Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Pháp luật điều chỉnh về chi phí trong việc xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (685.85 KB, 57 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
----------

HOÀNG TUẤN ANH

PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ CHI PHÍ TRONG
VIỆC XÁC ĐỊNH THU NHẬP CHỊU THUẾ TNDN

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP HCM – 2009


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
----------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ CHI PHÍ TRONG
VIỆC XÁC ĐỊNH THU NHẬP CHỊU THUẾ TNDN

SINH VIÊN THỰC HIỆN: HỒNG TUẤN ANH
Khóa: 30
MSSV: 3020009
GVHD: Ths. NGUYỄN THỊ THU HIỀN

TP Hồ Chí Minh – 2009




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan bài khóa luận: “Pháp luật điều
chỉnh về chi phí trong việc xác định thu nhập chịu
thuế TNDN” là cơng trình nghiên cứu khoa học do
chính tơi thực hiện. Mọi trích dẫn và số liệu nêu
trong khóa luận là trung thực, chính xác.
Tơi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Người thực hiện

HOÀNG TUẤN ANH


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................ Trang 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHI PHÍ TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH THU
NHẬP CHỊU THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp .....................................4
1.1.1. Khái niệm thuế thu nhập doanh nghiệp .........................................................4
1.1.2. Đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế .....................................................5
1.1.2.1. Đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp ......................................................5
1.1.2.2. Đối tượng chịu thuế thu nhập doanh nghiệp .....................................................8
1.1.2.3. Thu nhập được miễn thuế ..................................................................................9
1.1.3. Căn cứ tính thuế ............................................................................................... 10
1.1.3.1. Thu nhập tính thuế........................................................................................... 11
1.1.3.2. Thuế suất ......................................................................................................... 15
1.2. Chi phí trong việc xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp ...... 16
1.2.1. Khái niệm chi phí kinh doanh......................................................................... 16
1.2.2. Ý nghĩa của việc xác định chính xác các khoản chi phí được trừ khi tính

thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp ............................................................ 17
1.2.2.1. Đối với nhà nước ............................................................................................. 17
1.2.2.2. Đối với doanh nghiệp ...................................................................................... 18
1.2.3. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với các khoản chi phí được
trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp ............................... 19
1.2.3.1. Đối với nhà nước ............................................................................................. 19
1.2.3.2. Đối với doanh nghiệp ...................................................................................... 19
1.2.4. Những yêu cầu đặt ra đối với việc ban hành và xây dựng pháp luật về xác
định chi phí được trừ khi tính thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp ........ 20
1.2.5. Điều kiện để một khoản chi được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu
nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật ................................................... 23
1.2.5.1. Phải là các khoản chi thực tế phát sinh liên quan đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp ................................................................................................ 24
1.2.5.2. Phải có đủ hóa đơn, chứng từ theo quy định cả pháp luật .............................. 25
1.2.5.3. Không được rơi vào một trong các khoản chi không được trừ khi xác định thu
nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp được quy định tại khoản 2 Điều 9 Luật thuế thu
nhập doanh nghiệp 2008 ............................................................................................... 27


Kết luận ........................................................................................................................ 32
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT ĐỂ XÁC
ĐỊNH CHI PHÍ ĐƯỢC TRỪ KHI TÍNH THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP
VÀ CÁC GIẢI PHÁP HỒN THIỆN
2.1. Việc áp dụng trực tiếp Luật thuế thu nhập doanh nghiệp còn hạn chế, chưa
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn .......................................................................... 34
2.1.1. Sự cần thiết phải áp dụng trực tiếp Luật thuế thu nhập doanh nghiệp vào thực
tiễn ................................................................................................................................. 34
2.1.2. Nhiều quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 cịn rất chung chung,
thiếu tính cụ thể ............................................................................................................. 35
2.1.3. Giải pháp hoàn thiện .......................................................................................... 37

2.2 Việc xác định chi phí được trừ khi tính thu nhập chịu thuế thu nhập doanh
nghiệp theo quy định của pháp luật còn nhiều bất cập ........................................... 37
2.2.1. Các khoản chi phí theo quy định của pháp luật thuế TNDN cịn dàn trải, thiếu rõ
ràng ................................................................................................................................ 37
2.2.2. Giải pháp hoàn thiện .......................................................................................... 40
2.3. Quy định về khống chế chi phí quảng cáo, khuyến mại chưa phù hợp với
thực tiễn ....................................................................................................................... 41
2.3.1. Thực trạng áp dụng quy định khống chế chi phí quảng cáo, khuyến mại ......... 41
2.3.1.1. Ưu điểm ........................................................................................................... 41
2.3.1.2. Hạn chế............................................................................................................ 44
2.3.2. Giải pháp hoàn thiện .......................................................................................... 48
Kết luận ........................................................................................................................ 52
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 53


1

LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong khoảng mười năm trở lại đây, nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển
mình mạnh mẽ, ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Kéo theo đó là sự
phát triển khơng ngừng của các doanh nghiệp cả về số lượng lẫn quy mơ, đóng góp rất
lớn vào nguồn thu của ngân sách nhà nước. Theo báo cáo “Tổng kết công tác thuế năm
2008, nhiệm vụ và giải pháp thực hiện công tác thuế năm 2008” của Cục thuế Thành
phố Hồ Chí Minh ngày 09 tháng 1 năm 2009, số thu từ các khu vực kinh tế chiếm tỉ
trọng hơn 79,5% trên dự toán thu, bằng 109,96% dự toán pháp lệnh, tăng 40,86% so với
năm trước. Với tư cách là sắc thuế đánh vào thu nhập của các tổ chức tiến hành hoạt
động sản xuất kinh doanh, thuế TNDN có ảnh hưởng hết sức to lớn đến sự phát triển
chung của nền kinh tế cũng như nguồn thu của ngân sách nhà nước.
Vào giữa năm 2008, khi bối cảnh nền kinh tế trong nước và thế giới có nhiều biến

động hết sức phức tạp, Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp 2008 được Quốc hội chính
thức thơng qua ngày 03 tháng 6 năm 2008 đã đáp ứng mong mỏi của hầu hết các doanh
nghiệp. Với những quy định thơng thống, khuyến khích hoạt động sản xuất kinh doanh
phát triển, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 được đánh giá là một trong những
công cụ hiệu quả giúp nền kinh tế nước ta trong năm 2009 có điều kiện nhanh chóng
phục hồi, vượt qua cơn bão tài chính toàn cầu, rút ngắn khoảng cach về kinh tế với các
quốc gia trong khu vực, xây dựng và củng cố vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Một trong những nội dung quan trọng của Luật thuế TNDN 2008 nhận được sự quan
tâm chú ý của dư luận, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích doanh nghiệp và nguồn thu của
ngân sách nhà nước đó là pháp luật về chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập
doanh nghiệp. So với Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2003, pháp luật về chi phí khi
xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp được quy định trong Luật thuế thu
nhập doanh nghiệp 2008 mang tính rõ ràng, minh bạch hơn hẳn. Đặc biệt, lần đầu tiên,
pháp luật về chi phí đưa ra được những điều kiện cụ thể để một khoản chi phí được trừ
khi xác định thu nhập chịu thuế, giúp doanh nghiệp chủ động trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, đồng thời tạo cơ sở pháp lý rõ ràng để doanh nghiệp tự bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình. Tuy có nhiều điểm được đánh giá là rất tiến bộ, phù hợp với tình
hình mới, nhưng pháp luật về chi phí khi xac định thu nhập vẫn cịn những điểm thiếu
sót, hạn chế trong suốt cả quá trình từ khâu xây dựng dự thảo đến khâu tổ chức thực
hiện, đang đe dọa kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững, đảm bảo hài
hịa lợi ích cả nhà nước, của xã hội với lợi ích của doanh nghiệp. Do đó, việc nghiên cứu
và hồn thiện pháp luật về chi phí hiện đang là một trong những nội dung quan trọng và
cấp bách nhằm hạn chế đến mức tối đa những thiệt hại có thể xảy ra đối với nền kinh tế,
bảo vệ quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp và người tiêu dùng, hướng tới xây dựng
một môi trường đầu tư minh bạch, rõ ràng, bình đẳng.


