Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (705.7 KB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TPHCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
----------

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

SVTH: NGUYỄN THỊ QUỲNH TRANG
Khoá: 30
MSSV: 3020196
GVHD: TS VŨ THỊ THANH VÂN

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2009


MỤC LỤC
Khóa luận Pháp luật về Thương mại điện tử

Phần mở đầu .......................................................................................................................1
Chương 1: Tổng quan về hợp đồng thương mại điện tử.................................................4
1.1 Một số khái niệm có liên quan .................................................................................... 4
1.1.1 Khái niệm thương mại điện tử .................................................................................... 4
1.1.2 Khái niệm hợp đồng điện tử .......................................................................................6
1.1.3 Khái niệm hợp đồng thương mại điện tử .................................................................... 7
1.2 Đặc điểm và phân loại hợp đồng thương mại điện tử. ..............................................7
1.2.1 Đặc điểm hợp đồng thương mại điện tử ..................................................................... 7
1.2.1.1 Tính phi biên giới .................................................................................................... 7
1.2.1.2 Tính vơ hình, phi vật chất........................................................................................8


1.2.1.3 Tính hiện đại, chính xác ..........................................................................................8
1.2.1.4 Tính rủi ro cao ........................................................................................................8
1.2.2 Phân loại hợp đồng thương mại điện tử ......................................................................9
1.2.2.1 Căn cứ theo phương thức giao kết hợp đồng. ..........................................................9
1.2.2.2 Căn cứ vào đối tượng của hợp đồng ...................................................................... 10
1.2.2.3 Căn cứ vào quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng ............................................ 11
1.3 Phân biệt hợp đồng thương mại điện tử với hợp đồng thương mại
thông thường .................................................................................................................. 11
1.3.1 Điểm giống nhau ...................................................................................................... 11
1.3.2 Điểm khác nhau ....................................................................................................... 12
1.4 Pháp luật quốc tế về hợp đồng thương mại điện tử................................................. 14
1.4.1 Quy định của UNCITRAL ....................................................................................... 14
1.4.2 Quy định của Liên minh Châu Âu ............................................................................ 16
1.4.3 Pháp luật của một số quốc gia về hợp đồng thương mại điện tử ............................... 17
1.4.3.1 Hoa kì ................................................................................................................... 18
1.4.3.2 Malaysia ............................................................................................................... 19

Chương 2: Một số vấn đề về giao kết hợp đồng thương mại điện tử
và chữ kí điện tử ............................................................................................................. 21
2.1 Quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng thương mại điện tử ............................ 21
- Bộ luật dân sự 2005 ........................................................................................................ 21


- Luật thương mại 2005 .................................................................................................... 22
- Luật giao dịch điện tử 2005 ............................................................................................ 22
- Nghị định số 57/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2006 của Chính phủ về thương
mại điện tử ........................................................................................................................ 23
- Thông tư 09/2008/TT-BCT ngày 21 tháng 7 năm 2008 hướng dẫn nghị định thương
mại điện tử về cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên website thương mại điện
tử. ..................................................................................................................................... 23

- Nghị định 26/2007/NĐ-CP ngày 15 tháng 2 năm 2007 quy định chi tiết thi hành luật
giao dịch điện tử về chữ kí số và dịch vụ chứng thực chữ kí số. ........................................ 23
2.2 Một số vấn đề về giao kết hợp đồng thương mại điện tử và chữ kí điện tử .................. 24
2.2.1 Thời điểm giao kết hợp đồng thương mại điện tử ..................................................... 25
2.2.2 Địa điểm giao kết hợp đồng thương mại điện tử ....................................................... 29
2.2.3 Những vấn đề về chữ kí điện tử ............................................................................... 31
2.2.3.1 Khái niệm chữ kí điện tử ....................................................................................... 32
2.2.3.2 Điều kiện đảm bảo an toàn cho chữ kí điện tử ...................................................... 33
2.2.3.3 Nguyên tắc sử dụng và giá trị pháp lý của chữ kí điện tử....................................... 34
2.3.3.4 Dịch vụ chứng thực chữ kí điện tử ........................................................................ 36
Chương 3: Một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về hợp đồng thương mại
điện tử ở Việt Nam. ......................................................................................................... 41
3.1 Kiến nghị về pháp lý ................................................................................................. 42
3.1.1 Tiếp tục sửa đổi, bổ sung luật về thương mại điện tử và hợp đồng thương mại
điện tử .............................................................................................................................. 42
3.1.1.1 Về vấn đề giao kết hợp đồng thương mại điện tử .................................................. 42
3.1.1.2 Trách nhiệm các bên khi vi phạm hợp đồng và giải quyết tranh chấp .................... 44
3.1.2 Tăng cường các quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khi giao kết hợp
đồng thương mại điện tử. .................................................................................................. 47
3.2 Kiến nghị về xã hội.................................................................................................... 49
3.2.1 Đào tạo đội ngũ trí thức hoạt động trong lĩnh vực thương mại điện tử và hợp
đồng thương mại điện tử. .................................................................................................. 49
3.2.2 Tuyên truyền pháp luật về thương mại điện tử và khuyến khích việc giao kết
hợp đồng thương mại điện tử ............................................................................................ 50
3.2.3 Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất đủ mạnh phục vụ hoạt động thương mại điện
tử, đàm phán, giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại điện tử .................................... 51
Kết luận ............................................................................................................................ 52


PHẦN MỞ ĐẦU

1.
Tính cấp thiết, ý nghĩa của đề tài
Thương mại điện tử đang trở thành phương thức kinh doanh mang lại nhiều lợi
ích cho nhân loại trên cơ sở sự phát triển nhanh chóng của các ngành cơng nghệ,
trước hết là cơng nghệ thơng tin. Q trình tồn cầu hoá tạo điều kiện để thương mại
điện tử phát huy những điểm mạnh như đẩy nhanh tốc độ kinh doanh, giảm thiểu chi
phí, vượt qua các trở ngại về khơng gian và thời gian, v.v…Hiện nay, các quốc gia
đều tham gia vào thương mại điện tử với những mức độ đầu tư ngày càng tăng. Tại
Việt Nam, kết quả điều tra với 1600 doanh nghiệp trên cả nước của Bộ Công Thương
trong năm 2008 cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp đã triển khai ứng dụng thương
mại điện tử ở các mức độ khác nhau. Đầu tư cho thương mại điện tử mang lại hiệu
quả rõ ràng cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp đã quan tâm tới việc trang bị máy
tính, đầu tư cho phát triển thương mại điện tử, đặc biệt đầu tư cho phát triển phần
mềm. Doanh thu từ thương mại điện tử đã rõ ràng và có xu hướng tăng đều qua các
năm. 75% doanh nghiệp có tỉ trọng doanh thu từ thương mại điện tử chiếm trên 5%
tổng số doanh thu trong năm 2008. Nhiều doanh nghiệp đã quan tâm bố trí cán bộ
chuyên trách về thương mại điện tử. Các con số thống kê này cho thấy nhiều doanh
nghiệp đã nhận thức rõ tầm quan trọng của thương mại điện tử với hoạt động sản
xuất kinh doanh và sẵn sàng ứng dụng cao hơn trong thời gian tới. Để mở đường cho
q trình đó, một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về thương mại điện tử là điều không
thể thiếu.
Ngày nay, hoạt động kinh doanh của các bên thường được tiến hành thông qua
giao kết hợp đồng, vì vậy, một khung pháp lý cho hợp đồng điện tử là yêu cầu thiết
yếu khi muốn đưa thương mại điện tử vào thực tiễn.
Nguyên nhân này đã thúc đẩy tác giả chọn nghiên cứu “Pháp luật về hợp đồng
thương mại điện tử” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.

2.
Mục tiêu nhiệm vụ của đề tài
Đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu những lý thuyết căn bản nhất về hợp đồng

thương mại điện tử.
Tìm hiểu kinh nghiệm của một số quốc gia cũng như tổ chức quốc tế về điều
chỉnh những vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại điện tử.

