Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Pháp luật chống hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 59 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI

---------

VÕ THỊ MINH TRANG

PHÁP LUẬT CHỐNG HÀNH VI SỬ DỤNG GIÁ
ĐỂ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thƣơng mại

TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2014


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

PHÁP LUẬT CHỐNG HÀNH VI SỬ DỤNG GIÁ
ĐỂ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

SINH VIÊN THỰC HIỆN: VÕ THỊ MINH TRANG
Khóa: 35

MSSV: 1055010301

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. TRẦN HỒNG NGA


TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận là cơng trình nghiên cứu nghiêm túc của
riêng tơi dưới sự hướng dẫn tận tình của TS. Trần Hồng Nga, mọi ý kiến,
quan điểm khoa học đều được trích dẫn một cách trung thực, chính xác.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả khóa luận

Võ Thị Minh Trang


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Viết đầy đủ

Viết tắt

Luật Cạnh tranh 2004

LCT 2004

Luật Doanh nghiệp 2005

LDN 2005

Luật Quảng cáo 2012


LQC 2012

Luật Thương mại 2005

LTM 2005


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIÁ VÀ SỬ DỤNG GIÁ ĐỂ
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH .................................................... 5
1.1.

Giá .................................................................................................................. 5

1.1.1. Khái niệm giá và các nhân tố ảnh hưởng đến giá .......................................... 5
1.1.2. Sự tác động của giá đến thị trường ................................................................ 8
1.2. Sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh ................................................ 10
1.2.1. Khái niệm ...................................................................................................... 10
1.2.2. Đặc điểm ....................................................................................................... 12
1.2.3. Sự tác động của hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh đến thị
trường ............................................................................................................ 16
1.3. Khái quát về hệ thống pháp luật Việt Nam điều chỉnh hành vi sử dụng giá để
cạnh tranh không lành mạnh ......................................................................... 17
1.3.1. Luật Cạnh tranh 2004 .................................................................................... 17
1.3.2. Luật Giá 2012 ................................................................................................ 18
1.3.3. Mối quan hệ giữa Luật Cạnh tranh và Luật Giá trong chống sử dụng giá để
cạnh tranh không lành mạnh ......................................................................... 19
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ....................................................................................... 20
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CHỐNG CÁC HÀNH VI SỬ DỤNG GIÁ ĐỂ

CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ KIẾN NGHỊ .............................. 21
2.1. Các hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh................................. 21
2.1.1. Hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh được quy định trong
Luật Cạnh tranh 2004 ............................................................................................... 21
2.1.1.1. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh ........................................... 21
2.1.1.2. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh......................................... 28
2.1.2. Các hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh theo Điều 10 Luật
Giá 2012 ................................................................................................................... 34
2.1.2.1. Bịa đặt, loan tin, đưa tin khơng đúng về giá hàng hóa, dịch vụ .................. 34
2.1.2.2. Gian lận về giá bằng cách cố ý thay đổi các nội dung đã cam kết mà không
thông báo trước với khách hàng về thời gian, địa điểm, điều kiện mua bán, chất
lượng hàng hóa, dịch vụ tại thời điểm giao hàng, cung ứng dịch vụ ....................... 37


2.1.2.3. Lợi dụng khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa, hỏa hoạn, dịch bệnh và
điều kiện bất thường khác; lợi dụng chính sách của Nhà nước để định giá mua, giá
bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý ............................................................................. 40
2.2. Xử lý hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh.............................. 44
2.2.1. Đối với hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh trong Luật Cạnh
tranh 2004 ................................................................................................................. 44
2.2.2. Đối với hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh trong Luật Giá
2012 .......................................................................................................................... 48

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ..............................................................................48
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 50


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua hơn 25 năm đổi mới đất nước theo cơ chế kinh tế thị trường, nước ta đã

có những bước tiến đáng kể về mọi mặt. “Kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, cơ
cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản
xuất với thị trường”1, đời sống dân cư được cải thiện rõ rệt. Trên nền kinh tế thị
trường, quan hệ cung cầu, quan hệ cạnh tranh hình thành một cách khách quan, tất
yếu. Trong đó, quan hệ cạnh tranh đóng một vai trò hết sức to lớn.
Cạnh tranh lành mạnh tạo ra một mơi trường kinh doanh mà ở đó người tiêu
dùng được tự do lựa chọn sản phẩm của doanh nghiệp dựa trên chất lượng, giá cả và
thị hiếu. Điều này kích thích doanh nghiệp cải tiến nâng cao năng suất, chất lượng
để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, qua đó làm động lực phát triển kinh tế, xã hội.
Đây là mặt tích cực to lớn của cạnh tranh. Tuy nhiên, với sự gia tăng của số lượng
doanh nghiệp và ngành hàng cộng với sự khốc liệt của thị trường, các chủ thể kinh
doanh có xu hướng dần bóp méo đi mặt tích cực của cạnh tranh. Họ khơng sử dụng
những phương thức cạnh tranh lành mạnh như cải tiến kỹ thuật, mở rộng quy mô
sản xuất, đổi mới mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm mà lại sử dụng những thủ đoạn,
công cụ không lành mạnh. Và công cụ hữu hiệu, phổ biến nhất được các doanh
nghiệp sử dụng để cạnh tranh là giá cả.
Trong nền kinh tế thị trường, giá cả có vai trị hết sức quan trọng cho cả
người tiêu dùng, doanh nghiệp lẫn Nhà nước. Giá cả có vai trị định hướng tiêu
dùng, là cơng cụ để tối ưu hóa lợi nhuận của các doanh nghiệp. Do đó, việc quản lý
tốt giá cả sẽ góp phần đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy phát
triển kinh tế. Luật Giá số 11/2012/QH13 có hiệu lực ngày 1 tháng 1 năm 2013 (sau
đây viết tắt là Luật Giá 2012) cùng với Nghị định 109/2013/NĐ-CP của Chính phủ
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lí giá, phí, lệ phí, hóa
đơn (sau đây viết tắt là Nghị định 109/2013/NĐ-CP) ra đời là cơ sở pháp lý cho Nhà
nước trong việc quản lý giá. Pháp luật Giá cùng với pháp luật cạnh tranh là cơ sở để
chống lại những hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, với
diễn biến ngày càng phức tạp của các hành vi sử dụng giá để cạnh tranh khơng lành
mạnh thì những quy định này vẫn còn tồn tại một số bất cập. Thực tế cho thấy
1


Đỗ Thị Thảo, Nguyễn Thị Phong Lan (2013), “Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của

Việt Nam từ khi đổi mới đến nay”, Báo điện tử Tạp chí cộng sản,
moi/2013/21694/Nhung-thanh-tuu-co-banve-phat-trien-kinh-te-xa.aspx, truy cập lần cuối ngày 18/7/2014.

