Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Pháp luật về chế độ tài chính của DNBH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 66 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
--------

NGUYỄN THỊ NHƢ MAI

PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ TÀI CHÍNH CỦA
DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thƣơng mại

TP HCM – 2012


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
--------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ TÀI CHÍNH CỦA
DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM

SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ NHƢ MAI
Khóa: 2008 – 2012. MSSV: 0855010113
GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN: TS. NGUYỄN THỊ THỦY

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung tôi viết trong khóa luận này là kết quả của q
trình nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự hƣớng dẫn của Tiến sĩ Nguyễn Thị Thủy.
Những thông tin và dữ liệu mà tơi đƣa vào khóa luận này là có cơ sở và đƣợc trích
dẫn rõ ràng.
Ngƣời cam đoan


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. DNBH: Doanh nghiệp bảo hiểm
2. KDBH: Kinh doanh bảo hiểm
3. NTGBH: Ngƣời tham gia bảo hiểm.


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ TÀI CHÍNH
CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM...................................................................... 5
1.1.

Chế độ tài chính của DNBH ..........................................................................5

1.1.1.

Khái niệm ................................................................................................5

1.1.2.

Các nội dung chủ yếu của chế độ tài chính của DNBH .......................10


1.1.2.1.

Cơ cấu vốn và tài sản .....................................................................10

1.1.2.2.

Các chỉ tiêu tài chính ......................................................................14

1.1.2.3.

Doanh thu và chi phí ......................................................................15

1.1.2.4.

Đầu tƣ vốn ......................................................................................16

1.1.2.5.

Lợi nhuận .......................................................................................17

1.1.3.
1.2.

Chức năng .............................................................................................18

Pháp luật về chế độ tài chính của DNBH ....................................................20

1.2.1.


Khái niệm ..............................................................................................20

1.2.2.

Đặc điểm ...............................................................................................21

1.2.3. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với chế độ tài chính của
DNBH… .............................................................................................................22
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ......................................................................................26
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ TÀI CHÍNH CỦA
DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM VÀ ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN ............... 28
2.1.

Quy định pháp luật về chế độ tài chính DNBH và thực tiễn áp dụng .........28

2.1.1.

Quản lý và sử dụng vốn, tài sản ............................................................28

2.1.2.

Dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm..............................................................31

2.1.3.

Quy định về đầu tƣ vốn.........................................................................37

2.1.3.1.

Cơ sở để DNBH thực hiện hoạt động đầu tƣ: ................................37


2.1.3.2.

Các nguyên tắc của hoạt động đầu tƣ: ...........................................39

2.1.3.3.

Các lĩnh vực đầu tƣ ........................................................................40

2.1.3.4.

Nguồn vốn đầu tƣ ...........................................................................41

2.1.3.5.

Đánh giá chung ..............................................................................44

2.1.4.

Khả năng thanh tốn và khơi phục khả năng thanh toán ......................47


2.1.5.

Doanh thu và chi phí .............................................................................49

2.1.6.

Lợi nhuận và phân phối lợi nhuận ........................................................52


2.2.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chế độ tài chính của DNBH .................52

2.2.1.

Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện ..........................................52

2.2.2.

Hƣớng hoàn thiện .................................................................................53

2.2.3.

Một số kiến nghị cụ thể.........................................................................55

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ......................................................................................... 57
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 58


PL về chế độ tài chính của DNBH

GVHD: TS. Nguyễn Thị Thủy

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua gần 19 năm từ khi Chính phủ ban hành Nghị định 100/CP/1993 ngày
18/12/1993, thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam chính thức đƣợc hình thành và ngày
càng đóng vai trị quan trọng trong nền kinh tế nƣớc nhà. Cùng với sự phát triển của
kinh tế xã hội, đời sống con ngƣời ngày càng đƣợc nâng cao. Ngƣời dân không chỉ

quan tâm đảm bảo cho cuộc sống hiện tại mà đã biết lo cho tƣơng lai. Vì vậy mà vai
trị của bảo hiểm nói chung và bảo hiểm thƣơng mại nói riêng ngày càng trở nên
quan trọng. Kể từ khi ra đời, bảo hiểm đã thể hiện là công cụ xử lý, ngăn ngừa, hạn
chế rủi ro, giúp duy trì đời sống và hoạt động bình thƣờng của các tổ chức và cá
nhân trong xã hội. Đặc biệt, bảo hiểm còn thể hiện là công cụ tập trung vốn phục vụ
cho sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nƣớc. Tuy nhiên, những vai trị này chỉ có
thể đƣợc phát huy khi chế độ tài chính của các DNBH – cầu nối để đƣa sản phẩm
bảo hiểm đến tay các tổ chức cá nhân có nhu cầu – đảm bảo đƣợc tính an tồn và
minh bạch.
Với DNBH, chế độ tài chính có thể đƣợc xem là “trái tim” và chỉ khi có một
“trái tim” khỏe thì doanh nghiệp mới có thể phát triển lớn mạnh và đáp ứng đƣợc
mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của mình. Nó đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động của
doanh nghiệp, tăng cƣờng hiệu quả sử dụng vốn đồng thời giám sát hoạt động
chung của cả doanh nghiệp.
Mặt khác, với tƣ cách là một trong những chế định của hệ thống tài chính, tài
chính DNBH góp phần quyết định đến sự lớn mạnh hay suy thối của tồn bộ nền
kinh tế.
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng này của lĩnh vực bảo hiểm cũng nhƣ chế độ tài
chính của DNBH, Nhà nƣớc ta đã ban hành những quy định pháp luật về vấn đề này
song hành cùng sự ra đời, sửa đổi bổ sung của các quy định pháp luật về KDBH. Đó
là:
Thơng tƣ số: 45-TC/CĐKT ngày 30/05/1994 của Bộ Tài chính về quản lý tài
chính DNBH và Nghị định số: 100/CP/1993 của Chính phủ về KDBH (đã hết hiệu
lực).
Nghị định số: 43/2001/NĐ-CP ngày 01/08/2001 quy định về chế độ tài chính
DNBH và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, Thông tƣ số: 72/2001/TT-BTC ngày
28/08/2001 hƣớng dẫn nghị định này và Luật KDBH số: 24/2000/QH12 ngày
09/12/2000.
Và hiện nay là Nghị định số: 46/2007/NĐ-CP ngày 27/03/2007 quy định về chế
độ tài chính của DNBH và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, Thông tƣ

156/2007/TT-BTC ngày 20/12/2007 hƣớng dẫn nghị định này và Luật KDBH số:
24/2000/QH10 ngày 09/12/2000 đã đƣợc sửa đổi, bổ sung theo luật số
61/2010/QH12.
SVTH : Nguyễn Thị Nhƣ Mai

1


PL về chế độ tài chính của DNBH

GVHD: TS. Nguyễn Thị Thủy

Vài năm trở lại đây, nền kinh tế thế giới đang lâm vào tình trạng khủng hoảng.
Điều này đã có tác động khơng nhỏ đến Việt Nam, góp phần làm gia tăng lạm phát,
nâng lãi suất…cuộc sống ngƣời dân trở nên khó khăn hơn. Đây cũng chính là
ngun nhân làm cho hoạt động tài chính của các trung gian tài chính trong đó có
DNBH có nguy cơ mất an toàn. Với thực trạng và yêu cầu trên, tác giả chọn đề tài
“Pháp luật về chế độ tài chính của DNBH” làm khóa luận tốt nghiệp của mình. Qua
khóa luận này, tác giả mong muốn làm rõ hơn những quy định của pháp luật về chế
độ tài chính của DNBH, đƣa ra một bức tranh thực tế về thực trạng pháp luật và lý
giải, từ đó đề ra một số kiến nghị để góp phần bảo đảm đƣợc sự an tồn và minh
bạch cho hoạt động tài chính của DNBH cũng nhƣ đảm bảo lợi ích của NTGBH và
an tồn cho hệ thống tài chính cũng nhƣ nền kinh tế Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của khóa luận là nghiên cứu một cách tồn diện, góp phần làm sáng
tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về chế độ tài chính của DNBH. Phân tích làm rõ
những nội dung chủ yếu của pháp luật về chế độ tài chính của DNBH và thực tiễn
áp dụng chúng từ đó tìm ra và lý giải những quy định bất cập, còn thiếu thống nhất,
những cách hiểu và áp dụng chƣa đúng tinh thần quy định pháp luật. Trƣớc nhu cầu
thiết lập trật tự kỹ cƣơng trong lĩnh vự KDBH cũng nhƣ an tồn cho hệ thống tài

chính đất nƣớc, đƣa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật cũng
nhƣ cơ chế thực thi pháp luật bảo hiểm ở Việt Nam hiện nay.
Các nhiệm vụ cụ thể phải thực hiện để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu là:
Thứ nhất, nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về chế độ tài
chính doanh nghiệp nói chung. Đƣa ra khái niệm, đặc điểm, những nội dung cơ bản
của chế độ tài chính DNBH chi phối đến những nội dung quy định pháp luật về chế
độ tài chính DNBH.
Thứ hai, lý giải sự cần thiết phải có sự điều chỉnh phù hợp của pháp luật về lĩnh
vực này. Từ đây, xác định rõ yêu cầu chung trong KDBH là bảo đảm quyền lợi của
NTGBH, DNBH vừa phải đảm bảo vai trị của nó đối với kinh tế xã hội của đất
nƣớc.
Thứ ba, phân tích và đánh giá những nội dung chủ yếu của chế độ pháp lý về
tài chính DNBH trên cơ sở đối chiếu với quan điểm chung của Nhà nƣớc trong lĩnh
vực KDBH để tìm ra điểm chƣa phù hợp.
Thứ tƣ, làm rõ khoảng cách giữa chế độ pháp lý và thực tiễn áp dụng chế độ tài
chính DNBH trong thực tế.
Cuối cùng, tác giả đƣa ra một số kiến nghị cụ thể góp phần xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về chế độ tài chính DNBH tại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu pháp luật về chế độ tài chính của DNBH
thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật KDBH số 24/2000/QH10 đã đƣợc sửa đổi, bổ
sung theo Luật số 61/2010/QH12. Đặc biệt là các quy định của pháp luật về chế độ
SVTH : Nguyễn Thị Nhƣ Mai