1


Nghiên cứu thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng thương mại điện tử ở Việt
Nam, đặc biệt tập trung vào những quy định về thời điểm, địa điểm giao kết hợp
đồng thương mại điện tử và vấn đề chữ ký điện tử.
Những kiến nghị trong đề tài có thể được sử dụng để hồn thiện chính sách
pháp luật cũng như cơ chế vận hành nhằm áp dụng có hiệu quả những quy định pháp
luật về hợp đồng trong hoạt động thương mại điện tử.
3.
Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu:
Khóa luận nghiên cứu thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về hợp
đồng thương mại điện tử, hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh chính sách về
giao dịch điện tử, hợp đồng thương mại điện tử ở Việt Nam, những quy định về giao
kết hợp đồng thương mại điện tử và chữ ký điện tử, kinh nghiệm của thế giới và của
một số nước trong việc ban hành các văn bản điều chỉnh hợp đồng thương mại điện
tử.
Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh trên cơ sở
vận dụng phép duy vật biện chứng, phép duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin,
kế thừa các thành quả nghiên cứu trước đó, kết hợp với tình hình thực tiễn nhằm đưa
ra những kiến giải phù hợp.
4.
Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về hợp đồng thương mại điện tử

Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng thương mại điện tử
và một số vấn đề về giao kết hợp đồng điện tử và chữ ký điện tử.
Chương 3: Một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về thương mại điện tử ở
Việt Nam.
5.
Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Từ khi hoạt động thương mại điện tử xuất hiện ở Việt Nam đã có một số cơng
trình nghiên cứu về vấn đề này, tiêu biểu là chuyên đề “Bàn về cơ sở pháp lý của
thương mại điện tử ở Việt Nam” (Viện nghiên cứu khoa học pháp lý-Bộ Tư Pháp,
năm 2000), một số bài báo trên các tạp chí như tạp chí Nhà Nước và Pháp luật số 2
(142)/2000, số 2(190)/2004; Tạp chí Khoa học pháp lý số 1(50)/2009; Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế số 368/8-2009; Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 33(118) tháng
3/2008; Tạp chí Luật học số 8/2008, số 12/2008 v.v…

2


Năm 2005, Bộ Thương Mại đã trình chính phủ Kế hoạch tổng thể phát triển
thương mại điện tử ở Việt Nam giai đoạn 2006-2010. Kế hoạch này đã được Thủ
tướng phê duyệt (Quyết định số 222/2005/QĐ-TTG ngày 15/9/2005). Trong kế hoạch
này, Bộ Thương Mại đã nghiên cứu những vấn đề chủ yếu liên quan tới sự phát triển
thương mại điện tử ở Việt Nam, quan điểm, mục tiêu và các chính sách phát triển,
các chương trình, dự án trọng điểm phát triển thương mại điện tử. Có thể nói, kế
hoạch tổng thể phát triển này đã bao quát những vấn đề cơ bản nhất trong việc phát
triển thương mại điện tử ở Việt Nam.
Năm 2006 GS-TS Nguyễn Thị Mơ xuất bản cuốn Cẩm nang pháp luật về giao
kết hợp đồng điện tử (Nhà xuất bản Lao động-Xã hội). Cuốn sách đã giới thiệu
những nội dung cơ bản nhất hướng dẫn việc giao kết hợp đồng điện tử.
Năm 2003, sinh viên Lê Bình Phương chọn đề tài “Khung pháp lý cho hoạt
động thương mại điện tử ở VN” làm khóa luận tốt nghiệp Đại học Luật TPHCM.

Năm 2006, học viên Trần Thanh Hoa chọn đề tài “Vấn đề chứng cứ và bảo mật
trong thương mại điện tử” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình tại trường Đại học
Luật TPHCM.
Hiện nay, theo tìm hiểu của tác giả, chưa có cơng trình nghiên cứu nào tập trung
tìm hiểu pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử tại Việt Nam.
Do khả năng có hạn, đề tài mới dừng lại ở việc nghiên cứu chủ yếu trên cơ sở lý
luận và quy phạm pháp lý có liên quan. Các số liệu, thơng tin thực tiễn còn thiếu, một
số kiến nghị còn ở dạng ý tưởng, chưa đưa ra được giải pháp mang tính khả thi. Rất
mong nhận được sự góp ý của thầy cơ và các bạn để hồn thiện kiến thức của mình.

3


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1 Một số khái niệm liên quan
1.1.1 Khái niệm thương mại điện tử
Trong quyển sách “Làn sóng thứ ba” của mình, Alvin Toffler đã dự đốn lồi
người sẽ tiến đến làn sóng văn minh thứ ba là xã hội mạng. Sự ra đời và phát triển
của máy tính PC và mạng internet là minh chứng hùng hồn cho dự đoán của ông1.
Trong nửa đầu thế kỉ XX, kĩ thuật số bắt đầu phát triển và từng bước được hoàn
thiện, sự ra đời của mạng internet đã dẫn đến sự bùng nổ và lan rộng ra tồn cầu của
q trình tin học hóa xã hội. Trong bối cảnh ấy, hoạt động thương mại cũng chuyển
sang dạng “số hóa”, “điện tử hóa”. Khái niệm thương mại điện tử theo đó cũng từng
bước được hình thành và ngày càng trở nên phổ biến.
“ Thương mại điện tử” (tiếng Anh là E-commerce) hay còn được biết đến với
nhiều tên gọi như nền kinh tế ảo, thương mại trực tuyến, thương mại phi giấy tờ
(Paperless commerce), hay kinh doanh điện tử (Electronic business) v.v... Hiện nay
có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm “Thương mại điện tử” nhưng nhìn chung
có hai quan điểm lớn trên thế giới được nêu ra sau đây:

- Thứ nhất, thương mại điện tử theo nghĩa rộng được định nghĩa trong Luật mẫu
về Thương mại điện tử của Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế
(UNCITRAL): thương mại điện tử là việc sử dụng “thông tin dưới dạng một thông
điệp dữ liệu trong khuôn khổ các hoạt động thương mại”(điều 1). Trong đó, theo điều
2(a), “thơng điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, gửi đi, tiếp nhận hoặc lưu trữ bằng
phương tiện điện tử, quang học và các phương tiện tương tự, bao gồm, nhưng không
hạn chế ở, trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), thư điện tử, điện tín, điện báo hoặc fax”
- Cịn theo Ủy ban châu Âu2, tổ chức này đưa ra định nghĩa về Thương mại điện
tử như sau:
“Thương mại điện tử được hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh thơng qua
các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dưới dạng
text, âm thanh và hình ảnh. Thương mại điện tử gồm nhiều hành vi trong đó hoạt
động mua bán hàng hóa và dịch vụ qua phương tiện điện tử, giao nhận các nội dung
kỹ thuật số trên mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện
1

/>2
Ủy ban châu Âu (tên chính thức Ủy ban các cộng đồng châu Âu) là cơ quan cao nhất ngành hành pháp của
Liên minh châu Âu. Ủy ban này chịu trách nhiệm về đề nghị lập pháp, thi hành các quyết định, duy trì các hiệp
ước Liên minh châu Âu và điều hành công việc chung hàng ngày của Liên minh.

4


tử, đấu giá thương mại, hợp tác thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng, tiếp
thị trực tiếp tới người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng. Thương mại điện tử
được thực hiện đối với cả thương mại hàng hóa (ví dụ như hàng tiêu dùng, các thiết
bị y tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ cung cấp thơng tin,
dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức khỏe, giáo
dục) và các hoạt động mới chẳng hạn như siêu thị ảo.”3

Như vậy có thể thấy rằng phạm vi của Thương mại điện tử rất rộng, bao quát hầu
hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, việc mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là một trong
hàng ngàn lĩnh vực áp dụng của Thương mại điện tử.
Nhìn chung, theo nghĩa rộng thương mại điện tử có thể được hiểu như là các giao
dịch tài chính và thương mại được thực hiện bằng các phương tiện điện tử như: trao
đổi dữ liệu điện tử, chuyển tiền điện tử và các hoạt động rút tiền bằng thẻ tín dụng
thơng qua một số phương tiện điện tử.
Cịn theo nghĩa hẹp, thương mại điện tử bao gồm các hoạt động thương mại (mua
bán hàng hóa) được thực hiện thơng qua mạng Internet.
Cụ thể, theo Tổ chức thương mại thế giới (WTO), “Thương mại điện tử bao gồm
việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh
toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình cả các sản phẩm
được giao nhận cũng như những thơng tin số hóa thơng qua mạng Internet”4.
Theo Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế của Liên hợp quốc (OECD), “Thương
mại điện tử được hiểu như là các giao dịch thương mại dựa trên truyền dữ liệu qua
các mạng truyền thông như Internet”.5
Như vậy, theo nghĩa hẹp, có thể hiểu thương mại điện tử chỉ bao gồm những hoạt
động thương mại được thực hiện thông qua mạng Internet mà khơng tính đến các
phương tiện điện tử khác như điện thoại, fax, telex v.v...
Luật giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005 không đưa ra khái niệm thương mại
điện tử, luật chỉ quy định khái niệm về giao dịch điện tử, theo đó, giao dịch điện tử là
“giao dịch được thực hiện bằng phương tiện điện tử”6. Luật cũng cụ thể hóa khái
niệm phương tiện điện tử “phương tiện điện tử là phương tiện hoạt động dựa trên
công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn khơng dây, quang học, điện
từ hoặc cơng nghệ tương tự”7.
Qua các khái niệm trên, có thể thấy, pháp luật Việt Nam tiếp cận khái niệm
thương mại điện tử theo nghĩa rộng. Đây là cách tiếp cận phù hợp, tránh tạo sự bỡ
3

