Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh theo luật cạnh tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (820.59 KB, 76 trang )

Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI


TRẦN THỊ MỸ LINH

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VÀ THỰC TIỄN LIÊN
QUAN ĐẾN HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG
LĨNH ĐỂ HẠN CHẾ CẠNH TRANH
THEO LUẬT CẠNH TRANH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP HCM – 2008

-1-


Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VÀ THỰC TIỄN


LIÊN QUAN ĐẾN HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ
THỐNG LĨNH ĐỂ HẠN CHẾ CẠNH TRANH
THEO LUẬT CẠNH TRANH

SVTH: TRẦN THỊ MỸ LINH
Khóa: 29 MSSV: 2920104
GVHD: TS. BÙI XN HẢI

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2008

-2-


Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

LỜI CAM ĐOAN
Đề tài “Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh theo Luật
cạnh tranh” là cơng trình nghiên cứu của tác giả, khơng phải là sự sao
chép của người khác. Nội dung và kết quả của đề tài là do tác giả đạt
được thông qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của
TS. Bùi Xuân Hải. Tác giả xin cam đoan chịu trách nhiệm trước nhà
trường về đề tài nghiên cứu này.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 7 năm 2008.
Tác giả

Trần Thị Mỹ Linh

-3-



Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1

PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................. 4
CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ
TRÍ THỐNG LĨNH ĐỂ HẠN CHẾ CẠNH TRANH ......................................... 4
1.1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ
TRƯỜNG ........................................................................................................ 4
1.1.1 Khái niệm vị trí thống lĩnh thị trường ...................................................... 4
1.1.2 Cách thức xác định vị trí thống lĩnh thị trường ....................................... 6
1.1.2.1 Xác định thị trường liên quan ................................................................... 6
1.1.2.2 Các căn cứ để xác định vị trí thống lĩnh .................................................. 12
1.1.3 Tác động của việc tồn tại các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
đối với nền kinh tế.................................................................................... 19
1.2 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG
LĨNH THỊ TRƯỜNG ĐỂ HẠN CHẾ CẠNH TRANH ............................... 20
1.2.1 Khái niệm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh
tranh ......................................................................................................... 20
1.2.2 Đặc điểm của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế
cạnh tranh ................................................................................................ 21
1.3 SỰ CẦN THIẾT ĐIỀU CHỈNH BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HÀNH VI
LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH TRƯỜNG ĐỂ HẠN CHẾ CẠNH
TRANH........................................................................................................ 24
CHƯƠNG 2:
NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ

TRÍ THỐNG LĨNH ĐỂ HẠN CHẾ CẠNH TRANH ....................................... 29
2.1 CÁC HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG TRONG
PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM.................................................. 29

-4-


Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

2.1.1 Khái quát chung quy định của pháp luật về hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường .......................................................................................... 29
2.1.2 Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong pháp luật cạnh
tranh Việt Nam ........................................................................................ 31
2.1.2.1 Nhóm hành vi gây khó khăn cho đối thủ cạnh tranh ............................ 31
2.1.2.2 Nhóm hành vi tước đoạt lợi ích khách hàng ......................................... 36
2.1.2.3 Nhóm hành vi làm cản trở năng lực kinh doanh của khách hàng ........ 43
2.1.3 Cơ quan có thẩm quyền thực thi và các biện pháp xử lý đối với hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường ...................................................... 49
2.1.3.1 Cơ quan có thẩm quyền thực thi pháp luật về hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường ............................................................................. 49
2.1.3.2 Các biện pháp xử lý hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường ...... 51
2.2

THỰC TRẠNG CÁC HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ
TRƯỜNG Ở VIỆT NAM ............................................................................ 52
2.2.1 CocaCola .................................................................................................. 52
2.2.2 Quán Cây dừa và Công ty Liên doanh Nhà máy bia Việt Nam ............. 54
2.2.3 Tổng cơng ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) và Tổng công ty
Viễn thông quân đội (Viettel) .................................................................. 56
2.2.4 Tổng công ty Hàng không Việt Nam (VNA) và Công ty cổ phần Hàng

không Pacific Airline (PA)....................................................................... 57
2.2.5 Tổng công ty Xi-măng Việt Nam ............................................................. 59
2.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT CẠNH TRANH ĐỐI
VỚI HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG ........ 61

PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................... 67

-5-


Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Xuất phát từ đặc điểm nền kinh tế nước ta là đi lên từ nền kinh tế tập trung
bao cấp cho nên đa phần các lĩnh vực trong nền kinh tế đều có sự xuất hiện của các
doanh nghiệp nhà nước có vị trí thống lĩnh thị trường. Bên cạnh đó, cùng với sự hội
nhập vào nền kinh tế thế giới, ngày càng có nhiều cơng ty quốc tế, tập đồn đa quốc
gia với tiềm lực tài chính mạnh tham gia hoạt động tại Việt Nam. Với vị trí thống
lĩnh thị trường và sức mạnh kinh tế của mình, các doanh nghiệp trên có khả năng
thực hiện những hành vi chi phối cung cầu, giá cả và các yếu tố khác trên thị trường
nhằm duy trì, củng cố vị trí thống lĩnh thị trường của mình. Vì vậy trong q trình
hoạt động kinh doanh, khó tránh khỏi tình trạng các doanh nghiệp này lạm dụng khả
năng của mình gây khó khăn cho đối thủ, xâm hại lợi ích khách hàng. Những hành
vi này sẽ tác động xấu đến môi trường cạnh tranh và diện mạo nền kinh tế Việt
Nam. Do đó, để kiểm sốt những hành vi nói trên nhà nước cần tạo lập một khuôn
khổ pháp lý thật vững chắc nhằm thiết lập “luật chơi” công bằng và một “sân chơi”
lành mạnh cho nền kinh tế. Trước nhu cầu đó, ngày 03 tháng 12 năm 2004, Quốc
hội khóa XI, Kỳ họp thứ 6 đã thơng qua Luật cạnh tranh. Việc làm này có ý nghĩa
quan trọng trong việc điều tiết cạnh tranh trong nền kinh tế nói chung và kiểm sốt

hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của các doanh nghiệp nói riêng.
Đến nay, sau gần 4 năm thực hiện, những quy định của Luật cạnh tranh về
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh vẫn chưa thể
phát huy vai trị kiểm sốt của nó. Điều này tạo nên mối băn khoăn cho các nhà lập
pháp và những người làm công tác liên quan đến pháp luật cạnh tranh. Có thể thấy
rằng, mặc dù đã có những qui định của pháp luật điều chỉnh những hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường nhưng việc hiểu rõ và áp dụng những quy định này
vẫn còn đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu và bàn luận.
Nhìn nhận ở góc độ lập pháp, so với thế giới “thuật ngữ luật cạnh tranh được
biết đến ở Việt Nam chỉ vào khoảng trên dưới chục năm trở lại đây trong quá trình
giao lưu và hội nhập kinh tế quốc tế”1. Trong khi đó, pháp luật về cạnh tranh đã
được nhiều nước quan tâm từ hàng chục, hàng trăm năm 2. Do đó, ở Việt Nam, các
quy định trong pháp luật cạnh tranh nói chung và quy định về hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh để hạn chế cạnh tranh nói riêng được xây dựng trên cơ sở tiếp thu và
kế thừa kinh nghiệm xây dựng pháp luật cạnh tranh của các nước trên thế giới… Sự
1

Dương Đăng Huệ, Nguyễn Hữu Huyên (2004), “Những vấn đề lý luận cơ bản của luật cạnh tranh”, Nhà
nước và pháp luật, (9), tr.58-63.
2
Ở Hoa Kỳ có các đạo luật về cạnh tranh như đạo luật Sherman năm 1890, Luật Clayton Act năm 1914, ở
Vương quốc Anh có Luật Cạnh tranh năm 1980 và được sửa đồi năm 1998…

-6-


Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

non trẻ và mới mẻ của mảng pháp luật này tạo ra nhiều vấn đề cần phải xem xét về
tính phù hợp và khả thi trong quá trình áp dụng vào nền kinh tế thị trường nước ta.