2


PL về chế độ tài chính của DNBH

GVHD: TS. Nguyễn Thị Thủy


tài chính của DNBH theo Nghị định 46/2007/NĐ-CP và Thông tƣ 156/2007/TTBTC hƣớng dẫn nghị định này.
Các vấn đề về tài chính DNBH có thể đƣợc tiếp cận dƣới nhiều góc độ khác
nhau nhƣ xã hội, kinh tế, tài chính, nghiệp vụ. Dƣới góc độ khoa học pháp lý, khóa
luận chỉ tập trung nghiên cứu chế độ tài chính DNBH qua một số nội dung chủ yếu.
Cụ thể hơn, khóa luận nghiên cứu xoay quanh các vấn đề nhƣ nguồn vốn và các quỹ
tiền tệ, đầu tƣ vốn, khả năng thanh tốn, doanh thu và chi phí và cuối cùng là lợi
nhuận.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Khóa luận đƣợc thực hiện trên cơ sở áp dụng nhiều phƣơng pháp nghiên cứu
khác nhau.
Phƣơng pháp phân tích và so sánh đƣợc sử dụng để nêu lên sự khác biệt giữa
KDBH và các loại hình bảo hiểm khác, giữa các nội dung của bảo hiểm nhân thọ và
bảo hiểm phi nhân thọ và so sánh các quan điểm của một số tác giả có liên quan đến
nội dung nghiên cứu. Phƣơng pháp này giúp thấy đƣợc sự khác nhau trong cơ chế
điều chỉnh của pháp luật dành cho các DNBH và giúp tác giả có cái nhìn tồn diện
hơn về những vấn đề còn đang tranh cãi.
Phƣơng pháp quan sát thực tiễn đƣợc sử dụng trong việc tìm hiểu thực tiễn áp
dụng pháp luật về chế độ tài chính DNBH. Qua đó thấy đƣợc những vấn đề cịn tồn
tại góp phần đƣa ra những kiến nghị nhằm rút ngắn dần khoảng cách giữa quy định
của pháp luật và thực tiễn áp dụng.
Phƣơng pháp phân tích tổng hợp thể hiện rõ trong việc chứng minh sự cần
thiết phải có các quy định của pháp luật về chế độ tài chính của DNBH. Phƣơng
pháp này kết hợp với phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng là các
phƣơng pháp chủ yếu đƣợc sử dụng xuyên suốt để tạo ra tính khoa học, chặt chẽ và
logic cho khóa luận.
Ngồi ra khóa luận cịn sử dụng các phƣơng pháp khác nhƣ phƣơng pháp thống
kê, so sánh, giải thích.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Trên cơ sở tác giả nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng

về chế độ tài chính của DNBH. Khóa luận đƣa ra một số kiến nghị của bản thân
nhằm khắc phục những hạn chế trong công tác quản lý Nhà nƣớc đối với chế độ tài
chính của DNBH; góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của DNBH cũng nhƣ thị
trƣờng tài chính Việt Nam hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những ai thực hiện nghiên cứu
khoa học, xây dựng pháp luật, hoạt động thực tiễn cũng nhƣ các bạn sinh viên và
những ai quan tâm.

SVTH : Nguyễn Thị Nhƣ Mai

3


PL về chế độ tài chính của DNBH

GVHD: TS. Nguyễn Thị Thủy

Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu, tác giả khơng tránh khỏi những sai sót
nhất định. Rất mong nhận đƣợc những đóng góp cũng nhƣ ý kiến của các thầy cơ,
các bạn và những ai quan tâm nhằm hồn thiện hơn khóa luận này.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngồi lời mở đầu và kết luận, khóa luận gồm 2 chƣơng:
Chƣơng 1: Khái quát chung Pháp luật về chế độ tài chính của doanh nghiệp
bảo hiểm.
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật về chế độ tài chính của doanh nghiệp bảo
hiểm và định hƣớng hoàn thiện.

SVTH : Nguyễn Thị Nhƣ Mai

4



PL về chế độ tài chính của DNBH

GVHD: TS. Nguyễn Thị Thủy

CHƢƠNG 1:
KHÁI QUÁT CHUNG PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ TÀI CHÍNH CỦA DOANH
NGHIỆP BẢO HIỂM
1.1. Chế độ tài chính của DNBH
1.1.1. Khái niệm
Chế độ tài chính doanh nghiệp
Thuật ngữ “chế độ tài chính doanh nghiệp” xuất hiện nhiều trong các văn bản
pháp luật, sách báo, tạp chí nhƣng hiện nay chƣa có khái niệm thống nhất về vấn đề
này. Trƣớc đây ta có khái niệm: “Chế độ tài chính là toàn bộ nguyên tắc hoạt động
do Nhà nƣớc quy định về quản lý thu chi tài chính, đảm bảo cho cơng tác tài chính
tiến hành bình thƣờng”1.Tuy nhiên thuật ngữ này chỉ đƣợc sử dụng cho tài chính
cơng tức tài chính Nhà nƣớc mà thơi. Ta có thể tìm hiểu khái niệm này bằng cách đi
tìm hai thuật ngữ tạo nên nó.
Tài chính doanh nghiệp: Thuật ngữ tài chính doanh nghiệp đƣợc hiểu là “hệ
thống các luồng chuyển dịch giá trị, các luồng vận động và chuyển hóa các nguồn
tài chính trong q trình phân phối để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đạt
tới những mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp trong khuôn khổ cho phép của
pháp luật”2.
Tài chính doanh nghiệp là một khâu trong hệ thống tài chính Việt Nam, bao
gồm: tài chính cơng (ngân sách Nhà nƣớc), tài chính doanh nghiệp, tài chính trung
gian, tài chính dân cƣ (hộ gia đình, các tổ chức đồn thể xã hội). Các khâu tài chính
này có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, tài chính Nhà nƣớc là khâu
chủ đạo. Tài chính doanh nghiệp là khâu cơ sở cấu thành nên hệ thống tài chính của
một quốc gia. Nó là cơ sở để tích tụ - tập trung các nguồn lực tài chính nên nó gắn

liền với q trình sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm cho xã hội. Ngƣợc lại tài
chính doanh nghiệp đƣợc hình thành từ các khâu tài chính khác nhƣ ngân sách Nhà
nƣớc, các khâu tài chính trung gian…thơng qua việc cấp phát vốn, phát hành cổ
phiếu, trái phiếu.
Dƣới góc độ kinh tế, tài chính doanh nghiệp có nội dung vật chất là các quỹ
tiền tệ trong quá trình tạo lập, phân phối, sử dụng và vận động gắn liền với hoạt
động của doanh nghiệp. Biểu hiện dƣới hình thức của nó là các quan hệ tài chính
phát sinh trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp nhằm tạo lập và sử dụng quỹ
tiền tệ của doanh nghiệp. Tùy thuộc vào tính chất, đặc điểm của quan hệ tài chính
mà chủ thể của quan hệ đó có những đặc điểm riêng, hơn nữa các chủ thể này khi

1

Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa Hà Nội (1998), Đại từ điển kinh tế thị trường, nhà xuất bản
Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa Hà Nội, Hà Nội, tr.636.
2
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2001), Giáo trình luật Tài chính Việt Nam, nhà xuất bản Công an nhân dân,
Hà Nội, tr.248.

SVTH : Nguyễn Thị Nhƣ Mai

5


PL về chế độ tài chính của DNBH

GVHD: TS. Nguyễn Thị Thủy

tham gia vào các hoạt động tài chính đều chịu sự chi phối bởi sự quản lý vĩ mô của
Nhà nƣớc.