/> />5

www.oecd.org
6
Khoản 6 điều 4 Luật giao dịch điện tử 2005
7
Khoản 10 điều 4 Luật giao dịch điện tử 2005
4

5


ngỡ trong tâm lý người dân do việc thực hiện các hoạt động thương mại qua telex,
fax không phải là điều xa lạ và việc sử dụng internet trong thương mại chỉ là một
bước phát triển cao hơn của nó.
Do quy mơ khóa luận khơng lớn, và chỉ tập trung nghiên cứu về hợp đồng thương
mại điện tử nên khóa luận này chỉ nghiên cứu thương mại điện tử theo nghĩa hẹp của
nó, tức “thương mại điện tử là việc sử dụng các phương tiện điện tử mà chủ yếu
qua mạng internet để tiến hành các giao dịch thương mại và thanh tốn.” Trong
đó, hoạt động thương mại được hiểu bao gồm “mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ,
đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm sinh lợi khác.”8
1.1.2 Khái niệm hợp đồng điện tử
Cũng như các loại hợp đồng khác, hợp đồng điện tử trước hết là một hợp đồng
dân sự, được định nghĩa là: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”9
Điểm khác biệt nổi bật của hợp đồng điện tử là nó được hình thành thơng qua các
phương tiện truyền dữ liệu điện tử. Theo điều 11(1) Luật mẫu về thương mại điện tử
của UNCITRAL năm 1996, “hợp đồng điện tử được hiểu là hợp đồng được hình
thành thơng qua việc sử dụng các phương tiện truyền dữ liệu điện tử”.
Luật giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005 quy định “hợp đồng điện tử là hợp
đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu theo quy định của luật này” (Điều
33). Trong đó theo quy định tại điều 4 luật này, thông điệp dữ liệu được hiểu là

“thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và lưu trữ bằng phương tiện điện tử”,
và “phương tiện điện tử là phương tiện hoạt động dựa trên cơng nghệ điện, điện tử,
kĩ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương
tự”.
1.1.3 Khái niệm hợp đồng thương mại điện tử
Về bản chất, hợp đồng điện tử và hợp đồng thương mại điện tử đều là hợp đồng
được ký kết thông qua các phương tiện điện tử. Tuy nhiên, điểm khác nhau giữa hai
loại hợp đồng này là mục đích ký kết của chúng. Hợp đồng thương mại điện tử là hợp
đồng được ký kết nhằm mục đích sinh lời, mục đích thu lợi nhuận, trong khi đó, hợp
đồng điện tử có thể có hoặc khơng nhằm mục đích sinh lời. Hợp đồng điện tử khơng
nhằm mục đích sinh lời là hợp đồng điện tử được giao kết nhằm thỏa mãn nhu cầu
tiêu dùng, nhu cầu hàng ngày của các cá nhân, tổ chức vì mục đích phi lợi nhuận.

8
9

Khoản 1 điều 3 Luật thương mại 2005
Điều 388 Bộ Luật Dân Sự 2005

6


Trong khái niệm trên, “Thuật ngữ thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng
để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có
hay khơng có hợp đồng. Các quan hệ mang tính chất thương mại bao gồm các giao
dịch sau đây: bất cứ giao dịch thương mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa
hoặc dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại, ủy thác hoa
hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ thuật cơng trình; đầu tư;
cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh và
các hình thức khác về hợp tác cơng nghiệp hoặc kinh doanh; chun chở hàng hóa

hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ”10.
Vậy, ta có thể hiểu hợp đồng thương mại điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới
dạng thông điệp dữ liệu nhằm mục đích sinh lời, thu lợi nhuận.
1.2 Đặc điểm và phân loại hợp đồng thương mại điện tử.
1.2.1 Đặc điểm hợp đồng thương mại điện tử
1.2.1.1 Tính phi biên giới
Trong các giao dịch điện tử, đặc biệt là giao dịch thương mại điện tử ở phạm vi
quốc tế các bên thực hiện thông qua việc trao đổi thơng tin, dữ liệu qua hệ thống
mạng máy tính tồn cầu, vì vậy các hợp đồng được giao kết và thực hiện thơng qua
hình thức này thường khơng mang tính biên giới. Hợp đồng được xác lập giữa hai
chủ thể ở hai vị trí địa lý khác nhau. Một thương nhân dù đang ở bất cứ nơi đâu với
một chiếc máy tính đều có thể thực hiện hoạt động kinh doanh của mình mà hầu như
khơng gặp trở ngại nào. Đặc điểm này giúp cho hợp đồng thương mại điện tử có một
lợi thế mà khơng một hợp đồng truyền thống nào có được, đó là tính thuận tiện và dễ
thực hiện. Tuy nhiên, đặc điểm này cũng gây ra những khó khăn lớn, thậm chí là
khơng thể khắc phục được khi các bên muốn xác định địa điểm giao kết hợp đồng,
nhất là khi hợp đồng được giao kết với thương nhân nước ngồi.
1.2.1.2 Tính vơ hình, phi vật chất
Hợp đồng thương mại điện tử còn được gọi là hợp đồng thương mại phi giấy tờ
(Commerce paperless contract) chính là vì tính vơ hình và phi vật chất của nó. Hợp
đồng tồn tại trong mơi trường ảo hay mơi trường số hóa, vì thế các hợp đồng thương
mại điện tử cũng tồn tại dưới dạng dữ liệu điện tử chứ khơng thể “cầm nắm”, “sờ
mó” như các hợp đồng truyền thống. Đặc điểm này dẫn đến yêu cầu giải quyết một
số vấn đề trong giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại điện tử bao gồm vấn đề
10

Luật mẫu về Thương mại điện tử của Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL)

7



chữ ký điện tử, vấn đề bản gốc, hay vấn đề giá trị chứng cứ của hợp đồng khi các bên
có tranh chấp được đưa ra trước tịa án hoặc trọng tài.
1.2.1.3 Tính hiện đại, tính chính xác
Hợp đồng điện tử được xây dựng và giao kết thông qua các phương tiện điện tử,
ứng dụng các phương tiện hiện đại và tiến bộ của khoa học kĩ thuật trong việc giao
kết như công nghệ điện tử, kĩ thuật số, từ tính, quang học, điện tử, các cơng nghệ
truyền dẫn khơng dây v.v…Các cơng nghệ này mang lại tính chính xác cao cho các
hợp đồng thương mại điện tử. Những hợp đồng được giao kết trên các website có thể
được thực hiện hoàn toàn tự động giữa website của người bán hàng và người mua
hàng. Hợp đồng thương mại điện tử với những đặc trưng như vậy sẽ là phương thức
giao dịch mới hiệu quả cho các chủ thể pháp luật nói chung, và các doanh nghiệp nói
riêng trong điều kiện tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.1.4 Tính rủi ro
Cùng với những thuận lợi khơng thể phủ nhận, việc giao kết hợp đồng thương
mại điện tử cũng mang lại những rủi ro phát sinh từ chính tính vơ hình và hiện đại về
mặt kĩ thuật của phương thức giao dịch này. Trong mơi trường ảo, rất khó khăn hoặc
thậm chí là khơng thể xác định năng lực của đối tác giao kết hợp đồng, xác định một
đơn hàng trên internet là đơn đặt hàng thật hay đơn đặt hàng giả, hoặc làm thế nào để
có một chữ ký điện tử đáng tin cậy, vấn đề bảo mật hợp đồng v.v…Đó là những rủi
ro đồng thời cũng là những vấn đề đặt ra với các nhà kinh doanh và các nhà làm luật
khi giao dịch thương mại điện tử phát triển lên tầm quốc tế.
1.2.2 Phân loại hợp đồng thương mại điện tử
Có nhiều cách phân loại hợp đồng thương mại điện tử, trong đó cách thức phân
loại phổ biến là căn cứ theo phương thức giao kết, căn cứ vào đối tượng của hợp
đồng, hoặc căn cứ vào quá trình thực hiện hợp đồng.
1.2.2.1 Căn cứ theo phương thức giao kết hợp đồng
Gồm có hợp đồng được thảo và gửi qua thư điện tử và hợp đồng được giao kết
trên website thương mại điện tử.
a. Hợp đồng được thảo và gửi qua thư điện tử


