Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Pháp luật thuế giá trị gia tăng những vướng mắc và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.57 KB, 69 trang )

Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
---------------oOo---------------

ĐÀO THÙY DƯƠNG

PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG – NHỮNG VƯỚNG
MẮC VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN.

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH: KHOA THƯƠNG MẠI.
GVHD: NGUYỄN THỊ THU HIỀN.

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2006

SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 1


Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1/ Giá trị gia tăng : GTGT
2/ Thuế giá trị gia tăng : thuế GTGT.
3/ Thuế tiêu thụ đặc biệt : thuế TTĐB.
4/ Hàng hóa dịch vụ: hhdv.
5/ Đối tượng nộp thuế : ĐTNT.
6/ Thông tư : TT.


7/ Luật thuế GTGT được Quốc Hội thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005, có
hiệu lực 1/1/2006 sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
thuế GTGT ngày 17/16/2003 : Luật thuế GTGT.
8/ Thông tư số 120/ 2003/ TT – BTC ngày 12/12/2003 hướng dẫn thi hành
Nghị Định số 158/2003/ NĐ – CP ngày 10/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành Luật thuế GTGT và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế
GTGT: TT 120/ 200/ TT –BTC.

SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 2


Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

MỤC LỤC
Trang
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ........................ .1
1.1 Khái niệm về thuế giá trị gia tăng ....................................................................... .1
1.1.1Khái niệm ............................................................................................... .1
1.1.2Những đặc trưng cơ bảûøn của thuế giá trị gia tăng ................................... .2
1.2 Pháp luật thuế giá tri gia tăng tại Việt Nam ........................................................ .4
1.2.1 Sơ lược về quá trình ra đờùi và phát triển của pháp luật thuế giá trị gia
tăng tại Việt Nam 4
1.2.2 Nội dung cơ bản của pháp luật thuế giá trị gia tăng hiện hành............. 5
1.2.2.1 Đối tượng chịu thuế GTGT........................................................... 5
1.2.2.2 Đối tượng nộp thuế GTGT ........................................................... 7
1.2.2.3 Căn cứ tính thuế GTGT .............................................................. ..10
1.2.2.4 Phương pháp tính thuế GTGT .................................................... . 12
1.2.2.5Hóa đơn, chứng từ mua, bán hhdv ............................................... ..15

1.2.2.6 Khấu trừ và hoàn thuế GTGT ......................................................16
1.3 Vai trò của thuế GTGT ........................................................................................18
Chương 2: NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM – VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN ........................................................................................................................22
2.1 Đánh giá chung về thuế GTGT tại Việt Nam......................................................22
2.2 Một số vấn đề về pháp luật thuế GTGT còn vướng mắc trong quá trình triển
khai trên thực tế và kiến nghị thay đổi ......................................................................25
2.2.1 Đối tượng chịu thuế GTGT ....................................................................25
2.2.2 Đối tượng nộp thuế GTGT .....................................................................29
2.2.3 Thuế suất thuế GTGT ............................................................................36
2.2.4 Hóa đơn chứng từ ...................................................................................40
2.2.5 Khấu trừ thuế GTGT ..............................................................................44
2.2.6 Hoàn thuế GTGT ...................................................................................45
2.2.7 Phương pháp tính thuế GTGT ................................................................49
2.3 Các giải pháp nhằm hoàn thiện thuế GTGT tại Việt Nam..................................52
2.3.1 Chính sách thuế GTGT ..........................................................................53
2..3.2 Công tác quản lý thuế GTGT ...............................................................54
2.3.3 Dịch vụ hỗ trợ cho ĐTNT ......................................................................57

SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 3


Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

LỜI MỞ ĐẦU

1/ TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Trong điều kiện quốc tế hóa nền kinh tế thế giới hiện nay, quá trình tự do hóa
đầu tư và thương mại quốc tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ và có sức ảnh hưởng lớn
đến tốc độ tăng trưởng nền kinh tế của một quốc gia, đặc biệt là những nước đang
phát triển, nơi thiếu vốn đầu tư và công nghệ sản xuất hiện đại. Ở những quốc gia
này, bên cạnh những chính sách khuyến khích về đầu tư, về thương mại, về tín
dụng, tiền tệ, cơ sở hạ tầng thì việc cải cách hoàn thiện hệ thống chính sách thuế là
một vấn đề quan trọng – đây được coi là một giải pháp hữu hiệu để tăng cường sự
thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy nền kinh tế – xã hội phát triển.
Là một nước đang phát triển, đến nay, mặc dù Việt Nam chưa gia nhập vào
Tổ chức Thương Mại Thế Giới WTO, nhưng trong khuôn khổ hợp tác khu vực và
song phương đặc biệt là việc tham gia Hiệp định CEPT/ AFTA và ký kết Hiệp định
thương mại song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã đánh dấu những bước hội
nhập kinh tế thế giới khá sâu rộng của Việt Nam. Và trong bối cảnh này, thuế lại
trở nên có một vị thế lớn trong chiến lược toàn cầu hóa nền kinh tế của Việt Nam.
Trong cơ cấu chính sách thuế Việt Nam, thuế GTGT là một vấn đề nhạy cảm nhất nguồn thu ngân sách từ thuế GTGT chiếm tỷ trọng lớn, đối tượng hàng hóa dịch vụ
chịu thuế GTGT rộng, bao quát nên mọi chủ thể đầu tư dù chủ thể trong nước hay
chủ thể nước ngoài đều đặc biệt quan tâm đến chính sách thuế GTGT. Vì vậy, việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách về thuế GTGT là một yêu cầu cấp bách
đối với Việt Nam. Trên cơ sở này, tôi đã chọn đề tài: “ Pháp luật thuế GTGT –
Những vướng mắc và giải pháp hoàn thiện” cho khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật
của mình.
2/ ĐỐI TƯNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề cơ bản của sắc thuế
GTGT như đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, căn cứ tính thuế, phương pháp
tính thuế, vấn đề khấu trừ và hoàn thuế GTGT.

SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 4



Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phối hợp phương pháp phân
tích, tổng hợp, thống kê để đi vào phân tích, xem xét hệ thống văn bản pháp luật về
thuế GTGT hiện hành và thực tế triển khai pháp luật thuế GTGT.

3/ MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
Luận văn nghiên cứu những vấn đề còn bất cập, vướng mắc của pháp luật
thuế GTGT. Từ đó, kiến nghị một số giải pháp nhằm góp phần vào quá trình hoàn
thiện hệ thống pháp luật thuế GTGT Việt Nam để đảm bảo được các mục tiêu: tạo
một môi trường thuế GTGT bình đẳng giữa các đối tượng chịu thuế, không phân biệt
đối xử hàng hóa nhập khẩu với hàng hóa dịch vụ sản xuất trong nước, đảm bảo sự
bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tăng cường kỷ cương chấp hành luật thuế
GTGT. Đây là những yếu tố quan trọng trong việc bảo đảm hệ thống thuế GTGT
phù hợp với thông lệ quốc tế, vấn đề quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến việc
đàm phán của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.

4/ KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Luận văn gồm hai chương:
Chương 1: Khái quát chung về thuế Giá Trị Gia Tăng.
Chương 2: Những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật thuế GTGT ở Việt
Nam – Và một số kiến nghị hoàn thiện.

SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 5


Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIÁ TĂNG

1.1 Khái niệm về thuế giá trị gia tăng:
1.1.1 Khái niệm:
Thuế GTGT do Carl Friedrich Von Simens – người Đức nghó ra vào những
năm năm mươi(1), đây là một loại thuế có thể thay thế cho thuế Doanh thu lúc bấy
giờ. Thuế Doanh thu đánh vào doanh thu(2) ở từng công đoạn của quá trình sản xuất,
vì vậy, cách đánh thuế này đã phát sinh tình trạng thuế chồng thuế. Điều này làm
cho quá trình sản xuất ra sản phẩm chịu thuế Doanh thu càng qua nhiều công đoạn
thì hhdv càng phải chịu thuế cao hơn. Đây là điểm hạn chế rất lớn của thuế Doanh
thu. Với thuế GTGT là thuế chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch
vụ (hhdv) khi hhdv qua mỗi khâu của quá trình sản xuất, lưu thông và tiêu dùng trên
thị trường, đã thực sự khắc phục được khuyết điểm cơ bản của thuế Doanh thu. Như
vậy, thuế GTGT ra đời trên cơ sở thuế Doanh thu nên thuế GTGT là một loại thuế
tiêu dùng trong hệ thống thuế, người có hành vi tiêu dùng hhdv là đối tượng phải trả
tiền thuế GTGT. Tuy nhiên, để nâng cao tính hiệu quả cho công tác quản lý thuế
GTGT của nhà nước nhằm đảm bảo số thuế GTGT thu đủ, thu kịp thời vào ngân
sách nhà nước nên những nhà sản xuất kinh doanh hhdv chịu thuế GTGT sẽ là đối
tượng trực tiếp giúp nhà nước thu thuế GTGT từ ngườùi tiêu dùng và có nghóa vụ nộp
vào ngân sách. Như vậy, xét về bản chất thuế GTGT là thuế gián thu(3).
Trên cơ sở đó, tại Điều 1 – Luật thuế giá trị gia tăng Việt Nam hiện hành quy
định:”Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hóa,
dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng ”.

(1)

PGS – TS Trần Đình Hảo và TS Nguyễn Thị Thương Huyền, “Pháp luật thuế GTGT – Những vấn đề lý
luận và thực tiễn”, năm xuất bản 2003, trang 32.
(2)


Doanh thu để tính thuế Doanh thu là toàn bộ giá trị bán hàng của nhà sản xuất, là giá đã có thuế
Doanh thu ở công đoạn trước của quá trình sản xuất.
(3)
Thuế gián thu là loại thuế thu gián tiếp hông qua giá cả hhdv, đối tượng nộp thuế và đối tượng
trả tiền thuế là khác nhau.
SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 6


Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

Mặc dù về nguồn gốc thuế GTGT được khai sinh ở Đức nhưng những lý luận
của Simens vẫn không đủ sức thuyết phục Chính phủ Đức thực hiện thuế GTGT; do
đó, trên thực tế nước tiên phong trong việc nghiên cứu và áp dụng là Cộng Hoà
Pháp vào ngày 01 tháng 07 năm 1954. Thuế GTGT được áp dụng tại nước Pháp vào
những buổi đầu chỉ nhằm vào một số ngành nghề cá biệt; mãi đến năm 1968 Pháp
mới áp dụng thuế GTGT trong mọi ngành nghề và trong mọi lónh vực. Năm 1953,
Nhật đã nghiên cứu thuế GTGT và bắt đầu áp dụng vào năm 1988. Trung Quốc áp
dụng từ năm 1984, … Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới (khoảng trên 120
quốc gia trong đó có Việt Nam) đều nghiên cứu và triển khai thuế GTGT bởi lẽ thuế
GTGT ngay từ buổi sơ khai đã đạt được đồng thời hai mục tiêu cơ bản mà sau nhiều
lần cải tiến thuế Doanh thu vẫn chưa đảm bảo được, đó là vừa thu kịp thời, thường
xuyên số thuế GTGT vào ngân sách nhà nước vừa khắc phục được tình trạng thuế
chồng thuế của thuế Doanh thu.

1.1.2 Những đặc trưng cơ bản của thuế GTGT:
Thuế GTGT là một loại thuế trong hệ thống thuế quốc gia, vì vậy thuế GTGT
có đầy đủ các đặc điểm cơ bản của thuế như tính cưỡng chế, tính không hoàn trả

trực tiếp, … Tuy nhiên, thuế GTGT phân biệt với các loại thuế khác bởi các đặc
điểm đặc trưng sau đây:
Thứ nhất, thuế GTGT có đối tượng chịu thuế rộng và bao quát:
Thuế GTGT là loại thuế được nhà nước thu khi hhdv có giá trị tăng thêm, vì
vậy tất cả những hhdv có GTGT không phân biệt là hhdv thiết yếu, cần thiết hay
hhdv không thật cần thiết trong đời sống nhân dân, không phân biệt hhdv được sản
xuất trong nước hay có nguồn gốc từ nước ngoài nhưng được tiêu dùng tại quốc gia
sở tại đều phải chịu thuế GTGT. Do đó, thuế GTGT có một phạm vi đối tượng chịu
thuế rộng, bao quát. Và chỉ có những hhdv được quốc gia sở tại qui định không chịu
thuế GTGT, nhằm thực hiện chức năng quản lý kinh tế xã hội của nhà nước, mới
nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của thuế GTGT.
SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 7


Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

Thứ hai, thuế GTGT mang tính liên hoàn:
Nhằm khắc phục tình trạng thuế trùng lắp thuế ở từng công đoạn sản xuất,
lưu thông đến tiêu dùng, nên thuế GTGT chỉ thu thuế trên phần giá trị tăng thêm
của hhdv. Do đó, phần giá trị nào đã thu thuế thì nhà nước sẽ không tính trong giai
đoạn tiếp theo. Trên cơ sở đó, số thuế GTGT đã nộp ở giai đoạn trước sẽ là cơ sở
cho việc khấu trừ số thuế GTGT phải nộp vào ngân sách nhà nước tại giai đoạn tiếp
theo để đảm bảo cho thuế GTGT tính trên phần giá trị tăng thêm của hhdv. Do đó,
số thuế GTGT mà doanh nghiệp đã nộp có ảnh hưởng đến số thuế GTGT của doanh
nghiệp khác sản xuất kinh doanh hhdv đó ở giai đoạn sau. Hay nói cách khác: thuế
GTGT tại thời điểm phải nộp có sự phụ thuộc vào số thuế GTGT đã nộp, để một
khi hhdv thoát khỏi chu trình lưu thông thì số thuế GTGT nộp vào ngân sách nhà
nước tính trên tổng giá trị tăng thêm của hhdv sẽ bằng với tổng số thuế GTGT đã

nộp ở từng công đoạn. Điều này làm cho thuế GTGT có tính chất liên tục giữa các
giai đoạn trong quá trình sản xuất kinh doanh hhdv chịu thuế GTGT. Nói cách khác,
thuế GTGT là loại thuế có tính liên hoàn.
Thứ ba, thuế GTGT mang tính trung lập cao:
Thuế GTGT xét về bản chất là một loại thuế gián thu, các nhà sản xuất kinh
doanh hhdv chịu thuế GTGT là đốâi tượng có nghóa vụ nộp thuế GTGT trực tiếp vào
ngân sách nhà nước nhưng thực sự họ chỉ là đối tượng nộp thay cho những tổ chức,
cá nhân, cơ quan có hành vi tiêu dùng hhdv bởi lẽ thuế GTGT là một loại thuế tiêu
dùng, người tiêu dùng hhdv mới là người phải trả tiền thuế GTGT thông qua giá cả
hhdv. Điều này làm cho thuế GTGT có tính trung lập cao vì thuế GTGT xét về
nguyên tắc không phụ thuộc vào mô hình sản xuất kinh doanh của đối tượng nộp
thuế, không can thiệp sâu trong lựa chọn mặt hàng sản xuất kinh doanh, khuyến
khích hay hạn chế ngành nghề nào đó trong nền kinh tế.

SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 8


Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

1.2 Pháp luật thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam:
1.2.1 Sơ lược về quá trình ra đời và phát triển của pháp luật thuế GTGT tại
Việt Nam:
Luật thuế GTGT tại Việt Nam đã được Quốc Hội khóa IX, kỳ họp thứ 11
(tháng 4/1997) thông qua và chính thức được áp dụng từ ngày 01 tháng 01 năm 1999
trên cơ sở khắc phục những điểm hạn chế của thuế Doanh thu. Luật thuế GTGT
bước đầu được triển khai trong bối cảnh hết sức khó khăn: nền kinh tế đất nước đang
trong quá trình chuyển đổi, bị tác động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
khu vực và thế giới, nước ta phải đối mặt với thiên tai bão lụt liên tiếp xảy ra. Do

vậy, khi luật được triển khai trên thực tế đã gặp rất nhiều vướng mắc và Quốc Hội
đã phải sửa đổi, bổ sung nhiều quy định để Luật thuế Giá Trị Gia Tăng cho phù hợp
với thực tế, tháo gỡ khó khăn cho Doanh nghiệp. Sau nhiều năm thực hiện, thuế
GTGT đã thực sự đi vào đời sống kinh tế xã hội, đạt được những mục tiêu cơ bản
trong quá trình cải cách thuế như : khắc phục điểm hạn chế lớn nhất của thuế Doanh
thu là thuế chồng thuế, tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh ổn định và phát triển,
làm nguồn thu ngân sách nhà nước tăng trưởng so với thuế Doanh thu trước đây góp
phần ổn định giá cả thị trường, …
Bên cạnh những cái đạt được, những quy định của Luật thuế GTGT năm
1997 cũng bộc lộ những điểm bất cập nhất định. Vì thế, Quốc hội khóa IX ngày 17
tháng 6 năm 2003 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá
trị gia tăng có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2004. Thời gian gần đây
nhất, xuất phát từ yêu cầu cấp bách của quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới, để phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, Quốc Hội khóa XI, kỳ họp thứ 8 ngày 29
tháng 01 năm 2005 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế
TTĐB và luật thuế GTGT có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2006. Và
trên cơ sở đó, để cụ thể hóa luật Chính phủ đã có những quy định sửa đổi, bổ sung
phù hợp như Nghị định số 158/ 2003/ NĐ – CP ngày 10/12/2003 quy định chi tiết thi
hành luật thuế GTGT và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT có
SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 9


Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

hiệu lực thi hành từ 01/01/2004; Nghị định số 148/2004/NĐ – CP ngày 23/07/2004
sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 7 nghị định số 158/2003/NĐ – CP ngày 10/12/2003, …
Và Bộ Tài Chính đã có nhiều văn bản hướng dẫn chi tiết những quy định pháp luật
sửa đổi, bổ sung như Thông tư số 120/2003/ TT – BTC ngày 12/12/2003 hướng dẫn

thi hành Nghị định số 158/2003 ngày 10/12/2003; Thông tư số 84/2004/ TT – BTC
ngày 18/08/2004 sửa đổi, bổ sung TT số 120/2003 ngày 12/12/2003, …

1.2.2 Nội dung cơ bản của pháp luật thuế giá trị gia tăng hiện hành:
1.2.2.1 Đối tượng chịu thuế GTGT:
Theo Điều 2- Luật thuế GTGT quy định: đối tượng chịu thuế GTGT là “hhdv
dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam trừ các đối tượng quy định
tại Điều 4 của Luật này. ” và tại điểm 1 – mục I – phần A TT 120/ 2003/ TT-BTC
quy định chi tiết đối tượng chịu thuế GTGT là “hhdv dùng cho sản xuất kinh doanh
và tiêu dùng ở Việt Nam (bao gồm cả hhdv mua của tổ chức, cá nhân ở nước
ngoài)…”. Như vậy, phạm vi hhdv chịu thuế GTGT là bao quát tất cả hhdv được tạo
ra từ hoạt động sản xuất kinh doanh và được tiêu dùng tại Việt Nam, chỉ có một số
hhdv được quy định tại Điều 4 – Luật thuế GTGT mới được miễn thuế GTGT.
Xuất phát từ tính chất thuế GTGT là loại thuế tiêu dùng có bình diện hhdv
chịu thuế GTGT rộng, nên pháp luật thuế GTGT Việt Nam đã sử dụng phương pháp
liệt kê những hhdv không chịu thuế GTGT để tránh tình trạng bỏ sót đối tượng chịu
thuế. Cụ thể hơn: theo pháp luật thuế GTGT thì đối tượng chịu thuế GTGT là hhdv
thỏa mãn hai điều kiện: thứ nhất là hhdv được tạo ra từ hoạt động sản xuất kinh
doanh hoặc hành vi nhập khẩu hh; và thứ hai là hhdv đó được tiêu dùng tại Việt
Nam, ngoại trừ những đối tượng hhdv pháp luật liệt kê. Theo pháp luật tại Điều 4
Luật thuế GTGT thì có 29 loại hhdv không chịu thuế GTGT. Việc quy định những
hhdv không thuộc diện chịu thuế GTGT này gắn liền với việc thực hiện chức năng
của Nhà nước. Đó là:

SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 10


Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân


Thứ nhất: khuyến khích tạo điều kiện để phát triển hhdv ở một số ngành nghề
như: sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản chưa qua chế biến; …(4)
Thứ hai: thúc đẩy hoạt động phục vụ cho lợi ích cộng đồng như dịch vụ phục vụ
vệ sinh công cộng, hoạt động văn hóa, triễn lãm, thể dục thể thao không nhằm mục
đích lợi nhuận, …(5)
Thứ ba: khuyến khích phát triển một số hhdv liên quan đến những hoạt động
khác như tạo điều kiện cho doanh nghiệp có trang thiết bị hiện đại, khuyến khích
dịch vụ tín dụng và quỹ đầu tư và chuyển giao công nghệ, phần mềm máy tính. (6)
Thứ tư: hạn chế xuất khẩu một số tài nguyên như dầu thô, đá phiến, … (7)
Thứ năm: hỗ trợ cho những hoạt động mang mục đích nhân đạo như sản phẩm
nạng, xe lăn và dụng cụ chuyên dùng cho người tàn tật, …(8)
Thứ sáu: thực hiện chức năng xã hội: hỗ trợ người có thu nhập thấp như hhdv của
cá nhân kinh doanh có thu nhập thấp hơn lương tối thiểu Nhà nước quy định thì
không phải chịu thuế GTGT, … 9)
Thứ bảy: hhdv không xác định được phần giá trị tăng thêm như dạy học, dạy
nghề, dịch vụ y tế, …(10)
Thứ tám: tránh mất thời gian, công sức để thu thuế GTGT đối với những hoạt
động được thực hiện từ nguồn vốn ngân sách như đối với việc phát sóng chương
trình truyền thanh, truyền hình bằng nguồn vốn của nhà nước, … không phải thực
hiện nghóa vụ thuế GTGT đối với nhà nước.(11)

(4)

khoản 1,2,3,8,13,16,23 Điều 4 Luật thuế GTGT.
khoản 10,14,15 Điều 4 Luật thuế GTGT.
(6)
khoản 4,7,24 Điều 4 Luật thuế GTGT.
(7)
khoản 26 Điều 4 Luật thuế GTGT.