Chế độ: Đƣợc tạo nên bởi “chế” là đặt ra; “độ” là đo lƣờng, luật pháp. Theo
đó, “chế độ” là thể lệ, phép tắc do một cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đặt ra để
mọi ngƣời cùng thực hiện.3
Như vậy, ta có thể đưa ra khái niệm về chế độ tài chính của doanh nghiệp như
sau: “Chế độ tài chính doanh nghiệp là tồn bộ những quy tắc được đặt ra đối với
các luồng chuyển dịch giá trị phản ánh sự vận động và chuyển hóa các nguồn tài
chính trong q trình phân phối để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ gắn liền với
thực hiện các chức năng nhiệm vụ và hoạt động của doanh nghiệp mà doanh nghiệp
cần tuân theo”.
Chế độ tài chính của doanh nghiệp có thể bao gồm các nội dung là: quản lý và
sử dụng vốn và tài sản; doanh thu và chi phí; các chỉ tiêu tài chính; hoạt động đầu
tƣ; lợi nhuận và phân phối lợi nhuận; nghĩa vụ tài chính với Nhà nƣớc,…
Chế độ tài chính của DNBH
DNBH cũng là một chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế, thế nên chế độ tài
chính của DNBH có nội dung cơ bản là tƣơng tự nhƣ chế độ tài chính của các doanh
nghiệp thơng thƣờng. Hiểu một cách ngắn gọn thì chế độ tài chính DNBH cũng là
tồn bộ những quy tắc xử sự mà DNBH phải thực hiện trong quá trình tạo lập, phân
phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của DNBH. Sự khác nhau ở đây là về tính chất, nội
dung của các quy tắc mà chủ yếu bắt nguồn từ đặc trƣng của hoạt động kinh doanh
của DNBH. Hoạt động kinh doanh thƣờng xuyên, chủ yếu và mang tính chuyên
nghiệp của DNBH là hoạt động KDBH.
Hoạt động KDBH mang những đặc điểm đặc thù, khác biệt với các doanh
nghiệp khác trong nền kinh tế. Chính những đặc thù này đã chi phối, làm cho chế độ
tài chính của DNBH mang những nét khác biệt với chế độ tài chính của các doanh
nghiệp thơng thƣờng.
Đối tƣợng kinh doanh của DNBH là rủi ro. Trong hoạt động KDBH, các
DNBH chấp nhận rủi ro trên cơ sở NTGBH đóng phí bảo hiểm để DNBH bồi
thƣờng hay trả tiền bảo hiểm khi xảy ra các rủi ro đã thỏa thuận trƣớc trong hợp
đồng bảo hiểm. Nhƣ vậy, có thể hiểu rủi ro là cơ sở làm phát sinh trách nhiệm mà
bên bảo hiểm đã cam kết. Trong khi đó, rủi ro trong bảo hiểm thƣơng mại là sự kiện

xảy ra một cách bất ngờ, dù không mong muốn nhƣng nó vẫn có thể xảy ra mà
khơng thể biết trƣớc đƣợc vì nó nằm ngồi ý chí chủ quan của con ngƣời. Do đó,
khi nào bên bảo hiểm phải thực hiện nghĩa vụ đã cam kết và mức độ thực hiện bao
nhiêu là phụ thuộc vào tần suất xảy ra rủi ro. Đối với một DNBH, trong một chu kỳ
kinh doanh mà những rủi ro đƣợc bảo hiểm xảy ra nhiều thì hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp đó là khơng có lợi nhuận, thậm chí là thua lỗ ảnh hƣởng khơng
nhỏ đến chế độ tài chính của DNBH đó. Ngƣợc lại thì DNBH có doanh thu lớn và
vì thế chế độ tài chính của DNBH sẽ an tồn, bảo đảm thực hiện đƣợc tất cả các
nghĩa vụ của DNBH. Tuy nhiên, DNBH có thể giảm thiểu sự ảnh hƣởng của rủi ro
3

Nguyễn Lân (2004), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, nhà xuất bản TP.HCM, TP.HCM.

SVTH : Nguyễn Thị Nhƣ Mai

6


PL về chế độ tài chính của DNBH

GVHD: TS. Nguyễn Thị Thủy

đến chế độ tài chính của doanh nghiệp mình bằng cách thực hiện tốt các biện pháp
phòng ngừa và quản trị rủi ro.
Bảo hiểm thƣơng mại cung cấp dịch vụ đảm bảo không chỉ cho các rủi ro về
con ngƣời mà còn cho cả rủi ro tài sản và trách nhiệm dân sự. Tùy vào từng loại
hình bảo hiểm mà rủi ro có sự khác nhau. Thứ nhất, trong bảo hiểm phi nhân thọ,
rủi ro đƣợc bảo hiểm phải là những sự kiện xảy ra hoàn toàn do tác động khách
quan từ bên ngoài mà dẫn đến tổn thất. Cịn những tổn thất xuất phát từ bản chất
vốn có của đối tƣợng đƣợc bảo hiểm thì sẽ khơng đƣợc bồi thƣờng. Tuy nhiên, rủi

ro trong bảo hiểm nhân thọ không chỉ gồm những sự kiện khách quan từ bên ngồi
mà cịn có thể có nguồn gốc từ lý do bên trong đối tƣợng đƣợc bảo hiểm nhƣ tình
trạng sức khỏe, tuổi của ngƣời đƣợc bảo hiểm. Vì những rủi ro đƣợc bảo hiểm trong
bảo hiểm nhân thọ là rộng hơn so với rủi ro đƣợc bảo hiểm trong bảo hiểm phi nhân
thọ nên trách nhiệm của DNBH cũng theo đó mà tăng lên. Thứ hai, những rủi ro
trong bảo hiểm nhân thọ mang tính chất nghiêm trọng hơn vì nó liên quan đến tính
mạng con ngƣời, dù khơng thể tính tốn đƣơc giá trị thực tế nhƣng thơng thƣờng
những nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ có mức giới hạn trách nhiệm của DNBH cũng
nhƣ số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm nhân thọ là cao hơn so với những nghiệp vụ
bảo hiểm phi nhân thọ. Từ đó, doanh thu và mức trích lập các quỹ dự phịng nghiệp
vụ bảo hiểm nhân thọ cũng lớn hơn so với doanh nghiệp KDBH phi nhân thọ.
Sản phẩm mà DNBH đem bán là lời hứa, sự cam kết. “Sản phẩm bảo hiểm là
sự cam kết của DNBH đối với bên mua bảo hiểm về việc bồi thƣờng hay trả tiền
bảo hiểm khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra”4.
Khác với những lời hứa thơng thƣờng, trong hoạt động KDBH, nhằm mục
đích tạo lòng tin của khách hàng, thu hút nhiều ngƣời mua sản phẩm thì Nhà nƣớc
cũng nhƣ DNBH đã tạo ra một hình thức biểu hiện của lời hứa này. Lời hứa của
DNBH đƣợc cụ thể hóa trong các nội dung của hợp đồng bảo hiểm đã ký với khách
hàng. Đây chính là bằng chứng pháp lý làm cho DNBH khơng thể thối thác trách
nhiệm của mình khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra đúng với những điều khoản đã thỏa
thuận trong hợp đồng. Tuy nhiên, dù DNBH thừa nhận lời hứa của mình nhƣng việc
có thực hiện đƣợc những gì mình đã cam kết với khách hàng hay khơng thì lại là
một vấn đề khác. Lúc này khả năng tài chính của nhà bảo hiểm chính là yếu tố
mang tính quyết định liệu quyền lợi hợp pháp của NTGBH có đƣợc bảo đảm hay
khơng. Nói tóm lại, vì đặc tính khơng chắc chắn của sản phẩm bảo hiểm mà một
yêu cầu đặt ra là những quy tắc trong hoạt động kinh doanh tài chính của DNBH
phải thể hiện tính chặt chẽ sao cho bảo đảm đƣợc quyền lợi của các bên khi thực
hiện mua – bán sản phẩm bảo hiểm.
Giá cả của sản phẩm bảo hiểm chính là phí bảo hiểm, sự hình thành nên phí
bảo hiểm là nét khác biệt đặc trƣng trong hoạt động KDBH.

Giá của một sản phẩm hàng hóa, dịch vụ nói chung đƣợc tạo nên từ chi phí
(sản xuất và tiêu thụ), các khoản nghĩa vụ với Nhà nƣớc và phần lợi nhuận doanh
nghiệp ƣớc tính phải đạt đƣợc trên cơ sở vẫn đảm bảo đƣợc tính cạnh tranh trên thị
4

Trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân (2009), Quản trị KDBH, nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội,
tr.73.

SVTH : Nguyễn Thị Nhƣ Mai

7


PL về chế độ tài chính của DNBH

GVHD: TS. Nguyễn Thị Thủy

trƣờng. Từ đặc điểm chu trình kinh doanh của DNBH là chu trình ngƣợc, nên chi
phí sản phẩm bảo hiểm khơng chỉ đƣợc hình thành dựa trên chi phí cho ngƣời lao
động, nghiên cứu, khảo sát nhu cầu thị trƣờng (chi phí sản xuất), chi phí quảng cáo,
chi phí phân phối, chi phí đầu tƣ phát triển sản phẩm (chi phí tiêu thụ)… mà nó cịn
hình thành trên cơ sở dựa vào số liệu về chi phí đã phát sinh trong quá khứ để “dự
tính” giá sản phẩm sao cho tƣơng ứng với chi phí sẽ phát sinh trong tƣơng lai nhƣ
khoản bồi thƣờng hoặc trả tiền bảo hiểm, chi phí tái bảo hiểm,… Từ đây, giá cả sản
phẩm bảo hiểm đƣợc xác định dựa trên trình độ phân tích, đánh giá, trình độ tính
tốn và sự phán đốn của nhà bảo hiểm kết hợp với những số liệu từ trong quá khứ
sẽ có thể tạo kết quả thiếu chính xác. Điều này rất nguy hiểm, vì nó sẽ kéo theo mức
trích lập các quỹ dự phịng khơng hợp lý để có thể đảm nhiệm đƣợc trách nhiệm đã
cam kết của DNBH. Đồng thời với doanh thu nhỏ hơn chi phí thì DNBH sẽ bị thua
lỗ…tất cả sẽ khơng chỉ ảnh hƣởng đến bản thân doanh nghiệp mà còn đe dọa quyền