2

Chính vì vậy, người viết đã quyết định lựa chọn đề tài: “Pháp luật điều chỉnh về chi

phí khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp” để
nghiên cứu và viết khóa luận tốt nghiệp của mình. Thơng qua một cơng trình nghiên cứu
khoa học cẩn trọng và nghiêm túc, người viết hy vọng có thể góp một phần nhỏ bé làm
sáng tỏ các vấn đề liên quan đến pháp luật về chi phí cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn,
từng bước hoàn thiện Luật thuế thu nhập daonh nghiệp 2008.
2. Mục đích nghiên cứu:
Người viết lựa chọn đề tài: “Pháp luật điều chỉnh về chi phí khi xác định thu nhập
chịu thuế thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp” để nghiên cứu và viết khóa luận
tốt nghiệp nhằm những mục đích sau đây:
Thứ nhất, làm rõ nội dung của pháp luật về chi phí khi xác định thu nhập chịu
thuế thu nhập doanh nghiệp. Từ đó phát hiện những điểm bất cập, chưa hợp lý và kiến
nghị một số giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật về chi phí khi xác định thu nhập chịu
thuế thu nhập doanh nghiệp nói riêng và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 nói
chung.
Thứ hai, tác giả hy vọng đây có thể là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho
những ai quan tâm đến Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, mà đặc biệt là pháp luật về chi
phí khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập daonh nghiệp.
Thứ ba, người viết hy vọng có thể đóng góp những ý kiến của cá nhân mình đối
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm hạn chế thấp nhất những thiệt hại có thể xảy
ra khi áp dụng pháp luật vào thực tiễn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 chính thức có hiệu lực ngày 01 tháng 01
năm 2009, trong đó, một trong những nội dung phức tạp, có thể dẫn tới nhiều cách hiểu
khác nhau trong quá trình áp dụng, đó là, pháp luật về chi phí khi xác định thu nhập chịu
thuế thu nhập doanh nghiệp. Chính vì vậy, người viết đặc biệt quan tâm đến nội dung
này và lấy đó làm đối tượng nghiên cứu của mình.
Trên cơ sở nghiên cứu những quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008
và các văn bản hướng dẫn thi hành, người viết tập trung làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, những lý luận chung về thuế thu nhập doanh nghiệp và pháp luật về chi
phí khi xác định thu nhập chịu thuế th nhập doanh nghiệp.

Thứ hai, phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật thuế thu nhập doanh
nghiệp dựa trên nền tảng lý luận đã nghiên cứu, nhằm tìm ra những điểm bất cập, chưa
hợp lý trong quá trình áp dụng pháp luật vào thực tiễn.
Thứ ba, đưa ra một số kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện tốt vai trò của thuế thu
nhập doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.


3

4. Phương pháp nghiên cứu:
Để những kết luận được đưa ra là thực sự khách quan, khoa học, trong quá trình
nghiên cứu, người viết đã dựa trên cơ sở lý luận chung của Chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà
nước và pháp luật. Đồng thời, người viết sử dụng các phương pháp: tổng hợp, so sánh,
phân tích, đối chiếu và thống kê để làm sáng tỏ những nội dung cần nghiên cứu.
5. Bố cục của khóa luận:
Khóa luận gồm những phần sau:
Lời nói đầu
Chương 1: Lý luận chung về chi phí trong việc xác định thu nhập chịu thuế
thu nhập doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng áp dụng quy định pháp luật để xác định chi phí được
trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp vá các giải pháp hoàn thiện.
Kết luận


4

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHI PHÍ
TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH THU NHẬP CHỊU THUẾ TNDN
1.1 TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT THUẾ TNDN

1.1.1 Khái niệm thuế TNDN
Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) là loại thuế thu vào thu nhập xuất hiện rất sớm
trong lịch sử phát triển của các sắc thuế. Sự ra đời thuế TNDN nói riêng và thuế thu vào
thu nhập nói chung chủ yếu bắt nguồn từ các lý do sau đây:
Thứ nhất, đảm bảo nhu cầu tài chính cho nhà nước. Đây được xem là nguồn gốc
đầu tiên và chủ yếu cho sự ra đời của bất kỳ sắc thuế nào, trong đó có thuế TNDN. Bằng
quyền lực chính trị, nhà nước thu một phần của cải trong xã hội để tạo nên nguồn vật
chất duy trì sự tồn tại và thực hiện các chức năng của mình.
Thứ hai, xuất phát từ nhu cầu tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội.
Bằng cách đánh vào thu nhập của các chủ thể có tiềm lực về vốn, tài sản và tư liệu sản
xuất trong xã hội, thuế TNDN đã giúp nhà nước phân phối lại thu nhập một cách gián
tiếp, giảm thiểu sự gia tăng chênh lệch giàu nghèo, đảm bảo công bằng xã hội.
Thứ ba, phục vụ cho nhu cầu quản lý và điều tiết các hoạt động kinh tế xã hội của
nhà nước. Trong các công cụ để điều tiết nền kinh tế thì thuế, mà đặc biệt là thuế TNDN
ln được xem là cơng cụ mang lại hiệu quả cao vì nó tác động vào thu nhập của các
doanh nghiệp trong xã hội, từ đó hướng các doanh nghiệp với tư cách là chủ thể chủ yếu
của nền kinh tế phát triển theo những định hướng của nhà nước một cách tự nguyện.
Trên đây là các lý do dẫn đến sự hình thành của thuế TNDN và chúng cũng chính là các
vai trò chủ yếu của thuế TNDN trong nền kinh tế thị trường. Nhận thức rõ được tầm
quan trọng của sắc thuế này đối với công cuộc đổi mới của đất nước, Nhà nước ta đã
sớm ban hành loại thuế đánh vào thu nhập của các cơ sở sản xuất kinh doanh dưới tên
gọi là thuế Lợi tức. Trước năm 1990, loại thuế này chỉ áp dụng cho kinh tế ngoài quốc
doanh, các doanh nghiệp quốc doanh thì áp dụng chế độ trích nộp lợi nhuận. Kể từ sau
năm 1990, cùng với công cuộc cải cách thuế lần thứ I, Luật thuế lợi tức mới được ban
hành để áp dụng thống nhất đối với tất cả các tổ chức, cá nhân kinh doanh thuộc mọi
thành phần kinh tế có thu nhập từ hoạt động kinh doanh trong phạm vi lãnh thổ Việt
Nam. Sau khi được ban hành và áp dụng trong thực tiễn, Luật thuế lợi tức mới đã mang
lại những kết quả khả quan hơn so với chế độ thu cũ. Tuy nhiên, sau 8 năm thực hiện,
thuế Lợi tức dần dần bộc lộ nhiều nhược điểm và khơng cịn phù hợp với tình hình kinh
tế Việt nam trong thời kỳ mới: thời kỳ đẩy mạnh hội nhập với nền kinh tế khu vực và

trên thế giới. Vì vậy, Luật thuế TNDN đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ


5

nghĩa Việt Nam thông qua ngày 10/5/1997 (gọi tắt là luật thuế TNDN 1997) và có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/01/1999 thay cho Luật thuế lợi tức 1990. Trải qua hơn mười
năm phát triển, Luật thuế TNDN đã qua hai lần thay thế cho phù hợp với tình hình kinh
tế xã hội của đất nước đó là Luật thuế TNDN được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2003 (gọi tắt là luật thuế TNDN 2003)
thay thế cho Luật thuế TNDN 1997, và gần đây nhất là Luật thuế TNDN được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 03 tháng 6 năm 2008 và có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2009 (gọi tắt là Luật thuế TNDN 2008)
thay thế cho Luật thuế TNDN 2003. Và tại thời điểm thực hiện khóa luận này, Luật thuế
TNDN 2008 đang là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị thi hành và có hiệu lực pháp
lý cao nhất điều chỉnh về thuế TNDN trên phạm vi cả nước kể từ ngày 01 tháng 01 năm
2009.
Trên cơ sở những quy định hiện hành của pháp luật, thuế TNDN có thể được hiểu một
cách khái quát như sau:
Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu, đánh vào thu nhập phát sinh từ
hoạt động kinh doanh của các tổ chức trong xã hội nhằm động viên một phần thu
nhập của các chủ thể này vào ngân sách nhà nước, đồng thời thực hiện chính sách
điều tiết vĩ mơ nền kinh tế và đảm bảo cơng bằng xã hội, góp phần thúc đẩy kinh tế
xã hội phát triển.
1.1.2 Đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế
Để đảm bảo tính khả thi của một sắc thuế, khi ban hành bất kỳ sắc thuế nào, nhà làm luật
trước hết phải quy định rõ thuế đó sẽ đánh vào cái gì (đối tượng chịu thuế), và ai sẽ là
người có nghĩa vụ nộp thuế tức là đối tượng nộp thuế. Do đó, việc nghiên cứu hai nội
dung này là việc làm cần thiết không thể bỏ qua khi nghiên cứu bất kỳ sắc thuế cụ thể
nào.

