuế và chỉ chịu trách nhiệm hành
chính thuể về hành vi trốn thuế;
 Về hành vi buôn lậu pháp luật quy định người nào bn bán trái phép qua biên
giới hàng hóa, tiền Việt Nam, kim khí q…có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới
ba trăm triệu đồng…hoặc hàng cấm có số lượng lớn thì bị xử lý hình sự về tội buôn
lậu theo khoản 1 Điều153 BLHS; hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2
Điều 153 BLHS nếu vật phạm pháp có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới năm trăm
triệu đồng hoặc có số lượng hàng cấm rất lớn.
Như vậy những hành vi buôn lậu mà có giá trị vật phạm pháp dưới một trăm triệu
đồng (và chưa bị xử phạt vi phạm hành chính lần nào về hành vi này) hoặc số lượng
hàng cấm nhỏ chưa đạt đến mức pháp luật hình sự quy định thì hành vi bn lậu đó là
khơng phải là tội phạm buôn lậu mà chỉ phải chịu trách nhiệm hành chính thuế, vì theo
pháp luật tính chất và mức độ của hành vi như vậy là chưa nguy hiểm và đe dọa
nghiêm trọng quan hệ được pháp luật hình sự về thuế bảo vệ.
 Dấu hiệu về thái độ của chủ thể vi phạm.
Thái độ của chủ thể vi phạm thể hiện ở chỗ đã bị xử phạt vi phạm hành chính nhiều
lần nhưng vẫn tái phạm, tính chất nguy hiểm của hành vi biểu hiện ở thái độ nghiêm
chỉnh tuân thủ hay ngoan cố tiếp tục vi phạm. Một hành vi là vi phạm thuế được coi là
mức độ không nguy hiểm so với tội phạm thuế nhưng nếu vẫn tiếp tục tái phạm thì tính
chất của hành vi này không thể coi là không nguy hiểm được nữa mà phải xử lý trách
nhiệm hình sự thì mới tương xứng với mức độ và tính chất của hành vi, và theo pháp
luật thì đó cũng là một trong những dấu hiệu xác định ranh giới truy cứu trách nhiệm
hành chính hay hình sự. Ví dụ:


19


×