lợi của ngƣời mua bảo hiểm vì chế độ tài chính của DNBH lúc này có nguy cơ mất
an toàn. Nhƣ vậy, giá cả của sản phẩm bảo hiểm cũng là một trong những yếu tố
ảnh hƣởng lớn đến chế độ tài chính DNBH. Với vai trị quản lý chung của mình,
Nhà nƣớc có những tác động một cách thích hợp đến hoạt động của DNBH để ngăn
ngừa những ảnh hƣởng khơng tốt đến sự an tồn về khả năng tài chính của DNBH.
Mức phí bảo hiểm ảnh hƣởng lớn đến chế độ tài chính DNBH bằng cách tác
động trực tiếp đến các quỹ dự phòng nghiệp vụ, doanh thu, lợi nhuận, hoạt động
đầu tƣ. Tùy từng đối tƣợng đƣợc bảo hiểm và tùy từng nghiệp vụ bảo hiểm khác
nhau mà mỗi loại hình bảo hiểm có cách tính phí khác nhau. Tuy nhiên, nhƣ đã đề
cập ở trên, với phƣơng pháp tính phí khác nhau thì phí bảo hiểm nhân thọ là khác
biệt so với phí bảo hiểm phi nhân thọ, từ đó, quỹ dự phịng nghiệp vụ bảo hiểm,
doanh thu, lợi nhuận, hoạt động đầu tƣ của hai loại hình bảo hiểm này cũng khác
nhau.
Chu trình kinh doanh của DNBH là chu trình kinh doanh đảo ngƣợc, tức là
doanh thu có trƣớc và chi phí phát sinh sau. DNBH thu phí bảo hiểm từ khách hàng
và chỉ chi trả tiền bảo hiểm hay bồi thƣờng khi có tổn thất từ rủi ro đƣợc bảo hiểm
phát sinh. Đối với doanh nghiệp nói chung và DNBH nói riêng thì vấn đề cân đối
giữa thu và chi là một nhiệm vụ quan trọng, quyết định lãi lỗ trong kinh doanh.
Trong doanh nghiệp thơng thƣờng, họ xác định chi phí trƣớc một cách rõ ràng, rồi
trên cơ sở đó họ ấn định giá bán sản phẩm hàng hóa, dịch vụ thích hợp sao cho tổng
thu nhập có đƣợc ít nhất là lớn hơn hoặc bằng với chi phí nên có thể nói họ có khả
năng khống chế, điều chỉnh thu chi thích hợp để tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp
mình. Thế nhƣng với DNBH, điều này khó khăn hơn rất nhiều. Bởi vì đặc điểm “dự
tính” chi phí sẽ phát sinh trong tƣơng lai và phí bảo hiểm mà dẫn đến khả năng cân
đối thu chi của DNBH cũng không chắc chắn. Doanh thu của DNBH chủ yếu từ phí
bảo hiểm, mà bản chất phí bảo hiểm là khoản tiền ứng trƣớc của ngƣời mua bảo
hiểm, nó chƣa thực sự thuộc sở hữu của bên bảo hiểm; đồng thời để đảm bảo cho
lời cam kết về trách nhiệm của bên bảo hiểm nên yêu cầu cần thiết phải có một bên
SVTH : Nguyễn Thị Nhƣ Mai


8


PL về chế độ tài chính của DNBH

GVHD: TS. Nguyễn Thị Thủy

thứ ba với vai trò trung lập để bảo vệ quyền lợi chính đáng của bên đƣợc bảo hiểm.
Bên thứ ba đó khơng ai khác ngồi các cơ quan Nhà nƣớc, thực hiện vai trò bằng
cách ban hành các quy tắc, cách thức điều chỉnh chế độ tài chính của DNBH, nhằm
hạn chế những đặc điểm trong hoạt động KDBH gây bất lợi cho các chủ thể tham
gia quan hệ.
Hoạt động KDBH khơng chỉ mang tính kinh tế mà cịn mang tính xã hội. Hoạt
động KDBH là sự chia sẻ mang tính cộng đồng. DNBH nhận chuyển giao rủi ro từ
chủ thể tham gia bảo hiểm và chỉ bồi thƣờng hay trả tiền bảo hiểm khi có rủi ro
đƣợc bảo hiểm xảy ra trên thực tế. Trong khi đó, “rủi ro là một sự kiện không mong
muốn mà chúng ta nghi ngờ rằng nó sẽ xảy ra trong tƣơng lai”5. Nhƣ vậy, có thể
hiểu rằng, có nhiều ngƣời tham gia mua bảo hiểm nhƣng DNBH chỉ chi trả cho một
số đối tƣợng thuộc trƣờng hợp bảo hiểm mà thôi. Khoản phí do những ngƣời mua
bảo hiểm khác đã nộp nhƣng khơng có rủi ro trong hợp đồng bảo hiểm xảy ra sẽ
khơng đƣợc hồn trả mà chính những khoản phí này sẽ đƣợc sử dụng để chi trả cho
những trƣờng hợp khơng may khác. Số NTGBH càng đơng thì khả năng bù đắp

rủi ro càng lớn, độ an toàn càng cao và phí bảo hiểm phải đóng là thấp nhất.
DNBH không phải là nhà hảo tâm, tự bỏ tiền của mình ra để bù đắp tổn thất của
ngƣời khác, mà họ chỉ đóng vai trị trung gian đƣa nguồn tài chính đƣợc góp bởi
“cộng đồng” để hỗ trợ cho một số ít những trƣờng hợp bị tổn thất do rủi ro đƣợc
bảo hiểm gây ra. Vì vậy, cần có cơ chế quản lý việc DNBH thực hiện vai trò trung
gian này, những quy tắc để DNBH sử dụng hợp lý và đúng mục tiêu quỹ đóng góp
này mà đặc biệt là trong hoạt động sử dụng quỹ dự phòng từ phí bảo hiểm để đầu

tƣ.
Bất kỳ một quy tắc, quy định nào khi đƣợc đặt ra đều bắt nguồn từ đặc điểm,
tính chất của vấn đề mà nó hƣớng tới điều chỉnh. Vì những đặc điểm đã phân tích ở
trên mà chế độ tài chính của DNBH tuy cũng là tập hợp những quy tắc xử sự mà
DNBH phải tn thủ trong hoạt động tài chính nhƣng nó mang tính nghiêm ngặt
hơn, gắn với quyền lợi của các chủ thể trong quan hệ với DNBH, khắc phục đƣợc
những đặc trƣng trong hoạt động KDBH gây bất lợi cho NTGBH. Đó là các yêu cầu
về vốn pháp định, ký quỹ, trích lập dự phịng nghiệp vụ bảo hiểm, hiệu quả đầu
tƣ…; đồng thời sự quản lý này cũng khác nhau giữa DNBH nhân thọ và phi nhân
thọ.
Vì vậy, “Chế độ tài chính của DNBH là tồn bộ những quy tắc về quá trình
tạo lập, phân phối, sử dụng và vận động của các quỹ tiền tệ và các nguồn vốn, gắn
liền với thực hiện các chức năng nhiệm vụ và hoạt động của DNBH mà DNBH cần
tuân theo nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh đồng thời bảo đảm lợi ích cho
NTGBH và an toàn, phát triển cho nền kinh tế đất nước”.

5

Tiến sĩ Nguyễn Thị Thủy (2010), Pháp luật bảo hiểm tài sản tại Việt Nam, nhà xuất bản Đại học quốc gia
TP.HCM, TP. Hồ Chí Minh, tr59.

SVTH : Nguyễn Thị Nhƣ Mai

9


PL về chế độ tài chính của DNBH

GVHD: TS. Nguyễn Thị Thủy


1.1.2. Các nội dung chủ yếu của chế độ tài chính của DNBH
DNBH là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, thế nên chế độ tài
chính của DNBH cũng có những nội dung giống nhƣ những nội dung chế độ tài
chính của một doanh nghiệp nói chung. Ngoài ra, do hoạt động trong một lĩnh vực
đặc biệt nên những nội dung của tài chính DNBH mang một số đặc điểm tƣơng đối
khác.
1.1.2.1. Cơ cấu vốn và tài sản
“Vốn” của doanh nghiệp thực tế chính là vốn kinh doanh của doanh nghiệp, là
giá trị đƣợc biểu hiện bằng tiền toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp phục
vụ cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận.6
Vốn của doanh nghiệp có nhiều loại, tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu mà
chọn cách phân loại khác nhau.
Căn cứ vào nội dụng vật chất, vốn doanh nghiệp gồm:
- Vốn thực là những tƣ liệu sản xuất nhƣ máy móc, thiết bị, nhà cửa, vật kiến
trúc…
- Vốn tài chính là tiền, chứng khốn hay các giấy tờ có giá khác thƣờng đƣợc
sử dụng để đầu tƣ.
Căn cứ vào hình thức biểu hiện:
- Vốn hữu hình là những tài sản biểu hiện dƣới dạng vật chất có thể nhìn thấy
đƣợc nhƣ đất đai, nhà cửa, máy móc thiết bị…
- Vốn vơ hình là những tài sản khơng thể nhìn thấy đƣợc mà nó biểu hiện dƣới
dạng các quyền nhƣ quyền sử dụng đất, bằng sáng chế, các quyền sở hữu
trí tuệ…
Căn cứ vào phƣơng thức luân chuyển vốn trong hoạt động kinh doanh:
- Vốn cố định là lƣợng giá trị mà doanh nghiệp đầu tƣ để mua các tài sản phục
vụ sản xuất kinh doanh, thƣờng có giá trị lớn và đƣợc sử dụng dài hạn.
- Vốn lƣu động là lƣợng giá trị mà doanh nghiệp sử dụng để đầu tƣ ngắn hạn.
Căn cứ vào thời gian sử dụng và thu hồi vốn trong hoạt động kinh doanh:
- Vốn ngắn hạn là vốn có thời gian chu chuyển trong vòng một năm.
- Vốn trung hạn là vốn có thời gian chu chuyển từ một năm đến ba năm.