1.1.2.1 Đối tượng nộp thuế TNDN
Đối tượng nộp thuế TNDN là các tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ có thu nhập chịu thuế. Các tổ chức này bao gồm: doanh nghiệp và các tổ chức khác
có thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh và có thu nhập từ hoạt động kinh doanh của
mình.
Tìm hiểu về đối tượng nộp thuế TNDN, cần phải xác định rõ sự khác biệt giữa hai khái
niêm: người nộp thuế và đối tượng nộp thuế TNDN. Nếu như Điều 1 Luật thuế TNDN
2003 quy định rất rõ thế nào là đối tượng nộp thuế TNDN, thì Điều 2 Luật thuế TNDN
2008 chỉ quy định về người nộp thuế TNDN thay vì quy định về đối tượng nộp thuế
TNDN. Điều này nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa Luật quản lý thuế 2006, với tư cách


6

là luật hình thức hay luật tổ chức thực hiện các luật thuế nói chung và các luật thuế là
luật nội dung. Theo khoản 2, Điều 1, Luật quản lý thuế 2006 khái niệm người nộp thuế
bao gồm: (i) tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế;
(ii) tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước do
cơ quan quản lý thuế quản lý thu theo quy định của pháp luật; (iii) tổ chức, cá nhân khấu
trừ thuế; tổ chức, cá nhân làm dịch vụ về thuế thay người nộp thuế.
Như vậy, khái niệm người nộp thuế có nội hàm rộng hơn nhiều so với khái niệm đối
tượng nộp thuế vì ngồi những chủ thể trực tiếp có nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước (đối
tượng nộp thuế) còn bao gồm thêm tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế, và tổ chức, cá nhân
làm dịch vụ về thuế thay cho người nộp thuế. Trong pháp luật thuế TNDN, tổ chức, cá
nhân khấu trừ thuế được quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định của chính phủ số
124/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật thuế TNDN (sau đây gọi tắt là Nghị định 124/2008/NĐ-CP) bao
gồm: tổ chức được thành lập và hoạt động (hoặc đăng ký hoạt động) theo quy định của
pháp luật Việt Nam, cá nhân kinh doanh là người nộp thuế theo phương pháp khấu trừ
tại nguồn trong trường hợp mua dịch vụ (kể cả mua dịch vụ gắn với hàng hoá) của

doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật nước ngồi (có hoặc khơng có
cơ sở thường trú tại Việt Nam).
Tất nhiên, xét về mặt nguyên tắc, đối tượng nộp thuế TNDN mới là chủ thể trực tiếp có
nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật. Theo đó, trường hợp người nộp thuế
TNDN không phải là đối tượng nộp thuế TNDN không thực hiện đúng nghĩa vụ về thuế
TNDN thì đối tượng nộp thuế vẫn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Sau đó đối
tượng nộp thuế có quyền yêu những chủ thể có lỗi phải bồi thường thiệt hại cho mình và
việc này tuân theo pháp luật dân sự. Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng có một ngoại lệ.
Đó là trường hợp mà người nộp thuế TNDN, tuy không phải là đối tượng nộp thuế
TNDN nhưng có nghĩa vụ phải thực hiện khấu trừ thuế tại nguồn theo quy định. Ở
trường hợp này, họ phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về khoản thuế mà họ phải
khấu trừ. Mục đích chủ yếu của nhà làm luật khi quy định như vậy là để đảm bảo nguồn
thu cho ngân sách trong trường hơp nhà nước khơng có biện pháp hữu hiệu tác động vào
những đối tượng nộp thuế để buộc các chủ thể này phải thực hiên nghĩa vụ nộp thuế. Ví
dụ, đối với những doanh nghiệp nước ngồi khơng có cơ sở thường trú tại Việt Nam,
nhưng có phát sinh thu nhập là đối tượng chịu thuế TNDN trên lãnh thổ Việt Nam, thì sẽ
áp dụng phương pháp khấu trừ tại nguồn để tính thuế TNDN1. Lúc này, bên Việt Nam

1

Theo điểm 1 mục III Phần B Thông tư số 134/2008/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế
áp dụng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập tại Việt Nam.


7

phải chịu trách nhiệm nộp thuế thay cho doanh nghiệp nước ngồi khơng có cơ sở
thường trú tại Việt Nam để bảo đảm nguồn thu cho Ngân sách nhà nước.
Theo quy định tại Điều 2 Luật thuế TNDN 2008 được hướng dẫn tại Nghị định
124/2008/NĐ-CP, và thông tư số 130/2008/TT-BTC ngày 26 tháng 12 năm 2008 hướng

dẫn thi hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và hướng dẫn thi hành
Nghị định số 124/2008/NĐ-CP, (sau đây gọi tắt là thông tư 130/2008/TT-BTC), người
nộp thuế là đối tượng nộp thuế TNDN bao gồm các tổ chức hoạt động sản xuất, kinh
doanh hàng hố, dịch vụ có thu nhập chịu thuế (sau đây gọi là doanh nghiệp), bao gồm:
Một là, doanh nghiệp, tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật Việt
Nam. Nhóm đối tượng này gồm những chủ thể sau đây:
Thứ nhất là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật doanh
nghiệp, Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật đầu tư,
Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật chứng khốn, Luật dầu khí,
Luật thương mại và các văn bản pháp luật khác dưới các hình thức: Cơng ty cổ phần;
Cơng ty trách nhiệm hữu hạn; Công ty hợp danh; Doanh nghiệp tư nhân; Doanh nghiệp
Nhà nước; Văn phòng Luật sư, Văn phịng cơng chứng tư; Các bên trong hợp đồng hợp
tác kinh doanh; Các bên trong hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí, xí nghiệp liên
doanh dầu khí, Cơng ty điều hành chung.
Thứ hai là các đơn vị sự nghiệp cơng lập, ngồi cơng lập có sản xuất kinh doanh hàng
hố, dịch vụ có thu nhập trong tất cả các lĩnh vực.
Thứ ba là các tổ chức được thành lập và hoạt động theo Luật hợp tác xã.
Các chủ thể này sẽ phải nộp thuế TNDN khi có thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt
Nam và cả ở nước ngoài.
Hai là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật nước ngoài (sau
đây gọi là doanh nghiệp nước ngồi) có cơ sở thường trú tại Việt Nam. Theo hướng
dẫn tại điểm 1.4 phần A Thông tư 130/2008/TT-BTC thì cơ sở thường trú của doanh
nghiệp nước ngồi là cơ sở sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ mà thơng qua cơ sở
này, doanh nghiệp nước ngồi tiến hành một phần hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh
doanh tại Việt Nam mang lại thu nhập2. Chủ thể này sẽ phải chịu thuế TNDN đối với

2

Cơ sở thường trú của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam bao gồm:
 Chi nhánh, văn phòng điều hành, nhà máy, công xưởng, phương tiện vận tải, hầm mỏ, mỏ dầu, khí hoặc địa

điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên khác tại Việt Nam;
 Địa điểm xây dựng, cơng trình xây dựng, lắp đặt, lắp ráp;
 Cơ sở cung cấp dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư vấn thông qua người làm công hay một tổ chức, cá nhân
khác;
 Đại lý cho doanh nghiệp nước ngoài;