Điều này đã tạo nên nhiều băn khoăn cho các nhà lập pháp và những người làm
công tác liên quan đến pháp luật cạnh tranh. Từ cơ sở xem xét những vấn đề trên,
các nhà làm luật sẽ có thể điều chỉnh những qui định pháp luật cho phù hợp với nền
kinh tế.
Nhận thức tình hình này, tác giả chọn đề tài “Những vấn đề pháp lý và thực
tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để hạn chế cạnh tranh theo
Luật cạnh tranh” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Phạm vi nghiên cứu của khóa luận
Trong phạm vi khóa luận, tác giả chủ yếu nghiên cứu ở khía cạnh lý luận và
pháp lý liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh
tranh. Trên cơ sở đó, khóa luận kết hợp trình bày một số thực trạng về hành vi này;
đồng thời, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật cạnh
tranh liên quan đến lĩnh vực này.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của khóa luận
Mục tiêu của khóa luận là tìm hiểu kiến thức pháp lý và những thực trạng
liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để hạn chế cạnh tranh thông qua
việc tiếp cận và nghiên cứu ở góc độ lý luận và thực tiễn những vấn đề liên quan
đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh góp phần
làm rõ những quy định của pháp luật về vấn đề này. Theo đó, khóa luận có nhiệm
vụ:
 Làm rõ khái niệm về vị trí thống lĩnh thị trường thông qua học thuyết kinh tế
và pháp luật cạnh tranh của một số nước, chỉ ra cách thức để xác định doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường và làm rõ sự cần thiết về việc điều
chỉnh của pháp luật đối với hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để hạn chế
cạnh tranh.
 Nêu và phân tích những dấu hiệu cơ bản về hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường cụ thể trong pháp luật cạnh tranh Việt Nam nhằm đem lại cái
nhìn chung nhất về từng hành vi; đồng thời, trình bày khái quát cơ chế để
thực thi pháp luật về hành vi này. Bên cạnh đó, đưa ra và phân tích một số vụ
việc có dấu hiệu về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh trên thị trường Việt

Nam.
 Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề trên người viết đưa ra một số kiến nghị
góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh để hạn chế cạnh tranh cũng như cơ chế để thực thi
trong cuộc sống.

-7-


Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và thuyết kinh tế học, đồng thời
kết hợp sử dụng các phương pháp: thu thập thơng tin, phân tích, tổng hợp, so sánh,
bình luận…. nhằm nghiên cứu, luận giải vấn đề đặt ra một cách khoa học.
5. Ý nghĩa, giá trị thực tiễn của việc nghiên cứu
Khóa luận là cách nhìn nhận và đánh giá của tác giả trên cơ sở pháp lý và
thực tiễn về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để hạn chế cạnh tranh. Thông qua
những kết quả đạt được trong q trình nghiên cứu, khóa luận sẽ cung cấp những
kiến thức cơ bản góp phần đáp ứng nhu cầu nghiên cứu và tìm hiểu về hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh trên thị trường; đồng thời tạo nền tảng cho việc thực hiện
nghiên cứu ở góc độ sâu hơn những vấn đề có liên quan đến hành vi này.
6. Nội dung khóa luận
Khóa luận được bao gồm những phần sau:
 Phần mở đầu
 Chương 1: Những vấn đề lý luận liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh để hạn chế cạnh tranh
 Chương 2: Những vấn đề thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh để hạn chế cạnh tranh

 Phần kết luận
 Danh mục tài liệu tham khảo

-8-


Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN HÀNH VI LẠM DỤNG
VỊ TRÍ THỐNG LĨNH ĐỂ HẠN CHẾ CẠNH TRANH
1.2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ
TRƯỜNG
1.2.1 Khái niệm vị trí thống lĩnh thị trường
Vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp có thể hình thành từ nhiều
ngun nhân khác nhau: sự tích tụ tư bản của quá trình cạnh tranh, sự tồn tại các rào
cản gia nhập thị trường, sự bảo hộ từ phía chính phủ…Doanh nghiệp có được vị thế
từ những nguyên nhân này là phù hợp với quy luật của sự phát triển và hợp pháp.
Hiện nay có nhiều khái niệm về vị trí thống lĩnh thị trường:
Theo từ điển Luật học “vị trí thống lĩnh thị trường” là vị trí của doanh nghiệp
hoặc nhóm doanh nghiệp trên thị trường liên quan mà nhờ vào vị trí ấy doanh
nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp đó có khả năng quyết định các điều kiện giao dịch
trên thị trường độc lập với các đối thủ cạnh tranh và người tiêu dùng ở mức độ đáng
kể3.
Theo Ủy ban Châu Âu, “vị trí thống lĩnh thị trường” là mức độ tự do ý chí
của doanh nghiệp trong việc ấn định giá và các điều kiện giao dịch khác trên thị
trường mà không bị kiềm chế bởi áp lực cạnh tranh 4.
Pháp luật cạnh tranh Hàn Quốc cho rằng: doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
trên thị trường là bất kì người mua, người bán trong một lĩnh vực thương mại nhất

định và nắm giữ vai trị thống lĩnh thị trường để ấn định, duy trì hoặc thay đổi giá
cả, khối lượng, chất lượng và các điều kiện thương mại trên cơ sở độc lập hoặc trên
cơ sở câu kết với các doanh nghiệp khác 5.
Nhìn chung, vẫn chưa có khái niệm thống nhất về vị trí thống lĩnh thị trường
nhưng xét về nội hàm nghĩa các khái niệm này khơng khác xa nhau, theo đó, vị trí
thống lĩnh thị trường sẽ mang lại cho doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp nắm
giữ vị trí đó khả năng kiểm soát các yếu tố khác nhau trên thị trường .
Luật cạnh tranh Việt Nam 2004 tại Điều 13 chỉ qui định các trường hợp để
xác định một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh. Các
nhà lập pháp khơng giải thích thế nào là vị trí thống lĩnh thị trường. Tuy nhiên, căn
cứ theo quy định tại Điều 13 Luật cạnh tranh 2004 và một số quy định pháp luật có
3

Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, NXB.Từ điển bách khoa và NXB.Tư pháp, Hà Nội,tr.853.
Viện Khoa học pháp lý, tlđd, tr. 853.
5
Vụ pháp chế (2003), Tài liệu tham khảo khuôn khổ pháp lý đa phương điều chỉnh điều chỉnh hoạt động
cạnh tranh và Luật cạnh tranh của một số nước và vùng lãnh thổ, Tài liệu hội thảo, tr.210.
4

-9-


Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

liên quan, có thể thấy quan niệm của các nhà lập pháp Việt Nam về vị trí thống lĩnh
cũng tương đồng với các quan niệm nói trên:(1) vị trí thống lĩnh thị trường có thể là
do một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp nắm giữ; (2)vị trí thống lĩnh
đem lại cho doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp nắm giữ vị trí đó khả năng kiểm
sốt nhất định các yếu tố trên thị trường (gồm giá cả, cung cầu, điều kiện giao

dịch,…).
Thông thường, chúng ta thường hiểu rằng doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
là doanh nghiệp có quyền lực thị trường (còn được gọi là quyền lực độc quyền6).
Như vậy, một vấn đề đặt ra là “vị trí thống lĩnh thị trường” có đồng nghĩa với
“quyền lực thị trường” hay khơng? Việc làm rõ mối tương quan giữa hai khái niệm
là cần thiết để đảm bảo cho việc ứng dụng các học thuyết kinh tế vào phân tích,
nghiên cứu cạnh tranh được dễ dàng. Khái niệm “sức mạnh (quyền lực) thị trường”
trong kinh tế học được sử dụng để chỉ mức độ kiểm sốt thị trường của một hãng
hay một nhóm nhỏ các hãng có quyền quyết định về giá cả và lượng hàng hóa nào
đó7. Trong các văn bản thi hành luật cạnh tranh của Anh đã giải thích rằng vị trí
thống lĩnh thị trường là “quyền lực thị trường” ở mức độ cao 8. Thông qua cuộc hội
thảo pháp luật về cạnh tranh có thể thấy được quan điểm của các nhà làm luật Việt
Nam về vấn đề này: “quyền lực thị trường” có thể được thể hiện thơng qua ưu thế
của doanh nghiệp trong việc sản xuất hàng hóa, dịch vụ, nhưng xét cho cùng, khi
đã thống lĩnh được thị trường thì doanh nghiệp đó có tồn quyền đặt giá như như họ
muốn. Việc quy định các tiêu chí khác ngồi tiêu chí giá chỉ nhằm tạo điều kiện dễ
dàng cho hoạt động của cơ quan cạnh tranh 9. Có thể rút ra kết luận rằng, theo như
những cách hiểu trên thì khơng có sự khác xa nhau giữa hai khái niệm. Trong pháp
luật cạnh tranh, khi nói “quyền lực thị trường” của doanh nghiệp cần được hiểu rõ
là ngồi khả năng chủ yếu là kiểm sốt về giá cả, lượng hàng hóa doanh nghiệp cịn
có những khả năng chi phối các yếu tố khác (điều kiện trong giao dịch, mạng lưới
phân phối, phân chia thị trường…).
Quyền lực thị trường có thể thuộc về doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường hoặc doanh nghiệp độc quyền. Tuy nhiên, so với vị trí độc quyền vị trí thống
lĩnh có một số điểm khác biệt. Khái niệm về vị trí độc quyền được Luật cạnh tranh
quy định: “Doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu khơng có doanh
nghiệp nào cạnh tranh về hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị
trường liên quan” ( Điều 12 Luật cạnh tranh 2004). Trên cơ sở này, có thể nhận thấy
nếu như vị trí thống lĩnh do một hoặc một nhóm doanh nghiệp nắm giữ thì vị trí độc
quyền chỉ do một doanh nghiệp nắm giữ. Một sự khác biệt nữa là doanh nghiệp độc

quyền không có đối thủ cạnh tranh nào về hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó
6

Tổ chức Thương mại và phát triển Liên Hợp Quốc (2003), Luật mẫu về cạnh tranh, Bản dịch tiếng Việt của
Hoàng Xuân Bắc, tr.52.
7
Paul A . Samuelson, Willam D. Nordhalls, tlđd, , tr. 350.
8
Viện Khoa học pháp lý, tlđd , tr. 853.
9
Nhà Pháp luật Việt-Pháp (2002), Hội thảo pháp luật về cạnh tranh, Hà Nội-TP.Hồ Chí Minh, tr. 7-8.