- Vốn dài hạn là vốn có thời gian chu chuyển lớn hơn ba năm.
Cách phân loại vốn theo nguồn gốc hình thành là cách phân loại thuận lợi
trong việc tìm hiểu về chế độ tài chính DNBH bởi yêu cầu tách bạch giữa vốn của
chủ sở hữu và vốn huy động từ ngƣời mua bảo hiểm là đƣợc chú trọng trong hoạt
động tài chính của DNBH.
Nguồn vốn chủ sở hữu

6

Xem thêm Trƣờng Đại học Kinh tế TP.HCM (2009), Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ, nhà xuất bản
Đại học Quốc gia TP.HCM, TP.HCM, tr.46.

SVTH : Nguyễn Thị Nhƣ Mai

10


PL về chế độ tài chính của DNBH

GVHD: TS. Nguyễn Thị Thủy

Vốn chủ sở hữu gồm vốn điều lệ đƣợc góp khi thành lập doanh nghiệp, các
quỹ, chênh lệch đánh giá lại tài sản và các khoản lợi nhuận tích lũy đƣợc của doanh
nghiệp.
Đối với các lĩnh vực hoạt động kinh doanh có điều kiện cũng nhƣ trong lĩnh
vực KDBH, cịn có một loại vốn đó là vốn pháp định. Thực ra vốn pháp định là mức
khống chế tối thiểu của vốn điều lệ mà DNBH phải đảm bảo để có thể hoạt động
đƣợc.
Nguồn vốn là các khoản nợ phải trả
Nguồn vốn vay của các doanh nghiệp nói chung chủ yếu gồm vốn tín dụng

ngân hàng, vốn tín dụng thƣơng mại, phát hành trái phiếu, cổ phiếu công ty…
Nguồn vốn vay của DNBH là các khoản vay ngắn hạn và dài hạn thông qua
hoạt động huy động vốn. Đặc biệt DNBH có nguồn vốn vay là các quỹ dự phịng
nghiệp vụ. Khác với các doanh nghiệp khác, DNBH không thƣờng xuyên sử dụng
nguồn vốn vay ngân hàng. Điều này đƣợc lý giải từ sự khác biệt giữa đặc điểm hoạt
động KDBH và các hoạt động kinh doanh khác. Thay vào đó, DNBH có nguồn vốn
nhàn rỗi từ quỹ dự phịng nghiệp vụ bảo hiểm và đƣợc phép sử dụng nguồn vốn này
để đầu tƣ kinh doanh sinh lợi nhƣng phải đảm bảo an toàn, hiệu quả và đáp ứng
đƣợc yêu cầu chi trả thƣờng xuyên cho các hợp đồng bảo hiểm.
“Dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm là khoản tiền mà DNBH phải trích lập nhằm
mục đích thanh tốn cho những trách nhiệm bảo hiểm đã đƣợc xác định trƣớc và
phát sinh từ các hợp đồng bảo hiểm đã giao kết”7.
Dự phòng nghiệp vụ là loại quỹ đặc trƣng của các cơng ty bảo hiểm. Mục đích
chủ yếu của việc lập các quỹ dự phòng là bảo đảm trách nhiệm của DNBH trƣớc
những cam kết với khách hàng. Phí dự phịng đƣợc dùng để bồi thƣờng hay trả tiền
bảo hiểm cho những tổn thất đã xảy ra nhƣng chƣa đƣợc thanh tốn và cả những tổn
thất có thể xảy ra trong tƣơng lai. Trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm, bên bảo hiểm
nhận đƣợc một khoản phí, cịn bên đƣợc bảo hiểm nhận đƣợc một lời cam kết trả
tiền bảo hiểm hay bồi thƣờng khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra theo đúng thỏa thuận
trong hợp đồng. Khoản phí này chính là một trong những nguồn vốn của DNBH.
Thế nhƣng khác với nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn có đƣợc từ việc thu phí bảo
hiểm đƣợc xem là tài sản nợ mà DNBH phải trả (theo cam kết). Thêm vào đó, tuy là
nợ, nhƣng khoản nợ này làm cho “con nợ” gặp khó khăn hơn. Cụ thể, nợ thƣờng
đƣợc xác định là nợ ngắn hạn hay nợ dài hạn; nợ có thời hạn xác định hay nợ khơng
có thời hạn xác định. Khi nhận biết đƣợc loại nợ thì con nợ sẽ dễ dàng và chủ động
trong việc sử dụng khoản nợ cũng nhƣ việc xác định rõ thời hạn trả nợ. Trong khi
nợ phí bảo hiểm, DNBH lại khơng thể có đƣợc sự chủ động nào. Bởi lẽ hợp đồng
bảo hiểm có thể đƣợc ký bất kỳ thời điểm nào trong năm, thời hạn mỗi loại hợp
đồng là khác nhau tùy vào sản phẩm đƣợc bán, thời điểm xảy ra rủi ro đƣợc bảo
hiểm là khác nhau, đó là chƣa kể đến khi xảy ra rủi ro rồi nhƣng DNBH lại chƣa

7

Khoản 1, Điều 96, Luật KDBH 2000 đã sửa đổi bổ sung năm 2010.

SVTH : Nguyễn Thị Nhƣ Mai

11


PL về chế độ tài chính của DNBH

GVHD: TS. Nguyễn Thị Thủy

thanh toán ngay mà thƣờng phải mất một khoảng thời gian để xác định mức trách
nhiệm bảo hiểm. Chính vì vậy, việc trích lập các khoản dự phịng là hết sức cần
thiết.
Tuy nhiên, giá trị dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm phải đƣợc trích lập phù hợp.
Dự phịng nghiệp vụ cao hay thấp đều gây nên những bất lợi cho DNBH. Mức dự
phòng nghiệp vụ phải đƣợc lập trên cơ sở quy mơ, tình hình kinh doanh của cơng
ty. Để hạn chế tối đa việc doanh nghiệp có thể trích lập dự phịng khơng phù hợp,
cơ quan Nhà nƣớc đã đặt ra những quy định về vấn đề này. Tuy nhiên, “các quy
định về trích lập dự phịng nghiệp vụ lại phụ thuộc rất nhiều vào các nguyên tắc tính
phí bảo hiểm và chun gia tính tốn”8. Tuy nhiên, Luật KDBH hiện hành khơng
quy định vể chun gia tính toán cũng nhƣ những yêu cầu của một chuyên gia tính
tốn. Điều 14 Nghị định 45/2007/NĐ-CP ngày 27/03/2007 quy định chi tiết một số
điều của Luật thì chỉ có quy định bắt buộc về chỉ định chun gia tính tốn đối với
DNBH nhân thọ. Thiết nghĩ, dù là nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ hay phi nhân thọ
thì dự phịng nghiệp vụ của nó cũng ảnh hƣởng đến quyền lợi của NTGBH thế nên
cũng cần có quy định về chuyên gia tính tốn đối với cả DNBH phi nhân thọ.
Sự khác nhau về loại, mức và phƣơng pháp trích lập dự phòng nghiệp vụ đối

với doanh nghiệp KDBH nhân thọ và phi nhân thọ đƣợc lý giải dựa trên những đặc
trƣng của từng nghiệp vụ bảo hiểm, đó là:
Hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ thƣờng có thời hạn ngắn, thƣờng là không
quá một năm trong khi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đa phần có thời hạn dài hơn.
Các hợp đồng thuộc cùng một nghiệp vụ trong bảo hiểm phi nhân thọ có nhiều
sự tƣơng đồng về các điều khoản cũng nhƣ mức phí. Điều này khác hẳn trong bảo
hiểm nhân thọ, hợp đồng dù trong cùng một nghiệp vụ hay một loại sản phẩm thì
cũng có những sự khác nhau nhất định do đặc điểm của rủi ro đối với từng bên đƣợc
bảo hiểm là khác nhau.
Rủi ro đƣợc bảo hiểm trong sản phẩm phi nhân thọ thƣờng là khơng thay đổi
hoặc ít thay đổi theo thời gian. Rủi ro trong nhân thọ lại là yếu tố phụ thuộc thời
gian. Cụ thể, tần suất rủi ro xảy ra tăng tỉ lệ thuận theo độ dài của thời gian. Ví dụ
trong sản phẩm bảo hiểm tử kỳ, thời gian càng dài đồng nghĩa với tuổi của ngƣời
đƣợc bảo hiểm ngày một tăng, sức khỏe ngày một yếu đi nên khả năng xảy ra sự
kiện bảo hiểm càng cao.
Phí bảo hiểm phi nhân thọ thƣờng đƣợc thu hết một lần ngay sau khi ký kết
hợp đồng. Trong nhân thọ, DNBH và ngƣời nộp phí thƣờng thỏa thuận trả phí chia
làm nhiều lần.
Ở đây có hai thuật ngữ mà chúng ta cần làm rõ đó là “vốn” và “tài sản”. Thực
chất hai thuật ngữ này tuy khác nhau về ngôn từ nhƣng về nội hàm thì hồn tồn
giống nhau. Vốn chính là tên gọi chung mang tính lý luận về tài sản của doanh
nghiệp, là giá trị các tài sản của doanh nghiệp, trong khi đó tài sản chính là hình
8

TS Vũ Nhữ Thăng (2009), “Hƣớng tới quỹ bảo vệ ngƣời tham gia bảo hiểm ở Việt Nam”, Tạp chí Tài
chính, (6), tr.49.