1


doanh nghiệp sử dụng thủ đoạn ngày càng tinh vi nhằm che mắt các cơ quan Nhà
nước, lợi dụng những sơ hở của pháp luật để trục lợi nhưng không bị xử lý.
Chính vì những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Pháp luật chống hành vi sử
dụng giá để cạnh tranh khơng lành mạnh” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Qua tìm hiểu của tác giả thì cho đến thời điểm hiện nay, liên quan đến vấn đề
các hành vi cạnh tranh về giá trong Luật Cạnh tranh, đã có ba cơng trình nghiên cứu
ở cấp độ cử nhân của ba tác giả Cao Huyền Trang (2010), “Các hành vi cạnh tranh
về giá nhằm hạn chế cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn”, Trần Hồ Quỳnh Trang (2008), “Các hành vi cạnh tranh về giá trong Luật
Cạnh tranh – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Đoàn Thanh Hiền (2006), “Các
hành vi cạnh tranh về giá trong Luật Cạnh tranh – Lý luận và thực tiễn”. Tuy cách
tiếp cận của các tác giả là khác nhau nhưng chủ yếu cũng tập trung vào các hành vi
cạnh tranh về giá trong Luật Cạnh tranh 2004 (sau đây viết tắt là LCT 2004). Có hai
cơng trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến việc sử dụng giá cả để cạnh tranh
khơng lành mạnh. Đó là đề tài khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Mỹ Thuận
(2013), “Mối quan hệ giữa Luật Giá 2012 và các quy định liên quan đến việc sử
dụng giá để cạnh tranh trong Luật Cạnh tranh 2004” và đề tài khóa luận của Ngơ
Thị Mai Hịa (2005), “Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
giá cả - Thực trạng và hướng hồn thiện”.
Trong đó, đề tài của tác giả Mỹ Thuận tập trung phân tích một số hành vi sử
dụng giá để cạnh tranh trong LCT, từ đó tìm ra các mối liên hệ trong Luật Giá 2012

với vấn đề cạnh tranh về giá trong LCT. Như vậy, đề tài này có tập trung nghiên cứu
cả những hành vi sử dụng giá để cạnh tranh trong Luật Giá 2012 nhưng phạm vi
nghiên cứu vẫn rộng hơn đề tài của tác giả. Vì đề tài này phân tích cả những hành vi
sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh và để hạn chế cạnh tranh trong LCT.
Khóa luận của tác giả Mai Hòa viết vào năm 2005 nghiên cứu các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực giá cả. Thời điểm này LCT 2004 đã có
hiệu lực pháp luật nhưng Luật Giá 2012 lại chưa ra đời, mà mới chỉ có Pháp lệnh
giá 2002. Do Luật Giá đã bỏ một số quy định trong Pháp lệnh giá nên một số hành
vi mà khóa luận này đưa ra tuy có ý nghĩa trong giai đoạn chưa ban hành Luật Giá
nhưng lại khơng cịn phù hợp với thời điểm hiện tại.
Ngồi đề tài khóa luận trên, cũng chưa có bài viết hay sách nào chuyên sâu
về vấn đề pháp luật chống hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh.
2


3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật giá, pháp luật cạnh tranh
Việt Nam cùng với thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật, đề tài hướng đến
giải quyết những vấn đề sau:
- Đề tài phân tích các hành vi sử dụng giá để cạnh tranh khơng lành mạnh, qua đó
giúp người đọc nhận thức được tầm quan trọng cũng như thấy được mặt tích cực và
hạn chế của các quy định điều chỉnh hành vi này trên thực tế.
- Đề tài nêu và phân tích thực trạng của pháp luật về chống sử dụng giá để cạnh
tranh không lành mạnh, qua đó kiến nghị và đưa ra những giải pháp cho việc hoàn
thiện pháp luật điều chỉnh hành vi này.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu lý luận về khái niệm, đặc điểm, sự tác động đến
thị trường của hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh cũng như hiệu
quả điều chỉnh các hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh trong thực
tiễn của Luật Giá 2012 và LCT 2004 thông qua phân tích các qui định cụ thể trong

các văn bản pháp luật có liên quan, nghiên cứu và bình luận các bài viết trên các tạp
chí khoa học, các bài báo điện tử và báo cáo hoạt động của Cục quản lý cạnh tranh.
5. Phạm vi nghiên cứu
Sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh biểu hiện rất đa dạng dưới
những hành vi và cách thức khác nhau. Do đó, chúng cũng được quy định rải rác
trong nhiều văn bản khác nhau. Ở đề tài này, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu các
hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh được quy định trong Luật Giá
2012 và LCT 2004. Ngoài ra đề tài cũng phân tích một số quy định có liên quan đến
hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh trong Luật Quảng cáo 2012 (sau
đây viết tắt là LQC 2012), Luật Thương mại 2005 (sau đây viết tắt là LTM 2005),
Nghị định 37/2006/NĐ-CP hướng dẫn hoạt động xúc tiến thương mại (sau đây viết
tắt là Nghị định 37/2006/NĐ-CP) và Nghị định 120/2005/NĐ-CP quy định về xử lý
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh (sau đây viết tắt là Nghị định
120/2005/NĐ-CP). Đề tài cũng đề cập các quan điểm trong những bài viết có liên
quan ở một số sách chuyên khảo, tạp chí khoa học. Những số liệu về thực trạng
trong khóa luận chủ yếu được tác giả tiếp cận trong vòng 5 năm trở lại đây và được
thu thập từ Báo cáo hoạt động Cục quản lý cạnh tranh và một số trang báo điện tử
của cơ quan Nhà nước như Tòa án, Cục quản lý cạnh tranh, trang điện tử Việt Báo,
Lao Động,…
3


6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở nền tảng của kinh tế học, lý luận Nhà nước và pháp luật, đề tài sử
dụng phương pháp phân tích, liệt kê, so sánh, tổng hợp và bình luận để giải quyết
nội dung đặt ra của đề tài.
Cụ thể: Tác giả sẽ sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích xuyên suốt từ
chương 1 đến chương 2 để làm sáng tỏ những nội dung thuộc về lý luận của giá cả
và các đặc điểm của từng hành vi sử dụng giá để cạnh tranh khơng lành mạnh. Khố
luận cũng sẽ liệt kê các hành vi cụ thể và tiến hành so sánh một số quy định của

Luật Giá 2012 với LCT 2004, đưa ra bình luận về một số quy định pháp luật và thực
tiễn của các hành vi. Trên nền tảng phân tích, so sánh đó, khố luận tổng hợp và đưa
ra một số kết luận, kiến nghị cho việc hoàn thiện pháp luật.
7. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài cung cấp những kiến thức lý luận cơ bản về các hành vi sử dụng giá để
cạnh tranh không lành mạnh, giúp người đọc hiểu rõ hơn bản chất của các hành vi
này, từ đó có cái nhìn đúng đắn về tính nguy hiểm của các hành vi sử dụng giá để
cạnh tranh không lành mạnh cũng như tầm quan trọng của các quy định của pháp
luật về vấn đề này. Đề tài sẽ là nguồn tham khảo cho những ai quan tâm khi nghiên
cứu chuyên sâu về các hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh cũng như
cho các doanh nghiệp khi nhận diện bản chất của từng hành vi để cân nhắc khi kinh
doanh và đưa ra những chiến lược kinh doanh hiệu quả trong khuôn khổ pháp luật,
đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng. Đề tài cũng rất hữu ích
cho người tiêu dùng khi tìm hiểu các quy định pháp luật để tự bảo vệ quyền lợi của
mình khi mua hàng hóa, dịch vụ. Cùng với đó, với việc nêu lên thực trạng và hướng
hồn thiện cho pháp luật về giá và cạnh tranh không lành mạnh về giá, đề tài sẽ là
tài liệu hữu ích cho các cơ quan Nhà nước trong việc hoàn thiện pháp luật, đảm bảo
cho việc thực thi pháp luật có hiệu quả.
8. Kết cấu của đề tài
- Lời nói đầu
- Chương 1: Lý luận chung về giá và sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh
- Chương 2: Thực trạng chống các hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành
mạnh và kiến nghị
- Kết luận
- Danh mục tài liệu tham khảo

4


CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIÁ VÀ SỬ DỤNG GIÁ ĐỂ

CẠNH TRANH KHƠNG LÀNH MẠNH
1.1.