8


Hình thức hợp đồng này thường được sử dụng trong giao dịch giữa doanh nghiệp
với doanh nghiệp (B2B: Business to business). Về cơ bản, nội dung hợp đồng này
giống với những hợp đồng truyền thống, chỉ khác biệt về cách thức giao dịch.
Hiện nay có hai quan điểm về hợp đồng được thảo và gửi qua thư điện tử. Quan
điểm thứ nhất, đây là loại hợp đồng mà một bên ký kết soạn thảo, gửi qua cho bên
đối tác bằng phương tiện điện tử, bên này sẽ nhận, chuyển thành dạng văn bản trên
giấy, ký vào bằng chữ ký tay, và gửi lại cho phía bên kia. Quan điểm thứ hai là một
bên giao dịch sẽ soạn thảo và gửi hợp đồng cho bên kia bằng phương tiện điện tử,
bên kia ký vào bằng chữ ký điện tử và gửi lại cho bên đối tác. Trong hai quan điểm
trên, quan điểm thứ hai là quan điểm hợp lý, phù hợp với các khái niệm về hợp đồng
hiện nay, nghĩa là các giai đoạn ký kết hợp đồng được tiến hành thông qua phương
tiện điện tử. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay việc chứng thực chữ ký điện tử còn
hạn chế, số lượng cơ quan chứng thực và đối tượng được chứng thực cịn ít thì khả
năng áp dụng loại hợp đồng này trên thực tế còn thấp, gây nhiều trở ngại cho các bên
muốn ký kết hợp đồng.
b. Hợp đồng được giao kết trên website thương mại điện tử
Hiện nay nhiều doanh nghiệp đã tiến hành kinh doanh qua mạng, thông qua các
trang web bán hàng trực tuyến, trong đó có những trang web khá thành cơng với hình
thức này, như các trang Amazon.com, Drugstore.com, Beyond.com, ...hay
vatgia.com; chodientu.vn, …ở Việt Nam. Các bên muốn mua bán trên các trang web
này sẽ ký kết các hợp đồng trên các website thương mại điện tử của người bán.
Đây là phương thức giao kết hợp đồng thường được sử dụng trong hoạt động
thương mại điện tử giữa doanh nghiệp và khách hàng (B2C: Business to Customer).
Doanh nghiệp bán hàng xây dựng sẵn các hợp đồng mẫu trên website của mình,
khách hàng điền những thơng tin vào mẫu có sẵn, và buộc phải đồng ý với các điều
khoản doanh nghiệp đưa ra. Khách hàng có quyền rất hạn chế hoặc thậm chí là khơng

có quyền gì trong việc thương lượng các điều khoản của hợp đồng.
Người mua hàng được coi là người gặp bất lợi khi giao kết các hợp đồng dạng
này do họ không am hiểu về các yếu tố của hợp đồng, có thể gặp một số nhầm lẫn khi
thực hiện các thao tác kĩ thuật và thường khơng có sự cẩn trọng cần thiết khi giao kết
các hợp đồng. Nếu người mua gặp phải các lỗi về giao dịch do yếu tố kĩ thuật công
nghệ, pháp luật các nước thường quy định khơng ràng buộc người mua vì các yếu tố
kĩ thuật đó nếu họ thơng báo ngay cho người bán về lỗi kĩ thuật này.11 Các điều
khoản hợp đồng thường được thể hiện dưới hình thức “điều lệ giao dịch”, “điều
11

GS-TS Nguyễn Thị Mơ (2006), Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử, Nhà xuất bản Lao độngXã hội, Hà Nội, tr.79.

9


khoản sử dụng dịch vụ” v.v… nhưng rất hiếm khi người mua hàng có sự để tâm cần
thiết tới các điều khoản này, đây là nguyên nhân dẫn làm phát sinh nhiều tranh chấp
giữa người mua và người bán, gây thiệt hại cho cả hai bên.
1.2.2.2 Căn cứ vào đối tượng của hợp đồng
Căn cứ vào đối tượng hợp đồng có hợp đồng mua bán các hàng hóa hữu hình
hoặc dịch vụ và hợp đồng mua bán những sản phẩm số hóa như phần mềm, hình ảnh,
văn bản dạng điện tử…Cùng với những quy tắc chung về thương mại và hợp đồng,
mỗi loại hợp đồng trên đều phải tuân theo những chế định riêng. Chẳng hạn, hợp
đồng có đối tượng là thuốc lá, chất có cồn hoặc những chất cháy nổ phải tuân theo
những quy định của pháp luật về hàng hóa đặc biệt, cịn những hợp đồng về dịch vụ
viễn thông internet và nhà cung cấp dịch vụ internet có thể là đối tượng của các quy
định của Luật công nghệ thông tin. Những quy định trên áp dụng cho hợp đồng nói
chung và các hợp đồng điện tử cũng phải tuân theo những ràng buộc và cưỡng chế
của các quy phạm pháp luật đó.12 Để mua bán một số sản phẩm và dịch vụ số hóa thì
hợp đồng điện tử là hình thức phù hợp nhất, bởi vì các sản phẩm và dịch vụ này cũng

được giao thông qua việc truyền dữ liệu điện tử chứ không qua cách thức vật chất
như thông thường.

1.2.2.3 Căn cứ vào quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng
Căn cứ vào quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng, ta có hợp đồng giao kết và
thực hiện hồn tồn bằng phương tiện điện tử tức hợp đồng mà tất cả các q trình
giao kết và thực hiện đều thơng qua phương tiện điện tử như những hợp đồng mua
bán các đối tượng là các sản phẩm số hóa, có thể giao hàng trực tiếp qua mạng
internet như phần mềm, chương trình máy tính…và hợp đồng giao kết và thực hiện
một phần bằng phương tiện điện tử. Đối với các hàng hóa hữu hình hoặc các dịch vụ
khác, hợp đồng dù được giao kết qua phương tiện điện tử nhưng việc giao hàng, bảo
hành…, vẫn phải thực hiện theo cách thông thường, các hợp đồng này là các hợp
đồng thực hiện một phần bằng phương tiện điện tử.
1.3 Phân biệt hợp đồng thương mại điện tử với hợp đồng thương mại thông
thường

12

/>
10


1.3.1 Điểm giống nhau
- Về bản chất hợp đồng thương mại điện tử cũng như các hợp đồng truyền thống
là sự tự nguyện thỏa thuận, thống nhất về ý chí của các bên về việc xác lập, thay đổi,
hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Dù là hợp đồng truyền thống hay hợp đồng
điện tử, dù hợp đồng được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hay bằng các phương
tiện điện tử thì một hợp đồng chỉ hình thành và trở thành một hợp đồng thực sự khi
các bên giao kết đạt được sự thỏa thuận rõ ràng, cụ thể về các quyền và nghĩa vụ đối
với nhau. Sự thống nhất ý chí của các bên đương sự là điều quan trọng nhất làm nên

hợp đồng.
- Hợp đồng thương mại điện tử về nội dung chính là giống các hợp đồng thương
mại thông thường, cả hai loại hợp đồng này đều phải tuân theo những cơ sở pháp lý
nhất định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, chủ thể của hợp đồng, quy trình
giao kết hợp đồng, chế độ trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng và giải quyết tranh chấp
phát sinh… như các quy định của Bộ Luật Dân sự13, Luật thương mại14 về nội dung
cơ bản của hợp đồng, quy định của Luật Tố Tụng Dân sự15 về nguyên tắc giải quyết
tranh chấp.
- Hợp đồng thương mại điện tử có giá trị ràng buộc các bên đã tham gia giao kết,
các bên sau khi đã giao kết nếu không thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng, khơng
đầy đủ các nghĩa vụ mình đã cam kết trong hợp đồng sẽ phải chịu trách nhiệm đối
với bên kia căn cứ vào thiệt hại gây ra cho phía bên kia (nếu có) và căn cứ vào phần
nghĩa vụ mình phải thực hiện.
- Về nội dung, cũng như hợp đồng dân sự truyền thống, các bên tham gia hợp
đồng có thể thỏa thuận các điều khoản và đối tượng của hợp đồng, số lượng, chất
lượng, giá, phương thức thanh toán, thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp
đồng, quyền, nghĩa vụ của các bên, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, phạt vi phạm
hợp đồng và các nội dung khác.
- Cả hai loại hợp đồng này đều phải tuân theo những nguyên tắc, những quy định
về giao kết và thực hiện hợp đồng.
Việc giao kết hợp đồng phải tuân theo hai nguyên tắc được quy định tại điều 389
bộ luật Dân sự là nguyên tắc “tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp
luật, đạo đức xã hội” và nguyên tắc “tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung
thực và ngay thẳng”. Hai nguyên tắc này được áp dụng cho tất cả các loại hợp đồng

13

Luật số 33/2005/QH11 ngày 14-6-2005 của Quốc Hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 về Bộ Luật Dân sự.
Luật thương mại được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua
ngày 14 tháng 6 năm 2005.