SVTH : Nguyễn Thị Nhƣ Mai

12



PL về chế độ tài chính của DNBH

GVHD: TS. Nguyễn Thị Thủy

thức biểu hiện vật chất của vốn trên thức tế. Nói chung, vốn tồn tại dƣới dạng hình
thái giá trị của các tài sản trong doanh nghiệp. Tài sản của doanh nghiệp nói chung
và DNBH nói riêng có hai loại đó là tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn.9
Tài sản ngắn hạn
Giống nhƣ các doanh nghiệp khác, tài sản ngắn hạn của DNBH có các loại
nhƣ: tiền tệ, các khoản phải thu ngắn hạn; các khoản đầu tƣ ngắn hạn; khoản thế
chấp, ký cƣợc, ký quỹ; chi phí dở dang của hoạt động KDBH gốc, nhận và nhƣợng
tái bảo hiểm; khoản tạm ứng và chi phí trả trƣớc; ngun vật liệu, cơng cụ, dụng cụ,
dự phịng giảm giá hàng tồn kho…
Trong khi tài sản dài hạn chiếm tỷ trọng lớn hơn so với tài sản ngắn hạn trong
các doanh nghiệp hoạt động sản xuất hàng hóa thì trong DNBH, tài sản ngắn hạn có
vai trị quan trọng hơn, chiếm tỷ trọng lên đến 70% - 80% tổng giá trị tài sản của
DNBH. Bởi hoạt động kinh doanh chủ yếu của DNBH là hoạt động KDBH – là một
ngành dịch vụ.
Nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp nói chung và
DNBH nói riêng đƣợc thực hiện thƣờng xuyên liên tục, sự vận động của vốn ngắn
hạn đòi hỏi phải đƣợc sự quản lý của DNBH theo các cách thức sau:
- Xác định số vốn ngắn hạn cần thiết trong kỳ kinh doanh để đảm bảo đủ vốn
tối thiểu cho hoạt động sản xuất kinh doanh đƣợc liên tục, nhanh chóng góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
- Chủ yếu khai thác các nguồn vốn từ nội bộ và các khoản vốn có thể chiếm
dụng thƣờng xun.
- Ln có những giải pháp bảo tồn và phát triển tài sản ngắn hạn.
- Thƣờng xuyên phân tích tình hình sử dụng vốn lƣu động.

Tài sản dài hạn
Tài sản dài hạn trƣớc đây đƣợc gọi là tài sản cố định. Đối lập với tài sản ngắn
hạn, tài sản dài hạn trong doanh nghiệp chính là những tƣ liệu sản xuất, các tài sản
khác mà doanh nghiệp sở hữu, sử dụng, quản lý thƣờng có giá trị lớn, thời gian sử
dụng tƣơng đối dài.10 Các tài sản này tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Giá trị
của tài sản bị tiêu hao dần dần qua các chu kỳ sản xuất và đƣợc khấu hao từng phần
vào giá thành các sản phẩm (hao mịn vơ hình) cịn hình thái hiện vật hầu nhƣ
khơng thay đổi (hao mịn hữu hình). Ví dụ các tài sản dài hạn bao gồm: bất động
sản, thiết bị, máy móc, phƣơng tiện vận tải, phƣơng tiện thông tin…
Đặc điểm tài sản dài hạn của doanh nghiệp nói chung:
- Về hiện vật, tài sản dài hạn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh
nhƣng hình thái hiện vật hầu nhƣ khơng thay đổi.
9

Xem Thông tƣ số 23/2005/TT-BTC ngày 30/03/2005 về việc hƣớng dẫn thực hiện sáu chuẩn mực kế toán
ban hành theo Quyết định số 234/2003/QĐ-BTC ngày 30/12/2003 của Bộ Tài chính.
10
Những tƣ liệu lao động có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên có thời gian sử dụng từ một năm trở lên đƣợc coi
là tài sản dài hạn. Những tƣ liệu lao động cịn lại đƣợc xếp vào loại cơng cụ, dụng cụ.

SVTH : Nguyễn Thị Nhƣ Mai

13


PL về chế độ tài chính của DNBH

GVHD: TS. Nguyễn Thị Thủy

- Về giá trị, giá trị của tài sản dài hạn giảm dần, đƣợc chuyển vào giá trị sản

phẩm hàng hóa và đƣợc khấu hao sau khi hồn tất một chu kỳ sản xuất kinh doanh.
- Tài sản dài hạn trực tiếp tham gia vào quá trình tạo ra sản phẩm hàng hóa
dịch vụ nên hao mịn về giá trị tài sản dài hạn đƣợc trừ vào chi phí kinh doanh.
Đối với DNBH, hoạt động kinh doanh trong ngành dịch vụ, thì các loại tài sản
dài hạn chủ yếu là nhà cửa, máy móc thiết bị, phƣơng tiện vận tải và thơng tin, thiết
bị văn phịng, dụng cụ quản lý (tài sản hữu hình); quyền sử dụng đất, bằng phát
minh sáng chế, lợi thế thƣơng mại, uy tín doanh nghiệp (tài sản vơ hình). Với đặc
thù về sản phẩm của DNBH là loại sản phẩm dịch vụ mang tính chất vơ hình thì đặc
điểm tài sản dài hạn của DNBH có một số điểm khác biệt so với các sản phẩm hàng
hóa. Đầu tiên là DNBH khơng có chu kỳ sản xuất kinh doanh mà chỉ có chu kỳ kinh
doanh. Thứ hai là hao mòn tài sản dài hạn của DNBH khơng đƣợc tính vào chi phí
KDBH bởi vì tài sản dài hạn không trực tiếp tham gia vào việc tạo ra sản phẩm bảo
hiểm – sản phẩm vô hình.
Từ đặc điểm trên, việc bảo tồn và phát triển vốn dài hạn là nhu cầu tất yếu
của mỗi DNBH. Bảo tồn vốn dài hạn có nghĩa là doanh nghiệp phải thu hồi đủ một
lƣợng giá trị thực của tài sản cố định để sao cho ít nhất cũng có thể tái đầu tƣ năng
lực sử dụng ban đầu của tài sản cố định. Các doanh nghiệp cần thiết phải sử dụng
các biện pháp sau để có thể quản lý và sử dụng tốt vốn dài hạn:
- Thƣờng xuyên đánh giá và đánh giá lại chính xác giá trị thực của tài sản dài
hạn
- Sử dụng phƣơng pháp khấu hao gia tăng nhằm rút ngắn thời gian thu hồi vốn
là phƣơng pháp phổ biến giải quyết vấn đề hao mòn vơ hình gây ra.
- Áp dụng các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản dài hạn.
- Kịp thời thanh lý những tài sản cố định lạc hậu, mất giá; linh hoạt sử dụng
quỹ khấu hao vào việc đầu tƣ kinh doanh sinh lời.
1.1.2.2. Các chỉ tiêu tài chính
Các chỉ tiêu cơ bản của một doanh nghiệp nói chung là khả năng thanh toán,
khả năng sinh lợi. Tuy nhiên đối với DNBH là một doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực đặc thù thì ngồi ra cịn có những chỉ tiêu riêng nhƣ: tỷ lệ phí
giữ lại, tỷ lệ chi quản lý, tỷ lệ hoa hồng, tỷ lệ chi bồi thƣờng (hoặc trả tiền bảo

hiểm)… Ở đây ta xem xét hai chỉ tiêu chủ yếu là khả năng thanh toán và khả năng
sinh lời của DNBH.
Khả năng thanh tốn
Đây là chỉ tiêu tài chính quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động
trong nền kinh tế. Nhƣ đã xét ở trên, một doanh nghiệp khi kinh doanh đều dựa trên
hai nguồn vốn là chủ sở hữu và vốn vay. Đã vay thì phải có trả, thế nên trong suốt
quá trình hoạt động kinh doanh của mình, doanh nghiệp phải có trách nhiệm thanh
tốn các khoản nợ của mình khi đến hạn.
SVTH : Nguyễn Thị Nhƣ Mai