- 10 -


Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

kinh doanh trên thị trường liên quan. Như vậy, có thể thấy từ vị trí này doanh
nghiệp độc quyền cũng có khả năng chi phối, kiểm soát các yếu tố trên thị trường
nhưng ở mức độ cao hơn so với doanh nghiệp giữ vị trí thống lĩnh vì doanh nghiệp
này khơng phải chia sẻ quyền lực với một doanh nghiệp nào.
Tuy nhiên trong pháp luật của một số nước như Mỹ, Đài Loan thì vị trí thống
lĩnh được qui định chung trong khái niệm “độc quyền” hoặc “quyền lực độc quyền”.
Chẳng hạn, trong pháp luật cạnh tranh của Đài Loan qui định: thuật ngữ độc quyền
được dùng để chỉ trường hợp một doanh nghiệp khơng có đối thủ cạnh tranh hoặc
có vị trí áp đảo giúp nó loại trừ đối thủ cạnh tranh trên một thị trường cụ thể10. Việc
tìm hiểu khái niệm, thuật ngữ sẽ giúp ta có cái nhìn tồn diện về nội hàm khái niệm
vị trí thống lĩnh của một số nước. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên
cứu về vấn đề này.
Tóm lại, có thể hiểu “vị trí thống lĩnh thị trường” là vị trí của một doanh

nghiệp hay một nhóm các doanh nghiệp (gọi chung là doanh nghiệp) trên thị trường
liên quan mà dựa vào vị trí đó một doanh nghiệp hoặc một nhóm các doanh nghiệp
có khả năng kiểm sốt giá cả, các điều kiện giao dịch và các yếu tố khác trên thị
trường. Việc làm rõ mối tương quan giữa khái niệm “vị trí thống lĩnh thị trường”
với khái niệm “quyền lực thị trường” trong kinh tế học sẽ tạo cơ sở cho việc ứng
dụng các học thuyết kinh tế vào phân tích, nghiên cứu cạnh tranh được dễ dàng.
1.1.2 Cách thức xác định vị trí thống lĩnh thị trường
Mỗi khu vực, lĩnh vực trên thị trường có sự cạnh tranh khác nhau, nếu
chuyển sang khu vực khác doanh nghiệp sẽ có vị trí và khả năng tác động, chi phối
thị trường khác nhau. Do đó, để xác định một doanh nghiệp được xem là có vị trí
thống lĩnh thị trường hay khơng cần phải đặt doanh nghiệp đó trong một phạm vi thị
trường nhất định để xem xét – thị trường liên quan. Chỉ khi xác định chính xác được
thị trường này ta mới có thể thực hiện bước tiếp theo là xem xét doanh nghiệp đó có
vị trí thống lĩnh trên thị trường hay không. Cục thương mại công bằng Anh đánh giá
tầm quan trọng của “thị trường liên quan” như sau: định nghĩa thị trường là một
giai đoạn rất quan trọng trong bất cứ cuộc điều tra nào về hành vi lạm dụng. Bởi
lẽ, thị phần chỉ được tính toán sau khi những ranh giới của thị trường đã được xác
định. Do đó, nếu thị trường được xác định sai, thì tất cả những phân tích tiếp theo
dưa trên thị phần hoặc cấu trúc thị trường đều khơng hồn thiện11.
1.1.2.1 Xác định thị trường liên quan
“Thị trường liên quan” là một khái niệm rất khó xác định. Theo cách giải
thích của Luật mẫu về cạnh tranh thì thị trường liên quan dùng để chỉ ngành hàng
trong đó cạnh tranh bị hạn chế và cũng chỉ cả khu vực địa lý liên quan, phải bao
10

Vụ pháp chế, tlđd, tr.428.
Nguyễn Như Phát, Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Phân tích và luận giải các quy định của Luật cạnh tranh về
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh, NXB. Tư pháp, Hà Nội,
tr.19; trích theo David Harbord và georg von gravenitZ, Định nghĩa thị trường trong các vụ việc điều tra
cạnh tranh trong thương mại, Tài liệu hội thảo, H. 2004.

11

- 11 -


Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

gồm tồn bộ hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế một cách hợp lý, và gần như mọi đối
thủ cạnh tranh trong cùng nghành hàng, trên đó khách hàng có thể dùng sản phẩm
đó trong một thời gian ngắn nếu hành vi hạn chế hay hành vi lạm dụng chỉ làm tăng
giá chút ít 12.
Phạm vi khu vực này thể hiện khả năng cạnh tranh giữa sản phẩm của các
doanh nghiệp nói trên, biểu hiện cụ thể bằng việc khách hàng có được sự lựa chọn
các sản phẩm để đáp ứng cho mục đích sử dụng của mình. Do đó, chứng tỏ các sản
phẩm phải có khả năng thay thế cho nhau. Khi xác định được các sản phẩm này
chúng ta xác định được thị trường sản phẩm liên quan. Tuy nhiên, khi những sản
phẩm trên ở những khu vực địa lý khác nhau sẽ làm phát sinh những rào cản địa lý,
rào cản gia nhập khiến các sản phẩm không còn thay thế được cho nhau và mất đi
khả năng cạnh tranh với nhau. Để loại trừ trường hợp đó, địi hỏi tiếp theo là cần
phải khoanh vùng khơng gian mà các sản phẩm vẫn giữ được khả năng thay thế cho
nhau để có thể cạnh tranh với nhau. Thực hiện việc này là chúng ta xác định thị
trường địa lý liên quan. Do vậy, khi xác định thị trường liên quan cần phải dựa trên
hai khía cạnh là sản phẩm và địa lý. Theo cách tiếp cận này tại khoản 1 Điều 3 Luật
cạnh tranh 2004 qui định thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên
quan và thị trường địa lý liên quan.
a) Thị trường sản phẩm liên quan
“Thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng hóa, dịch vụ
có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả” (Khoản 1 Điều 3
Luật cạnh tranh 2004).
Để “có thể thay thế cho nhau” chúng ta nhận thấy rằng hàng hóa, dịch vụ

này sẽ phải giống nhau hồn tồn hoặc tương đồng nhau. Tuy nhiên cần có những
yếu tố thật cụ thể để xác định khả năng thay thế cho nhau giữa các sản phẩm, căn cứ
theo quy định trên có thể thấy các nhà làm luật đã đưa ra ba yếu tố: đặc tính, mục
đích sử dụng và giá cả.
Thứ nhất, Điểm a Khoản 5 Điều 4 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15
tháng 9 năm 2005 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật cạnh tranh (Nghị
định số 116/2005/NĐ-CP) thì “hàng hóa, dịch vụ được coi là có thể thay thế cho
nhau về đặc tính nếu hàng hóa, dịch vụ đó có nhiều tính chất vật lý, hóa học, tính
năng kỹ thuật, tác dụng phụ đối với người sử dụng và khả năng hấp thụ giống
nhau”. Đây là cơ sở đầu tiên không thể thiếu bởi vì nếu các sản phẩm khơng tương
đồng nhau một trong số các đặc tính này thì khả năng thay thế cho nhau là hồn
tồn khơng thể. Người sử dụng khơng thể tìm mua một sản phẩm thay thế mà sản
phẩm đó lại khơng có một chút đặc tính gì tương tự với sản phẩm trước.
Thứ hai, “hàng hóa, dịch vụ được coi là có thể thay thế cho nhau về mục
đích sử dụng nếu hàng hóa, dịch vụ đó có mục đích sử dụng giống nhau” (Điểm b
12

Tổ chức Thương mại và phát triển Liên Hợp Quốc, tlđd, tr.27.