15
Bộ luật tố tụng dân sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 5
thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004.
14

11


dù là hợp đồng truyền thống hay hợp đồng điện tử, dù là hợp đồng thương mại hay
hợp đồng dân sự thông thường.
Việc thực hiện hợp đồng cũng phải tuân theo ba nguyên tắc sau: Nguyên tắc
“Thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời
hạn, phương thức và các thỏa thuận khác”; Nguyên tắc “Thực hiện một cách trung
thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau;”
và nguyên tắc :“ Không được xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, lợi ích cơng cộng,
quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.” Các nguyên tắc trên được quy định tại điều
412 Bộ Luật Dân Sự Việt Nam năm 2005, và có giá trị áp dụng cho tất cả các hợp
đồng nói chung.
1.3.2 Điểm khác nhau
Bên cạnh những điểm giống nhau đã kể trên, hợp đồng điện tử và hợp đồng
truyền thống cũng có nhiều điểm khác nhau. Được giao kết thông qua các phương
tiện điện tử, tồn tại dưới hình thức dữ liệu, với tính chất phi biên giới, vơ hình, phi
vật chất, những điểm khác biệt giữa hợp đồng thương mại điện tử với các hợp đồng
thông thường là không thể tránh khỏi. Những điểm khác biệt này vừa cho thấy tính
ưu việt và cả một số hạn chế của hình thức hợp đồng này so với hợp đồng truyền
thống. Ngày nay, nhiều quốc gia và các tổ chức trên thế giới đang đẩy mạnh việc xây
dựng các quy định pháp luật điều chỉnh việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử
nói chung và hợp đồng thương mại điện tử nói riêng càng khẳng định sự tồn tại
những điểm khác biệt giữa hai hình thức hợp đồng này.
- Điểm khác biệt đầu tiên phải kể đến là phương thức và phương tiện giao dịch.

Nếu như các giao dịch thông thường thực hiện thông qua việc gặp mặt, trao đổi trực
tiếp và ký kết hợp đồng trên giấy tờ thì các giao dịch trong thương mại điện tử, bao
gồm cả việc đàm phán, ký kết hợp đồng đều thực hiện thông qua các phương tiện
điện tử, sử dụng các công nghệ điện tử để điện tử hóa việc giao kết hợp đồng, khơng
trải qua các quá trình gặp mặt, đàm phán, trao đổi trực tiếp với nhau bằng giấy tờ và
ký chữ ký tay. Điểm khác biệt này dẫn đến những khó khăn khi muốn xác định thời
gian, địa điểm giao kết hợp đồng so với các hợp đồng truyền thống, việc xác nhận và
chứng thực một chữ ký điện tử hiện nay cũng gặp nhiều khó khăn cả về phương thức,
các biện pháp sử dụng để chứng thực và chủ thể tiến hành các hoạt động này.
Hợp đồng cũng không bắt buộc phải tồn tại dưới hình thức vật chất cụ thể mà con
người có thể cầm, nắm được như các loại hợp đồng thông thường, mà tồn tại dưới
dạng thông điệp dữ liệu

12


- Khác với các loại hợp đồng khác, ngoài chủ thể tham gia vào quá trình giao kết
và thực hiện hợp đồng là bên bán, bên mua, hợp đồng thương mại điện tử cịn có sự
tham gia của các chủ thể đặc biệt khác đó là người cung cấp dịch vụ mạng và người
chứng thực chữ ký điện tử. Các chủ thể này tham gia với tư cách một người trung
gian, một cơ quan hỗ trợ tạo nhằm đảm bảo tính hiệu quả và giá trị pháp lý việc giao
kết và thực hiện hợp đồng điện tử. Các nhà cung cấp dịch vụ mạng có nhiệm vụ duy
trì hệ thống mạng bao gồm mạng nội bộ của doanh nghiệp, mạng quốc gia, để đảm
bảo cho hoạt động mạng thông suốt. Cơ quan chứng thực chữ ký điện tử sẽ đóng vai
trò trong việc xây dựng và tạo ra được một cơ chế nhằm đảm bảo các hợp đồng điện
tử không thể bị giả mạo và không thể bị từ chối cơng nhận hiệu lực khi có tranh chấp
phát sinh.
- Về nội dung, hợp đồng thương mại điện tử cũng có những nội dung khác biệt so
với hợp đồng truyền thống như: về địa chỉ pháp lý. Ngoài địa chỉ pháp lý thơng
thường cịn có địa chỉ email, số fax, địa chỉ website…những địa chỉ này đóng vai trị

quan trọng trong việc xác định tính hiện hữu của các bên giao kết hợp đồng.
Ngồi ra, hợp đồng điện tử cịn có thể có thêm một số quy định như quy định về
quyền truy cập, cải chính thơng tin trong đề nghị giao kết hợp đồng và trong hợp
đồng, quy định về việc thanh toán điện tử, quy định về chữ ký điện tử…
- Về khía cạnh pháp lý, ngồi việc chịu tác động của các văn bản điều chỉnh hoạt
động thương mại thông thường (như Bộ Luật Dân sự, Luật thương mại…trong hệ
thống pháp luật Việt Nam), hoạt động thương mại điện tử nói chung và hợp đồng
thương mại điện tử nói riêng cịn được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật chun
ngành. Chính vì vậy, để phát triển thương mại điện tử, các quốc gia và các tổ chức
quốc tế cần xây dựng một khung pháp lý dành riêng cho hoạt động thương mại điện
tử, trong đó bao gồm những quy định về hợp đồng thương mại điện tử, giao kết hợp
đồng thương mại điện tử, chữ ký điện tử...Hiện nay, có nhiều nước đã ban hành các
văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này như Luật giao dịch điện tử, Luật thương
mại điện tử, Luật về chữ ký điện tử16 v.v…
1.4 Pháp luật quốc tế về hợp đồng thương mại điện tử
1.4.1 Các quy định của UNCITRAL
UNCITRAL (United Nations Commission on International Trade Law - Ủy ban
của Liên Hợp Quốc về luật thương mại quốc tế) là một trong các tổ chức tiên phong
16

Một số văn bản như: Quy định về chữ ký điện tử 2002 (The Electronic Signature Regulations 2002)
(8/3/2002) của Anh; Luật giao dịch điện tử 1998 (Electronic Transactions Act of 1998) (29/6/1998) của
Singapore; Quy chế về chữ ký điện tử (Statute on Electronic Signature) (05/2002) của Trung Quốc.

13


nhận thấy sự cần thiết phải ban hành các quy định pháp lý về thương mại điện tử, loại
bỏ những rào cản đối với sự phát triển của thương mại điện tử, nhằm tạo cơ sở cho
các quốc gia, các hệ thống pháp luật, xã hội và kinh tế khác nhau ban hành các quy

định về thương mại điện tử của mình một cách thống nhất, góp phần vào sự phát triển
hài hòa của các quan hệ kinh tế quốc tế. Tiêu biểu là Luật mẫu về thương mại điện tử
và Luật mẫu về chữ ký điện tử mà khóa luận đề cập sau đây.