14


PL về chế độ tài chính của DNBH

GVHD: TS. Nguyễn Thị Thủy

Theo định nghĩa chung, khả năng thanh toán là khả năng doanh nghiệp đáp
ứng ngay các nghĩa vụ tài chính phát sinh bất cứ lúc nào hay nói ngắn gọn là khả
năng trả các khoản vay. Là kết quả của sự cân bằng giữa các luồng thu và chi.
Đối với DNBH, khả năng thanh toán mang một ý nghĩa cụ thể hơn. Nó phản
ánh uy tín của cơng ty, là cơ sở để khách hàng ký hợp đồng bảo hiểm. Xuất phát từ
bản chất của hoạt động KDBH, nguồn vốn ban đầu của DNBH là nguồn vốn chủ sở
hữu và nguồn tiền ứng trƣớc từ các hợp đồng bảo hiểm. Vì vậy khả năng thanh tốn
của DNBH khơng chỉ là khả năng trả các khoản vay tài chính mà chủ yếu đó chính
là khả năng thực hiện cam kết của mình trong hợp đồng bảo hiểm đối với khách
hàng. Nó đề cập đến khả năng duy trì vốn là lợi nhuận để lại cao hơn mức tiêu
chuẩn tối thiểu về vốn và lợi nhuận để lại theo luật định.
Khả năng sinh lời
Là thƣớc đo hiệu quả bằng tiền, là điều kiện cần nhƣng chƣa đủ để duy trì cân

bằng tài chính. Việc đánh giá khả năng sinh lời phải dựa trên một khoảng thời gian
tham chiếu. Khái niệm khả năng sinh lời đƣợc áp dụng trong mọi hoạt động kinh tế
sử dụng các phƣơng tiện vật chất, con ngƣời và tài chính, thể hiện bằng kết quả trên
phƣơng tiện. Khả năng sinh lời có thể áp dụng cho một hoặc một tập hợp tài sản.
Đối với DNBH, khả năng sinh lời là kết quả của việc sử dụng tập hợp các tài
sản vật chất và tài sản tài chính, tức là vốn mà doanh nghiệp nắm giữ. Khi thực hiện
hoạt động KDBH cũng nhƣ hoạt động đầu tƣ tài chính thì DNBH đều phải cân nhắc
tính tốn trƣớc khả năng sinh lời, lựa chọn những phƣơng thức thực hiện sao cho
giảm thiểu chi phí, lợi nhuận ƣớc tính cao nhƣng cũng phải đảm bảo đƣợc ngun
tắc an tồn. Nhìn chung, khả năng sinh lời cần ít nhất đủ để đáp ứng đƣợc hai địi
hỏi là:
- Đảm bảo duy trì vốn cho doanh nghiệp.
- Trả đƣợc các khoản lãi vay và đảm bảo hoàn trả khoản vay.
1.1.2.3. Doanh thu và chi phí
Trong ngành thƣơng mại - dịch vụ chi phí và giá thành dịch vụ đƣợc xem là
chỉ tiêu chất lƣợng quan trọng nhất. Vì vậy, tài chính doanh nghiệp có nhiệm vụ
phải quản lý chặt chẽ đối với chỉ tiêu này nhằm khơng ngừng hạ thấp chi phí, giá
thành dịch vụ một cách hợp lý, tích cực, để tăng doanh thu và lợi nhuận doanh
nghiệp.
Doanh thu của doanh nghiệp là tất cả các giá trị đƣợc biểu hiện bằng tiền thu
đƣợc khi tiêu thụ sản phẩm và cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Doanh thu tỷ lệ
thuận với lợi nhuận thu đƣợc của doanh nghiệp.
Doanh thu của DNBH là toàn bộ số tiền doanh nghiệp phải thu trong kỳ
(thƣờng là một năm), bao gồm doanh thu hoạt động KDBH, doanh thu hoạt động tài
chính và doanh thu từ các hoạt động khác. Số tiền phải thu trong kỳ ở đây bao gồm
số tiền đã thu và sẽ thu phát sinh từ việc bán và cung cấp sản phẩm dịch vụ cho

SVTH : Nguyễn Thị Nhƣ Mai

15



PL về chế độ tài chính của DNBH

GVHD: TS. Nguyễn Thị Thủy

khách hàng trong kỳ.11 Cụ thể, nguồn thu của DNBH là thu nhập về phí bảo hiểm,
thu nhập về hoạt động đầu tƣ, và một bộ phận đang tăng trong nguồn thu của
DNBH đó là việc cung cấp các dịch vụ cho các công ty bảo hiểm khác để thu phí.
Tuy nhiên, doanh thu trong DNBH chƣa hẳn là tỷ lệ thuận với lợi nhuận mà DNBH
đạt đƣợc. Đặc biệt là đối với DNBH nhân thọ, doanh thu của DNBH nhân thọ
thƣờng rất lớn, thế nhƣng lợi nhuận từ DNBH nhân thọ lại ít có mối liên hệ với
doanh thu của nó, bởi lẽ lợi nhuận mà DNBH nhân thọ có đƣợc chủ yếu là từ hoạt
động đầu tƣ tài chính chứ khơng phải từ hoạt động KDBH.
Chi phí là tồn bộ các hao phí vật chất, sức lao động, thời gian…mà doanh
nghiệp phải bỏ ra để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
trong một thời kì nhất định và đƣợc biểu hiện dƣới hình thức giá trị bằng tiền trong
một thời gian nhất định. Chi phí trong doanh nghiệp đƣợc phân thành chi phí sản
xuất và chi phí tiêu thụ. Yếu tố này giúp doanh nghiệp xác định lợi nhuận của mình.
Chi phí càng thấp thì lợi nhuận sẽ càng cao.
Chi phí của DNBH cũng mang những đặc điểm cơ bản nhƣ doanh nghiệp
thơng thƣờng, cụ thể chi phí trong DNBH là tồn bộ số tiền doanh nghiệp phải chi,
phải trích trong kỳ, bao gồm: chi phí hoạt động KDBH, chi phí hoạt động tài chính
và chi phí cho các hoạt động khác.12 Cụ thể, có ba khoản chi chủ yếu trong DNBH,
đó là bồi thƣờng hoặc thanh tốn tiền bảo hiểm, chi phí đầu tƣ, chi phí hoạt động
khác. Trong đó, khoản thanh toán tiền bảo hiểm thƣờng chiếm từ 60% - 70% trong
tổng chi của DNBH; dòng chi mà doanh nghiệp có khả năng kiểm sốt tốt nhất đó
là chi phí hoạt động, chiếm khoảng 15% - 20% tổng chi của doanh nghiệp. Có một
điểm đặc biệt đáng lƣu ý trong chi phí của DNBH là việc thanh tốn cho các khoản
nợ là rất thấp và hầu nhƣ khơng có bởi lẽ DNBH thƣờng là chủ thể cho vay chứ ít

khi đi vay, thêm vào đó thì các cơng ty bảo hiểm phát hành ít hoặc khơng có các
khoản nợ truyền thống (trái phiếu doanh nghiệp).
1.1.2.4. Đầu tư vốn
Thị trƣờng không ổn định và áp lực cạnh tranh ngày càng cao đã làm cho phí
bảo hiểm giảm, trong khi chi phí bồi thƣờng có xu hƣớng tăng. Thế nên hoạt động
đầu tƣ đã trở thành mối quan tâm lớn trong nổ lực tìm kiếm lợi nhuận của các
DNBH.
Đầu tƣ là hoạt động của một chủ thể, đƣa một giá trị (biểu hiện bằng tiền, tài
sản, giấy tờ có giá) xác định ở hiện tại tham gia vào các hoạt động hay các giao dịch
trên thị trƣờng kinh tế - tài chính với hy vọng có thể thu đƣợc một giá trị khác lớn
hơn trong tƣơng lai.

11

Nghị định 46/2007/NĐ-CP ngày 27/03/2007 về chế độ tài chính của DNBH và doanh nghiệp môi giới bảo
hiểm.
12
Nghị định 46/2007/NĐ-CP ngày 27/03/2007 về chế độ tài chính của DNBH và doanh nghiệp mơi giới bảo
hiểm.

SVTH : Nguyễn Thị Nhƣ Mai

16


PL về chế độ tài chính của DNBH

GVHD: TS. Nguyễn Thị Thủy

Đầu tƣ có hai loại là đầu tƣ phát triển và đầu tƣ tài chính13. Đầu tƣ phát triển

hay còn gọi là đầu tƣ thực là hoạt động đầu tƣ mà lợi nhuận thu đƣợc từ nó là khó
nhận biết, lợi nhuận này đƣợc cấu thành ngay trong lợi nhuận của hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Ví dụ nhƣ hoạt động đầu tƣ mua mới, sửa chữa, nâng cấp
đất đai, nhà cửa, máy móc, thiết bị…để phục vụ cho một hoạt động kinh doanh nào
đó. Đầu tƣ tài chính là hoạt động đầu tƣ mà lợi nhuận thu đƣợc từ nó là xác định
đƣợc rõ ràng, lợi nhuận này tách biệt với lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh khác
của doanh nghiệp. Theo quy định tại Điều 98 Luật KDBH 2000 đƣợc sửa đổi bổ
sung năm 2010, DNBH chỉ đƣợc sử dụng vốn nhàn rỗi để đầu tƣ tại VIệt Nam trong
các lĩnh vực:
- Mua trái phiếu Chính phủ
- Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp
- Kinh doanh bất động sản
- Góp vốn vào các doanh nghiệp khác
- Cho vay theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng
- Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng
Trong nền kinh tế thị trƣờng hiện nay, hoạt động sử dụng vốn để đầu tƣ nhằm
tạo ra giá trị mới là vấn đề mang tầm quan trọng đặc biệt không chỉ đối với sự tồn
tại và phát triển của các chủ thể trong nền kinh tế mà còn đối với nền kinh tế nói
chung. Ngồi những vai trị chung mà hoạt động đầu tƣ mang lại thì đầu tƣ tài chính
trong DNBH cịn có những đặc thù riêng. Trong khn khổ đề tài khóa luận này, tác
giả chỉ tập trung tìm hiểu về hoạt động đầu từ tài chính của DNBH trong mối quan
hệ với chế độ tài chính DNBH.
1.1.2.5. Lợi nhuận
Có một vài cách tiếp cận với khái niệm lợi nhuận, đó là lợi nhuận của doanh
nghiệp, lợi nhuận của một khoản đầu tƣ, lợi nhuận của một hoạt động kinh doanh
nhất định tùy vào nội dung nghiên cứu và mục đích nghiên cứu.
Ở đây, ta tìm hiểu khái niệm lợi nhuận nói chung của doanh nghiệp. Có thể
hiểu một cách khái quát, lợi nhuận là sự chênh lệch giữa tổng doanh thu mà doanh
nghiệp có đƣợc sau khi bán sản phẩm, dịch vụ và tổng chi phí mà doanh nghiệp đã
bỏ ra để tạo ra sản phẩm, dịch vụ đó và các chi phí khác nhƣ chi phí quản lý, chi phí