Giá
“Giá cả là “địn bẩy” kinh tế trong cơ chế thị trường, được coi là một hệ

thống tín hiệu khách quan trên thị trường”2. Điều này thể hiện ở chức năng cũng
như những tác động to lớn của nó. Tìm hiểu và nắm vững những yếu tố lý luận về
giá có vai trị đối với việc hoạch định chính sách vĩ mơ của Nhà nước và chiến lược
kinh doanh của doanh nghiệp cũng như ảnh hưởng đến quyết định mua hàng của
người tiêu dùng.
1.1.1. Khái niệm giá và các nhân tố ảnh hƣởng đến giá
Bằng việc phân tích các phạm trù giá trị, K.Mark đã chỉ ra rằng: “Giá cả là
sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá”3. Giá cả ở đây là giá cả hàng hoá, là
mức giá mà được xã hội thừa nhận. “Giá trị hàng hoá là giá trị xã hội, được đo
bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hố, chứ khơng phải là
giá trị cá biệt của từng người sản xuất”4.
Như vậy, giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa và do
các yếu tố sau quyết định:
Thứ nhất, giá trị hàng hóa. Mỗi nhà sản xuất tùy theo năng lực, điều kiện
sản xuất, máy móc, thiết bị mà hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra mỗi
loại hàng hóa sẽ khác nhau. Trong cùng một sản phẩm với đặc tính, cơng dụng,...
tương tự nhau, thì người mua thường có xu hướng mua hàng với mức giá rẻ nhất.
Do đó, giá trị thị trường của một loại hàng hóa phải phản ánh chi phí sản xuất trung
bình của loại hàng hóa đó và là giá mà người mua có thể chấp nhận được. Trong
cạnh tranh về giá, doanh nghiệp muốn thu hút được nhiều khách hàng bằng cách bán
với giá rẻ thì phải làm cho hao phí thời gian lao động cá biệt của mình thấp hơn hao
phí thời gian lao động xã hội cần thiết. Muốn như vậy thì doanh nghiệp phải đổi mới
2


Ngơ Trí Long (2013), “Chính sách giá cả trong tái cơ cấu nền kinh tế”, Báo điện tử Thời báo kinh tế Việt
Nam, />truy cập lần cuối ngày 18/7/2014.
3
Dẫn theo Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Pháp Luật Cạnh tranh tại Việt Nam,
NXB Tư Pháp, Hà Nội, tr.16.
4

Bộ Tài Chính – Cục quản lý giá (2007), Tài liệu bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn nghiệp vụ thẩm định giá,

/>QFjAA&url=http%3A%2F%2Fwww.mof.gov.vn%2Fportal%2Fpls%2Fportal%2Fdocs%2F1%2F1152272.D
OC&ei=uGHLU9TjBILt8AXkk4H4AQ&usg=AFQjCNEx_aHLgXdj7MuCgcwtkdwGdMZLQ&sig2=Oh7oksdy1oSXkzveECGh0w, truy cập lần cuối ngày 18/7/2014.

5


cơng nghệ, hợp lý hóa chi phí sản xuất để nâng cao năng suất lao động5. Lao động
của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa tạo thành giá trị. Trong đó, chất của giá
trị là lao động, cịn thời gian lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa là lượng của
giá trị. Như vậy, giữa giá cả và giá trị có mối quan hệ biện chứng với nhau. Giá trị là
nội dung của giá cả và giá cả là hình thức biểu hiện bên ngồi của giá trị. Giá cả cao
hay thấp phụ thuộc vào giá trị. Có nghĩa là, giá trị của hàng hóa càng cao thì giá cả
càng cao và ngược lại6.
Thứ hai, giá trị của tiền. Tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt được tách ra
làm vật ngang giá chung cho các loại hàng hóa khi tiến hành trao đổi, mua bán. Tiền
tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của hàng hóa. Giá cả thị trường tỉ lệ thuận
với giá trị thị trường và tỉ lệ nghịch với sức mua của tiền. Do đó, ngay cả khi giá trị
thị trường khơng đổi thì giá cả hàng hóa vẫn có thể biến đổi do giá trị của tiền tăng
lên hoặc giảm xuống. Như vậy thì giá cả quyết định sức mua của tiền tệ và tiền tệ
cũng có ảnh hưởng rất lớn đến giá cả7.
Thứ ba, quan hệ cung – cầu. Cầu được hiểu là nhu cầu và khả năng thanh

tốn để đáp ứng nhu cầu đó. Cịn cung là lượng hàng hóa, dịch vụ mà nhà sản xuất
có khả năng cung ứng ra thị trường ở một mức giá và trong một khoảng thời gian,
không gian xác định. Cung, cầu và giá cả tồn tại dựa trên sự tác động qua lại lẫn
nhau. Cung, cầu ảnh hưởng lên giá cả như sau: Cung lớn hơn cầu thì giá cả thị
trường nhỏ hơn giá trị hàng hóa, lúc này người bán muốn bán được hàng thì phải
giảm giá bán. Khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ lớn hơn giá trị hàng hóa,
người bán có thể tăng giá làm giá cả cao hơn giá trị. Và khi cung bằng cầu thì giá cả
thị trường ngang bằng với giá trị hàng hóa. Sự lên xuống của giá cả không chỉ chịu
tác động của quan hệ cung, cầu mà còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác trên thị
trường. Do đó thực tế rất khó xảy ra hiện tượng cung bằng cầu, từ đó dẫn tới sự
chuyển dịch liên tục của giá cả8.
Trong mối quan hệ biện chứng, giá cả cũng tác động trở lại đối với cung, cầu.
Khi tiến hành kinh doanh, lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng mà nhà sản xuất hướng
tới, do đó, khi giá cả tăng, họ sẽ tăng nguồn cung để thu được nhiều lợi nhuận hơn,
lúc này, cầu sẽ giảm vì người tiêu dùng ln muốn mua hàng hóa với giá rẻ nhất.
Khi đó, người tiêu dùng sẽ đứng trước hai lựa chọn: một là, chuyển sang mua một
5

Nguyễn Xuân Thủy (2007), Khóa luận cử nhân: Pháp luật về thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh

tranh, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr.12.
6
7
8

Bộ Tài Chính – Cục quản lý giá (2007), tlđd4, tr.21.
Bộ Tài Chính – Cục quản lý giá (2007), tlđd4, tr.13.
Bộ Tài Chính – Cục quản lý giá (2007), tlđd4, tr.22.

6



loại hàng hóa khác cùng loại hoặc tương tự của nhà sản xuất khác với giá rẻ hơn
hoặc là chấp nhận mức giá cao hơn đó. Và thường thì đa số người tiêu dùng sẽ chọn
cách thứ nhất.
Thứ tư, quan hệ cạnh tranh. Kinh tế mở cửa hội nhập, ngày càng nhiều
doanh nghiệp ồ ạt “nhảy” vào kinh doanh, dẫn đến số lượng doanh nghiệp tăng lên
nhanh chóng. Do đó, cạnh tranh tất yếu sẽ diễn ra ngày càng quyết liệt và gay gắt
hơn. Cạnh tranh giữa nhà sản xuất với nhau buộc nhà sản xuất phải cải tiến kỹ thuật,
tăng năng suất nhằm hạ chi phí, giảm giá thành sản phẩm nhằm thu hút được nhiều
khách hàng, mở rộng thị phần. Cạnh tranh giữa những người tiêu dùng với nhau
cũng làm giá cả thay đổi, nhưng thay đổi theo hướng tăng lên. Vì người tiêu dùng
ln muốn tối đa hóa lợi ích của mình nên sẽ mua bằng được hàng hóa mà họ cần,
trong khi đó, lượng cung lại có hạn, nhà sản xuất nắm bắt được nhu cầu này của
khách hàng nên sẽ tăng giá để thu được nhiều lợi nhuận hơn. Đây là những tác động
của cạnh tranh đối với giá cả.
Nhưng giá cả cũng ảnh hưởng trở lại đối với cạnh tranh. Khi giá cả một mặt
hàng tăng lên đáng kể, các nhà sản xuất đang kinh doanh hàng hóa đó sẽ mở rộng
quy mơ sản xuất để sản xuất được nhiều hàng hơn, những nhà sản xuất chưa kinh
doanh thì sẽ sản xuất thêm loại hàng hóa này để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và
làm tăng lợi nhuận. Còn khi giá giảm xuống, thị trường sẽ khơng cịn “sơi động”
như trước do nhà sản xuất không thể thu được nhiều lợi nhuận nên thông thường họ
sẽ thu hẹp sản xuất để giảm thiểu rủi ro cho mình, làm cho mức độ gay gắt của cạnh
tranh cũng giảm theo.
Tùy theo từng hình thức cạnh tranh khác nhau mà sự tác động của nó đối với
giá cả là khác nhau. Dựa vào mức độ biểu hiện của hành vi cạnh tranh, có thể chia
cạnh tranh thành cạnh tranh hồn hảo, cạnh tranh khơng hồn hảo và độc quyền.
“Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường có nhiều người mua và
người bán và khơng một cá nhân người mua hoặc người bán nào có ảnh hưởng
đáng kể tới giá cả”9. Trong thị trường này, giá cả hình thành khơng chịu tác động