- 12 -


Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

Khoản 5 Điều 4 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP). Cần xem xét rõ về “mục đích sử
dụng” sản phẩm. Trong thời đại cơng nghệ tiên tiến hiện nay, tìm một sản phẩm tích
hợp nhiều chức năng hoặc một dịch vụ trọn gói bao gồm nhiều dịch vụ kết hợp
khơng phải là chuyện khó. Chẳng hạn một chiếc điện thoại có thể tích hợp nhiều
tính năng như gọi điện, nghe nhạc, chụp hình, ghi âm…Chức năng nghe nhạc không
hề kém máy nghe nhạc mp3 hoặc chức năng chụp hình lên tới 5.0 megapixel khơng

kém gì máy ảnh kỹ thuật số. Những tính năng vượt trội này sẽ gây khó khăn trong
việc xác định đâu là “mục đích sử dụng” của hàng hóa, dịch vụ. Và từ đó gây mơ hồ
cho việc điều tra về khả năng thay thế cho nhau về mục đích sử dụng của sản phẩm
đó. Nếu khơng xác định rõ, chức năng tích hợp này có thể sẽ làm mở rộng phạm vi
thị trường sản phẩm. Để hạn chế điều này tại Khoản 3 Điều 4 Nghị định số
116/2005/NĐ-CP các nhà làm luật đã đưa ra căn cứ để xác định mục đích sử dụng
sản phẩm: Mục đích sử dụng của hàng hóa, dịch vụ được xác định căn cứ vào mục
đích sử dụng chủ yếu nhất của hàng hóa, dịch vụ đó. Như vậy, khi xem xét khả
năng thay thế cho nhau về mục đích sử dụng của hàng hóa, dịch vụ thì cần lấy mục
đích sử dụng chủ yếu nhất để xem xét, xác định sự giống nhau về mục đích sử dụng
của hàng hóa, dịch vụ đó.
Thứ ba, khi xem xét yếu tố giá cả, một vấn đề đặt ra là yếu tố tương đồng về
đặc tính và mục đích sử dụng có đủ để người sử dụng thay đổi từ sản phẩm này
sang sản phẩm kia không? Giá cả là một yếu tố thiết yếu trong việc mua bán và có
ảnh hưởng đến quyết định sử dụng sản phẩm. Để việc đánh giá đảm bảo tính khách
quan và phù hợp với thực tiễn chúng ta cần tiến hành một cuộc thử nghiệm khả
năng thay thế về giá. Nếu có sự thay đổi giá cả của sản phẩm này dẫn đến việc
người mua chuyển sang sử dụng một sản phẩm khác thay thế thì chứng tỏ các sản
phẩm có khả năng thay thế cho nhau. Theo Điểm c Khoản 5 Điều 4 Nghị định số
116/2005/NĐ- CP: hàng hóa, dịch vụ được coi là có thể thay thế cho nhau về giá cả
nếu trên 50% của một lượng ngẫu nhiên 1.000 người tiêu dùng sinh sống tại khu
vực địa lý liên quan chuyển sang mua hoặc có ý định mua hàng hóa, dịch vụ khác
có đặc tính, mục đích sử dụng giống với hàng hóa dịch vụ mà họ đang sử dụng
hoặc có ý định sử dụng trong trường hợp giá của hàng hóa dịch vụ đó tăng lên quá
10% và được duy trì trong 6 tháng liên tiếp. Như vậy, cuộc điều tra sẽ bắt đầu bằng
việc giả định sản phẩm tăng giá trong một thời gian, nếu khách hàng chuyển sang
sử dụng sản phẩm khác có đặc tính, mục đích sử dụng giống với sản phẩm mà họ
đang sử dụng thì các sản phẩm này được xem là có thể thay thế cho nhau.
Để có thể tiến hành thành công cuộc thử nghiệm này không phải đơn giản,
cuộc thử nghiệm phải đáp ứng 2 điều kiện sau. Một là, mức tăng giá phải đáng kể.

Nếu mức giá thay đổi nhỏ thì sẽ thu hẹp phạm vi thị trường liên quan. Vì vậy, sự
thay đổi về giá phải đáng kể để người mua có thể phản ứng lại đối với sự thay đổi
đó. Một mức tăng khơng đáng kể về giá có thể khơng gây ra phản ứng của người

- 13 -


Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

mua. Mức tăng giá như thế nào là đáng kể tùy thuộc vào quan điểm chủ quan mỗi
nước, một số nước như Hoa Kỳ và Canada chấp nhận mức 5% là đáng kể13. Ở Việt
Nam mức tăng này là trên 10%. Hai là, thời gian tăng giá phải đủ dài để đảm bảo
mức tăng đó khơng là tạm thời. Nếu khách hàng biết mức tăng đó chỉ là tạm thời
trong một thời gian ngắn thì có thể họ vẫn chấp nhận việc tiếp tục sử dụng sản phẩm
đó. Do đó, khoảng thời gian này cũng phải đảm bảo tạo được phản ứng thay thế ở
khách hàng. Theo các nhà làm luật Việt Nam thì khoảng thời gian “6 tháng liên
tiếp” là hợp lý. Cuối cùng, để có thể kết luận về việc các sản phẩm có khả năng thay
thế cho nhau thì việc điều tra giả định này phải được trên 50% số khách hàng trong
cuộc điều tra quyết định hoặc có ý định sẽ thay đổi nhu cầu. Một cuộc điều tra như
vậy là rất phức tạp, phải chuẩn bị thật kỹ từ khâu nghiên cứu mức giá giả định cho
thật phù hợp cho đến phân tích, tổng hợp thơng tin có được từ mấy trăm người thậm
chí có thể tới 1000 người; bên cạnh đó, phải đảm bảo thời gian cho cuộc điều tra
không bị gián đoạn trong 6 tháng liền. Trong khoảng thời gian này, khó có thể
lường trước tất cả những biến động có thể ảnh hưởng đến cuộc điều tra. Có thể nhận
thấy, chi phí cho cuộc điều tra này tính ra là khơng nhỏ và khả năng thành công phụ
thuộc rất nhiều yếu tố (thời gian, tính hợp lý của mức giá giả định, trình độ kỹ thuật
của cán bộ điều tra…). Tuy nhiên, không phải cuộc điều tra nào cũng cho được kết
quả. Sau khi chuẩn bị tất cả, điều quan trọng không kém là phụ thuộc vào sự hợp tác
của rất nhiều người. Vì vậy, theo như quy định, một cuộc điều tra như vậy sẽ diễn ra
rất phức tạp và đòi hỏi nhiều chi phí.

Khi có được kết quả phân tích dựa trên ba yếu tố: đặc tính, mục đích sử dụng
và giá cả, ta sẽ có thể đưa ra kết luận về khả năng thay thế cho nhau giữa các sản
phẩm. Tuy nhiên, việc phân tích dựa vào ba yếu tố này khơng phải lúc nào cũng
thuận lợi để có thể đưa ra kết luận dễ dàng. Nghị định số 116/2005/NĐ-CP còn đưa
ra một số trường hợp dự phòng, trường hợp phương pháp xác định thuộc tính “có
thể thay thế cho nhau” của sản phẩm chưa đủ để đưa ra kết luận thuộc tính “có thể
thay thế cho nhau” của sản phẩm thì cơ quan quản lý cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ
việc cạnh tranh có quyền xem xét thêm một hoặc một số yếu tố sau: tỷ lệ thay đổi
của cầu đối với một sản phẩm khi có sự thay đổi về giá của một sản phẩm khác; thời
gian cung ứng sản phẩm ra thị trường khi có sự gia tăng đột biến về cầu, thời gian
sử dụng của sản phẩm; khả năng thay thế về cung. Trong trường hợp cần thiết, cơ
quan quản lý cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có thể xác định thêm
nhóm người tiêu dùng sinh sống tại khu vực địa lý liên quan khơng thể chuyển sang
mua sản phẩm khác có đặc tính, mục đích sử dụng giống với sản phẩm mà họ đang
sử dụng hoặc có ý định sử dụng trong trường hợp giá của sản phẩm đó tăng lên quá

13

Cục Quản lý cạnh tranh (2005), “Thị trường liên quan trong phân tích các vụ việc cạnh tranh”, Hội thảo
đóng góp ý kiến vào dự thảo nghị định hướng dẫn thi hành luật cạnh tranh, Tài liệu hội thảo.

- 14 -


Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

10% và được duy trì trong 6 tháng liên tiếp (theo các quy định tại khoản 6 Điều 5
Nghị định số 116/2005/NĐ-CP).
b) Thị trường địa lý liên quan
“ Thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa lý cụ thể trong đó có các

hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau với các điều kiện cạnh tranh tương tự và
có sự khác biệt đáng kể với các khu vực địa lý lân cận” (Khoản 1 Điều7 Nghị định
số 116/2005/NĐ-CP ).
Như vậy, thị trường địa lý được xác định phải đảm bảo các điều kiện: là khu
vực không gian cụ thể có các hàng hóa dịch vụ có thể thay thế cho nhau; trong khu
vực này các điều kiện cạnh tranh là tương tự nhau; và khu vực này có sự khác biệt
đáng kể so với các khu vực địa lý lân cận. Trên cơ sở này, theo khoản 2 Điều 7
Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ranh giới của khu vực địa lý liên quan sẽ được xác
định theo các căn cứ: (a) Khu vực địa lí có cơ sở kinh doanh của doanh nghiệp
tham gia phân phối sản phẩm liên quan; (b) Cơ sở kinh doanh của doanh nghiệp
khác đóng trên khu vực địa lí lân cận đủ gần với khu vực địa lý qui định tại điểm (a)
để có thể tham gia phân phối sản phẩm liên quan trên khu vực địa lý đó; (c) Chi phí
vận chuyển trong khu vực địa lý đó; (d) Thời gian vận chuyển hàng hóa, cung ứng
dịch vụ trong khu vực địa lý đó; (đ) Rào cản gia nhập thi trường.
Thị trường địa lý được xác định là không gian địa lý bao gồm khu vực có cơ
sở kinh doanh của doanh nghiệp đang bị điều tra và khu vực có cơ sở kinh doanh
của doanh nghiệp khác. Khoảng cách giữa các khu vực này phải đủ gần để doanh
nghiệp khác có thể tham gia phân phối sản phẩm liên quan trên khu vực địa lý của
doanh nghiệp đang bị điều tra. Thông thường sự cách biệt về mặt địa lý sẽ dẫn đến
hình thành giữa các khu vực những khác biệt đáng kể. Và điều này sẽ tạo ra sự cách
biệt lớn về điều kiện cạnh tranh. Vì vậy, để được xem là có “liên quan” địi hỏi điều
kiện cạnh tranh trong các khu vực này phải tương tự nhau và so với khu vực khác
thì nó phải tạo ra sự khác biệt đáng kể. Theo các nhà làm luật để đáp ứng điều kiện
này thì giữa những khu vực phải thỏa mãn điều kiện : (i)chi phí vận chuyển và thời
gian vận chuyển làm giá bán lẻ hàng hóa khơng tăng quá 10% ; hoặc là (ii) có sự
hiện diện của một trong các rào cản (rào cản pháp lý, rào cản tài chính, rào cản thuế
quan, rào cản tập quán…). ( Khoản 7 Điều 3 Nghị định 116/2005/NĐ-CP)
Những điều kiện mà luật đưa ra nhằm đảm bảo các sản phẩm ở trong các khu
vực này có thể thay thế cho nhau, tức là có khả năng cạnh tranh với nhau. Suy cho
cùng, để được xem là có khả năng thay thế cho nhau tức là các sản phẩm phải nằm

trong sự lựa chọn của khách hàng khi tìm sản phẩm đáp ứng cho cùng một nhu cầu.
Nếu một sự cách biệt quá lớn về mặt địa lý thì sẽ làm tăng chi phí, thời gian
và ảnh hưởng đến sự thay đổi đáng kể giá cả của hàng hóa tương tự. Theo các nhà
lập pháp mức giá chênh lệch trên 10% được xem là đáng kể. Mức đáng kể này sẽ
loại trừ sản phẩm ra khỏi khả năng lựa chọn của khách hàng khi tìm sản phẩm thay

- 15 -


Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

thế. Các sản phẩm sẽ khơng được xem là có cạnh tranh với nhau vì khơng có chung
điều kiện về cạnh tranh. Yếu tố địa lý lúc này đã loại trừ tính cạnh tranh của sản
phẩm tương tự.
Một khả năng làm cản trở việc cạnh tranh của hàng hóa tương tự là trong khu
vực địa lý liên quan tồn tại những rào cản gia nhập (rào cản pháp lý, rào cản tài
chính, rào cản thuế quan, rào cản tập quán… ). Nếu trong khu vực địa lý liên quan
tồn tại những rào cản này sẽ khiến cho hàng hóa tương tự ở khu vực địa lý khác
không thể xâm nhập vào khu vực thị trường này. Vì vậy, việc khách hàng lựa chọn,
mua bán sản phẩm giữa khu vực địa lý này với khu vực địa lý khác sẽ không xảy ra.
c) Xác định các doanh nghiệp trên cùng một thị trường liên quan
Ngoài việc xác định khả năng thay thế về phía cầu (sản phẩm, khu vực địa
lý) cần phải xác định khả năng thay thế về cung. Đó là xác định có bao nhiêu doanh
nghiệp tham gia trên thị trường và thị phần của nó. Hồn thành bước này chúng ta
mới có thể đánh giá về cơ cấu thị trường và tạo cơ sở để tính thị phần của doanh
nghiệp đang bị xem xét.
Doanh nghiệp trên thị trường luôn phải chịu hai sức ép cạnh tranh một là các
doanh nghiệp đang hoạt động trên cùng thị trường với mình, một từ các doanh
nghiệp đang hoạt động trên thị trường khác nhưng có khả năng “nhảy” sang cạnh
tranh trên cùng thị trường. Quá trình xác định các doanh nghiệp trên cùng một thị

trường liên quan đòi hỏi phải xác định được tất cả những doanh nghiệp này, tức là
xác định các doanh nghiệp hiện có và các “doanh nghiệp tiềm tàng”. Các nhà làm
luật gọi các “doanh nghiệp tiềm tàng” này là khả năng thay thế về cung . Khả năng
thay thế về cung là khả năng của doanh nghiệp đang sản xuất, phân phối một hàng
hóa dịch vụ chuyển sang sản xuất phân phối hàng hóa, dịch vụ khác trong một
khoảng thời gian ngắn và khơng có sự tăng lên đáng kể về chi phí trong bối cảnh có
sự tăng lên về giá của hàng hóa, dịch vụ khác. (Điều 6 Nghị định số 116/2005/NĐCP)
Từ những phân tích trên có thể đi đến một số nhận xét sau:
Một là, “đoạn 35 của EC Market Guidelines có nhấn mạnh: Xác định thị
trường khơng phải là một q trình trừu tượng hay cứng nhắc mà là việc phân tích
bất kỳ bằng chứng của những hành vi diễn ra trên thị trường và việc tìm hiểu những
gì đang diễn ra trong một ngành sản xuất kinh doanh” 14. Thị trường bao giờ cũng
trong trạng thái động vì vậy những cách thức xác định thị trường liên quan không
thể là những công thức cứng nhắc mà cần linh động theo diễn biến thị trường. Trên
cơ sở này, có thể nói các nhà làm luật đã cố gắng tìm những cách thức để xác định
thị trường dựa trên những dự liệu về biến động trên thị trường (chẳng hạn khoản 6
Điều 4, Điều 5, Điều 8 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP). Những quy định này đã

14

/>
- 16 -


Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

góp phần tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho cơ quan cạnh tranh khi xác định thị trường
liên quan trong bối cảnh phức tạp của thị trường kinh tế.
Hai là, khái niệm thị trường liên quan còn rất mới lạ đối với Việt Nam chúng
ta. Các khái niệm về thị trường quen thuộc trong quan niệm của chúng ta thường

gắn với một địa bàn cụ thể, một ngành, nghề hoặc một lĩnh vực nào đó mà khơng
phải là thị trường liên quan theo pháp luật cạnh tranh. Đồng thời, phạm vi thị trường
liên quan rất dễ biến đổi theo từng vụ việc cụ thể và trong từng thời điểm nhất định.
Nó có thể là phạm vi của một sản phẩm nào đó, một khâu nào đó trong q trình sản
xuất kinh doanh và có thể chỉ nằm ở một khu vực địa lý cụ thể nào đó nhưng cũng
có thể nằm trên khu vực địa lý rộng lớn hơn. Việc xác định thị trường liên quan là
một công việc phức tạp địi hỏi cán bộ điều tra phải đảm bảo trình độ chun mơn,
sự nhạy bén để có thể tìm kiếm, tính tốn chính xác những thơng số trên thị trường
và tổng hợp, phân tích những dữ liệu để đưa ra đánh giá đúng đắn. Do vậy, việc
hiểu và xác định thị trường liên quan trên thực tế không phải là công việc dễ dàng.
1.1.2.2 Các căn cứ để xác định vị trí thống lĩnh
Theo kinh tế học, “quyền lực thị trường” của doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh thị trường thể hiện mức độ kiểm soát thị trường của doanh nghiệp hay nhóm
doanh nghiệp đó15. Như vậy, quyền lực thị trường của doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh được thể hiện qua khả năng kiểm soát thị trường của doanh nghiệp đó. Theo
các nhà làm luật Việt Nam, khả năng này được xác định dựa trên các căn cứ: thị
phần, khả năng năng gây hạn chế cạnh tranh đáng kể…Tùy thuộc vị trí thống lĩnh
thị trường do một doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp nắm giữ mà các căn cứ xác
định được quy định cụ thể như sau.
(1) Vị trí thống lĩnh thị trường của một doanh nghiệp
Vị trí thống lĩnh thị trường của một doanh nghiệp được quy định:
“Doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị phần từ
30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây ra hạn chế cạnh tranh
một cách đáng kể”(Điều 11- Luật cạnh tranh 2004).
Như vậy theo quy định của Luật cạnh tranh, khi xem xét vị trí thống lĩnh của
một doanh nghiệp sẽ dựa trên thị phần hoặc dựa vào khả năng gây hạn chế cạnh
tranh của doanh nghiệp đó.
a) Căn cứ về thị phần
Thị phần là thước đo thị trường quan trọng để đánh giá sự thành công, lớn
mạnh của doanh nghiệp và là một trong những tiêu chí quan trọng để xác định vai

trị của doanh nghiệp trên thị trường. Vì vậy, theo cách nhìn nhận của các nhà làm
luật, thị phần là căn cứ quan trọng để xác định vị trí thống lĩnh của một doanh
nghiệp.