(8)
khoản 20,27 Điều 4 Luật thuế GTGT.
(10)
khoản 9,11,18,21,25 Điều 4 Luật thuế GTGT.
(11)
khoản 5,12,17,19 Điều 4 Luật thuế GTGT.
(5)

SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 11


Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

Thứ chín: tránh thuế GTGT đánh lên loại thuế khác như chuyển quyền sử dụng
đất được miễn thuế GTGT nhưng phải thực hiện thuế chuyển quyền sử dụng đất
được quy định tại Luật Đất Đai.(12)

1.2.2.2 Đối tượng nộp thuế GTGT:
Đối tượng nộp thuế GTGT là chủ thể thực hiện việc thu thuế GTGT từ người
tiêu dùng thông qua giá cả hhdv và trực tiếp nộp vào ngân sách nhà nước. Theo
Điều 3 – Luật thuế GTGT, điểm 2 mục I phần A TT 120/ 2003/ TT – BTC đối tượng
nộp thuế GTGT bao gồm:
- Tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh hhdv chịu thuế GTGT
không phân biệt ngành nghề, hình thức, tổ chức kinh doanh (gọi chung là cơ sở kinh
doanh). Đó là những tổ chức kinh doanh hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, Luật
Doanh nghiệp nhà nước, Luật Hợp tác xã; tổ chức kinh tế của những tổ chức: chính
trị, chính trị – xã hội, xã hội – nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, nghề nghiệp,
… Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp tác kinh

doanh theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt
động kinh doanh ở Việt Nam không thuộc các hình thức đầu tư theo Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam; cá nhân, hộ gia đình, nhóm người kinh doanh độc lập và
các đối tượng kinh doanh khác có hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Tổ chức, cá nhân có hành vi nhập khẩu hàng hóa thuộc diện chịu thuế GTGT
(gọi chung là người nhập khẩu).
Như vậy, đối tượng nộp thuế GTGT là chủ thể tiến hành hoạt động sản xuất
kinh doanh hhdv chịu thuế GTGT hoặc có hành vi nhập khẩu hàng hóa chịu thuế
GTGT. Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, phải được pháp luật công nhận
thông qua sự kiện pháp lý: chủ thể kinh doanh tiến hành đăng ký kinh doanh với cơ
quan có thẩm quyền.

(12)

khoản 6 Điều 4 Luật thuế GTGT.

SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 12


Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

Quy định đối tượng nộp thuế GTGT là một điều cần thiết bởi lẽ thuế GTGT
là một loại thuế tiêu dùng nên mọi tổ chức, cá nhân, cơ quan trong xã hội khi tiêu
dùng hhdv chịu thuế GTGT đều phải trả tiền thuế GTGT, nếu nhà nước thu thuế trực
tiếp từ những đối tượng tiêu dùng này thì cần sử dụng một đội ngũ cán bộ rất nhiều
và rất phức tạp, mới đảm bảo cho công tác hành thu. Yêu cầu này là không khả thi.
Do đó, nhằm đảm bảo hiệu quả cho việc quản lý thuế GTGT, không gây thất thu
cho ngân sách, nhà nước đã thông qua chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh hhdv

chịu thuế GTGT, một chủ thể mà nhà nước có thể kiểm soát được hoạt động để thực
hiện việc thu và nộp thuế GTGT vào ngân sách nhà nước. Ngoài ra, thông qua việc
xác định ĐTNT, có thể xác định dễ dàng phần GTGT của hhdv. Bởi lẽ giá trị sản
phẩm được đo lường thông qua giá trị trao đổi sản phẩm đó, nên sự tăng thêm của
hhdv được xác định đơn giản nhất là sự chênh lệch của giá trị trao đổi hhdv ở thời
điểm mua vào và thời điểm bán ra. Do vậy, thông qua hoạt động mua hhdv và bán
hhdv của chủ thể sản xuất kinh doanh sẽ giúp nhà nước xác định được phần giá trị
tăng thêm của hhdv để thu thuế GTGT.
ĐTNT với tư cách là chủ thể trung gian trong quan hệ pháp luật thuế GTGT
giữa người tiêu dùng và nhà nước, là đối tượng nộp thuế thay cho người tiêu dùng.
Theo đó, ĐTNT có nghóa vụ đăng ký, kê khai, nộp thuế GTGT và quyết toàn thuế
GTGT. Theo luật định, ĐTNT phải đăng ký thuế trong thời hạn tối đa là 10 ngày từ
ngày được cơ quan chức năng cấp Giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh và cấp con dấu. Trong trường hợp thay đổi ngành nghề kinh doanh,
chuyển trụ sở kinh doanh sang các địa điểm khác, sáp nhập, giải thể, phá sản, hợp
nhất, chia, tách hay thành lập các công ty, nhà máy, xí nghiệp, chi nhánh, … ĐTNT
phải đăng ký lại thuế GTGT trong thời hạn tối đa 05 ngày trước khi thay đổi, sáp
nhập, giải thể, … Bên cạnh việc đảm bảo thời gian nộp thuế thì ĐTNT phải đảm bảo
đúng nơi đăng ký nộp thuế GTGT như sau: đối với ĐTNT là cơ sở kinh doanh, kể cả
công ty, xí nghiệp, nhà máy, chi nhánh, cửa hàng trực thuộc thì đăng ký nộp thuế
GTGT tại Cục Thuế; đối với cá nhân kinh doanh sẽ đăng ký nộp thuế tại Chi Cục
SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 13


Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

Thuế. Đây là sự kiện pháp lý phát sinh quan hê pháp luật giữa ĐTNT và nhà nước,
kết thúc sự kiện này ĐTNT sẽ được cấp mã số thuế và Giấy chứng nhận đăng ký

thuế của cơ quan Thuế. ĐTNT từng tháng phải nộp tờ khai thuế GTGT kèm theo
bảng kê hhdv mua vào, bán ra theo mẫu quy định và gửi tờ khai này trong mười
ngày đầu của tháng tiếp theo, kể cả trường hợp không phát sinh thuế GTGT đầu vào
và số thuế GTGT đầu ra cho cơ quan Thuế. Trong trường hợp đối tượng chịu thuế
GTGT là hàng hóa nhập khẩu thì ĐTNT phải nộp tờ khai thuế GTGT cùng với tờ
khai nhập khẩu cho cơ quan Hải quan. ĐTNT phải chịu trách nhiệm về tính chính
xác của tờ khai thuế GTGT, của những cơ sở chứng minh số thuế GTGT phát sinh.
Và trong thời hạn tối đa không quá ngày 25 của tháng tiếp theo ĐTNT phải nộp số
thuế GTGT bằng tiền mặt phát sinh trong tháng vào ngân sách nhà nước. Trong
trường hợp ĐTNT có số thuế GTGT phát sinh từ 200 triệu đồng/ tháng trở lên,
ĐTNT có nghóa vụ nộp theo định kỳ 05 hoặc 10 ngày một lần. Riêng đối với hàng
hóa nhập khẩu, ĐTNT nộp thuế GTGT theo từng lần nhập khẩu, thời hạn nộp thuế
GTGT theo thời hạn thông báo thuế nhập khẩu.
Hiện nay, nước ta tồn tại hai cơ chế thực hiện nghóa vụ nộp thuế GTGT. Một:
nộp theo số thuế doanh nghiệp kê khai trên tờ khai thuế GTGT và được cơ quan nhà
nước chấp nhận; hai: theo thông báo thuế của cơ quan thuế. Và để tăng cường tính
dân chủ và tính tự chủ trong việc thực hiện nghóa vụ thuế GTGT, theo Quyết định số
197/ QĐ – TTg ngày 23 tháng 09 năm 2003, ngành thuế đã triển khai cơ chế cơ sở
sản xuất kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế; từ ngày 01 tháng 01 năm 2004 đã áp
dụng thí điểm đối với một số cơ sở sản xuất kinh doanh được lựa chọn trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Quảng Ninh. Năm 2005, phạm vi áp dụng cơ chế tự
kê khai, tự nộp đã được mở rộng tại Cục thuế Hà Nội, Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng
Nai, Hà Tây theo Quyết định số 161/ 2005/ QĐ-TTg ngày 30 tháng 06 năm 2005 và
dự tính đến “ năm 2007, Chính Phủ thông qua tổng kết, đánh giá việc thí điểm thực
hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế, sẽ tiến đến hoàn thiện cơ chế chính sách để chuẩn

SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 14



Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

bị cho việc thực hiện chính thức ”. Quản lý thuế theo hệ thống tự khai, tự nộp là
một phương thức quản lý thu thuế hiện đại được nhiều nước trên thế giới đang áp
dụng.
Mặt khác, nhằm đảm bảo lợi ích cho nhà nước và ĐTNT trong việc thu đủ,
thu đúng, nộp đúng, nộp kịp thời số thuế GTGT cần phải nộp, pháp luật quy định
ĐTNT có “… quyền khiếu nại về việc cán bộ thuế, cơ quan thuế thi hành không
đúng Luật thuế GTGT đối với cơ sở …” (13) và thực hiện quyết toán thuế GTGT hàng
năm trên tờ khai điều chỉnh thuế GTGT với thời hạn nộp tờ khai điều chỉnh thuế
GTGT năm: tối đa là 60 ngày từ ngày 31 tháng 12 của năm điều chỉnh hoặc trong 45
ngày từ ngày có quyết định sáp nhập, giải thể, phá sản, chuyển đổi sỡ hữu; chuyển
đổi hình thức công ty. (Năm quyết toán được tính theo năm dương lịch).

1.2.2.3 Căn cứ tính thuế GTGT:
Đây là căn cứ quan trọng để ĐTNT và cơ quan Thuế xác định số thuế GTGT
phải nộp vào ngân sách nhà nước. Do đó, căn cứ tính thuế GTGT được quy định rõ
ràng và cụ thể. Theo Điều 6 – Luật thuế GTGT thì căn cứ tính thuế GTGT gồm hai
yếu tố là “giá tính thuế và thuế suất”. Trong đó, giá tính thuế GTGT được xác định
là giá bán hàng hoá, giá cung ứng dịch vụ chưa có thuế GTGT. Việc quy định này
khắc phục được hiện tượng thuế chồng thuế của thuế doanh thu trước đây vì trong
giá tính thuế không bao gồm thuế GTGT. Tại Điều 7 – Luật thuế GTGT và tại phần
B mục I TT 120/ 2003/ TT-BTC xác định giá tính thuế như sau:
+ Đối với hhdv là giá bán chưa có thuế GTGT. Trong trường hợp hhdv thuộc
phạm vi điều chỉnh của thuế TTĐB thì giá tính thuế GTGT là giá bán đã có thuế
TTĐB (giá bán + thuế TTĐB) nhưng chưa có thuế GTGT. Trường hợp hàng hoá
nhập khẩu thì giá tính thuế GTGT là giá nhập khẩu tại cửa khẩu + thuế nhập khẩu
(nếu có) + thuế TTĐB (nếu có).


(13)

Điều 23 – Luật thuế GTGT va điểm 1 phần G TT 120/ 2003/ TT – BTC.

SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 15


Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

+ Đối với hhdv dùng trao đổi, biếu, tặng hoặc để trả thay lương hoặc hhdv cơ sở
kinh doanh xuất để tiêu dùng là giá tính thuế của hhdv cùng loại hoặc tương đương
vào thời điểm phát sinh hoạt động này.
+ Đối với dịch vụ phía nước ngoài cung ứng là giá dịch vụ phải thanh toán cho
nước ngoài.
+ Đối với hàng bán theo phương thức trả góp là giá bán trả một lần chưa có thuế
GTGT, không gồm lãi trả góp và không tính theo số tiền trả góp từng kỳ.
+ Đối với hoạt động gia công hàng hóa là giá gia công chưa có thuế GTGT.
+ Đối với dịch vụ cho thuê tài sản là giá cho thuê chưa có thuế GTGT.
+ Đối với hhdv mang tính đặc thù giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT như tem
bưu chính, vé cước vận tải, vé xổ số kiến thiết, … thì giá tính thuế GTGT được xác
định theo công thức:
Giá thanh toán (tiền bán vé, bán tem, … )
Giá tính thuế GTGT
(giá chưa có thuế GTGT)

=
1 + (%) thuế suất của hhdv


+ Đối với hhdv khác là giá do Chính phủ quy định.
Bên cạnh giá tính thuế GTGT, căn cứ thứ hai để xác định thuế GTGT là thuế
suất thuế GTGT. Có thể hiểu thuế suất thuế GTGT “là một đại lượng xác định nghóa
vụ nộp thuế GTGT trên một đơn vị của đối tượng chịu thuế GTGT”(14). Thuế GTGT
là một khoản độc lập với chi phí sản xuất cấu thành nên giá cả của hhdv chịu thuế
GTGT, trong đó thuế GTGT bị ảnh hưởng bởi thuế suất thuế GTTG nên có thể nói
thuế suất là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả của hhdv. Điều này làm cho
thuế suất có vai trò trong việc định hướng tiêu dùng hhdv trên thị trường. Mặt khác,
trong hai căn cứ tính thuế GTGT thì thuế suất là căn cứ mà qua đó nhà nước thực
hiện được quyền chủ động điều chỉnh mức thuế GTGT phải nộp. Điều này có một ý

(14)

PGS – TS Trần Đình Hảo, TS Nguyễn Thị Thương Huyền, “Pháp Luật thuế GTGT – Những vấn
đề lý luận và thực tiễn”, năm xuất bản 2003, trang 147.
SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 16


Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

nghóa lớn đối với nhà nước trong việc thực hiện những chính sách kinh tế – xã hội
của đất nước, giúp nhà nước thực hiện tốt vai trò quản lý của mình.
Tại Điều 8 – Luật thuế GTGT quy định ba mức thuế suất thuế GTGT trong
đó mức thuế suất 0% được áp dụng đối với hhdv xuất khẩu (kể cả hhdv không chịu
thuế GTGT xuất khẩu), hoạt động xây dựng, lắp đặt các công trình ở nước ngoài và
công trình của doanh nghiệp chế xuất; mức thuế suất 5% và 10% được áp dụng dựa
vào tính chất, công dụng của hhdv. Với mức 5% là một mức thuế suất ưu đãi, được
áp dụng cho những hhdv phổ biến, thiết yếu trong đời sống như nước sạch do cơ sở

sản xuất kinh doanh khai thác từ nguồn nước tự nhiên, phân bón, quặng để sản xuất
phân bón, … được quy định tại khoản 2 – Điều 8 Luật thuế GTGT, Điều 2 – Luật sửa
đổi Luật thuế TTĐB và Luật thuế GTGT, điểm 2 mục II phần B TT 120/ 2003/ TTBTC, điểm 4 TT 84/ 2004/ TT-BTC. Còn lại những hhdv phổ thông như hhdv được
quy định tại khoản 3 – Điều 8 Luật thuế GTGT, sẽ áp dụng mức thuế suất 10%.
Xuất phát từ điều kiện kinh tế xã hội nước ta hiện nay, việc quy định mức
thuế suất thuế GTGT ưu đãi 5% đối với hhdv thiết yếu dùng cho sinh hoạt, sản xuất
kinh doanh của người dân là điều cần thiết. Do đó, việc quy định ba mức thuế suất
thuế GTGT hiện hành là phù hợp với tình hình đất nước, nhưng vẫn đảm bảo tính
đơn giản, rõ ràng và tiến bộ trong cải cách chính sách thuế GTGT của Việt Nam.
Bên cạnh đó, khoảng cách giữa mức thuế suất ưu đãi 5% và mức thuế suất phổ
thông 10% là tương đối ngắn, nên không xảy ra tình trạng ưu đãi quá mức trong việc
thực hiện nghóa vụ thuế GTGT, vẫn đảm bảo một cách tương đối sự bình đẳng giữa
các chủ thể kinh doanh. Mặt khác, nếu so với bốn mức thuế suất trước đây: 0%, 5%,
10%, 20% thì các mức thuế suất hiện nay có khoảng cách gần nhau được xem là
“bước đệm” tiến tới áp dụng một mức thuế suất đồng bộ trong thời gian tới, ngoài
mức thuế suất ưu đãi 0% đối với hhdv xuất khẩu nhằm đơn giản, tiết kiệm thời gian,
tạo sự bình đẳng nhất định giữa các ĐTNT, và cũng nhằm phù hợp với thông lệ
quốc tế.

SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 17


Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

1.2.2.4 Phương pháp tính thuế GTGT:
Căn cứ vào thực tiễn của nước ta, tại Điều 9 – Luật thuế GTGT, mục III phần
B TT 120/ 2003/ TT-BTC, điểm 6, 7 của TT 84/ 2004/ TT-BTC quy định có hai
phương pháp tính thuế GTGT. Đó là: phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp

tính thuế GTGT trực tiếp trên GTGT.
- Đối với phương pháp khấu trừ thuế thì số thuế GTGT phải nộp được xác định bởi
công thức sau:
Số thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra – Thuế GTGT đầu vào.
Với thuế GTGT đầu ra được xác định bằng (=) giá tính thuế hhdv chịu thuế
GTGT bán ra nhân (x) với thuế suất thuế GTGT của hhdv đó

(15)

ù. Và thuế GTGT

đầu vào được xác định bằng (=) tổng số thuế GTGT trên hóa đơn GTGT mua hhdv
(cả tài sản cố định) dùng cho sản xuất kinh doanh hhdv chịu thuế GTGT, trên chứng
từ nộp thuế của hàng hoá nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía
nước ngoài theo hướng dẫn của Bộ Tài Chính.
Như vậy, số thuế GTGT phát sinh được xác định theo phương pháp khấu trừ
thuế dựa vào số thuế GTGT đầu ra và số thuế GTGT đầu vào. Do đó, phạm vi đối
tượng áp dụng phương pháp khấu trừ phải đảm bảo những điều kiện sau:
Thứ nhất: đối tượng áp dụng phương pháp khấu trừ phải là những chủ thể hạch
toán được số thuế GTGT đầu vào và đầu ra. Đó là các đơn vị, tổ chức kinh doanh,
doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác
xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các đơn vị, tổ chức kinh doanh khác
trừ các đối tượng áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp trên GTGT.
Thứ hai: số thuế GTGT đầu ra và đầu vào phải được thể hiện rõ ràng, chính xác,
có những căn cứ chứng minh cụ thể. Đối với số thuế GTGT đầu vào phải được ghi
nhận trên hóa đơn GTGT, chứng từ đặc thù, chứng từ nộp thuế của hàng hóa nhập
khẩu, chứng từ nộp thay thuế GTGT cho phía nước ngoài theo hướng dẫn của Bộ Tài

SVTH: Đào Thùy Dương


Trang 18


Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

Chính; còn đối với thuế GTGT đầu ra đối tượng áp dụng phương pháp khấu trừ
phải ghi rõ thuế GTGT trên hóa đơn bán hhdv.
Có thể thấy, phương pháp khấu trừ thuế GTGT là một phương pháp có nhiều
ưu điểm trong việc xác định số thuế GTGT phải nộp bởi lẽ số thuế GTGT phải nộp
được xác định đúng, rõ ràng, cụ thể thông qua hóa đơn, chứng từ. Và mặt khác thuế
GTGT có tính liên hoàn nên số thuế GTGT đầu vào của cơ sở này là đầu ra của cơ
sở khác. Do đó, xét về khía cạnh quản lý, phương pháp này sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho cơ quan Thuế trong việc kiểm tra chéo việc thực hiện nghóa vụ thuế GTGT
của ĐTNT, đảm bảo thu đủ số thuế cần thiết, không gây thất thu cho ngân sách.
- Trong trường hợp ĐTNT không đủ điều kiện thực hiện tính thuế GTGT theo
phương pháp khấu trừ thuế thì sẽ áp dụng phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên
giá trị gia tăng của hhdv. Cụ thể: cá nhân sản xuất kinh doanh là người Việt Nam; tổ
chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam không thuộc các hình thức đầu tư
theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ điều kiện về kế
toán, hóa đơn, chứng từ làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế. Ngoài
ra do tính chất đặc thù của hoạt động kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại
tệ, sự thay đổi giá giao dịch từng phút, từng giây nên mặc dù cơ sở kinh doanh thực
hiện đầy đủ hóa đơn, chứng từ nhưng vẫn phải thực hiện tính thuế GTGT theo
phương pháp tính trực tiếp trên GTGT. Theo phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp
thì:
Số thuế GTGT phải nộp = Giá trị gia tăng của hhdv chịu thuế GTGT x thuế suất
thuế GTGT của hhdv đó.
Đây là phương pháp tính thuế trực tiếp trên phần giá trị tăng thêm của hhdv ở
từng công đoạn của quá trình luân chuyển từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Trên thực tế, giá trị tăng thêm của hhdv là chi phí đầu tư thêm để nâng cao giá trị

sản phẩm hoặc tạo ra sản phẩm mới, nhưng vẫn có trường hợp mặc dù có chi phí
đầu tư thêm nhưng giá trị biểu hiện ra bên ngoài là không đổi nên việc xác định
(15)

Giá tính thuế GTGT, thuế suất thuế GTGT đã trình bày phần 1.2.2.3.

SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 19


Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

chính xác tuyệt đối phần GTGT của hhdv là một việc phức tạp và khó khăn. Vì
vậy, hiện nay các văn bản pháp luật thuế GTGT xác định GTGT của hhdv chỉ mang
tính tương đối, ước lệ. Trong trường hợp cơ sở kinh doanh thực hiện việc mua, bán
hhdv có hóa đơn, chứng từ, ghi chép sổ sách kế toán thì giá trị gia tăng của hhdv
được xác định là bằng (=) Doanh số của hhdv bán ra (kể cả các khoản phụ thu, phí
thu thêm ngoài giá bán mà cơ sở kinh doanh được hưởng) – Giá vốn của hhdv bán ra
(kể cả khoản thuế, phí đã trả trong giá thanh toán). Trường hợp cơ sở kinh doanh có
hóa đơn, chứng từ xác định được doanh thu bán hàng nhưng không có đủ hóa đơn
chứng minh hhdv mua vào phục vụ sản xuất kinh doanh thì giá trị gia tăng hhdv
bằng (=) Doanh thu bán hhdv nhân (x) tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu. Còn
trong trường hợp cơ sở kinh doanh không đủ hoặc không có hóa đơn, chứng từ chứng
minh doanh thu bán và giá vốn của hhdv bán ra thì giá trị gia tăng hhdv bằng (=)
Doanh thu ấn định nhân (x) tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu(16).
Số thuế GTGT theo phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp mặc dù không
chính xác bằng phương pháp khấu trừ thuế nhưng phương pháp này vẫn được áp
dụng tại nước ta, do thói quen sử dụng hóa đơn trong giao dịch mua bán ở Việt Nam
vẫn chưa cao, ở Việt Nam đa số là những hộ (cá nhân) kinh doanh nhỏ không thực

hiện đầy đủ hóa đơn, chứng từ. Chính vì lẽ đó, Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
vẫn chưa thay đổi hai phương pháp tính thuế.

1.2.2.5 Hóa đơn, chứng từ mua, bán hhdv:
Căn cứ vào khoản 1 – Điều 3 Nghị định số 89/ 2002/ NĐ-CP ngày 07 tháng
11 năm 2002 của Chính Phủ, hóa đơn được hiểu “ là chứng từ được in sẵn thành
mẫu, in từ máy tính tiền, in thành vé có mệnh giá theo quy định của Nhà nước, xác
nhận khối lượng, giá trị của hhdv mua, bán, trao đổi, quyền lợi và nghóa vụ của các
bên tham gia giao dịch mua, bán, trao đổi hhdv. “

(16)

Tỷ lệ (%) GTGT tính trên Doanh thu sẽ do Tổng Cục Thuề hướng dẫn các Cục Thuế.

SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 20


Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

Như vậy, hóa đơn chứng từ đảm nhận vai trò chứng minh quan hệ mua bán
hhdv trên thực tế, là cơ sở để xác định phần giá trị của hhdv mua vào và bán ra, từ
đó tính được số thuế GTGT phát sinh. Và tương ứng với hai phương pháp tính thuế
GTGT,(17) cơ sở kinh doanh khi mua, bán hhdv phải sử dụng hóa đơn, chứng từ như
sau:
- Hoá đơn GTGT: ghi rõ giá bán hhdv chưa có thuế GTGT, số thuế GTGT của
hhdv đó, tổng giá trị người mua thanh toán. Hóa đơn GTGT áp dụng cho đối tượng
tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế (trừ những đối tượng kinh doanh
hhdv có tính chất đặc thù như tem bưu chính, vé cước vận tải, vé xổ số kiến thiết …

được dùng hóa đơn chứng từ đặc thù: giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT).
- Hóa đơn bán hàng: ghi giá bán hhdv, khoản phụ thu, phí ngoài giá bán, giá
thanh toán (đã có thuế GTGT). Hóa đơn bán hàng áp dụng cho đối tượng tính thuế
GTGT theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT.
Nhằm dễ kiểm tra, quản lý ĐTNT trong việc kê khai, nộp thuế GTGT, tránh
thất thu ngân sách nhà nước, hóa đơn, chứng từ phải là hóa đơn do Bộ Tài Chính,
Tổng Cục Thuế phát hành và do cơ quan Thuế cung cấp hoặc do cơ sở kinh doanh tự
in theo mẫu quy định và được cơ quan Thuế chấp nhận hoặc hóa đơn, chứng từ đặc
thù khác được phép sử dụng như Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ do Bộ Tài
Chính (Tổng Cục Thuế) phát hành, … Và khi lập hóa đơn ĐTNT phải thể hiện đầy
đủ, chính xác những yếu tố quy định trên hóa đơn như giá bán chưa có thuế GTGT,
thuế GTGT, tổng giá thanh toán đã có thuế.

1.2.2.6 Khấu trừ và hoàn thuế GTGT:
Thuế GTGT có tính chất liên hoàn nên số thuế GTGT ở giai đoạn trước đã
nộp sẽ được khấu trừ ở giai đoạn sau trong quá trình sản xuất kinh doanh hhdv đó.
Điều này thể hiện qua việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Và do đối tượng nộp thuế
GTGT là người thu hộ nên hệ quả của việc khấu trừ là nhà nước sẽ hoàn thuế

SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 21


Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

GTGT mà ĐTNT đã nộp dư. Vì thế, có thể nói: khấu trừ và hoàn thuế GTGT là sự
thể hiện của tính chất liên hoàn thuế GTGT. Thực hiện khấu trừ và hoàn thuế
GTGT đòi hỏi phải có số thuế GTGT đầu ra và số thuế GTGT đầu vào. Điều này
chứng tỏ, đối tượng áp dụng khấu trừ và hoàn thuế GTGT chỉ có thể là ĐTNT theo

phương pháp khấu trừ thuế GTGT.
Theo quy định tại Điều 10 – Luật thuế GTGT, khấu trừ thuế GTGT được thực
hiện theo những nguyên tắc nhất định:
+ Chỉ được khấu trừ thuế GTGT hhdv dùng để sản xuất kinh doanh hhdv chịu
thuế GTGT.
+ Được khấu trừ số thuế GTGT hhdv đầu vào phát sinh trong tháng, không phân
biệt đã xuất dùng hay còn để trong kho. Hoặc: phát sinh trong thời gian tối đa 03
tháng từ thời điểm kê khai của tháng phát sinh.
+ Khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hhdv xuất khẩu phải đáp ứng đủ các điều
kiện sau:
 Hợp đồng bán hàng hóa, gia công hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho tổ chức, cá
nhân nước ngoài. Nếu ủy thác xuất khẩu: kèm theo biên bản thanh lý hợp
đồng ủy thác xuất khẩu (trường hợp kết thúc hợp đồng) hoặc biên bản đối
chiếu công nợ định kỳ giữa bên nhận ủy thác và bên ủy thác.
 Tờ khai hải quan xác nhận hàng đã thực xuất khẩu.
 Phải thanh toán qua ngân hàng.
 Hóa đơn GTGT bán hhdv hoặc xuất trả hàng gia công.
Trên cơ sở khấu trừ số thuế GTGT đầu vào, trong một số trường hợp luật định
nhà nước sẽ hoàn thuế GTGT như sau:
Thứ nhất: Cơ sở kinh doanh trong ba tháng liên tục trở lên (không phân biệt niên
độ kế toán) có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết sẽ được hoàn tổng
thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ của thời gian xin hoàn thuế. Hoặc: có hhdv
xuất khẩu nếu trong tháng có số thuế GTGT được khấu trừ của hàng hóa xuất khẩu
(17)

Phương pháp tính thuế GTGT đã trình bày phần 1.2.2.4.

SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 22



Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

từ 200 triệu đồng trở lên thì được hoàn theo tháng (bao gồm cả thuế GTGT đầu vào
của hhdv bán ra trong nước chưa được khấu trừ hết trong tháng).
Hoặc: là cơ sở kinh doanh đầu tư mới đã đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế
theo phương pháp khấu trừ thuế trong giai đoạn đầu tư, chưa đi vào hoạt động, chưa
phát sinh thuế GTGT đầu ra, nếu thời gian đầu tư từ một năm trở lên được xét hoàn
thuế theo từng năm.
Hoặc: Có dự án đầu tư đang trong giai đoạn đầu tư, chưa đi vào hoạt động, chưa
đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế, có số thuế GTGT đầu vào sử dụng cho dự án
đầu tư từ 200 triệu đồng trở lên được xét hoàn theo quý.
Thứ hai: Khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản, chuyển đổi sở hữu
thực hiện quyết toán thuế GTGT có thuế GTGT nộp thừa.
Thứ ba: hoàn thuế theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Thứ tư: Hoàn thuế đối với dự án ODA, đối với hàng hóa viện trợ được mua bằng
nguồn viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại của tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Thể hiện chính sách ưu đãi của nhà nước.
Thứ năm: Hoàn thuế cho đối tượng được hưởng ưu đãi miễn trừ ngoại giao khi
mua hhdv chịu thuế GTGT tại Việt Nam.
Ngoài ra, nhằm tối đa hóa quyền được hoàn thuế GTGT của cơ sở sản xuất
kinh doanh luật cũng quy định: nếu tháng trước thời gian xin hoàn thuế có số thuế
GTGT nộp thừa thì cũng được tính cộng thuế GTGT nộp thừa vào số thuế GTGT đề
nghị hoàn trong kỳ. Tuy nhiên, để được hoàn thuế GTGT những đối tượng trên phải
thực hiện hồ sơ hoàn thuế GTGT theo luật định (tại II phần D TT 120/ 2003/ TTBTC có quy định) gửi đến cơ quan thuế và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về
tính trung thực của hồ sơ.

1.3 Vai trò của thuế GTGT:
Thứ nhất: thuế GTGT tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.


SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 23


Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

Các Mác từng viết: “ thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy nhà nước, là thủ đoạn
đơn giản để kho bạc thu được tiền hay tài sản của người dân để dùng vào việc chi
tiêu của nhà nước “. Về cơ bản mục tiêu đặt ra thuế là nhằm duy trì sự tồn tại và
hoạt động của bộ máy nhà nước. Và cũng với ý nghóa đó, thuế GTGT là một thứ
thuế mà nhà nước đặt ra nhằm tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Với một phạm vi thu thuế GTGT rất rộng, nguồn thu từ sắc thuế này luôn
chiếm một tỷ trọng lớn trong việc tạo lập ngân sách nhà nước. Điều này càng được
khẳng định trong giai đoạn hiện nay, với quá trình hội nhập nền kinh tế khu vực và
thế giới, các quốc gia phải đảm bảo được sự bình đẳng giữa chủ thể đầu tư nước
ngoài và chủ thể đầu tư trong nước. Do đó, ngân sách nhà nước sẽ giảm đáng kể từ
nguồn thu thuế xuất nhập khẩu; với bản chất thuế GTGT “đánh” thuế trên bình diện
hhdv bao quát sẽ bù đắp khoản giảm sút này đảm bảo cho ngân sách nhà nước được
ổn định.
Mặt khác, thuế GTGT có tính chất liên hoàn nên việc thực hiện nghóa vụ
thuế GTGT của một doanh nghiệp có liên quan đến việc nộp thuế GTGT của nhiều
doanh nghiệp khác, điều này đã tạo ra sự kiểm soát lẫn nhau giữa các đối tượng nộp
thuế GTGT. Vì thế khắc phục được gian lận thuế GTGT, trốn thuế GTGT tránh thất
thu cho ngân sách.
Thứ hai: Thuế GTGT có vai trò bảo hộ nền sản xuất trong nước.
Thuế GTGT là một loại thuế tiêu dùng nên hhdv chịu thuế GTGT là những
sản phẩm phục vụ cho hoạt động tiêu dùng trong nước, không phân biệt xuất xứ của
sản phẩm đó do trong nước sản xuất hay được nhập từ nước ngoài. Do vậy, ở hầu hết

các nước có áp dụng thuế GTGT, hhdv khi xuất khẩu ra nước ngoài không những
không bị đánh thuế GTGT mà còn được phép khấu trừ toàn bộ số thuế GTGT đầu
vào. Ngược lại, hàng hóa được cung cấp hoặc sản xuất bởi nước khác khi nhập khẩu
vào trong nước thì phải chịu thuế GTGT ngay tại khâu nhập khẩu mặc dù hàng nhập
khẩu chưa có giá trị tăng thêm. Đây là điểm thể hiện vai trò bảo hộ nền sản xuất
trong nước của thuế GTGT.
SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 24


Khóa Luận Tốt Nghiệp Cử Nhân

Thứ ba: Thuế GTGT giúp bình ổn giá trên thị trường.
Thuế GTGT là một bộ phận cấu thành nên giá cả của hhdv nên có sự tác
động trực tiếp đến giá của hhdv trên thị trường. Do đó, nhà nước có thể điều chỉnh
giá hhdv tăng hay giảm bằng cách điều chỉnh mức thu thuế GTGT. Dựa vào điều
này, thuế GTGT giúp nhà nước bình ổn giá hhdv trên thị trường, thể hiện: xuất phát
từ nhiều yếu tố khách quan (thiên tai, chiến tranh, …) và chủ quan (thị hiếu khách
hàng, tín ngưỡng, văn hóa, …) giá của một số hhdv bị đột biến làm thị trường bất ổn
nên trong trường hợp giá thấp nhà nước sẽ tăng thuế GTGT để đẩy giá lên cao, giá
hhdv cao nhà nước sẽ giảm thuế GTGT để hạ thấp giá, thông qua đó làm giá cả
hhdv được ổn định.
Thực hiện tốt bình ổn giá trên thị trường, nhà nước sẽ đảm bảo được mối
quan hệ cung cầu trên thị trường giúp nhà nước ổn định được trật tự xã hội, quản lý
tốt nền kinh tế.
Thứ tư: Thuế GTGT thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng.
Với thuế Doanh thu trước đây, nhà nước dựa vào toàn bộ doanh thu phát sinh
ở mỗi khâu sản xuất lưu thông hhdv chịu thuế Doanh thu và thuế suất để tính thuế
Doanh thu phải nộp vào ngân sách. Do đó, hhdv càng trải qua nhiều công đoạn thì

giá của hhdv càng cao làm cho việc tiêu dùng hhdv trên thị trường bị hạn chế, kéo
theo tình hình sản xuất kinh doanh của chủ thể kinh doanh bị ảnh hưởng, ngoài ra
giá cả trên thị trường không phản ánh đúng giá trị thực của hhdv, … Vì vậy, để đảm
bảo khả năng cạnh tranh, đảm bảo doanh thu kinh doanh, các chủ thể sản xuất tự
khắc rút ngắn quá trình sản xuất lưu thông hhdv và không thực hiện sự chuyên môn
hóa trong sản xuất kinh doanh. Điều này đồng nghóa làm cho nền kinh tế trở nên
đơn điệu và kém phát triển. Từ khi thuế GTGT ra đời khắc phục yếu điểm của thuế
Doanh thu, với tính trung lập cao, với khấu trừ thuế là biểu hiện tính liên hoàn – một
đặc trưng cơ bản của thuế GTGT đã làm cho giá cả của hhdv không còn phụ thuộc
vào số lượng công đoạn sản xuất như trước đây, thực sự đã khuyến khích được sự
chuyên môn hóa cao, tạo điều kiện cho việc đầu tư chuyên sâu với máy móc hiện
SVTH: Đào Thùy Dương

Trang 25


×