của bất kỳ yếu tố quyền lực thị trường nào mà do các quy luật tự nhiên trên thị
trường là quy luật giá trị và quy luật cung cầu quyết định. Người bán sẽ khơng có cơ
hội nâng giá hay đưa ra những điều kiện bất hợp lý đối với khách hàng, người tiêu
dùng.

9

Robert S. Pindyck – Daniel L. Rubinfeld (1999), Kinh tế học vi mô, NXB Thống kê, Hà Nội, tr.23.
7


Thị trường cạnh tranh hoàn hảo nếu thiếu một trong những điều kiện trên thì
sẽ trở thành thị trường cạnh tranh khơng hồn hảo. Khác với thị trường cạnh tranh
hồn hảo, ở thị trường cạnh tranh khơng hồn hảo, mỗi chủ thể đều nắm trong tay
quyền lực nhất định có khả năng chi phối thị trường cũng như tác động đến giá cả.
Cạnh tranh khơng hồn hảo gồm cạnh tranh mang tính độc quyền và độc quyền
nhóm. Tùy thuộc vào hình thức biểu hiện của cạnh tranh khơng hồn hảo mà sự tác
động tới giá cả sẽ khác nhau.
Cạnh tranh mang tính độc quyền chỉ tồn tại ở một số doanh nghiệp nhất định
và sản phẩm của họ có sự khác biệt đáng kể với những doanh nghiệp khác về mẫu
mã, chất lượng, kiểu dáng,… nên họ có khả năng kiểm sốt giá cả của hàng hóa,
dịch vụ. Đối với độc quyền nhóm, do tính phụ thuộc lẫn nhau nên sự thay đổi về giá
cả sản phẩm của mỗi doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu đối với sản
phẩm của doanh nghiệp khác và ngược lại. Còn sự thay đổi về sản lượng sẽ ảnh
hưởng đến cung cầu trên thị trường và tác động làm cho giá cả thay đổi.
Độc quyền. Độc quyền diễn ra khi trên thị trường chỉ tồn tại một doanh
nghiệp sản xuất, cung ứng một loại sản phẩm, hàng hóa mà khơng có bất kì một đối
thủ cạnh tranh nào. Tác động tiêu cực của độc quyền tới giá cả là rất lớn. Do trên thị
trường lúc này chỉ tồn tại duy nhất một doanh nghiệp sản xuất một loại hàng hóa
nhất định nên doanh nghiệp thường lợi dụng để tăng giá một cách bất hợp lý nhằm

đạt lợi nhuận cao nhất. Còn khách hàng thì khơng cịn lựa chọn nào khác ngồi việc
chấp nhận mua với giá cao để thỏa mãn nhu cầu của mình.
Như vậy, sự hình thành và biến động của giá cả phụ thuộc vào các quy luật
khách quan của kinh tế thị trường. Trong đó, quy luật giá trị tác động trực tiếp đến
sự hình thành giá cả, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh tác động đến sự biến
thiên không ngừng của giá cả. Nắm bắt được điều này sẽ có ý nghĩa quan trọng đối
với cả Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng trong việc đưa ra các quyết định
phù hợp.
1.1.2.

Sự tác động của giá đến thị trƣờng
Các yếu tố trên thị trường ảnh hưởng đến sự hình thành giá cả. Đồng thời, giá

cả cũng có sự tác động trở lại thị trường.
Những thơng tin về giá cả là tín hiệu khách quan trên thị trường. Nó giúp
nhà sản xuất xác định được cung, cầu của hàng hóa, tình hình sản xuất của các
ngành. Qua đó định hướng, điều tiết sản xuất cho phù hợp với nhu cầu của thị
trường. Mỗi khách hàng khi lựa chọn một loại hàng hóa đều dựa trên điều kiện tài
chính, lứa tuổi, đối tượng, sở thích, ... Cho nên, dựa vào điều này, nhà sản xuất sẽ
8


xác định mức giá đối với từng loại khách hàng thông qua chất lượng, kiểu dáng,
công năng đi kèm,…
Giá cả cũng có vai trị trong việc điều tiết sự lưu thơng của hàng hóa và
phân bổ các nguồn lực trên thị trường. “Giá cả cao hay thấp tác động làm cho
“dịng chảy” của hàng hóa chuyển từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao, từ
nơi cung lớn hơn cầu đến nơi cung nhỏ hơn cầu”10. Thông qua biến động của cung
– cầu, nhà sản xuất sẽ phân bổ có hiệu quả các yếu tố của quá trình sản xuất như
vốn, nguồn lao động, kỹ thuật cơng nghệ,…

Giá cả cịn có vai trị thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển. Nhà sản xuất
luôn muốn thu hút được nhiều khách hàng, đồng thời bán được hàng với giá cao
nhất để thu được nhiều lợi nhuận. Trong khi đó, người tiêu dùng lại muốn mua được
hàng với giá rẻ nhất, nhiều chủng loại, mẫu mã. Mâu thuẫn giữa lợi ích của nhà sản
xuất và người tiêu dùng chỉ được giải quyết khi nhà sản xuất đầu tư đổi mới máy
móc, thiết bị, ứng dụng khoa học kỹ thuật, từ đó tăng năng suất, giảm chi phí, tạo ra
được nhiều sản phẩm có chất lượng, đa dạng chủng loại, đáp ứng nhu cầu của người
tiêu dùng.
Giá cả là phương tiện tính tốn chi phí, tính tốn lợi nhuận của người bán
hàng hoá, của người sản xuất, cũng như của nhà đầu tư trên thị trường. Trên thị
trường có những loại hàng hóa có thể được tiêu dùng trực tiếp mà không phải qua
khâu trung gian nào như rau củ quả để ăn, nước để uống,… nhưng cũng có những
loại hàng hóa vừa là nguyên vật liệu đầu vào để sản xuất ra một loại hàng hóa khác.
Ví dụ như bột mì để làm bánh, sắt thép, xi măng để xây nhà,… Nghĩa là, trong
trường hợp này, giá cả là cơ sở tính tốn chi phí để sản xuất ra các hàng hóa khác, từ
đây, nhà sản xuất dự kiến giá bán sản phẩm đầu ra của mình. Sau khi tính tốn mọi
chi phí và giá bán ra, nhà sản xuất sẽ xác định được lợi nhuận thu được đối với từng
loại sản phẩm và lợi nhuận của từng thời kỳ nhất định11.
“Trong quản lý kinh tế vĩ mô, giá cả là phương tiện để tính tốn các chỉ tiêu
quan trọng như: GDP, tốc độ tăng trưởng kinh tế, …”12
Tuy nhiên, giá cả thị trường chỉ có thể phát huy tính tích cực của nó nếu có
hệ thống giá hợp lý. Nếu như vận hành khơng hợp lý thì nó có thể dẫn tới khủng
hoảng, suy thối, thậm chí phá hủy cả nền kinh tế. Nhà sản xuất vì mải chạy theo lợi
10

Cao Huyền Trang (2010), Khóa luận cử nhân: Các hành vi cạnh tranh về giá nhằm hạn chế cạnh tranh
trong Luật Cạnh tranh – những vấn đề lý luận và thực tiễn, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr.12.
11
12


Bộ Tài Chính – Cục quản lý giá (2007), tlđd4, tr.16.
Bộ Tài Chính – Cục quản lý giá (2007), tlđd4, tr.17.