quảng cáo… Với DNBH, lợi nhuận khơng chỉ đến từ hoạt động kinh doanh mà còn
từ hoạt động đầu tƣ tài chính và các hoạt động khác nữa. Với DNBH phi nhân thọ,
lợi nhuận thu đƣợc chủ yếu từ hoạt động KDBH,trái với DNBH nhân thọ là lợi
nhuận từ hoạt động KDBH hầu nhƣ khơng có, chủ yếu là phụ thuộc vào hiệu quả
của hoạt động đầu tƣ tài chính. Lý do thứ nhất cho sự khác biệt này là phí bảo hiểm
mà DNBH nhân thọ thu đƣợc là rất lớn do đối tƣợng đƣợc bảo hiểm là tính mạng
con ngƣời, nhƣng lại có thời gian nhàn rỗi dài. Vì đặc tính nhàn rỗi của phí bảo
13

PGS.TS. Nguyễn Ngọc Định – TS. Hồ Thủy Tiên (2008), Tài chính DNBH, NXB Tài chính, TP.HCM,
tr.89.

SVTH : Nguyễn Thị Nhƣ Mai

17


PL về chế độ tài chính của DNBH

GVHD: TS. Nguyễn Thị Thủy

hiểm nhân thọ nên DNBH nhân thọ khi tham gia hoạt động KDBH thì mục đích của
họ khơng phải là để thu lợi từ hoạt động KDBH mà là để sử dụng nguồn vốn huy
động lớn để hoạt động đầu tƣ sinh lời, lợi nhuận từ việc đầu tƣ sẽ là lớn hơn nhiều
lần so với lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh phụ thuộc nhiều vào yếu tố may rủi.
Lý do thứ hai là để giảm phí bảo hiểm giúp giảm gánh nặng tài chính đối với
NTGBH, khuyến khích họ tham gia bảo hiểm nhiều hơn khi cho phép hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ mang tính tích lũy bằng cách là cam kết trả lãi từ hoạt động đầu tƣ
nguồn vốn cho họ. Những điều trên đây là trái với DNBH phi nhân thọ. DNBH phi
nhân thọ huy động một khoản tiền từ phí bảo hiểm ít hơn nhiều so với DNBH nhân

thọ và thời gian nhàn rỗi của vốn cũng ngắn nên DNBH phi nhân thọ nếu có đầu tƣ
thì chỉ đầu tƣ vào những lĩnh vực ngắn hạn mà tính thanh khoản cao. Thế nên
DNBH phi nhân thọ tập trung tăng cƣờng hiệu quả hoạt động KDBH của mình để
thu lợi là chủ yếu.
Trong quá trình hoạt động của một DNBH, mục tiêu đạt đƣợc lợi nhuận cao
đƣợc đặt lên hàng đầu, là mục đích chính bởi vì nó góp phần giúp DNBH duy trì
hoạt động, cạnh tranh, tồn tại và phát triển ngày càng lớn mạnh. Mặt khác, nó đảm
nhiệm vai trị to lớn khơng chỉ đối với chính DNBH, đối với ngân sách Nhà nƣớc
mà còn với cả xã hội. Lợi nhuận là nguồn tích lũy quan trọng nhất, giúp phát huy
khả năng của DNBH, làm giảm sự phụ thuộc của DNBH khi không phải huy động
các nguồn vốn khác từ bên ngoài. DNBH làm ăn càng có lời thì khoản đóng góp của
nó vào ngân sách Nhà nƣớc sẽ càng lớn. Thêm vào đó, lƣơng của ngƣời lao động
đƣợc nâng cao giúp họ có cuộc sống tốt hơn, các khoản đóng góp cho quỹ phúc lợi
xã hội cũng nhiều hơn. Nhƣng trên hết, lợi nhuận đối với DNBH cịn có một vai trị
đặc biệt là hổ trợ hiệu quả cho DNBH trong trƣờng hợp DNBH khơng đủ khả năng
thanh tốn cho những cam kết của mình trong các hợp đồng bảo hiểm mà đặc biệt là
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
Vấn đề phân phối lợi nhuận trong DNBH có sự khác biệt với doanh nghiệp
thơng thƣờng. Chính vì lợi nhuận đóng vai trị rất quan trọng, quyết định hiệu quả
hoạt động kinh doanh của DNBH, hơn nữa lợi nhuận liên quan đến quyền lợi của
các chủ thể tham gia vào quan hệ nên việc phân phối lợi nhuận trong DNBH phải
tuân thủ các nguyên tắc là ƣu tiên đảm bảo quyền lợi chính đáng của NTGBH; hài
hịa lợi ích của doanh nghiệp, Nhà nƣớc, ngƣời lao động; giải quyết hợp lý mối
quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng; giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa lợi ích trƣớc
mắt và lợi ích lâu dài. Việc phân phối lợi nhuận trong DNBH có sự khác biệt là phải
trích lập quỹ dự trữ tài chính, quỹ bảo vệ ngƣời đƣợc bảo hiểm.
1.1.3. Chức năng
 Các chức năng chung của tài chính doanh nghiệp

SVTH : Nguyễn Thị Nhƣ Mai


18


PL về chế độ tài chính của DNBH

GVHD: TS. Nguyễn Thị Thủy

Tài chính doanh nghiệp khơng phải là một lĩnh vực mới trong nền kinh tế hiện
nay của Việt Nam, thế nên các vấn đề lý luận về tài chính doanh nghiệp cũng nhƣ
chức năng của tài chính doanh nghiệp đã đƣợc đƣa ra trong nhiều tài liệu.14
Đi từ khái niệm và bản chất của tài chính doanh nghiệp, chức năng chung của
tài chính doanh nghiệp đƣợc thể hiện dƣới các ý sau:
Đối với doanh nghiệp
- Tạo lập, huy động các nguồn vốn:
Vốn là điều kiện tiên quyết để một doanh nghiệp đƣợc thành lập và tiến hành
hoạt động. Nguồn vốn chủ sở hữu đã đƣợc tạo lập ngay trƣớc khi doanh nghiệp
đƣợc thành lập. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp chủ yếu tạo lập hay huy
động nguồn vốn vay là chủ yếu. Huy động vốn đặt ra khi doanh nghiệp khơng đủ
khẳ năng tài chính để đáp ừng nhu cầu sử dụng cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp hay trƣờng hợp doanh nghiệp đủ khẳ năng tài chính nhƣng vẫn huy
động vốn vì mục đích lợi nhuận cao hơn từ những nguồn vốn vay mà có thể không
liên quan đến công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Trong q trình hoạt động
của mình, khơng có doanh nghiệp nào mà không thực hiện huy động vốn, kể cả
doanh nghiệp lớn hay nhỏ, doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh hay yếu. Vì
vậy, đây là chức năng cơ bản ban đầu của tài chính doanh nghiệp.
Khi huy động vốn, doanh nghiệp cần có những chính sách hợp lý để mang lại
hiệu quả cao nhất trong khi chi phí huy động và chi phí sử dụng nguồn vốn đó là
thấp nhất.
Trong nền kinh tế thị trƣờng hiện nay, có rất nhiều cách huy động vốn cho một

doanh nghiệp nhƣng doanh nghiệp đó có tiếp cận đƣợc với những nguồn vốn huy
động này hay không là phụ thuộc vào khả năng tài chính hiện tại của doanh nghiệp,
chính sách sử dụng vốn đƣa ra có hiệu quả, an tồn, và đảm bảo sinh lợi cho nhà
đầu tƣ hay khơng. Có các kênh huy động vốn là:
+ Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nƣớc
+ Nguồn vốn từ tín dụng ngân hàng
+ Nguồn vốn từ việc phát dành cổ phiếu
+ nguồn vốn từ việc phát hành trái phiếu
+ Nguồn vốn từ xã hội
+ Nguồn vốn từ kết quả của việc phân chia lợi nhuận của doanh nghiệp
-

Phân phối, sử dụng nguồn vốn:
Chức năng này diễn ra trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp từ khi
mới thành lập cho đến khi phân chia lợi nhuận. Đƣợc biểu hiện cụ thể qua việc xây
dựng kế hoạch sử dụng nguồn tài chính với yêu cầu là phân phối sao cho có thể đảm
14

Xem PGS-TS Phan Thị Cúc, TS Nguyễn Trung Trực, ThS Đoàn Văn Huy, ThS Đặng Thị Trƣờng Giang,
ThS Nguyễn Thị Mỹ Phƣợng (2010), Giáo trình Tài chính Doanh nghiệp (*), nhà xuất bản Tài chính,
TP.HCM, tr.8.
Trƣờng Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh (2009), Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ, nhà xuất bản Đại học
Quốc gia TP.Hồ Chí Minh, TP.HCM, tr.45.

SVTH : Nguyễn Thị Nhƣ Mai

19



×