8

mọi thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam (khơng phân biệt có liên quan hay khơng
có liên quan đến cơ sở thường trú đó) và thu nhập chịu thuế phát sinh ngoài Việt Nam
nếu khoản thu nhập này liên quan đến hoạt động của cơ sở thường trú đó ở Việt Nam.
Ba là doanh nghiệp nước ngồi khơng có cơ sở thường trú tại Việt Nam phải chịu
thuế TNDN đối với các khoản thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam. Đối với
trường hợp này việc kê khai, nộp thuế TNDN sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật thuế
TNDN 2008 và thông tư số 134/2008/TT-BTC ngày 31 tháng 12 năm 2008 của Bộ Tài
chính hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế áp dụng đối với tổ chức, cá nhân nước ngồi
kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập tại Việt Nam.
Bốn là tổ chức khác có tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá hoặc dịch vụ
và có thu nhập chịu thuế.
Tóm lại, đối tượng nộp thuế TNDN theo Luật thuế TNDN 2008 khá rộng, bao
gồm hầu như tất cả các tổ chức, doanh nghiệp có thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh
doanh trong phạm vi cả nước, kể cả doanh nghiệp nước ngồi có hoặc khơng có cơ sở
thường trú tại Việt Nam.
1.1.2.2 Đối tượng chịu thuế TNDN
Theo quy định tại Điều 3, Luật thuế TNDN 2008, được hướng dẫn thi hành tại Điều 3
Nghị định số 124/2008/NĐ-CP thì đối tượng chịu thuế TNDN bao gồm: thu nhập từ
hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập khác. Cụ thể:
Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh: là thu nhập phát sinh trực tiếp từ các lĩnh
vực, ngành nghề được ghi nhận trên giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh

nghiệp.
Thu nhập khác3: là các khoản thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế mà khoản thu nhập
này khơng phát sinh từ các ngành, nghề lĩnh vực kinh doanh có trong đăng ký kinh
doanh của doanh nghiệp. Thu nhập khác bao gồm các khoản thu nhập sau: (i) thu nhập
từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản; (ii) thu nhập từ quyền sở hữu,
quyền sử dụng tài sản; (iii) thu nhập từ chuyển nhượng, cho thuê, thanh lý tài sản; (iv)
thu nhập từ lãi tiền gửi, cho vay vốn, bán ngoại tệ; (v) hồn nhập các khoản dự phịng;
(vi) thu khoản nợ khó địi đã xố nay địi được; thu khoản nợ phải trả không xác định
được chủ; (vii) khoản thu nhập từ kinh doanh của những năm trước bị bỏ sót; (viii) các
khoản thu nhập khác, kể cả thu nhập nhận được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh ở
ngoài Việt Nam.
 Đại diện tại Việt Nam trong trường hợp là đại diện có thẩm quyền ký kết hợp đồng đứng tên doanh nghiệp
nước ngoài hoặc đại diện khơng có thẩm quyền ký kết hợp đồng đứng tên doanh nghiệp nước ngoài nhưng
thường xuyên thực hiện việc giao hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ tại Việt Nam.
3
Việc xác định “phần thu nhập khác” chịu thuế TNDN thực hiện theo hướng dẫn tại Mục V Phần C Thông tư
130/2008/TT-BTC


9

Như vậy, khi xác định một khoản thu nhập là đối tượng chịu thuế TNDN có phải phát
sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh hay là thu nhập khác của doanh nghiệp thì điều
quan trọng là phải dựa vào nội dung giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh
nghiệp. Và do vậy, những khoản thu nhập khác được liệt kê ở trên đây chỉ mang tính
tương đối. Bởi vì đối với một số doanh nghiệp nếu có đăng ký kinh doanh trong các lĩnh
vực được liệt kê ở phần thu nhập khác nêu trên và phát sinh thu nhập ở những lĩnh vực
đó thì vẫn được xác định là thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Ví dụ, đối với doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực bất động sản (được thể
hiện trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp) thì thu nhập từ

chuyển nhượng bất động sản được xem là thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh
chính của doanh nghiệp.
1.1.2.3 Thu nhập được miễn thuế TNDN:
Thu nhập được miễn thuế TNDN là những thu nhập mà lẽ ra khi phát sinh, đối tượng
nộp thuế vẫn phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế TNDN nhưng vì một số lý do nhất định,
nhà nước miễn cho họ không phải thực hiện nghĩa vụ này. Lý do để nhà nước miễn thuế
thường xuất phát từ chính sách điều tiết vĩ mơ nền kinh tế, cụ thể là nhà nước muốn
khuyến khích đối tượng nộp thuế đầu tư vào những lĩnh vực phát sinh các loại thu nhập
đó.
Căn cứ vào quy định tại Điều 4 Luật thuế TNDN 2008 và Điều 4 Nghị định
124/2008/NĐ-CP, mục VI Phần C thông tư 130/2008/NĐ-CP, thu nhập miễn thuế có thể
được chia thành các nhóm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất là nhóm thu nhập được miễn thuế nhằm khuyến khích phát triển nơng
nghiệp: thu nhập từ trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản của tổ chức được thành
lập theo Luật hợp tác xã; thu nhập từ việc thực hiện dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ
nông nghiệp gồm: thu nhập từ dịch vụ tưới, tiêu nước; cày, bừa đất; nạo vét kênh,
mương nội đồng; dịch vụ phòng trừ sâu, bệnh cho cây trồng, vật nuôi; dịch vụ thu hoạch
sản phẩm nông nghiệp.
Thứ hai là nhóm thu nhập được miễn thuế nhằm khuyến khích phát triển công nghệ
mới, bao gồm: thu nhập từ việc thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ; thu nhập từ doanh thu bán sản phẩm trong thời kỳ sản xuất thử nghiệm; thu
nhập từ doanh thu bán sản phẩm làm ra từ công nghệ mới lần đầu tiên áp dụng tại Việt
Nam.
Thứ ba là nhóm thu nhập có liên quan đến chính sách xã hội: gồm có: thu nhập từ
hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hố, dịch vụ của doanh nghiệp có số lao động là
người khuyết tật, người sau cai nghiện ma tuý, người nhiễm HIV bình quân trong năm
chiếm từ 51% trở lên trong tổng số lao động bình quân trong năm của doanh nghiệp; thu


10


nhập từ hoạt động dạy nghề dành riêng cho người dân tộc thiểu số, người khuyết tật, trẻ
em có hồn cảnh đặc biệt khó khăn, đối tượng tệ nạn xã hội; khoản tài trợ nhận được để
sử dụng cho hoạt động giáo dục, nghiên cứu khoa học, văn hoá, nghệ thuật, từ thiện,
nhân đạo và hoạt động xã hội khác tại Việt Nam.
Thứ tư là nhóm thu nhập khác: là thu nhập được chia từ hoạt động góp vốn, mua cổ
phần, liên doanh, liên kết kinh tế với doanh nghiệp trong nước, sau khi bên nhận góp
vốn, phát hành cổ phiếu, liên doanh, liên kết đã nộp thuế thu nhập doanh nghiệp theo
quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Khác với các nhóm thu nhập kể trên, chủ
yếu xuất phát từ chính sách điều tiết vĩ mơ nền kinh tế, thu nhập này được miễn thuế
TNDN là để đáp ứng một trong những nguyên tắc cơ bản khi ban hành bất kỳ sắc thuế
nào đó là nguyên tắc tránh đánh thuế hai hay nhiều lần, đảm bảo sự đóng góp cơng bằng,
hợp lý giữa các đối tượng nộp thuế, khuyến khích hoạt động sản xuất kinh doanh phát
triển.
1.1.3 Căn cứ tính thuế
Thơng qua việc nghiên cứu về đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế TNDN, chúng
ta có thể xác định một cách rõ ràng rằng khi nào một chủ thể là đối tượng nộp thuế sẽ
phát sinh nghĩa vụ nộp thuế TNDN, và đây chỉ là bước khởi đầu của cả một quá trình.
Bước tiếp theo mà doanh nghiệp cần phải quan tâm thực hiện là tự mình xác định cụ thể
số thuế TNDN mà doanh nghiệp phải nộp là bao nhiêu. Việc này phải dựa trên các căn
cứ tính thuế. Trên thực tế, những xung đột giữa cơ quan thuế và doanh nghiệp phần lớn
đều xuất hiện trong bước này. Chính vì vậy, việc am hiểu các quy định của pháp luật
thuế TNDN về các căn cứ tính thuế là hết sức quan trọng, khơng chỉ giúp cơ quan nhà
nước có thể thi hành trên thực tế chính sách thuế TNDN theo đúng theo các quy định
của pháp luật, tránh tình trạng thất thu thuế mà còn giúp các doanh nghiệp bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của mình trước các cơ quan nhà nước.
Theo điều 6, Luật thuế TNDN 2008 được hướng dẫn tại Điều 5 Nghị định số
124/2008/NĐ-CP, căn cứ tính thuế TNDN bao gồm thu nhập tính thuế trong kỳ và
thuế suất. Tại mục 1 phần B thông tư 130/2008/NĐ-CP quy định cơng thức tính số thuế
TNDN phải nộp trong kỳ tính thuế như sau:

Thuế TNDN phải nộp = thu nhập tính thuế

thuế suất

Trong trường hợp doanh nghiệp có trích quỹ khoa học và cơng nghệ thì thuế TNDN phải
nộp được xác định như sau:


11

Thuế TNDN
=
phải nộp

(

Thu nhập
tính thuế

-

Phần trích lập quỹ
KH&CN

)X

Thuế suất

Như vậy, căn cứ tính thuế TNDN là thu nhập tính thuế và thuế suất. Khi đã xác định
được cả hai căn cứ tính thuế này thì việc xác định số thuế mà doanh nghiệp phải nộp rất

đơn giản. Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến sự xung đột giữa doanh nghiệp với cơ quan
thuế trong việc xác định số thuế TNDN phải nộp? Để tìm hiểu rõ hơn, chúng ta sẽ lần
lượt nghiên cứu các quy định của pháp luật thuế TNDN về cả hai căn cứ tính thuế này.
1.1.3.1 Thu nhập tính thuế
Thu nhập tính thuế được quy định tại Điều 7 Luật thuế TNDN 2008, Điều 6 Nghị định
124/2008/NĐ-CP, Mục I Phần C Thơng tư 130/2008/TT-BTC.
Theo đó, thu nhập tính thuế được xác định bằng cơng thức sau:

Thu nhập
tính thuế

Thu nhập
chịu thuế

Thu nhập được
miễn thuế

Các khoản lỗ được kết
chuyển theo quy định

Trong đó:
Thu nhập được miễn thuế đã được trình bày tại mục 1.1.2.3 của khóa luận này.
Các khoản lỗ được kết chuyển theo quy định tại Điều 16 Luật thuế TNDN 2008, được
hướng dẫn thi hành tại Điều 7 Nghị định 124/2008/NĐ-CP, Mục VII Phần C thông tư
130/2008/TT-BTC. Theo đó, khái niệm lỗ phát sinh trong kỳ tính thuế được định nghĩa
là số chênh lệch âm về thu nhập chịu thuế. Như vậy, để xác định doanh nghiệp có lỗ hay
khơng, chúng ta trước tiên phải xác định thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế của doanh
nghiệp, nếu là số âm thì tức là doanh nghiệp bị lỗ và sẽ được kết chuyển lỗ vào các kỳ
tính thuế sau theo quy định của pháp luật
Thu nhập chịu thuế: được xác định bằng cơng thức:

Thu nhập

Doanh
=

chịu thuế

Chi phí
-

thu

Các khoản
+

được trừ

thu nhập khác

Như vậy, việc xác định thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế của doanh nghiệp có tầm
ảnh hưởng đặc biệt quan trọng trong việc xác định thu nhập tính thuế TNDN để từ đó,
xác định số thuế TNDN cụ thể mà doanh nghiệp phải nộp trong kỳ tính thuế là bao
nhiêu. Khơng chỉ vậy, chỉ khi xác định chính xác thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế


12

của doanh nghiệp, chúng ta mới có thể xác định một cách chắc chắn rằng doanh nghiệp
có thực sự phát sinh nghĩa vụ nộp thuế TNDN trên thực tế hay không. Bởi lẽ, nếu xác
định thu nhập chịu thuế TNDN của doanh nghiệp trong kỳ tính thuế bị âm, tức là doanh

nghiệp bị lỗ, thì doanh nghiệp khơng những khơng phải nộp thuế TNDN cho kỳ tính
thuế này, mà cịn được chuyển số lỗ vào những kỳ tính thuế sau theo quy định của pháp
luật. Với những ý nghĩa đó, thu nhập chịu thuế trở thành yếu tố trọng tâm cần phải tập
trung nghiên cứu khi muốn xác định chính xác số thuế TNDN phải nộp của doanh
nghiệp trong kỳ tính thuế.
Theo cơng thức tính thu nhập chịu thuế TNDN trong kỳ tính thuế vừa được nêu ở trên,
để xác định thu nhập chịu thuế TNDN, chúng ta trước hết phải làm rõ các yếu tố đó là:
doanh thu, chi phí được trừ và các khoản thu nhập khác4.

Doanh thu:
Việc xác định doanh thu được thực hiện theo Điều 8 Luật thuế TNDN 2008,
Điều 8 Nghị định 124/2008/NĐ-CP và Mục III phần C Thơng tư 130/2008/TT-BTC.
Theo đó, doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là tồn bộ tiền bán hàng hố, tiền gia
cơng, tiền cung cấp dịch vụ bao gồm cả khoản trợ giá, phụ thu, phụ trội mà doanh
nghiệp được hưởng không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền. Cũng cần
lưu ý, doanh nghiệp chỉ ghi nhận doanh thu để xác định đối tượng chịu thuế TNDN khi
phát sinh thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà thơi, cịn thu
nhập khác sẽ được ghi nhận và quản lý riêng.
Trên thực tế, việc xác định doanh thu để tính thu nhập chịu thuế TNDN khơng
q phức tạp, bởi vì những quy định của pháp luật thuế TNDN về vấn đề này khá rõ
ràng và đầy đủ. Những xung đột của doanh nghiệp và cơ quan thuế trong việc xác định
doanh thu thường đơn thuần chỉ liên quan đến các kỹ thuật kế toán như việc định khoản
các doanh thu cụ thể vào các tài khoản, về thời điểm ghi nhận doanh thu,… chứ ít khi
xảy ra sự xung đột về việc một thu nhập cụ thể phát sinh có phải ghi nhận doanh thu để
xác định thu nhập chịu thuế hay không nên không ảnh hưởng nhiều đến việc xác định
thu nhập chịu thuế TNDN.

Chi phí được trừ:
Việc xác định chi phí được quy định tại điều 9 Luật thuế TNDN 2008, Điều 9
Nghị định 124/2008/NĐ-CP và mục IV phần C thông tư 130/2008/TT-BTC. Cần lưu ý

rằng, không phải mọi chi phí của doanh nghiệp đều có thể được trừ khi xác định thu
nhập chịu thuế TNDN, mà chỉ những khoản chi nào đáp ứng được một sô điều kiện nhất
định hoặc pháp luật có quy định thì mới được trừ vào doanh thu để xác định thu nhập

4

Các khoản thu nhập khác đã được trình bày tại Mục 1.1.2.2 của khóa luận này.


13

chịu thuế TNDN. So với việc xác định doanh thu, việc xác định các khoản chi phí được
trừ hết sức khó khăn và phức tạp, bởi các lý do chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, xét về mặt nội dung: doanh thu là khái niệm đã chứa đựng tất cả các loại chi
phí trong đó. Trong một khoản doanh thu cụ thể thường chứa đựng rất nhiều khoản chi
phí khác nhau, có khoản chi phí chỉ ảnh hưởng đến một khâu của q trình sản xuất kinh
doanh nhưng cũng có khoản chi phí ảnh hưởng đến nhiều khâu hoặc tồn bộ q trình
sản xuất kinh doanh, gây khó khăn cho việc kê khai của doanh nghiệp cũng như việc
kiểm tra của cơ quan thuế.
Thứ hai, xét về nguồn gốc phát sinh: doanh thu thường phát sinh từ hai hình thức cơ bản
đó là: bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Cịn chi phí thì rất phức tạp, phát sinh từ rất
nhiều hoạt động khác nhau, chủ yếu phụ thuộc vào nhu cầu, khả năng, trình độ quản lý
của doanh nghiệp như: nhu cầu quản lý, nhu cầu cần thiết để tạo ra doanh thu, nhu cầu
phát triển chiến lược của doanh nghiệp, nhu cầu về đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, nhu cầu
về phát triển nguồn nhân lực,…. Và tương ứng với những nhu cầu đa dạng đó của doanh
nghiệp, hàng loạt các khoản mục chi phí phát sinh trong thực tế, khiến cho các khoản
mục chi phí ngày càng đa dạng và phong phú, pháp luật khó có thể theo kịp được.
Khơng chỉ có vậy, trong sự đa dạng của các khoản mục chi phí, có những khoản mục chi
phí thể hiện ra bên ngồi dưới dạng vật chất, có thể dễ dàng theo dõi và nhận biết như:
chi phí ngun vật liệu sản xuất, chi phí cơng cụ, dụng cụ,… nhưng cũng có những dạng