9


nhuận mà sản xuất ồ ạt, trùng lắp, kém hiệu quả, bỏ qua những vấn đề liên quan đến
lợi ích công cộng.
Giá cả là yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến quyết định mua hàng của người tiêu
dùng. Nhưng trong một số trường hợp, các yếu tố phi giá cả như lối sống, tâm lý, thị
hiếu còn ảnh hưởng tới hành vi của người mua lớn hơn cả ảnh hưởng của giá cả.
1.2. Sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh
Cạnh tranh là hoạt động tất yếu và giá cả là cốt lõi của thị trường. Cho nên,
có thể nói, trong các phương thức để cạnh tranh khơng lành mạnh thì sử dụng giá là
phương thức chủ yếu mà các doanh nghiệp thường sử dụng.
1.2.1. Khái niệm
Để hiểu thế nào là sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh, trước hết cần
làm rõ các khái niệm cơ bản về cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh.
Theo Từ điển Tiếng Việt, Viện ngơn ngữ học thì “Cạnh tranh là cố gắng
giành phần hơn, phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động
nhằm những lợi ích như nhau”13.
Từ đây, có thể hiểu cạnh tranh trong kinh doanh là việc các doanh nghiệp cố
gắng sử dụng các phương thức, công cụ khác nhau ganh đua để đạt được lợi thế
cạnh tranh nhất định so với những doanh nghiệp khác nhằm mục tiêu cuối cùng là
thu được nhiều lợi nhuận nhất.
Về khái niệm cạnh tranh không lành mạnh thì hiện nay trong khoa học pháp
lý cịn có rất nhiều quan điểm khác nhau.
Ở các quốc gia có pháp luật thuộc hệ thống luật Châu Âu lục địa (Continental
Law) thì cạnh tranh khơng lành mạnh được hiểu là “những hành vi nhằm mục đích
cạnh tranh và trực tiếp gây hại cho đối thủ cạnh tranh cụ thể hoặc khách hàng cụ

thể của đối thủ cạnh tranh đó bằng các phương pháp đi ngược lại các giá trị đạo
đức và tập quán kinh doanh truyền thống”14.
Theo từ điển Cornu của Pháp, thì cạnh tranh được hiểu là “chạy đua trong
kinh tế, hành vi của doanh nghiệp độc lập với nhau và là đối thủ của nhau cung ứng
hàng hóa, dịch vụ, nhằm làm thỏa mãn nhu cầu giống nhau, với sự may rủi của mỗi

13
14

Viện ngôn ngữ học (2002), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr.112.
Hà Huy Hiệu, Bùi Khánh Nguyên (2000), “Một số khía cạnh quốc tế của pháp luật về chống cạnh tranh

không lành mạnh”, Nhà nước và pháp luật, (152), tr.12.

10


bên, thể hiện qua việc lôi kéo được hoặc để bị mất đi một lượng khách hàng thường
xuyên”15.
Sau khi đưa ra định nghĩa khái quát, một số nước như Cộng hịa liên bang
Đức, Cộng hịa Pháp ln quy định kèm theo việc mô tả từng hành vi vi phạm pháp
luật và tập qn kinh doanh cấm đốn vì nó đe dọa đến trật tự kinh doanh lành
mạnh16.
Hiện nay, khái niệm cạnh tranh không lành mạnh được thừa nhận rộng rãi
nhất quy định tại khoản 1 Điều 10 bis Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp 1983. Theo đó: “Bất kì hành vi cạnh tranh nào đi ngược lại các thơng lệ
trung thực, thiện chí trong cơng nghiệp hoặc trong thương mại đều là hành vi cạnh
tranh không lành mạnh”.
Khoản 4 Điều 3 LCT 2004 Việt Nam định nghĩa: “Hành vi cạnh tranh không
lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái

với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại đến lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu
dùng” Tuy nhiên, Luật cạnh tranh Việt Nam chỉ đưa ra định nghĩa khái qt mà
khơng có bất kỳ quy định nào mô tả thế nào là những hành vi trái với các chuẩn mực
thông thường về đạo đức kinh doanh.
Nhìn chung, cách định nghĩa về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của
Việt Nam là phù hợp với Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và
pháp luật một số nước. Bản chất pháp lý của hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh
chính là mọi hành vi trái với các chuẩn mực trung thực và lành mạnh trong quan hệ
thương mại, gây thiệt hại chủ yếu đến doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh trên thị
trường liên quan17.
Sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh cũng là một trong những hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Dựa vào định nghĩa về hành vi cạnh tranh khơng lành
mạnh như trên, có thể hiểu: Sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh là hành vi
của doanh nghiệp sử dụng giá cả làm công cụ chủ yếu để cạnh tranh trong quá
15

Dương Đăng Huệ, Nguyễn Hữu Huyên (2004), “Những vấn đề lý luận cơ bản của Luật Cạnh tranh”, Nhà
nước và pháp luật, (197), tr.59.
16

Ngô Thị Mai Hịa (2005), Khóa luận tốt nghiệp: Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực giá cả, thực trạng và hướng hoàn thiện, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr.14.
17

Viên Thế Giang (2011), “Một số ý kiến về cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng ở Việt

Nam”, Báo điện tử Toaan.gov,
/>d=13774873&article_details=1, truy cập lần cuối ngày 18/7/2014.


11


trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thơng thường về đạo đức kinh doanh, gây
thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp
khác hoặc người tiêu dùng.
1.2.2. Đặc điểm
Từ khái niệm đã đưa ra ở mục 1.2.1, ta thấy rằng hành vi sử dụng giá để cạnh
tranh không lành mạnh vừa mang những những đặc điểm của hành vi cạnh tranh nói
chung về mặt chủ thể và mục đích thực hiện hành vi vừa mang những đặc điểm
riêng của hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh về phương thức thực
hiện, tính chất và hậu quả của hành vi. Cụ thể như sau:
Một là, chủ thể thực hiện hành vi là doanh nghiệp. Theo khoản 1 Điều 2
LCT 2004 thì doanh nghiệp được hiểu là: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh (sau đây
gọi chung là doanh nghiệp) bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm,
dịch vụ cơng ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc
quyền Nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam”. Cách hiểu
này về doanh nghiệp trong LCT 2004 khác với LDN 2005. Doanh nghiệp trong
LDN 2005 chỉ bao gồm các tổ chức có hoặc khơng có tư cách pháp nhân tồn tại
dưới loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và
doanh nghiệp tư nhân thuộc mọi thành phần kinh tế18. Như vậy, khái niệm doanh
nghiệp trong LCT 2004 rộng hơn nhiều so với LDN 2005. Doanh nghiệp trong LCT
2004 bao gồm cả cá nhân, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, hộ kinh doanh, doanh
nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam thực hiện các hoạt động kinh doanh hợp
pháp tại Việt Nam. Việc quy định chủ thể như trên cho thấy LCT 2004 điều chỉnh
bao quát mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề, mọi công đoạn của q trình kinh doanh.
Điều này góp phần tạo sự an tâm về mặt pháp lý cho các chủ thể kinh doanh trên thị
trường.
Hai là, mục đích của các doanh nghiệp là nhằm để thu được nhiều lợi
nhuận nhất hoặc thu hút khách hàng, mở rộng thị phần. Trong kinh doanh, dĩ

nhiên nhà sản xuất nào cũng tìm đủ mọi cách để thu được nhiều lợi nhuận hơn.
Nhưng điều này khơng có nghĩa là lúc nào đó cũng là mục tiêu đầu tiên mà họ muốn
đạt được. Mà tùy từng chiến lược cạnh tranh khác nhau, cũng có những nhà sản xuất
chưa quan tâm nhiều tới vấn đề lợi nhuận ngay mà điều trước nhất họ quan tâm là
lôi kéo nhiều khách hàng về phía mình và tranh giành thị phần, sau khi đã đạt được
mục đích này thì họ mới quan tâm nhiều hơn tới lợi nhuận.