15

Paul A . Samuelson, Willam D. Nordhalls, tlđd, tr. 350.

- 17 -


Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

Theo quy định tại Khoản 5 Điều 3 Luật cạnh tranh 2004 thì thị phần của
doanh nghiệp đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định là tỷ lệ phần trăm giữa
doanh thu bán ra của doanh nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả các doanh
nghiệp kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc tỷ lệ
phần trăm giữa doanh số mua vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số mua
vào của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị
trường liên quan theo tháng, quý, năm.
Doanh nghiệp khi chiếm được thị phần đáng kể trên thị trường thì sẽ được
xem là có vị trí thống lĩnh. Mức “đáng kể” này được xác định bằng một con số cụ
thể và phụ thuộc vào ý chí nhà làm luật của mỗi nước. Bởi vì, quy mơ nền kinh tế
và số lượng các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ của mỗi nước là khác nhau. Do đó,
nếu việc tính tốn thị phần khơng cẩn thận sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp. Ngưỡng thị phần q lớn thì sẽ thu hẹp quyền kiểm
sốt của cơ quan cạnh tranh đối với doanh nghiệp. Ngưỡng thị phần quá nhỏ sẽ làm
hạn chế các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Ở Việt Nam, ngưỡng thị phần để xác định vị trí thống lĩnh của một doanh
nghiệp là 30%. So với một số nước khác ngưỡng thị phần được xác định như sau:

tại Đức, ít nhất một công ty chiếm tới 1/3 lượng hàng hóa, dịch vụ và doanh thu, ít
nhất 259 triệu DM vào năm kinh doanh liền kề; tại Ba Lan, một cơng ty có vị trí
thống lĩnh khi thị phần của nó vượt q 40%; tại Cộng hịa Séc và Bồ Đào Nha là
30% thị phần; Luật Mông Cổ và Ucraina cho rằng vị trí thống lĩnh xuất hiện khi
một cơng ty chiếm trên 50% mức cung ứng một mặt hàng hoặc dịch vụ nào đó16.
Theo các nhà làm luật Việt Nam, việc qui định mức thị phần 30% như hiện
nay là dựa trên cơ sở thực tiễn thị trường Việt Nam. “Trong điều kiện cạnh tranh
của Việt Nam hiện nay có đến 96% doanh nghiệp tham gia kinh doanh là doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Do đó, số doanh nghiệp có được thị phần từ 30% trở lên không
phải là nhiều. Hơn nữa các văn bản pháp luật tương ứng như Pháp lệnh bưu chính
viễn thơng cũng đang sử dụng ngưỡng thị phần 30% để xác định doanh nghiệp viễn
thơng có vị trí thống lĩnh”17.
Tuy nhiên, có thể nhận thấy trong pháp luật của hầu hết các nước thị phần
không phải là căn cứ duy nhất để xác định một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh.
Chẳng hạn tại Estonia “vị trí thống lĩnh là nắm giữ ít nhất 40% doanh thu trên thị
trường liên quan hoặc có vị trí có thể hoạt động trên thị trường với những đối thủ
cạnh tranh, các nhà cung cấp và những người mua độc lập có thể đánh giá được” 18.
Ở Việt Nam, các nhà làm luật còn xem xét đến khả năng gây hạn chế cạnh tranh

16

Tổ chức Thương mại và phát triển Liên Hợp Quốc, tlđd, tr.51-53.
Nguyễn Như Phát, Nguyễn Ngọc Sơn , tlđd, tr.43; Bộ Thương mại, Báo cáo giải trình tiếp thu ý kiến của
đại biểu Quốc hội về Dự thảo Luật cạnh tranh, H. 2004.
18
Tổ chức Thương mại và phát triển Liên Hợp Quốc, tlđd, tr. 53.
17

- 18 -



Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

đáng kể của doanh nghiệp để xác định vị trí thống lĩnh thị trường nếu doanh nghiệp
có thị phần dưới 30%.
b) Khả năng gây hạn chế cạnh tranh đáng kể
Ở Việt Nam, khả năng này chỉ được xem xét khi một doanh nghiệp có thị phần
dưới 30%. Doanh nghiệp nếu khơng đáp ứng đủ 30% thị phần thì vẫn có thể được
xem là có vị trí thống lĩnh nếu có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng
kể dựa vào các yếu tố sau:
1. Năng lực tài chính của doanh nghiệp.
2. Năng lực tài chính của tổ chức kinh tế, cá nhân thành lập doanh nghiệp.
3. Năng lực tài chính của tổ chức, cá nhân có quyền kiểm sốt hoặc chi phối
hoạt động của của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của
doanh nghiệp.
4. Năng lực tài chính của cơng ty mẹ.
5. Năng lực cơng nghệ.
6. Quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp.
7. Quy mô của mạng lưới phân phối.
8. Các căn cứ khác mà cơ quan cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh cho là phù
hợp.
(Điều 22 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP)
Như vậy, nếu kết quả điều tra cho thấy một doanh nghiệp tuy không đủ mức
thị phần 30% nhưng dựa vào một hoặc một trong các yếu tố kể trên cho thấy doanh
nghiệp có khả năng gây hạn chế cạnh tranh đáng kể thì cơ quan có thẩm quyền có
thể đưa ra kết luận doanh nghiệp đó có vị trí thống lĩnh.
Thứ nhất, những căn cứ trên cho thấy doanh nghiệp tuy khơng có sức mạnh
về thị phần nhưng có thể có những sức mạnh vượt trội khác như : sức mạnh về tài
chính, sức mạnh về cơng nghệ, quy mơ mạng lưới phân phối… Chính những sức
mạnh trên sẽ tạo nên ưu thế nhất định cho doanh nghiệp khi thực hiện các hoạt động

kinh doanh. Ở nước ngoài đã xuất hiện trường hợp này. Chẳng hạn, trong vụ United
Brand, Tịa án Cộng đồng Châu Âu đã phán quyết cơng ty này có phạm vi liên kết
dọc lớn đảm bảo cho công ty một lượng khách hàng ổn định và cơng ty đã kiểm
sốt được mọi giá cả của q trình phân phối, qua đó đã tạo cho cơng ty một lợi thế
vô cùng to lớn so với đối thủ cạnh tranh19. Mặt khác, ta cũng thấy rằng, trong một
nền kinh tế thị trường, việc xuất hiện những công ty mới thơng qua q trình đầu tư,
mở rộng quy mơ của các tập đồn tài chính mạnh ở nước ngồi cũng như ở trong
19

Tổ chức Thương mại và phát triển Liên Hợp Quốc, tlđd, tr.54.

- 19 -


Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

nước khơng phải là ít. Các cơng ty con này khi mới xuất hiện trên thị trường tuy
không nắm giữ mức thị phần lớn nhưng có được hỗ trợ vững vàng về tài chính và cả
cơng nghệ kỹ thuật tiên tiến của công ty mẹ. Điều này đã tạo nên lợi thế cho các
công ty này trong cuộc chiến giành thị phần. Đây cũng là cơ sở cho thấy việc các
công ty này giành thị phần thống lĩnh trong tương lai là điều hồn tồn có thể.
Thứ hai, luật khơng quy định những thông số thật cụ thể để xác định những
yếu tố nói trên. Điều này sẽ gây mơ hồ trong quá trình điều tra xác định những căn
cứ mà Nghị định đã nêu . Nhưng ngược lại, quy định này sẽ giúp cho việc điều tra
được linh hoạt. Bởi vì kinh tế luôn là một “thực thể sống”, chúng ta khơng thể lấy
một con số “chết” để kiểm sốt nó. “Trong một môi trường kinh tế thay đổi năng
động, một con số toán học tĩnh nhằm định nghĩa sự thống lĩnh có thể là một điều sai
lầm”20. Nhưng có một số nhận xét cho rằng, quy định như vậy sẽ tạo thẩm quyền
quá lớn cho cơ quan cạnh tranh, dễ dẫn đến sự tùy tiện và chủ quan. Thiết nghĩ cơ
quan cạnh tranh cần phối hợp hoạt động với các cơ quan chun mơn trong mỗi

nghành để xác định chính xác, khách quan những thông số tiêu chuẩn cho mỗi
ngành.
Như vậy, một doanh nghiệp được xem là có vị trí thống lĩnh trên thị trường
khi: (1) doanh nghiệp có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan; hoặc (2)
doanh nghiệp tuy có thị phần dưới 30% nhưng có khả năng gây hạn chế cạnh tranh
một cách đáng kể.
Thơng qua việc phân tích trên có thể nhận thấy :
Pháp luật cạnh tranh Việt Nam xem thị phần là tiêu chí đủ để có thể
cho kết luận về vị trí thống lĩnh thị trường của mơt doanh nghiệp. Trong khi đó một
số nước cho rằng tiêu chuẩn về thị phần là chưa đủ. Chẳng hạn, pháp luật của Hoa
Kỳ quy định các yếu tố khác được tòa án xem xét thêm bao gồm: sự hiện diện và
mức độ ngăn cản việc gia nhập hoặc mở rộng thị trường, quy mô tương xứng của
đối thủ cạnh tranh, hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh, xu hướng và các
hành vi định giá, tính tương tự của sản phẩm, sự cạnh tranh tiềm năng và sự ổn định
của thị phần qua thời gian21. Luật cạnh tranh Ấn Độ thì quy định vị trí thống lĩnh
cho phép doanh nghiệp: (i) hoạt động độc lập với các lực lượng cạnh tranh khác áp
đảo trên thị trường ; hoặc (ii) gây ảnh hưởng đối với các đối thủ cạnh tranh và người
tiêu dùng hoặc thị trường có liên quan theo mong muốn của doanh nghiệp đó. Ủy
ban cạnh tranh Ấn Độ khi điều tra liệu một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hay
không phải xem xét từng hoặc tất cả các yếu tố trên”22. Như vậy pháp luật của Hoa
Kỳ và Ấn Độ đều cho rằng việc xem xét một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hay
khơng phải trên cơ sở xem xét kết hợp nhiều tiêu chí với nhau. Vậy có nên kết hợp
20