- Luật mẫu của UNCITRAL về thương mại điện tử
Luật mẫu về thương mại điện tử của Ủy ban về thương mại của Liên Hợp Quốc
(UNCITRAL) ban hành năm 1996 quy định nhiều vấn đề cơ bản về thương mại điện
tử và được xem là đạo luật đầy đủ nhất để tham chiếu khi xây dựng luật về thương
mại điện tử ở nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam.17
Luật gồm hai phần với 17 điều khoản
Phần I giới thiệu khái quát về thương mại điện tử, gồm 3 chương. Chương I đề
cập đến các quy định chung. Chương II quy định các điều kiện luật định đối với các
thông điệp dữ liệu (Data messages), gồm công nhận giá trị pháp lý của các thông điệp
dữ liệu, về văn bản viết, chữ ký, bản gốc, tính xác thực và khả năng được chấp nhận
và lưu giữ thơng điệp dữ liệu. Chương III nói đến thơng tin liên lạc bằng thơng điệp
dữ liệu, quy định về hình thức của hợp đồng và giá trị pháp lý của hợp đồng, các bên
ký kết hợp đồng phải công nhận giá trị pháp lý của các thông điệp dữ liệu, xuất xứ
của thông điệp dữ liệu, việc xác nhận đã nhận, thời gian, địa điểm gửi và nhận thông
điệp dữ liệu.
Phần II quy định các giao dịch thương mại điện tử trong một số lĩnh vực hoạt
động gồm 2 điều khoản liên quan đến vận tải hàng hoá.
Trong đạo luật này, định nghĩa về thương mại điện tử được nêu lên rõ ràng, đó là
các hoạt động thương mại có sử dụng các thông điệp dữ liệu- là thông tin được tạo ra,
gửi đi, tiếp nhận hoặc lưu trữ bằng phương tiện điện tử, quang học hoặc các phương
tiện tương tự, bao gồm trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), thư điện tử, điện tín, điện báo,
fax và các hình thức tương tự khác. Đạo luật cũng đưa ra việc cơng nhận thơng điệp
dữ liệu có giá trị như văn bản và điều kiện để thơng điệp dữ liệu có giá trị như văn
bản viết. Theo đó, thơng điệp dữ liệu sẽ có giá trị như văn bản viết nếu thơng tin chứa
trong thơng điệp dữ liệu này có thể truy cập được để sử dụng cho mục đích tham
chiếu. Điều 7 của đạo luật này quy định vấn đề chữ ký, theo đó, “trong trường hợp


17

Xem phụ lục 1: UNCITRAL Model Law on Electronic Commerce

14


pháp luật địi hỏi phải có chữ ký của một người nào đó, thì một thơng điệp dữ liệu
được coi là đáp ứng địi hỏi ấy nếu:
(a) Có sử dụng một phương pháp nào đó để xác minh được người đó và chứng tỏ
được sự phê chuẩn của người ấy đối với thông tin hàm chứa trong thông điệp dữ liệu
đó; và
(b) Phương pháp ấy đủ tin cậy với nghĩa là thích hợp cho mục đích mà theo đó
thơng điệp dữ liệu ấy đã được tạo ra và truyền đi, tính đến tất cả các tình huống, bao
gồm cả các thỏa thuận bất kì có liên quan.”
Các vấn đề quan trọng khác như vấn đề bản gốc, giá trị chứng cứ và giá trị sử
dụng của thông điệp dữ liệu, thời điểm, địa điểm gửi và nhận thông điệp dữ
liệu…cũng được quy định rất rõ trong đạo luật.
UNCITRAL, thông qua Luật mẫu về thương mại điện tử, đã tạo điều kiện giúp tất
cả các quốc gia trên thế giới hoàn thiện hệ thống pháp luật của mình về sử dụng các
phương tiện truyền và lưu giữ thông tin mới thay thế cho các tài liệu bằng giấy và
ban hành các đạo luật còn thiếu trong lĩnh vực thương mại điện tử. UNCITRAL cũng
đã ban hành văn bản hướng dẫn việc chuyển hoá các quy định của Luật mẫu vào hệ
thống nội dung luật của các quốc gia.
- Luật mẫu UNCITRAL về chữ ký điện tử.18
Luật này được chính thức thơng qua ngày 29/9/2000, gồm hai phần, phần một là
luật mẫu về chữ ký điện tử và phần hai là hướng dẫn thi hành luật mẫu về chữ ký
điện tử. Luật nêu lên những vấn đề cơ bản về chữ ký điện tử, chữ ký số và các vấn đề
về người ký, bên thứ ba và chứng nhận về người ký. Luật cũng đưa ra những hướng

dẫn rất chi tiết, phân tích cho từng điều khoản của luật mẫu. Luật nêu rõ những tiêu
chuẩn rất cụ thể để đảm bảo an toàn về kỹ thuật và pháp lý cho các chữ ký điện tử
cũng như các giao dịch điện tử.
Đạo luật đã công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử dù công nghệ được sử
dụng là công nghệ dạng nào. Luật mẫu tiếp cận trên cơ sở sử dụng cơng nghệ mã hóa
mật mã cơng cộng (có tổ chức công cộng chứng nhận và thực hiện việc mã hóa), tuy
nhiên, luật cũng đề cập đến các cơng nghệ rất mới khác như sinh trắc học, mã PIN
(PIN numbers) và các công nghệ tương tự. Luật cũng đưa ra những điều kiện để một
chữ ký điện tử được coi là đủ tính an tồn và độ tin cậy, quy định trách nhiệm của các
bên liên quan, người có chữ ký điện tử, người chấp nhận chữ ký điện tử và người
chứng thực chữ ký điện tử.

18

Xem phụ lục 2: UNCITRAL Model Law on Electronic Signatures

15


Không phân biệt đối xử với chữ ký điện tử nước ngoài là một trong các nguyên
tắc cơ bản của luật, theo đó, việc cơng nhận hay khơng cơng nhận một chữ ký điện tử
là dựa trên độ tin cậy của chữ ký đó chứ khơng phân biệt theo nguồn gốc chữ ký và
cơ quan chứng nhận chữ ký.
Với những quy định như trên, luật đã đưa ra những quy định nhằm tạo cơ sở pháp
lý, tạo niềm tin cho các chủ thể trong việc sử dụng chữ ký điện tử khi ký kết các hợp
đồng điện tử trong thực tế, và là cơ sở cho các nước dựa vào đây để xây dựng pháp
luật về chữ ký điện tử hay chữ ký số của nước mình.

1.4.2 Các quy định của Liên minh Châu Âu
Liên minh Châu Âu (EU) là khu vực có sự phát triển cao về cơng nghệ thông tin,

các doanh nghiệp ở khu vực này đang tăng cường sự ứng dụng của công nghệ, khoa
học kĩ thuật vào hoạt động kinh doanh của mình, tiến hành các hoạt động kinh doanh
theo mơ hình thương mại điện tử. Đáp ứng xu thế đó, Liên minh Châu Âu cũng nỗ
lực xây dựng một khung pháp lý thống nhất về thương mại điện tử cho các nước
trong cộng đồng. Hiện nay, Liên minh Châu Âu đã soạn thảo một số một số chỉ thị
liên quan tới thương mại điện tử như chỉ thị 1995/46/EC về bảo vệ dữ liệu, chỉ thị
1999/93/EC về chữ ký điện tử, chỉ thị 2000/31/EC về thương mại điện tử, chỉ thị
2002/58/EC về bảo vệ dữ liệu trong liên lạc điện tử. Do đó, Liên minh Châu Âu có
nền tảng vững chắc để phát triển và đi đầu trong thương mại điện tử nói chung và
hợp đồng thương mại điện tử nói riêng.
Trong chỉ thị số 2000/31/CE về thương mại điện tử, EU đã đưa ra những quy định
về nghĩa vụ của các nước thành viên, nhằm đảm bảo cho sự phát triển của thương
mại điện tử, và giao kết hợp đồng điện tử. Theo đó, các quốc gia EU phải xem xét lại
các quy định pháp luật của nước mình, và ban hành bổ sung hoặc sửa đổi hợp lý
nhằm loại bỏ những hạn chế với việc giao kết hợp đồng điện tử. Như thế, các chủ thể
khi tham gia giao kết hợp đồng thương mại điện tử trong khn khổ các nước EU có
thể yên tâm rằng hợp đồng điện tử mà họ giao kết có đầy đủ giá trị pháp lý và sẽ là
phương thức kinh doanh mới được thừa nhận không phải ở phạm vi các nước thành
viên mà ở cả phạm vi EU.
Chỉ thị cũng đưa ra hướng dẫn về trình tự giao kết hợp đồng nhằm hướng dẫn
trình tự giao kết hợp đồng và tránh những rủi ro cho các bên khi giao kết hợp đồng
thương mại điện tử.
Vấn đề về chữ ký điện tử được quy định trong chỉ thị 1999/93/EC ngày
13/12/1999 về chữ ký điện tử. Chỉ thị nêu khái niệm về chữ ký điện tử, điều kiện để