chi phí khơng thể hiện ra bên ngoài dưới dạng vật chất mà việc theo dõi, quản lý hầu hết
chỉ có thể quy về giá trị của các khoản mục chi phí đó, nên việc kiểm tra, đối chiếu gặp
rất nhiều khó khăn như: chi phí về khấu hao tài sản cố định, chi phí cho việc quảng cáo,
tiếp thị,….
Thứ ba, xét về xu hướng biến đổi: doanh thu của doanh nghiệp thường có xu hướng thay
đổi chậm hơn các khoản mục chi phí chứa đựng trong doanh thu đó, và hầu hết trong
mọi trường hợp, khi cung cầu trên thị trường khơng có nhiều biến động thì sự tăng hay
giảm của doanh thu bắt nguồn từ sự thay đổi của các khoản mục chi phí cấu thành nên
doanh thu đó. Thêm vào đó, yếu tố doanh thu khi xác định thu nhập chịu thuế của doanh
nghiệp thường chỉ xuất hiện trong một hoặc một số ít lĩnh vực kinh doanh cụ thể của
doanh nghiệp, nhưng các khoản mục chi phí tạo nên doanh thu đó thường liên quan đến
rất nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, nên xét một cách tổng thể các khoản mục chi
phí này thường có xu hướng thay đổi liên tục không ngừng theo sự thay đổi của giá cả
trong nền kinh tế thị trường.
Như vậy, so với yếu tố doanh thu, yếu tố chi phí được trừ thực sự phức tạp khơng chỉ
bởi tính đa dạng, phong phú của nó mà cịn bởi sự thay đổi liên tục không ngừng theo xu
hướng biến đổi của giá cả trong nền kinh tế thị trường. Do đó, địi hỏi hệ thống pháp luật


14

phải quy định một cách chặt chẽ, hợp lý, vừa khái quát để có thể bao quát được hết các
khoản mục chi phí của doanh nghiệp trên thực tế, lại vừa phải chi tiết để tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc áp dụng quy định của pháp luật đối với các khoản
mục chi phí thường xuyên phát sinh, đồng thời tạo tính chủ động cho doanh nghiệp
trong việc kinh doanh của mình. Chính vì vậy mà trên thực tế, xung đột giữa cơ quan
thuế và doanh nghiệp thường phát sinh trong việc xem xét những khoản chi phí nào là
đựơc trừ hay khơng được trừ, đặc biệt là đối với những khoản chi phí mới phát sinh
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi xung đột này không được giải quyết
một cách hợp lý trên cơ sở quy định pháp luật sẽ dẫn đến việc xác định nghĩa vụ thuế

TNDN của doanh nghiệp không phù hợp, có thể gây khó khăn cho doanh nghiệp trong
hoạt động kinh doanh hoặc gây thất thu thuế cho nhà nước.
Xuất phát từ lý do trên, việc nghiên cứu và hiểu rõ các quy định của pháp luật thuế
TNDN, đặc biệt là việc xác định chi phí được trừ là hết sức cần thiết. Điều này không
chỉ tạo sự thống nhất trong việc áp dụng các quy định của pháp luật thuế TNDN vào
thực tiễn, đảm bảo nguyên tắc pháp chế XHCN mà còn tạo sự cân bằng, hài hòa cần
thiết giữa lợi ích của nhà nước và lợi ích của doanh nghiệp nhằm phát huy tối đa vai trò
của thuế TNDN trong nền kinh tế.
1.1.3.2 Thuế suất
Thuế suất là một trong hai căn cứ quan trọng nhằm xác định số thuế TNDN phải nộp.
Việc quy định mức thuế suất cao hay thấp phụ thuộc vào quan điểm điều tiết thu nhập và
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà nhà nước đặt ra trong từng giai đoạn lịch sử nhất
định.
Ở Việt Nam, trước ngày 01/01/2009, các doanh nghiệp phải nộp thuế TNDN với mức
thuế suất là 28% theo quy định tại Điều 10 Luật thuế TNDN 2003. Nhưng kể từ ngày 01
tháng 01 năm 2009, là ngày Luật thuế TNDN 2008 có hiệu lực thì mức thuế suất này
giảm xuống cịn 25%5. Điều này khơng chỉ phù hợp với xu hướng chung của các nước
trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan,… mà cịn nhận được sự đồng tình, ủng hộ từ
phía các doanh nghiệp cũng như các nhà nghiên cứu khoa học. Bởi lẽ, trong giai đoạn
hiện nay, khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã bắt đầu tác động tiêu cực đến nền
kinh tế nước ta thì việc giảm mức thuế suất chung để khuyến khích doanh nghiệp có
thêm nguồn lực tài chính, tăng tích luỹ, tích tụ đổi mới thiết bị, đẩy mạnh đầu tư phát
triển, nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời tăng tính hấp dẫn của mơi trường đầu tư ở
Việt Nam là hướng đi đúng đắn giúp đất nước sớm thoát ra khỏi cơn bão tài chính tồn
cầu, khơi phục sự phát triển kinh tế. Hơn nữa, việc giảm thuế suất thuế TNDN còn là
biện pháp quan trọng làm suy yếu động cơ trốn thuế, gian lận thuế của các doanh
5

Cơ sở pháp lý: Điều 10 Luật thuế TNDN 2008



15

nghiệp. Theo đó, về lâu dài thì nguồn thu ngân sách sẽ khơng bị giảm mà có thể tăng
lên.
Tóm lại, với đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế khá rộng bao gồm tất cả các loại
hình doanh nghiệp với hầu như toàn bộ thu nhập phát sinh của các chủ thể này nên pháp
luật thuế TNDN có tầm quan trọng đặc biệt trong chính sách thuế của quốc gia. Theo đó,
pháp luật thuế TNDN thực sự khơng chỉ mang lại nguồn thu quan trọng cho ngân sách
nhà nước mà cịn là cơng cụ điều tiết vĩ mơ nền kinh tế một cách hiệu quả, giúp nhà
nước tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội.
Như đã trình bày ở trên, trong pháp luật thuế TNDN, một trong những nội dung nổi bật,
thu hút được nhiều sự quan tâm của các doanh nghiệp, các nhà khoa học pháp lý đó
chính là quy định về các khoản chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN.
Trên thực tế, đây cũng chính là nội dung chủ yếu thường phát sinh xung đột giữa cơ
quan thuế và doanh nghiệp trong việc xác định số thuế TNDN mà doanh nghiệp phải
nộp. Do đó, nếu khơng khéo léo điều chỉnh, pháp luật thuế TNDN sẽ dễ vấp phải sự
phản ứng mạnh mẽ từ phía các doanh nghiệp, gây ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu và hồn thiện các quy định của pháp luật về chi
phí trong xác định thu nhập chịu thuế TNDN là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách, góp
phần vào việc đảm bảo cho chính sách thuế TNDN phát huy tốt vai trị của mình trong
nền kinh tế thị trường.
1.2 CHI PHÍ TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH THU NHẬP CHỊU THUẾ TNDN
1.2.1 Khái niệm chi phí kinh doanh
Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2005, khái niệm kinh doanh được
định nghĩa như sau: “kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các
cơng đoạn của q trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch
vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”. Có thể khẳng định, kinh doanh là q trình
phát sinh thường xuyên và liên tục các loại hao phí khác nhau như: hao phí nguyên vật
liệu, hao phí về nhân cơng, hao phí về khấu hao tài sản cố định,… Các loại hao phí này

tuy khác nhau nhưng đều được doanh nghiệp quy ra giá trị bằng tiền và ghi nhận lại để
phục vụ cho mục đích quản trị doanh nghiệp, hạch tốn vào trong giá bán của hàng hóa,
dịch vụ, cũng như để thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với nhà nước. Sự biểu hiện ra bên
ngoài của các khoản hao phí đó, hay giá trị bằng tiền của các hao phí được gọi chung là
chi phí kinh doanh.
Như vậy, chúng ta có thể khái quát khái niệm về chi phí kinh doanh như sau: chi phí
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tồn bộ hao phí
mà doanh nghiệp bỏ ra để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu
tối đa hóa lợi nhuận, tính trong một khoảng thời gian nhất định gọi là kỳ tính thuế.