Cục Quản lý cạnh tranh (2005), “Kiểm soát những hành vi hạn chế cạnh tranh”, Hội thảo đóng góp ý kiến
vào dự thảo nghị định hướng dẫn thi hành luật cạnh tranh,Tài liệu hội thảo.
21
Tổ chức Thương mại và phát triển Liên Hợp Quốc (2001), Hội thảo về Luật cạnh tranh, tr.52.
22
Tổ chức Thương mại và phát triển Liên Hợp Quốc, tlđd, tr.51.


- 20 -


Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

nhiều yếu tố khác nhau để xem xét vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp hay
không? Xung quanh vấn đề này trong hội thảo pháp luật về cạnh tranh đã có hai
quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng nếu khơng kết hợp nhiều tiêu
chí khác thì trong một số trường hợp nếu chỉ dựa vào tiêu chí thị phần để xác định
sẽ không phù hợp lắm với hiện thực kinh tế thậm chí là khơng tính đến hiện thực
kinh tế. Chẳng hạn một doanh nghiệp chiếm 31% thị phần cịn đối thủ cạnh tranh
của nó chiếm tới 28%; theo tiêu chí thì doanh nghiệp thứ nhất chiếm vị trí thống
lĩnh cịn doanh nghiệp thứ hai thì khơng trong khi khoảng cách thị phần của hai
doanh nghiệp chỉ là 3% và như vậy có hợp lý khơng ? Do đó chúng ta nên xem xét
những tiêu chí khác để đánh giá xem thực chất doanh nghiệp chiếm 31% thị phần có
phải là chiếm vị trí thống lĩnh hay khơng . Quan điểm thứ hai cho rằng nếu thêm cả
tiêu chí khác thì việc xác định vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp hoàn toàn thuộc
thẩm quyền của cơ quan cạnh tranh và vì thế sẽ dễ dẫn đến lạm quyền, đồng thời có
rất ít tiêu chí rõ ràng khác ngồi tiêu chí thị phần đo đó sẽ dẫn đến việc xác định gặp
phải nhiều khó khăn23. Như vậy, vấn đề ở đây là nếu quy định để có thể đảm bảo
bao quát tất cả các trường hợp một cách tuyệt đối thì sẽ dẫn đến việc xác định các
căn cứ rất rộng và rất khó cho việc điều tra xác định trên thực tế. Để đáp ứng được
yêu cầu này địi hỏi cơ quan cạnh tranh phải kiểm sốt, nắm được chính xác thơng
tin trên thị trường và từ phía các doanh nghiệp, q trình điều tra, phân tích, tổng
hợp thông tin phải diễn ra khách quan đúng quy chuẩn và cán bộ điều tra phải có
trình độ năng lực chuyên môn cao để đánh giá đúng thực tế. Xét một cách cụ thể
trên thị trường Việt Nam hiện nay thì việc đảm bảo tất cả các yêu cầu trên là rất
khó. Có thể thấy rằng quy định hiện nay tuy khơng phản ánh đầy đủ về vị trí thống
lĩnh nhưng phù hợp với tình hình hiện nay của chúng ta hơn. Nên chăng sau một

thời gian thực thi và có đủ kinh nghiệm thực tiễn chúng ta sẽ thực hiện bổ sung
thêm các tiêu chí khác trong q trình xác định vị trí thống lĩnh.
(2) Vị trí thống lĩnh thị trường của nhóm doanh nghiệp
Vị trí thống lĩnh thị trường của nhóm doanh nghiệp được quy định tại Điều
11 Luật cạnh tranh 2004 như sau:
Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành
động nhằm gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể và thuộc một trong các
trường hợp sau:
a)hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên
quan;
b)ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị trường liên quan;
c)bốn doanh nghiệp có tổng thị phần tử 75% trở lên trên thị trường liên
quan.

23

Nhà Pháp luật Việt-Pháp, tlđd, tr.29-32.

- 21 -


Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

Căn cứ vào quy định, vị trí thống lĩnh thị trường của nhóm doanh nghiệp sẽ
được xem xét dựa vào ý chí hành động và mức độ thị phần. Do vậy, để xác định vị
trí thống lĩnh của một nhóm doanh nghiệp phải thỏa mãn cả hai căn cứ sau: (1) tổng
thị phần của các doanh nghiệp phải đạt ở các mức sau: hai doanh nghiệp từ 50% trở
lên, ba doanh nghiệp từ 65% trở lên, 4 doanh nghiệp từ 70% trở lên; (2) các doanh
nghiệp trong nhóm cùng hành động thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh;
a) Căn cứ thị phần

Có thể nhận thấy, theo quy định tại Điều 11 của Luật cạnh tranh 2004, vai trò
của căn cứ thị phần là khác nhau trong việc xác định vị trí thống lĩnh giữa một
doanh nghiệp và một nhóm doanh nghiệp. Trong việc xác định vị trí thống lĩnh của
một doanh nghiệp, chỉ cần đáp ứng được quy định về thị phần thì đã đủ kết luận vị
trí thống lĩnh của một doanh nghiệp. Trong khi đó, đáp ứng được yêu cầu về thị
phần chỉ là một điều kiện cần để kết luận về vị trí thống lĩnh của một nhóm doanh
nghiệp. Theo đó, nhóm doanh nghiệp phải đáp ứng mức thị phần sau tùy theo số
lượng các doanh nghiệp trong nhóm: hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở
lên trên thị trường liên quan; ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên
thị trường liên quan; bốn doanh nghiệp có tổng thị phần tử 75% trở lên trên thị
trường liên quan.
Đối với nhóm doanh nghiệp nắm giữ vị trí thống lĩnh, Luật cạnh tranh giới
hạn số lượng là bốn. Kinh nghiệm lập pháp một số nước cho thấy, việc giới hạn số
lương doanh nghiệp trong nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh như sau: pháp
luật cạnh tranh của Đức quy định tối đa là 5 doanh nghiệp 24, pháp luật cạnh tranh
của Hàn Quốc quy định tối đa là 3 doanh nghiệp 25, Luật bảo vệ cạnh tranh của
Croatia quy định tối đa là 5 doanh nghiệp 26. Như vậy, việc ấn định số lượng doanh
nghiệp tối đa trong nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh là tùy thuộc quan điểm
mỗi nước nhưng có thể nhận thấy con số này tối đa là 5 doanh nghiệp.
Giải thích về điều này dưới góc độ kinh tế, có thể nhận thấy như sau: “khi thị
trường có lượng doanh nghiệp đáng kể (từ 5 trở lên) cùng tham gia sản xuất kinh
doanh một loại hàng hóa, dịch vụ thì đã đủ để hình thành cơ cấu thị trường có tính
cạnh tranh”27. Như vậy, nếu có năm doanh nghiệp trở lên thì hoạt động của các
doanh nghiệp này đã tạo nên một thị trường và các doanh nghiệp này được xem là
các cá thể hoạt động riêng lẻ mà khơng phải là một nhóm đang hoạt động trong một
thị trường. Đồng thời, nếu với một số lượng nhiều - hơn 5 doanh nghiệp có tổng thị
phần đáng kể cùng hành động như vậy thì chứng tỏ đây là một nhu cầu thực chất và

24


Tổ chức Thương mại và phát triển Liên Hợp Quốc, tlđd, tr.53.
Vụ pháp chế, tlđd, tr.212.
26
Vụ pháp chế, tlđd, tr.185.
27
Nguyễn Như Phát, Nguyễn Ngọc Sơn, tlđd, tr.46, Vụ công tác lập pháp (2005), Những nội dung cơ bản của
Luật cạnh tranh, NXB. Tư pháp, tr.30-31.
25