16


một chữ ký điện tử được cơng nhận là có giá trị pháp lý như một chữ ký thường,
những yêu cầu về việc thiết lập chữ ký điện tử, về việc chứng nhận chữ ký điện tử, về

các cơ quan cung cấp dịch vụ chứng nhận chữ ký điện tử và những quy định khác.
Trong đó, ngay tại điều 5-2 của chỉ thị đã nêu rõ “các quốc gia thành viên phải đảm
bảo rằng giá trị pháp lý, việc công nhận như bằng chứng của một chữ ký điện tử
không thể bị phủ nhận chỉ vì lý do chữ ký này được thể hiện dưới dạng điện tử.”
Có thể nói, những quy định của EU về thương mại điện tử là nền tảng, định
hướng cho việc xây dựng pháp luật về thương mại điện tử cho các quốc gia thành
viên. Các quốc gia này khi ban hành các văn bản pháp luật về thương mại điện tử,
hợp đồng thương mại điện tử hay quy định về chữ ký điện tử… buộc phải tuân theo
những chỉ thị đã được ban hành của EU, điều này đảm bảo cho một sự thống nhất và
hòa hợp cao giữa pháp luật của các nước trong khối, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
phát triển thương mại điện tử.
1.4.3 Pháp luật của một số quốc gia về hợp đồng thương mại điện tử
Hiện nay, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin và sự ứng dụng của
công nghệ vào hoạt động thương mại, nhiều nước trên thế giới đã chú trọng đến việc
xây dựng hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử của
nước mình. Do quy mơ có hạn, khóa luận chỉ tập trung tìm hiểu hệ thống pháp luật
của Hoa Kì, quốc gia có nền kinh tế phát triển bậc nhất thế giới, và Malaysia- quốc
gia nằm cùng khu vực Đông Nam Á với Việt Nam, hiện là nước có sự đầu tư cho
thương mại điện tử cao trong khu vực nhằm rút ra những kinh nghiệm cho việc xây
dựng hệ thống pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam.
1.4.3.1 Hoa Kì
Hoa Kì là quốc gia có sự phát triển về kinh tế và khoa học kĩ thuật hàng đầu thế
giới, đây cũng là quốc gia đi đầu trong việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật,
phương tiện điện tử vào hoạt động thương mại. Với một hệ thống pháp luật gồm pháp
luật liên bang và pháp luật các tiểu bang tương đối phức tạp, trong quy mơ khóa luận
này chỉ nêu một số văn bản pháp luật tiêu biểu điều chỉnh hoạt động thương mại điện
tử.
Những quy định pháp luật cơ bản về hợp đồng của Hoa Kì được quy định trong
Bộ luật thương mại thống nhất (Uniformed Commercial Code - UCC) và các án lệ
của các bang. UCC là một bản các quy tắc thương mại được phê chuẩn bởi phần lớn

các bang ở Mỹ. Điều 2 của UCC quy định về việc mua bán hàng hóa, trong đó điều
2A quy định về việc thuê và cho thuê hàng hóa bao gồm cả các chương trình phần

17


mềm máy tính. Quy định của UCC chỉ áp dụng cho hợp đồng điện tử về mua bán
hàng hóa mà không áp dụng cho việc cung cấp các dịch vụ. Tuy nhiên, một số loại
hình dịch vụ thường đi kèm với việc mua bán các sản phẩm phần mềm, chương trình
máy tính có thể được điều chỉnh bởi UCC tùy vào loại hình dịch vụ đó và quy định
pháp luật của mỗi bang.19
- Luật thống nhất về giao dịch điện tử (The Uniform Electronic Transactions
Act (UETA)) cũng là một quy định pháp luật quan trọng áp dụng cho hợp đồng điện
tử ở Hoa Kì, có 46 bang, Quận Columbia và đảo Virgin đã hợp nhất những quy định
của UETA vào các quy định pháp luật của mình. UETA được coi là cơ sở pháp lý
hướng dẫn việc giao kết hợp đồng điện tử, luật đã thừa nhận giá trị pháp lý của hợp
đồng điện tử như hợp đồng truyền thống và đưa ra quy định về trình tự giao kết hợp
đồng điện tử. Tuy nhiên, theo quy định cụ thể trong điều 3 và điều 4, UETA chỉ áp
dụng cho các giao dịch kinh doanh, thương mại, giao dịch của chính phủ và các giao
dịch thực hiện bởi các phương tiện điện tử, và sẽ không được áp dụng với các giao
dịch hoặc hợp đồng về di chúc, giao dịch thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật
thương mại thống nhất-UCC trừ các vấn đề quy định tại phần 1-107, phần 1-106,
điều 2, điều 2A, và các giao dịch thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thống nhất về
giao dịch thơng tin trên máy tính (UCITA).
- Luật chữ ký điện tử trong thương mại quốc gia và quốc tế (E-sign Act).
Luật này có hiệu lực hồn tồn từ năm 2001. Luật điều chỉnh những vấn đề về chữ ký
điện tử và áp dụng cho việc giao kết hợp đồng ở phạm vi tất cả các bang thuộc hợp
chủng quốc Hoa Kì.
E-sign ra đời đã đánh dấu một mốc quan trọng về mặt pháp lý cho các giao dịch
điện tử nói chung và giao kết hợp đồng điện tử nói riêng. Luật chú trọng tới việc định

nghĩa chữ ký điện tử dưới dạng các ký hiệu hoặc âm thanh. Vì thế, các dấu hiệu, hình
ảnh, ký hiệu, biểu tượng hoặc âm thanh đều có thể coi là chữ ký điện tử trong hợp
đồng điện tử.
E-sign đảm bảo giá trị pháp lý của chữ ký điện tử bằng cách khẳng định “Một
hợp đồng không thể bị từ chối giá trị pháp lý hay giá trị hiệu lực chỉ vì lí do duy nhất
là chữ ký điện tử đã được sử dụng để hình thành hợp đồng” 20. Tuy nhiên, E-sign
khơng được áp dụng cho tất cả các hợp đồng, mà chỉ áp dụng cho các hợp đồng đang

19

/>GS-TS Nguyễn Thị Mơ (2006), Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử, Nhà xuất bản Lao độngXã hội, Hà Nội, tr.105.

20

18


được xem xét, điều này có nghĩa, E-sign vẫn cho phép các bang áp dụng các đạo luật
riêng của mình về chữ ký điện tử.
- Luật thống nhất về giao dịch thơng tin trên máy tính (The Uniform
Computer Transaction Act - UCITA) là những quy tắc về hình thức của hợp đồng
điện tử, đặc biệt là các giao dịch về dữ liệu điện tử, hay “giao dịch thông tin trên máy
tính” như cách gọi của luật. UCITA chưa được phê chuẩn bởi đa số các bang của Mỹ,
và những bang đã phê chuẩn cũng có nhiều sửa đổi khác với văn bản nguyên thủy
của UCITA. Vì vậy, khi tiến hành các giao dịch về phần mềm máy tính trong phạm
vi Hoa Kì, cần xem xét việc đạo luật này đã được phê chuẩn bởi các bang có liên
quan hay chưa.21
Nhìn chung, các quy định của pháp luật Hoa Kì về hình thức hợp đồng thương
mại điện tử khi tiến hành giao dịch hàng hóa đã được quy định rõ ràng và thống nhất
trong UCC và các án lệ. Tuy nhiên, quy định đối với hợp đồng điện tử khi giao dịch

các dịch vụ và sản phẩm số hóa chưa có sự thống nhất, vì thế vẫn cần được phân tích
và áp dụng khác nhau trong những trường hợp cụ thể.
1.4.3.2 Malaysia
Chính phủ các nước châu Á đã nhận thấy vai trị của thương mại điện tử và nhiều
chính sách đã được ban hành để kết hợp những quy định pháp luật về thương mại
hiện có với những quy định về giao dịch thương mại điện tử.
Malaysia, là một trong những quốc gia Châu Á đi đầu trong việc đầu tư, tạo lập
các điều kiện để phát triển thương mại điện tử. Malaysia đã thành lập bộ Năng lượng,
thông tin và truyền thơng, mà chức năng chính là đẩy mạnh việc phát triển cơng nghệ
thơng tin và truyền thơng. Chính phủ Malaysia cũng tập trung xây dựng một khung
pháp lý an toàn và hiệu quả cũng như tạo ra tiêu chuẩn kĩ thuật để thúc đẩy sự phát
triển của thương mại điện tử và giao kết hợp đồng điện tử.
Các vấn đề về giao kết hợp đồng nói chung được quy định trong luật hợp đồng
năm 1950 của Malaysia, còn những vấn đề có tính đặc thù riêng của hợp đồng điện tử
được quy định trong luật Chữ ký số năm 1997 (Digital Signatures Act- DSA). Luật
này là cơ sở pháp lý của chữ ký điện tử, chủ yếu quy định về chữ ký điện tử. Luật đã
đưa ra một định nghĩa mới về chữ ký điện tử, luật cũng thừa nhận giá trị pháp lý, sự
ràng buộc của chữ ký điện tử và quy định về tính an tồn của chữ ký điện tử và nhấn