16

Q trình sản xuất kinh doanh bỏ ra chi phí và kết quả cuối cùng là đem lại doanh thu
cho doanh nghiệp. Như vậy, doanh thu của doanh nghiệp tự nó đã chứa đựng các hao
phí nhất định được thể hiện bằng tiền là các khoản mục chi phí. Có thể khẳng định,
doanh nghiệp khơng thể có doanh thu, hay nói đúng hơn khơng thể phát sinh thu nhập là
đối tượng chịu thuế TNDN, khi không bỏ ra bất kỳ hao phí nào. Và với tư cách là sắc
thuế đánh vào thu nhập thực tế của các doanh nghiệp, việc nhà nước loại bỏ các khoản
chi phí ra khỏi đối tượng chịu thuế TNDN là việc làm đương nhiên và hợp lý, phù hợp
với bản chất của sắc thuế.
Tuy nhiên, để đảm bảo nguồn thu của ngân sách nhà nước, hạn chế tình trạng trốn thuế
của một số doanh nghiệp thơng qua việc đẩy cao chi phí so với thực tế, đồng thời
khuyến khích các doanh nghiệp giảm các khoản chi phí khơng cần thiết đến mức tối đa
trong kinh doanh, thực hành tiết kiệm, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng thích
nghi trong điều kiện hội nhập và phát triển, nhà nước phải bằng các quy định của pháp
luật quản lý chặt chẽ việc khấu trừ các khoản chi phí khi xác định thu nhập tính thuế
TNDN của doanh nghiệp, sao cho vừa đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của doanh
nghiệp, vừa đảm bảo lợi ích chung của nhà nước, của xã hội.
Chính vì những lý do nêu trên mà pháp luật điều chỉnh về chi phí khi xác định thu nhập

chịu thuế TNDN là một bộ phận quan trọng trong pháp luật thuế TNDN, góp phần làm
cho thuế TNDN phát huy tốt vai trị của mình trong nền kinh tế thị trường.
1.2.2 Ý nghĩa của việc xác định chính xác các khoản chi phí được trừ khi tính thu
nhập chịu thuế TNDN:
1.2.2.1 Đối với nhà nước:
Việc xác định chính xác các khoản chi phí được trừ khi tính thu nhập chịu thuế có tầm
ảnh hưởng quan trọng đến việc phát huy các vai trò của chính sách thuế TNDN trong
nền kinh tế thị trường. Cụ thể:
Đối với vai trò đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước: việc xác định chính xác các
khoản chi phí được trừ, hạn chế tình trạng trốn thuế có ý nghĩa cực kỳ quan trọng vì đối
tượng nộp thuế TNDN rất rộng và đối tượng chịu thuế là hầu hết các khoản thu nhập
phát sinh của họ nên số thuế TNDN mà doanh nghiệp phải nộp sẽ có những ảnh hưởng
nhất định đến nguồn thu của ngân sách nhà nước. Với tư cách là yếu tố ảnh hưởng trực
tiếp đến số thuế TNDN mà doanh nghiệp phải nộp, việc xác định chính xác các khoản
chi phí được trừ góp phần đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Đối với việc thực hiện chính sách điều tiết vĩ mơ nền kinh tế: việc xác định chính xác
các khoản chi phí được trừ gián tiếp tạo mơi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh
nghiệp. Điều này hoàn toàn dễ hiểu xuất phát từ việc nếu doanh nghiệp xác định khơng
chính xác các khoản chi phí được trừ theo quy định của pháp luật thì hoặc là, họ sẽ bị


17

thiệt hại và ảnh hưởng tiêu cực đến việc kinh doanh của doanh nghiệp (nếu chi phí được
trừ do doanh nghiệp xác định nhỏ hơn chi phí được trừ theo quy định của pháp luật)
hoặc là, họ sẽ được hưởng lợi thế một phần vốn từ số thuế đáng lẽ ra họ phải nộp vào
ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật (nếu chi phí được trừ do doanh nghiệp
xác định cao hơn chi phí được trừ theo quy định của pháp luật). Và trong bất kỳ trường
hợp nào, dưới bất kỳ mức độ nào đều có ảnh hưởng tiêu cực nhất định đến mơi trường
cạnh tranh nói chung trong nền kinh tế. Ngồi ra, thơng qua các khoản chi phí được trừ

và khơng được trừ, việc xác định chính xác các khoản chi được trừ khuyến khích cho
doanh nghiệp phát triển theo những định hướng nhất định. Đây thực chất là biện pháp
tác động về mặt kinh tế, góp phần khuyến khích các doanh nghiệp tự nguyện phát triển
theo chiều hướng do nhà nước đặt ra. Cuối cùng, việc xác định chính xác các khoản chi
được trừ bảo vệ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Bởi lẽ chỉ
khi xác định chính xác các khoản chi phí được trừ theo quy định của pháp luật, tức là
môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp vừa
và nhỏ được thiết lập thì những ưu đãi dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ mới có cơ sở
phát huy hiệu quả.
Đối với việc thực hiện tái phân phối thu nhập, đảm bảo cơng bằng xã hội: chính sách tái
phân phối thu nhập chỉ được thực hiện một cách chính xác và hiệu quả khi xác định
được chính xác thu nhập thực, (là thu nhập sau khi đã loại trừ các khoản chi phí được
trừ) của các doanh nghiệp. Do vậy, việc xác định chính xác chi phí được trừ là một trong
những yếu tố phải xác định trước tiên và có ảnh hưởng đến tính hiệu quả của chính sách
tái phân phối thu nhập. Khơng chỉ có vậy, việc xác định chính xác các khoản mục chi
phí được trừ cịn đóng vai trị quan trọng trong việc đảm bảo sự công bằng giữa các
doanh nghiệp, thực hiện tốt chính sách phân phối thu nhập, từ đó đảm bảo cơng bằng xã
hội.
Tóm lại, việc xác định chính xác các khoản chi được trừ luôn là vấn đề hàng đầu mà nhà
nước mong muốn và ln ln khuyến khích các doanh nghiệp tự mình thực hiện, khơng
chỉ để bảo vệ cho lợi ích của nhà nước, của xã hội, phát huy tốt vai trò của thuế TNDN
trong nền kinh tế thị trường mà cịn có những ý nghĩa vơ cùng to lớn cho lợi ích của
doanh nghiệp.
1.2.2.2 Đối với doanh nghiệp:
Đối với doanh nghiệp, việc tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về xác định chi phí
khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN cũng có những ý nghĩa nhất định được thể hiện ở
các mặt sau:
Thứ nhất, việc xác định chính xác các khoản chi được trừ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền
và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Trong trường hợp doanh nghiệp xác định chi phí