- 22 -


Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

cần thiết của các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh mà khơng phải là lạm
dụng vị trí thống lĩnh.
b) Các doanh nghiệp “cùng hành động” nhằm gây hạn chế cạnh tranh
Bên cạnh dấu hiệu thị phần còn phải đảm bảo các doanh nghiệp có dấu hiệu
“cùng hành động” thực hiện các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để hạn chế cạnh
tranh. Luật cạnh tranh 2004 cũng như Nghị định số 116/2005/NĐ-CP khơng có quy
định nào giải thích về dấu hiệu này.
Trong buổi hội thảo pháp luật về cạnh tranh, nhóm doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh được các nhà làm luật giải thích “giữa các doanh nghiệp này có tồn tại
những quan hệ về tài chính, về tổ chức hoặc có chung một chiến lược kinh doanh
thể hiện “ý chí cùng nhau” thực hiện một chính sách chung” 28. Theo đó, dấu hiệu
“cùng hành động” có thể được biểu hiện bằng những mối quan hệ quan hệ tài chính,
về tổ chức hoặc chiến lược kinh doanh…từ những biểu hiện này cho thấy giữa các
doanh nghiệp có “ý chí cùng nhau” thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh. Những
dấu hiệu này cho thấy có thể giữa các doanh nghiệp có thỏa thuận ngầm với nhau để
cùng hành động. Căn cứ vào quy định về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tại

Điều 19 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP thì “thỏa thuận ngăn cản kìm hãm khơng
cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh là việc thống
nhất không giao dịch với doanh nghiệp khác hoặc cùng hành động…”. Dựa vào quy
định này có thể thấy dấu hiệu cùng hành động ở đây cũng được xem là một biểu
hiện của thỏa thuận. Những điều trên có thể gây nhầm lẫn cho việc xác định hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh để hạn chế cạnh tranh với hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh. Giải thích về điều này, có ý kiến cho rằng: hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh để hạn chế cạnh tranh của nhóm doanh nghiệp là việc các doanh nghiệp khơng
có sự thỏa thuận trước nhưng cùng nhau hành động, cùng nhau thực hiện hành vi
như bán hàng hóa, dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh,
áp đặt giá mua bán, dịch vụ bất hợp lý…Nếu nhóm doanh nghiệp có thỏa thuận
trước thì lại thuộc trường hợp thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm 29. Thế nhưng,
nếu xem xét hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để hạn chế cạnh tranh và hành vi
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thì ta thấy rằng thái độ của các nhà làm luật đối với
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh nghiêm khắc hơn hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh. Điều này được thể hiện thông qua những nguyên tắc mà các nhà làm luật áp
dụng khi xây dựng các quy định về hai hành vi này. Trong cách thức xây dựng các
quy định pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, các nhà làm luật áp dụng
nguyên tắc cấm có chọn lọc; trong khi đó, đối với hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
để hạn chế cạnh tranh, nguyên tắc cấm tuyệt đối được áp dụng. Ở nguyên tắc cấm
có chọn lọc, một số trường hợp nhất định hành vi vi phạm sẽ được xem xét miễn trừ
28
29

Nhà Pháp luật Việt-Pháp, tlđd, tr. 28.
/>
- 23 -


Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...


theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền cịn ở ngun tắc cấm tuyệt đối, không
áp dụng miễn trừ cho bất kỳ hành vi vi vi phạm nào. Như vậy, có thể thấy các nhà
làm luật xem hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng
hơn hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Thiết nghĩ, do tính nghiêm trọng hơn
của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để hạn chế cạnh tranh nên khi nhóm các
doanh nghiệp có đủ mức thị phần thống lĩnh theo quy định có dấu hiệu “cùng hành
động” thực hiện hành vi vi phạm thì nên dùng các quy định về hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh để hạn chế cạnh tranh điều chỉnh.
Tóm lại, theo quy định của pháp luật nước ta căn cứ để xác định vị trí thống
lĩnh của doanh nghiệp là như sau:
Đối với một doanh nghiệp, có hai căn cứ để xác định vị trí thống lĩnh thị
trường: (i) thị phần hoặc (ii) có khả năng gây hạn chế cạnh tranh khi khơng đáp ứng
được yêu cầu về thị phần. Như vậy, trong q trình điều tra để xác định vị trí thống
lĩnh thị trường của một doanh nghiệp, căn cứ thị phần sẽ được ưu tiên xem xét trước
rồi sau đó mới xem xét dựa vào khả năng gây hạn chế cạnh tranh đáng kể nếu thị
phần khơng đủ.
Đối với một nhóm doanh nghiệp, cũng có hai căn cứ để xem xét khi xác định
vị trí thống lĩnh thị trường: (i) thị phần và (ii) cùng hành động gây hạn chế cạnh
tranh. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra xác dịnh vị trí thống lĩnh thị trường của
nhóm doanh nghiệp, hai căn cứ này cần được xem xét cùng một lúc, cần phải đảm
bảo cả hai căn cứ đều thỏa mãn theo quy định của pháp luật.
1.1.3 Tác động của việc tồn tại các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
đối với nền kinh tế
Nhìn chung sự tồn tại của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường gây tác
động không nhỏ đối với thị trường. Tác động này được nhìn nhận ở cả hai mặt: tích
cực và tiêu cực.
Có quan điểm cho rằng hoạt động của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh đem
lại tính tích cực cho nền kinh tế. Bởi vì, lượng hàng hóa, dịch vụ do các doanh
nghiệp này sản xuất phân phối là nguồn cung, nguồn cầu chủ yếu để đảm bảo cho

thị trường. Thông qua việc tiến hành các giao dịch kinh doanh, doanh nghiệp này
tạo ra nhiều cơ hội hợp tác cho các doanh nghiệp khác trên thị trường để phát triển
hoạt động kinh doanh. Nhờ đó, nhu cầu của người sử dụng được đáp ứng và thị
trường luôn được vận hành.
Đồng thời, việc tạo ra một thị trường hiện đại có cơng khơng ít của các
doanh nghiệp nắm giữ vị trí thống lĩnh. Đối với hầu hết các doanh nghiệp này chi
phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu chi
phí chung của doanh nghiệp. Việc đầu tư các công nghệ mới của các doanh nghiệp
lớn chiếm 5% - 10% doanh thu trong khi đó ở các doanh nghiệp nhỏ chi phí này là

- 24 -


Những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh...

dưới 1% 30. Do đó thơng qua hoạt động này, những sản phẩm mới có chất lượng,
cơng nghệ hiện đại ln được tạo ra để phục vụ cho thị trường.
Tuy nhiên, sự tồn tại của các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
cũng có thể đem lại những tác động tiêu cực cho nền kinh tế.
Doanh nghiệp chiếm giữ vị trí thống lĩnh giữ vai trị là người nắm nguồn
cung nguồn cầu chủ yếu trên thị trường. Điều này cho thấy sự phụ thuộc rất lớn của
thị trường nói chung và của khách hàng, người tiêu dùng nói riêng vào doanh
nghiệp này. Nắm giữ trong tay lợi thế lớn như vậy, doanh nghiệp dễ dàng lạm dụng
vị trí thống lĩnh của mình để chi phối các quan hệ cung cầu, các điều kiện trong giao
dịch kinh doanh trên thị trường theo hướng có lợi cho doanh nghiệp. Điều đó sẽ gây
ảnh hưởng khơng nhỏ đến lợi ích các chủ thể tham gia trên thị trường và gây tổn hại
lớn cho nền kinh tế.
Dưới góc độ cạnh tranh, sự xuất hiện của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
tạo ra sự chênh lệch về tương quan cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường.
Khi tương quan giữa các lực lượng cạnh tranh khơng cân bằng thì hoạt động cạnh

tranh trên thị trường dễ bị biến dạng. Các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh để
giành thị phần, lợi nhuận; các hoạt động cản trở cạnh tranh để duy trì vị thế sẽ có
động lực để diễn ra. Từ đó khiến cho cạnh tranh trên thị trường khơng cịn mang ý
nghĩa tích cực hoặc bị hạn chế. Cạnh tranh vốn là động lực của nền kinh tế. Do vậy,
sự phát triển của nền kinh tế quốc gia sẽ bị đe dọa bởi vì động lực để phát triển kinh
tế đã bị doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh cản trở, xâm phạm.
1.3 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG
LĨNH THỊ TRƯỜNG ĐỂ HẠN CHẾ CẠNH TRANH
1.3.1 Khái niệm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh
tranh
Dưới góc độ pháp lý, pháp luật cạnh tranh nước ta không đưa ra khái niệm
thế nào là nào là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để hạn chế cạnh tranh mà chỉ liệt
kê, mô tả từng hành vi cụ thể. Căn cứ theo Khoản 3 Điều 3 Luật cạnh tranh 2004 thì
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh là một trong những hành vi hạn chế cạnh tranh.
Theo đó, hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai
lệch cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung
kinh tế (Khoản 3 Điều 3 Luật cạnh tranh 2004). Cách tiếp cận của của luật đối với
hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh
tế cũng tương tự như hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để hạn chế cạnh tranh. Tức

30

/>
- 25 -


×