21

Xem thêm />
19


mạnh rằng một chữ ký điện tử chỉ có giá trị pháp lý khi có được chứng nhận bởi cơ
quan chứng thực số.22
Luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân (The Personal Data Protection) điều chỉnh
việc thu thập, xử lý và sử dụng các dữ liệu, đảm bảo rằng có sự quan tâm cần thiết
cho việc bảo đảm an toàn, bảo mật và việc quản lý các thông tin cá nhân. Mục đích

của nó là nâng cao niềm tin của công chúng khi thực hiện các giao dịch điện tử mà
không sợ các thông tin cá nhân bị xâm phạm.
Luật giao dịch điện tử (The Legal Transaction Act) là phương tiện chủ yếu để
thúc đẩy thương mại điện tử bằng cách cung cấp các quy định pháp luật điều chỉnh
các giao dịch điện tử, bao gồm cả giao dịch thương mại điện tử.
Ngồi ra, Malaysia cịn ban hành luật về hoạt động giao dịch điện tử của chính
phủ (The Electronic Government Activities Act) nhằm tạo ra những quy định điều
chỉnh giao dịch điện tử giữa chính phủ và cơng dân.
Có thể nói, qua DSA và các quy định khác của pháp luật, Malaysia đã thể hiện rõ
mong muốn xây dựng một cơ chế pháp lý thuận lợi, an toàn và đảm bảo đủ điều kiện
để phát triển thương mại điện tử và giao kết hợp đồng thương mại điện tử.
Qua những nội dung đã tìm hiểu, có thể nhận thấy việc ứng dụng điện tử vào hoạt
động thương mại nói chung và lĩnh vực hợp đồng thương mại nói riêng đang ngày
càng mở rộng, theo đó, quy định tại các tổ chức quốc tế và pháp luật các quốc gia về
lĩnh vực này cũng được quan tâm đầu tư thích đáng. Trong xu thế đó, Việt Nam đang
từng bước xây dựng hệ thống pháp luật về thương mại điện tử và hợp đồng thương
mại điện tử với mục tiêu sớm tạo ra hành lang pháp lý phù hợp cho sự phát triển
thương mại điện tử và hợp đồng thương mại điện tử ở nước ta.

22

Để thực thi DSA, cơ quan chứng thực số đã được thành lập. Hiện nay, DigiCert là cơ quan chứng thực số
duy nhất ở Malaysia

20


CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG THƯƠNG
MẠI ĐIỆN TỬ VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỂ VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG ĐIỆN

TỬ VÀ CHỮ KÝ ĐIỆN TỬ
Trong chương này, khóa luận phân tích những quy định pháp luật về hợp đồng
thương mại điện tử ở Việt Nam, tập trung vào những quy định về giao kết hợp đồng
điện tử và chữ ký điện tử nhằm làm rõ những điểm đặc trưng, đáng lưu ý của hợp
đồng thương mại điện tử.
2.1 Quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng thương mại điện tử
Hiện nay, những vấn đề liên quan đến hợp đồng thương mại điện tử trong pháp
luật Việt Nam không được điều chỉnh trong một văn bản thống nhất mà được đề cập
đến ở nhiều văn bản khác nhau, bao gồm cả các văn bản pháp luật điều chỉnh các hợp
đồng thông thường và cả các văn bản áp dụng riêng cho các giao dịch bằng phương
tiện điện tử. Các văn bản đáng chú ý như:
- Bộ luật dân sự 2005
Đây là văn bản pháp luật có phạm vi điều chỉnh rộng, bao quát các vấn đề về giao
dịch dân sự nói chung. Tại khoản 1, điều 124 về “Hình thức giao dịch dân sự” của Bộ
luật này quy định “Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức
thơng điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản”. Bộ Luật Dân sự đưa ra quy
định cụ thể về các trường hợp giao kết, sửa đổi, thực hiện, huỷ bỏ hợp đồng. Theo đó,
thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận
giao kết. Địa điểm giao kết hợp đồng dân sự do các bên thoả thuận, nếu khơng có
thoả thuận thì địa điểm giao kết hợp đồng dân sự là nơi cư trú của cá nhân hoặc trụ sở
của pháp nhân đã đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng. Đây là những khái niệm quan
trọng cần tính đến khi xây dựng các văn bản pháp luật liên quan đến giao kết và thực
hiện hợp đồng trong môi trường điện tử.
- Luật thương mại 2005
Luật thương mại sửa đổi được Quốc hội khố XI, kỳ họp thứ 7 thơng qua ngày
14/06/2005 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2006 là văn bản pháp lý làm nền tảng cho
các hoạt động thương mại, trong đó có thương mại điện tử. Tại khoản 5 điều 3 Luật
thương mại đã nêu lên định nghĩa về thông điệp dữ liệu “Thông điệp dữ liệu là thông
tin được tạo ra, gửi đi, nhận và lưu giữ bằng phương tiện điện tử”. Luật cũng khẳng
định giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu khi khẳng định thông điệp dữ liệu là hình


21


thức tương đương văn bản tại khoản 15 điều 3, và khẳng định “Trong hoạt động
thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo
quy định của pháp luật thì được thừa nhận có giá trị pháp lý tương đương văn bản”
tại điều 15. Ngồi ra, tại khoản 4, Điều 120 (Các hình thức trưng bày, giới thiệu hàng
hố, dịch vụ), trong đó coi “Trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ trên Internet” là
một hình thức trưng bày, giới thiệu hàng hố, dịch vụ.
- Luật giao dịch điện tử 2005
Luật Giao dịch điện tử được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8 thơng qua ngày
29/11/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/03/2006. Luật gồm 8 chương, 54 điều quy định
về thông điệp dữ liệu, chữ ký điện tử và chứng thực chữ ký điện tử, giao kết và thực
hiện hợp đồng điện tử, giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước, an ninh, an toàn, bảo
vệ, bảo mật trong giao dịch điện tử, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong giao
dịch điện tử. Phạm vi điều chỉnh chủ yếu của Luật là giao dịch điện tử trong hoạt
động của các cơ quan nhà nước, trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại.
Luật Giao dịch điện tử nhấn mạnh nguyên tắc tiến hành giao dịch điện tử là tự
nguyện, được tự thoả thuận về việc lựa chọn công nghệ để thực hiện giao dịch, trung
lập về công nghệ, bảo đảm sự bình đẳng và an tồn.
Chữ ký điện tử là một nội dung được đề cập đến trong Luật Giao dịch điện tử.
Luật công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử, nêu lên nghĩa vụ của bên ký, bên
chấp nhận chữ ký và tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử và dành
hẳn một chương đề cập đến giao dịch điện tử của cơ quan Nhà nước.
- Nghị định số 57/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2006 của Chính phủ về
thương mại điện tử.
Áp dụng điều chỉnh việc sử dụng chứng từ điện tử trong các hoạt động thương
mại và hoạt động liên quan đến thương mại trên lãnh thổ nước Cộng Hịa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam và ngồi lãnh thổ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam

nếu các bên chọn luật Việt Nam điều chỉnh. Trong đó, khái niệm chứng từ được hiểu
“Chứng từ là hợp đồng, đề nghị, thơng báo, tun bố, hóa đơn hoặc tài liệu khác do
các bên đưa ra liên quan tới việc giao kết hay thực hiện hợp đồng.” Và “chứng từ
điện tử là chứng từ ở dạng thông điệp dữ liệu”
Nghị định đã quy định giá trị pháp lý của chứng từ điện tử, những quy định về
chứng từ điện tử trong hoạt động thương mại và biện pháp xử lý vi phạm.

22


×