18

được trừ ít hơn so với chi phí được trừ theo quy định của pháp luật, tức là khoản thuế
TNDN mà doanh nghiệp phải nộp sẽ nhiều hơn, thì doanh nghiệp sẽ tự mình gây thiệt
hại cho chính mình, làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Còn nếu doanh
nghiệp xác định chi phí được trừ nhiều hơn so với chi phí được trừ theo quy định của
pháp luật, hành vi này có thể được xem là hành vi trốn thuế, tùy vào mức độ, doanh
nghiệp có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc nặng hơn, những cá nhân liên quan có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, việc xác định chính xác các khoản chi phí được trừ khuyến khích doanh nghiệp
tìm mọi biện pháp để giảm bớt chi phí khơng cần thiết, từ đó nâng cao khả năng cạnh
tranh và khả năng thích nghi cho doanh nghiệp, đặc biệt là trong tình trạng nền kinh tế
tồn cầu có nhiều biến động phức tạp như hiện nay.
Thứ ba, việc xác định chính xác các khoản chi phí được trừ góp phần làm cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trở nên minh bạch, rõ ràng hơn, giúp doanh
nghiệp xác định được chính xác kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình là tốt
hay xấu, từ đó đề ra những kế hoạch, chiến lược kinh doanh phù hợp nhằm tối đa hóa lợi
nhuận trên cơ sở các quy định của pháp luật.
1.2.3 Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với các khoản chi phí được
trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN:
1.2.3.1 Đối với nhà nước:
Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với các khoản chi phí được trừ
thể hiện ở các nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, chỉ khi được điều chỉnh bằng pháp luật, ý chí của nhà nước về các khoản chi phí
được trừ mới có giá trị bắt buộc chung đối với mọi chủ thể, tức là có giá trị thi hành trên
thực tế và những ý nghĩa của các khoản chi phí đó như vừa phân tích ở trên mới có cơ sở
pháp lý rõ ràng để phát huy.
Hai là, pháp luật là công cụ quản lý hiệu quả nhất, mang tính bắt buộc chung và được áp
dụng một cách thống nhất. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm đảm bảo tính

cơng bằng trong việc xác định nghĩa vụ thuế TNDN của các doanh nghiệp và các tổ
chức khác có thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh và có thu nhập chịu thuế. Đồng
thời, trong trường hợp doanh nghiệp khơng tự mình thực hiện, hoặc thực hiện khơng
đúng, khơng đủ thì đây sẽ là căn cứ để nhà nước áp dụng các biện pháp chế tài nghiêm
khắc, đảm bảo hiệu quả của việc áp dụng thuế TNDN vào thực tiễn, phát huy tốt các vai
trò của sắc thuế này, đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.2.3.2 Đối với doanh nghiệp:
Việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với các khoản chi phí được trừ mang lại
những lợi ích như sau:


19

Một là, việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với các khoản chi phí được trừ sẽ tạo ra cơ sở
quan trọng để doanh nghiệp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước các cơ
quan nhà nước. Điều này xuất phát từ tính tối cao của pháp luật. Khơng chỉ có doanh
nghiệp mới phải tn thủ những quy định của pháp luật mà mọi chủ thể trong xã hội, đặc
biệt là các cơ quan nhà nước cũng phải phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh.
Chính vì vậy, khi cho rằng những quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị các cơ quan
nhà nước xâm phạm thì pháp luật sẽ là căn cứ quan trọng giúp doanh nghiệp tự bảo vệ
chính mình.
Hai là, với tính ổn định của pháp luật, doanh nghiệp hồn tồn có thể chủ động trong
việc hoạch định kế hoạch sản xuất kinh doanh trong một khoảng thời gian tương đối dài
sao cho có lợi nhất cho doanh nghiệp và phù hợp với các quy định của pháp luật.
Ba là, việc điều chỉnh bằng pháp luật về các khoản chi được trừ khuyến khích việc sử
dụng đầy đủ hóa đơn, chứng từ, thực hiện tốt sự công khai, minh bạch trong hoạt động
kinh doanh, từ đó góp phần quan trọng trong việc tạo ra môi trường cạnh tranh lành
mạnh và ổn định.
1.2.4 Những yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng và ban hành pháp luật về xác
định chi phí được trừ khi tính thu nhập chịu thuế TNDN:

Để đảm bảo được tính khả thi cũng như phát huy tốt các vai trò của pháp luật thuế
TNDN, pháp luật về chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN trước hết phải hội
đủ các tính chất sau đây:
(1)
Một là tính chính xác và chặt chẽ.
Đây là một trong những yêu cầu quan trọng mang tính nguyên tắc đối với tất cả các quy
định của pháp luật nói chung và những quy định của pháp luật về chi phí trong việc xác
định thu nhập chịu thuế TNDN nói riêng. Tính chính xác và chặt chẽ đòi hỏi những quy
định của pháp luật về chi phí trong việc xác định thu nhập chịu thuế TNDN chỉ được
hiểu theo một cách duy nhất. Đây là một trong những yêu cầu cơ bản đảm bảo nguyên
tắc pháp chế, đồng thời mang lại sự công bằng cho các doanh nghiệp. Nhà làm luật khi
diễn đạt ý chí của mình, cần phải đặc biệt cẩn trọng, tránh sử dụng những từ ngữ, những
kiểu câu có thể được hiểu theo nhiều nghĩa, gây khó khăn lớn cho việc áp dụng thống
nhất các quy định của pháp luật và sự chủ động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
doanh nghiệp.
(2)
Hai là, tính cụ thể.
Đây là một trong những tính chất quan trọng đảm bảo tính khả thi của pháp luật về chi
phí khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN. Theo đó, các quy định này phải được diễn
đạt bằng ngôn ngữ rõ ràng, dễ hiểu để có thể áp dụng trực tiếp vào thực tế.
(3)
Ba là, tính hợp lý.


20

Tính hợp lý của pháp luật về chi phí trong việc xác định thu nhập chịu thuế TNDN phải
được thể hiện ở cả hai phương diện là hợp lý về mặt hình thức và hợp lý về mặt nội
dung.
Về hình thức: giúp cho việc tiếp cận, nghiên cứu các quy định pháp luật về chi phí được

thuận lợi, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tuân thủ các quy định này. Để đảm bảo được
tính hợp lý về mặt hình thức, các quy định của pháp luật về chi phí phải đáp ứng các yêu
cầu cụ thể sau đây: (i) các khoản mục chi phí phải được sắp xếp theo một trật tự khoa
học, những khoản mục chi phí có liên quan đến nhau nên được sắp xếp gần nhau hoặc
có sự phân nhóm một cách cụ thể, để thuận tiện trong việc áp dụng; (ii) có sự phân biệt
rạch rịi về mặt hình thức giữa các khoản chi phí được trừ và các khoản chi phí khơng
được trừ, tránh gây nhầm lẫn cho người đọc; (iii) Có đầy đủ những văn bản hướng dẫn
một cách chi tiết từ phía các cơ quan nhà nước về pháp luật liên quan được áp dụng để
điều chỉnh đối với từng khoản mục chi phí, điều này sẽ giúp cho việc tuân thủ và áp
dụng pháp luật có nhiều thuận lợi, đảm bảo và tăng cường tính rõ ràng, minh bạch.
Về nội dung: giúp cho những quy định của pháp luật khi áp dụng vào thực tế không vấp
phải những phản đối gay gắt từ phía doanh nghiệp cũng như các nhà nghiên cứu nhưng
vẫn đạt được hiệu quả quản lý như mong muốn của nhà làm luật. Để đạt được điều này,
đòi hỏi pháp luật về chi phí phải đáp ứng những yêu cầu sau: (i) nghĩa vụ chứng minh
các khoản chi phí của doanh nghiệp nên được đặt ra phù hợp với khả năng của doanh
nghiệp, tránh đưa ra những yêu cầu ngồi khả năng của doanh nghiệp hoặc có những
quy định gây trở ngại cho doanh nghiệp trong việc đáp ứng các yêu cầu của pháp luật;
(ii) việc quy định một khoản chi phí được trừ hay khơng được trừ khi xác định thu nhập
chịu thuế TNDN cần phải đặt trong sự thận trọng của nhà làm luật và gắn liền với vai trò
của thuế TNDN, tránh sự quy định một cách tùy tiện, vô lý gây ra những phản ứng tiêu
cực từ phía các doanh nghiệp.
(4)
Bốn là, tính thống nhất.
Tính thống nhất của pháp luật về chi phí được thể hiện ở hai góc độ: thống nhất về phạm
vi áp dụng và thống nhất về mặt nội dung. Yêu cầu thống nhất về phạm vi áp dụng đòi
hỏi pháp luật về chi phí phải được áp dụng một cách thống nhất, khơng có sự khác biệt
trên tồn bộ lãnh thổ Việt Nam. Yêu cầu thống nhất về mặt nội dung địi hỏi pháp luật về
chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế không chứa đựng những quy định mâu thuẫn với
chính nó, mâu thuẫn với các quy định khác của pháp luật thuế TNDN, mâu thuẫn với
các quy định của pháp luật về thuế và cuối cùng là mâu thuẫn với các quy định khác

trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Cũng cần lưu ý phân biệt giữa khái niệm khác biệt
và mâu thuẫn. Với tư cách là một sắc thuế riêng biệt có đối tượng nộp thuế và đối tượng
chịu thuế riêng, pháp luật thuế TNDN trong đó bao gồm cả pháp luật về chi phí sẽ có


×