18

Điều 1 LDN 2005.

12


Ba là, công cụ thực hiện hành vi là giá cả. Giá cả là công cụ trực tiếp và
chủ yếu được doanh nghiệp sử dụng để tác động vào định hướng mua hàng của
người tiêu dùng và hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp là đối thủ cạnh
tranh với mình. Tính trực tiếp và chủ yếu là đặc điểm phân biệt hành vi sử dụng giá
để cạnh tranh không lành mạnh với những hành vi cạnh tranh không lành mạnh
khác cũng có sử dụng yếu tố giá. Đối với một số hành vi cạnh tranh không lành
mạnh khác, doanh nghiệp sử dụng giá nhưng giá ở đây chỉ là công cụ gián tiếp, thứ
yếu chứ không phải trực tiếp và quan trọng như hành vi sử dụng giá để cạnh tranh
khơng lành mạnh. Ví dụ: doanh nghiệp A (A) có hành vi quảng cáo so sánh trực tiếp
giá mặt hàng mì gói của mình và của doanh nghiệp B (B) để người tiêu dùng cho
rằng giá của B đưa ra quá cao cho cùng sản phẩm tương đương. Hành vi này đã sử
dụng giá là công cụ trực tiếp để tác động, do đó nếu thỏa mãn các dấu hiệu cịn lại
thì hành vi này được xem là sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh. Nhưng nếu
A tung tin đồn thất thiệt rằng mì gói của B có chứa chất gây hại cho sức khỏe, từ tin
đồn này đã làm giảm số lượng khách hàng của A dẫn đến A bị lỗ, sau đó tin đồn
được chứng minh là không đúng sự thật nhưng số lượng khách hàng vẫn ít hơn

trước khi có tin đồn, nên A phải giảm giá bán một thời gian dưới hình thức khuyến
mại để thu hút thêm khách hàng khiến lợi nhuận giảm, thì hành vi này của A khơng
sử dụng giá làm công cụ trực tiếp mà chỉ là gián tiếp nên không phải là hành vi sử
dụng giá để cạnh tranh khơng lành mạnh.
Bốn là, tính chất của hành vi là trái với các chuẩn mực thông thường về
đạo đức kinh doanh. Hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội luôn vận động và
phát triển không ngừng dẫn đến nhận thức và quan niệm về tính không lành mạnh
của hành vi cạnh tranh cũng thay đổi theo. Nó liên quan đến những ý niệm về đạo
đức học, kinh tế học, xã hội học,… nên rất khó để đưa ra một định nghĩa chính xác.
Vì vậy, thực tế một hành vi được coi là không lành mạnh ở nước này nhưng lại là
lành mạnh ở nước khác. Mặt khác, các hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không
lành mạnh diễn ra ngày một phức tạp, các doanh nghiệp sáng tạo ra các thủ đoạn và
phương thức cạnh tranh không lành mạnh rất đa dạng và tinh vi. Do đó, các quy
định của pháp luật điều chỉnh cạnh tranh không lành mạnh phải không ngừng được
bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng giai đoạn.
Để xác định một hành vi là trái với các chuẩn mực thơng thường về đạo đức
kinh doanh thì trước hết cần căn cứ vào quy định của pháp luật. Đó phải là những
trường hợp cạnh tranh vi phạm điều cấm của pháp luật được quy định trong LCT và
các văn bản khác như pháp LTM, Luật Giá, pháp luật về sở hữu trí tuệ, tức là, một

13


khi đã được pháp luật quy định cấm thì nó đương nhiên là các hành vi trái với các
chuẩn mực thơng thường về đạo đức kinh doanh.
Ngồi ra, LCT 2004 còn quy định dự liệu theo hướng các hành vi cạnh tranh
khơng lành mạnh khác theo tiêu chí xác định tại khoản 4 Điều 3 LCT 2004 sẽ do
chính phủ quy định. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có văn bản nào do chính phủ ban
hành quy định thêm những hành vi này. Điều này ít nhiều gây ra bất cập trong việc
xác định các dấu hiệu cấu thành hành vi, đặc biệt là tiêu chí trái với các chuẩn mực

thông thường về đạo đức kinh doanh.
Năm là, hậu quả của những hành vi này là gây thiệt hại hoặc có thể gây
thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp
khác hoặc của người tiêu dùng. Hành vi sử dụng giá để cạnh tranh khơng lành
mạnh khơng địi hỏi hậu quả phải đã xảy ra trên thực tế, mà chỉ cần các chủ thể nhận
thấy mình có thể bị thiệt hại do các doanh nghiệp sử dụng giá để cạnh tranh không
lành mạnh là đã có thể tự bảo vệ mình. Do đó, các hành vi sử dụng giá để cạnh tranh
khơng lành mạnh khơng có cấu thành vật chất (thiệt hại xảy ra là dấu hiệu bắt buộc),
mà có cấu thành hình thức (khơng cần có thiệt hại xảy ra) như hành vi bịa đặt, loan
tin, đưa tin không đúng sự thật về giá hàng hóa, dịch vụ; hành vi quảng cáo so sánh
giá trực tiếp, … Tuy vậy, đối với những hành vi này, việc chứng minh hậu quả sẽ có
ý nghĩa trong việc lựa chọn chế tài và mức xử phạt hợp lý.
Những đối tượng được pháp luật cạnh tranh bảo vệ không chỉ là những chủ
thể bị hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh gây ra thiệt hại một cách
trực tiếp, dễ nhận biết là doanh nghiệp khác và người tiêu dùng mà còn là Nhà nước
– chủ thể quản lý toàn bộ nền kinh tế. Nhà nước có vai trị trong việc ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động cạnh tranh, đồng thời, có cơ quan
cưỡng chế để đảm bảo pháp luật được thi hành khi phát hiện và xử lý những hành vi
vi phạm. Thông qua những hoạt động này, Nhà nước thiết lập môi trường cạnh tranh
lành mạnh, cơng bằng. Chính vì vậy, một khi các hành vi sử dụng giá để cạnh tranh
không lành mạnh xâm phạm, làm bóp méo mơi trường cạnh tranh thì hành vi đó
được xem là gây thiệt hại cho lợi ích Nhà nước. Nhưng cũng có thể hiểu thiệt hại
gây ra cho Nhà nước chính là những thiệt hại mà doanh nghiệp và người tiêu dùng
phải gánh chịu. Bởi vì suy cho cùng lợi ích của Nhà nước chỉ được bảo đảm khi mà
lợi ích của các chủ thể trong xã hội được bảo đảm. Chính vì thế, LCT 2004 quy định
cơ quan quản lý cạnh tranh có quyền chủ động điều tra sơ bộ khi phát hiện hành vi
cạnh tranh không lành mạnh19 chứ không cần đợi đến lúc các chủ thể bị xâm phạm
19

Khoản 2 Điều 86 LCT 2004.


14


gửi đơn tới cơ quan quản lý cạnh tranh. Quy định này tạo điều kiện cho việc phát
hiện, điều tra và xử lý vi phạm một cách kịp thời, đảm bảo tối đa lợi ích cho mọi
chủ thể.
Lợi ích của doanh nghiệp khác là lợi ích của các doanh nghiệp là đối thủ
cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp đã thực hiện hành vi nhưng cũng có thể là
những doanh nghiệp không cạnh tranh trực tiếp nhưng bị thiệt hại do hành vi đó gây
ra. Đó là những doanh nghiệp cung ứng hàng hóa, dịch vụ, doanh nghiệp mua hàng
hóa, sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp cạnh tranh hoặc là bất kì doanh nghiệp nào
khác20.
“Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu
dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”21. Như vậy, thiệt hại đến lợi ích của
người tiêu dùng là những thiệt hại ảnh hưởng đến việc mua, sử dụng hàng hóa cho
mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức. Thiệt hại ở đây có thể
là việc người tiêu dùng phải mua hàng hóa ở mức giá cao, do doanh nghiệp lợi dụng
khủng hoảng kinh tế, thiên tai để tăng giá bất hợp lý; người tiêu dùng bị gian lận về
giá của mặt hàng khuyến mại,… Người tiêu dùng không chỉ là cá nhân mà cịn là
gia đình, tổ chức. Đối với tổ chức thì phải là những tổ chức mua sản phẩm, dịch vụ
của doanh nghiệp để tiêu dùng nội bộ.
Hậu quả của hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh nói riêng và
của hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh nói chung là đặc điểm quan trọng dùng để
phân biệt với hành vi hạn chế cạnh tranh trong LCT 2004. Nếu như hậu quả của
hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh tác động tới một số đối tượng
cụ thể là doanh nghiệp, người tiêu dùng, xâm phạm trật tự quản lý cạnh tranh của
Nhà nước, thì sử dụng giá để hạn chế cạnh tranh tuy có tác động tới những chủ thể
trên, nhưng hậu quả của nó tiêu cực hơn nhiều, đó là làm giảm, sai lệch, cản trở
cạnh tranh trên thị trường22. Điều này xuất phát từ những thỏa thuận hạn chế cạnh

tranh của các doanh nghiệp hoặc hành vi lạm dụng vị trí độc quyền, lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường của các doanh nghiệp có quyền lực thị trường, hoặc hành vi
tập trung kinh tế bất hợp pháp. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh thường được
thực hiện riêng lẻ bởi các doanh nghiệp mà khơng có sự thỏa thuận, tác động tới một
vài khách hàng, đối thủ trong một phạm vi tương đối hẹp. Trong khi đó, đối với hạn
chế cạnh tranh thì các doanh nghiệp có sự thỏa thuận, liên kết với nhau cùng hành
20

Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2012), “Giáo trình về cạnh tranh và giải quyết tranh chấp thương

mại”, NXB Hồng Đức, TP. Hồ Chí Minh, tr.74.
21
Khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010.
22

Khoản 3 Điều 4 LCT 2004.

15


động (đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh), hoặc là doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh, doanh nghiệp độc quyền lợi dụng vị trí của mình để áp đặt các điều kiện bất
hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng và doanh nghiệp. Như vậy thì phạm vi và đối
tượng bị tác động của hành vi này rộng hơn nhiều so với cạnh tranh không lành
mạnh. Xuất phát từ điều này mà cách thức và mức độ xử lý hai loại hành vi này là
khác nhau.
Dưới góc độ lịch sử phát triển, những đặc điểm về hậu quả của hành vi cạnh
tranh không lành mạnh thay đổi theo thời gian phụ thuộc vào nhận thức của con
người về tính nguy hại và mức độ xâm hại của hành vi đó đối với lợi ích mà pháp
luật cần bảo vệ. Trước đây, do điều kiện kinh tế - xã hội, người ta quan niệm hành vi

cạnh tranh không lành mạnh chỉ là hành vi giữa các đối thủ cạnh tranh và xâm hại
trực tiếp đến đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Theo thời gian, những hành vi này
càng đa dạng, tinh vi, không chỉ xâm hại đến doanh nghiệp mà còn trực tiếp ảnh
hưởng đến khách hàng, người tiêu dùng. Do vậy, quan niệm về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh đã mở rộng phạm vi của pháp luật cạnh tranh không lành mạnh
sang những hành vi xâm phạm lợi ích của người tiêu dùng.
1.2.3.
Sự tác động của hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh
đến thị trƣờng
Sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh tác động tiêu cực đến những
chủ thể trung tâm trong thị trường là doanh nghiệp, người tiêu dùng, đặc biệt hơn là
ảnh hưởng đến cả nền kinh tế.
Đối với doanh nghiệp: Trên thị trường tồn tại rất nhiều doanh nghiệp với đủ
loại hàng hóa, dịch vụ. Sự ganh đua khốc liệt “một mất một còn” của cạnh tranh
khiến cho các doanh nghiệp dễ sa vào dùng những thủ đoạn cạnh tranh không lành
mạnh để thu hút, lôi kéo khách hàng, “chơi xấu” đối thủ cạnh tranh nhằm mục đích
cuối cùng là thu được nhiều lợi nhuận nhất. Những doanh nghiệp là đối thủ cạnh
tranh của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, phải chịu sức ép rất
lớn về tiềm lực kinh tế và những thủ đoạn của những doanh nghiệp mạnh hơn, hậu
quả là họ bị gián đoạn hoạt động sản xuất kinh doanh do phải đối phó với những
“chiêu trị” của các doanh nghiệp cạnh tranh không lành mạnh, bị giảm doanh thu
trong một khoảng thời gian nhất định, nặng hơn là suy yếu tiềm lực kinh doanh,
thậm chí bị loại bỏ hồn tồn ra khỏi thị trường.
Đối với người tiêu dùng: Thu hút được ngày càng nhiều người tiêu dùng và
làm hài lòng họ bằng cách nâng cao chất lượng, giảm giá bán luôn là chiến lược
được doanh nghiệp quan tâm hàng đầu. Nhưng để đạt được mục tiêu này một cách
16


nhanh chóng, nhiều doanh nghiệp lại khơng sử dụng những phương thức lành mạnh

mà sử dụng mọi thủ đoạn bất chính như gian lận về giá, bịa đặt thơng tin về giá cả,
khuyến mại, quảng cáo không trung thực,… khiến cho người tiêu dùng bị nhầm lẫn
và thiệt hại khi phải mua hàng với giá cao hơn hoặc chất lượng kém và mất đi cơ hội
chọn lựa nhiều mặt hàng của những doanh nghiệp khác.
Đối với nền kinh tế: Sử dụng giá cả làm công cụ cạnh tranh không lành
mạnh làm cho kinh tế trì trệ, kém phát triển. Một khi doanh nghiệp đã lựa chọn cách
thức cạnh tranh không lành mạnh cũng đồng nghĩa doanh nghiệp khơng có động lực
đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất hay tận dụng khai thác nhân công,
nguyên vật liệu để tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm mà chỉ chú trọng thực
hiện những hành vi “chơi xấu” hoặc gian lận nhằm gây thiệt hại cho đối thủ cạnh
tranh và người tiêu dùng. Điều này vô cùng nguy hiểm đối với nền kinh tế. Kinh tế
không phát triển sẽ kéo theo nhiều hệ lụy, mà người tiêu dùng và xã hội sẽ phải
gánh chịu.
1.3.
Khái quát về hệ thống pháp luật Việt Nam điều chỉnh hành vi sử dụng
giá để cạnh tranh không lành mạnh
1.3.1.
LCT 2004
Các hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh hiện nay được quy
định tập trung ở LCT 2004. Tuy nhiên, LCT 2004 không quy định hành vi sử dụng
giá để cạnh tranh không lành mạnh thành một điều luật riêng mà quy định tất cả các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung trong cùng Điều 39, sau đó tiến hành
mơ tả cụ thể dấu hiệu từng hành vi từ Điều 40 đến Điều 48. Từ đây ta thấy rằng
hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh được quy định tại các Điều 45
và Điều 46, thuộc hai nhóm hành vi sau:
- Quảng cáo nhằm cạnh tranh khơng lành mạnh (Điều 45 LCT 2004), gồm hai
hành vi: quảng cáo so sánh trực tiếp giá hàng hóa, dịch vụ của mình với giá hàng
hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác (khoản 1 Điều 45 LCT 2004) và
quảng cáo đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng về giá (điểm b
khoản 3 Điều 45 LCT 2004).

- Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh (Điều 46 LCT 2004): Khuyến
mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về giá hàng hóa, dịch vụ để lừa dối khách
hàng (khoản 2 Điều 46 LCT); Thực hiện khuyến mại mà giá trị hàng hóa, dịch vụ
dùng để khuyến mại vượt quá hạn mức tối đa hoặc giảm giá hàng hóa, dịch vụ được
khuyến mại quá mức tối đa theo quy định của pháp luật (khoản 5 Điều 46 LCT
2004, khoản 7 Điều 100 LTM 2005).
17


Tuy nhiên, do quảng cáo và khuyến mại là hai hoạt động xúc tiến thương mại
đặc thù nên nếu chỉ xem xét LCT 2004 thì khơng thể nào làm rõ được hết các khái
niệm và đặc điểm của những hành vi kể trên, mà còn phải xem xét cả những văn bản
có liên quan khác, đó là LTM 2005, LQC 2012 và Nghị định 37/2006/NĐ-CP. Cụ
thể là, liên quan đến quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh cần xem xét thêm
những quy định tại khoản 9 Điều 8, Điều 10 LQC 2012; khoản 6 và khoản 7 Điều
109 LTM. Liên quan đến khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh cần xem
xét thêm quy định tại khoản 1 Điều 88, Điều 97, Điều 98, khoản 7, khoản 10 Điều
100 LTM 2005, Điều 5 Nghị định 37/2006/NĐ-CP. Cần lưu ý rằng những quy định
ở các văn bản này không điều chỉnh trực tiếp hành vi sử dụng giá để cạnh tranh
khơng lành mạnh như LCT 2004 mà chỉ đóng vai trò làm rõ một số vấn đề về quảng
cáo, khuyến mại, riêng Nghị định 37/2006/NĐ-CP có hướng dẫn cụ thể về hành vi
Thực hiện khuyến mại mà giá trị hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại vượt quá
hạn mức tối đa hoặc giảm giá hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại quá mức tối đa
theo quy định của pháp luật.
1.3.2.

Luật Giá 2012

Ngoài những văn bản trên, Luật Giá 2012 là văn bản chuyên ngành về lĩnh
vực giá cũng có quy định về những hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành

mạnh dưới dạng các hành vi bị cấm trong lĩnh vực giá tại Điều 10. Nhưng do khơng
tiếp cận dưới góc độ cạnh tranh nên những hành vi này để được xem là sử dụng giá
để cạnh tranh khơng lành mạnh thì phải thỏa mãn những đặc điểm của hành vi sử
dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh đã nêu ở mục 1.2.2 là dấu hiệu về chủ thể,
hành vi trái với những chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, dấu hiệu về
mục đích, hậu quả.
Những hành vi bị cấm trong lĩnh vực giá có thể được coi là sử dụng giá để
cạnh tranh không lành mạnh bao gồm:
Bịa đặt, loan tin, đưa tin khơng đúng sự thật về giá hàng hóa, dịch vụ
(điểm a khoản 2 Điều 10).
-

Gian lận về giá bằng cách cố ý thay đổi các nội dung đã cam kết mà không

thông báo trước với khách hàng về thời gian, địa điểm, điều kiện mua, bán, chất
lượng hàng hóa, dịch vụ tại thời điểm giao hàng, cung ứng dịch vụ (điểm b khoản 2
Điều 10).
Lợi dụng khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch họa, hỏa hoạn, dịch bệnh và
điều kiện bất thường khác; lợi dụng chính sách của Nhà nước để định giá mua, giá
bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý (điểm c khoản 2 Điều 10).
18


Luật Giá 2012 có hiệu lực từ ngày 1/1/2013 thay thế cho Pháp lệnh giá năm
2002. Tiếp sau đó là Nghị định 177/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Giá có hiệu lực ngày 1/1/2014. Tuy nhiên, hiện nay Nghị
định này lại không có bất kỳ quy định nào hướng dẫn chi tiết về những hành vi tại
khoản 2 Điều 10 Luật Giá mà chỉ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Giá về bình ổn giá; định giá của Nhà nước; hiệp thương giá; kiểm tra
yếu tố hình thành giá; kê khai giá; niêm yết giá; thẩm quyền quản lý Nhà nước trong

lĩnh vực giá và cơ sở dữ liệu về giá23. Điều này gây không ít khó khăn cho doanh
nghiệp, người tiêu dùng cũng như công tác phát hiện và xử lý hành vi vi phạm của
cơ quan Nhà nước.
1.3.3.

Mối quan hệ giữa Luật Cạnh tranh và Luật Giá trong chống sử dụng

giá để cạnh tranh không lành mạnh
Mặc dù Luật Giá 2012 và LCT 2004 có phạm vi điều chỉnh khác nhau“Luật
Giá quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực giá; hoạt
động quản lý, điều tiết giá của Nhà nước” (Điều 1 Luật Giá 2012), còn LCT quy
định về “hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh, trình tự,
thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh, biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về cạnh
tranh”24 nhưng giữa hai luật này có điểm chung nhất định, đó là cùng bảo vệ nền
kinh tế thị trường, mà cụ thể hơn là bảo vệ những phương thức kinh doanh lành
mạnh, chống lại những hành vi phản cạnh tranh, gây ảnh hưởng xấu tới đời sống
kinh tế, xã hội. Trong đó, về hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh,
LCT 2004 dù không nêu ra một cách trực tiếp nhưng thông qua các quy định của nó
cũng có thể dễ dàng nhận diện, cịn Luật Giá do có phạm vi điều chỉnh khác nên chỉ
liệt kê những hành vi bị cấm trong lĩnh vực giá với tổ chức, cá nhân sản xuất kinh
doanh tại Điều 10 Luật Giá 2012, trong đó, một vài hành vi bị cấm mang bản chất
của sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh. Và như vậy, khi hành vi nào đó bị
Luật Giá cấm mà thỏa mãn các dấu hiệu nêu tại khoản 4 Điều 3 LCT 2004 thì cũng
thỏa mãn dấu hiệu mang tính “mở” ở khoản 10 Điều 39 LCT 2004 về “các hành vi
cạnh tranh khơng lành mạnh khác theo tiêu chí xác định tại khoản 4 Điều 3 của Luật
này”, từ đó, về nguyên tắc, đồng thời chịu sự điều chỉnh của cả Luật Giá và LCT.
Trong số các hành vi sử dụng giá để cạnh tranh không lành mạnh ở LCT 2004
và Luật Giá 2012 thì hành vi “bịa đặt, loan tin, đưa tin khơng đúng sự thật về giá
hàng hóa, dịch vụ” và “quảng cáo đưa thông tin gian dối cho khách hàng về giá” đều
có một điểm chung mang tính đặc trưng đó là tính chất sai lệch của thông tin được

23
24

Điều 1 Nghị định 177/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật Giá
Điều 1 LCT 2004.

19


×