Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (573.93 KB, 59 trang )

 

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI

LÊ THỊ QUỲNH

PHÁP LUẬT VỀ NGHIỆP VỤ THỊ
TRƯỜNG MỞ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP HCM - 2011


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
WWWWWW

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

PHÁP LUẬT VỀ NGHIỆP VỤ THỊ
TRƯỜNG MỞ

SINH VIÊN THỰC HIỆN
Khoá: 2007 – 2011

: LÊ THỊ QUỲNH


MSSV: 3220156

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

: CÔ. LÊ THỊ NGÂN HÀ

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011


Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khoá luận tốt nghiệp “Pháp luật về nghiệp
vụ thị trường mở” là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số
liệu, kết quả sử dụng trong khố luận là chính xác, trung thực và có
căn cứ.

Tác giả khóa luận

Lê Thị Quỳnh 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 

 
 


Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở

 

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. Chính sách tiền tệ quốc gia : CSTTQG
2. Nghiệp vụ thị trường mở

: NVTTM

3. Giấy tờ có giá

: GTCG

4. Tổ chức tín dụng

: TCTD


Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ .................. 5

1.1 Quá trình hình thành nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam .................................. 5
1.2 Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở ........................................................................ 9
1.3 Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở ...................................................... 16
1.3.1 Về mặt lượng – Tác động vào dự trữ của các tổ chức tín dụng ......................... 16
1.3.2 Về mặt giá – Tác động qua lãi suất .................................................................... 16
1.4 Vai trò của nghiệp vụ thị trường mở ..................................................................... 17
1.4.1 Đối với Ngân hàng Nhà nước ............................................................................ 17
1.4.2 Đối với các tổ chức tín dụng .............................................................................. 17
1.4.3 Đối với nền kinh tế ............................................................................................. 17
1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế vận hành của nghiệp vụ thị trường mở ......... 18
1.5.1 Nhân tố khách quan ............................................................................................ 18
1.5.1.1 Trình độ phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn và các cơng cụ thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia khác .......................................................................... 18
1.5.1.2 Hàng hóa thị trường mở do Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng
nắm giữ ........................................................................................................................ 18
1.5.2 Nhân tố chủ quan ............................................................................................... 19
1.5.2.1 Dự báo về vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng ......................................... 19
1.5.2.2 Các quy định về nghiệp vụ thị trường mở ...................................................... 19
1.6 Vai trò của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc thực hiện nghiệp vụ thị
trường mở .................................................................................................................... 20
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................................ 21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGHIỆP VỤ THỊ
TRƯỜNG MỞ VÀ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN .......................................................... 22
2.1 Các quy định pháp luật hiện hành về nghiệp vụ thị trường mở ............................ 22
2.1.1 Chủ thể tham gia nghiệp vụ thị trường mở ........................................................ 22
2.1.1.1 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ...................................................................... 22
2.1.1.2 Các tổ chức tín dụng ....................................................................................... 23


Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở


2.1.1.3 Nghĩa vụ của các chủ thể tham gia nghiệp vụ thị trường mở ......................... 26
2.1.2 Hàng hóa giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở ........................................... 27
2.1.2.1 Điều kiện các giấy tờ có giá được giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở . 28
2.1.2.2 Các loại giấy tờ có giá sử dụng trong giao dịch nghiệp vụ thị trường mở ..... 29
2.1.3 Phương thức giao dịch của nghiệp vụ thị trường mở ......................................... 31
2.1.3.1 Giao dịch mua, bán hẳn ................................................................................... 31
2.1.3.2 Giao dịch mua, bán có kỳ hạn ......................................................................... 32
2.1.4 Phương thức hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở ........................................ 35
2.1.4.1 Phương thức đấu thầu khối lượng ................................................................... 35
2.1.4.2 Phương thức đấu thầu lãi suất ......................................................................... 35
2.1.5 Quy trình tiến hành nghiệp vụ thị trường mở .................................................... 37
2.2 Những kết quả đạt được và hạn chế trong vận hành nghiệp vụ thị trường mở
thời gian qua ................................................................................................................ 39
2.2.1 Những kết quả đạt được trong vận hành nghiệp vụ thị trường mở thời
gian qua ....................................................................................................................... 39
2.2.2 Những hạn chế trong vận hành nghiệp vụ thị trường mở thời gian qua ............ 41
2.3 Kinh nghiệm vận hành nghiệp vụ thị trường mở của một số nước ....................... 42
2.3.1 Nghiệp vụ thị trường mở tại Mỹ ........................................................................ 43
2.3.2 Nghiệp vụ thị trường mở tại Hàn Quốc ............................................................. 44
2.4 Đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở .................... 46
2.4.1 Sự cần thiết của việc hoàn thiện quy định pháp luật về nghiệp vụ thị
trường mở ..................................................................................................................... 46
2.4.2 Các giải pháp cụ thể hoàn thiện quy định pháp luật về nghiệp vụ thị
trường mở .................................................................................................................... 47
2.4.2.1 Mở rộng và nâng cao năng lực hoạt động thành viên thị trường mở .............. 47
2.4.2.2 Bổ sung hàng hóa giao dịch trên thị trường mở .............................................. 48
2.4.2.3 Sửa đổi, bổ sung những quy định pháp luật nghiệp vụ thị trường mở ............ 49
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 51



Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Bước vào năm 2011 – năm đầu tiên trong kế hoạch 5 năm 2011-2015 và giai
đoạn phát triển 10 năm 2010-2020, trong Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng đã đề ra mục tiêu và định hướng phát
triển kinh tế xã hội, trong đó bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô là một trong những
định hướng phát triển quan trọng trong những năm sắp đến. Để thực hiện mục tiêu
này đòi hỏi sự chung tay góp sức của tất cả các chủ thể trong xã hội. Và Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam - chủ thể với chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng bằng cách vận hành linh hoạt, hiệu quả những cơng cụ điều hành
chính sách tiền tệ đã, đang và sẽ có những đóng góp hữu hiệu nhất cho sự ổn định
kinh tế vĩ mô của đất nước. Hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ khơng chỉ phụ
thuộc vào cách thức mà Ngân hàng Nhà nước sử dụng các cơng cụ để điều hành
chính sách tiền tệ, mà cịn phụ thuộc rất nhiều vào đặc tính, cách thức tác động của
bản thân các công cụ, rằng có phù hợp với tình hình thực tế hay khơng. Trong giai
đoạn hiện nay, Ngân hàng Nhà nước xác định cần phải hồn thiện cơng cụ điều
hành chính sách tiền tệ theo hướng mở rộng sử dụng các công cụ điều hành gián
tiếp và điều hành theo nguyên tắc thị trường. Chính vì thế mà nghiệp vụ thị trường
mở với cách thức vận hành riêng của mình, ngày càng đáp ứng nhu cầu về điều
hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, thực tiễn vận hành của
nghiệp vụ thị trường mở đến nay vẫn chưa phát huy được hết những ưu thế của
cơng cụ này. Vì vậy, trong định hướng chiến lược phát triển, Ngân hàng Nhà nước
sẽ đẩy mạnh hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở. Do đó, nghiên cứu về nghiệp vụ
thị trường mở trong bối cảnh hiện nay là vô cùng cần thiết, đặc biệt là trên phương
diện pháp luật, vì pháp luật là hành lang pháp lý cho sự vận hành của công cụ này.
Như vậy, xuất phát từ tầm quan trọng của công cụ nghiệp vụ thị trường mở,

cũng như thực tế rằng những quy định pháp luật về công cụ này hiện đang cần hoàn
thiện nhằm nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà
nước, mà tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài “Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở”.

Trang 1


Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở được Ngân hàng Nhà Nước sử dụng để
điều hành chính sách tiền tệ quốc gia cho đến nay vẫn được xem là cịn khá mới. Vì
thế mà các cơng trình nghiên cứu về công cụ này là chưa nhiều và chủ yếu chỉ tập
trung vào bản chất kinh tế của cơng cụ nghiệp vụ thị trường mở. Có thể kể đến một
số đề tài như Lê Phước Vĩnh Thụy (2007), Sử dụng nghiệp vụ thị trường mở trong
việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, TP HCM;
Hoàng Xuân Quế (2004), Giải pháp hoàn thiện các cơng cụ chủ yếu của chính sách
tiền tệ ở Việt Nam, Hà Nội; Nguyễn Duy Hinh (2004), Giải pháp cho việc vận hành
các cơng cụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Hà
Nội. Trong các nghiên cứu này, tác giả phần lớn đã làm rõ bản chất kinh tế, cách
thức vận hành của cơng cụ nghiệp vụ thị trường mở, kèm theo đó là thực tiễn áp
dụng cũng như những giải pháp góp phần hồn thiện cơng cụ này. Tuy nhiên, xét về
mặt thời gian thì đó là những nghiên cứu đã khá lâu và so với diễn biến tình hình
hiện nay thì đã có nhiều sự thay đổi. Mặt khác, đứng trên phương diện pháp luật thì
nghiệp vụ thị trường mở hiện nay đã có nhiều sự đổi khác đáng kể do sự thay đổi
của tình hình kinh tế -xã hội.
3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Trong khoá luận tốt nghiệp này, tác giả tập trung vào nghiên cứu những quy
định pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Pháp luật nghiệp vụ thị trường mở là một phạm trù khá rộng. Nếu xét về
phương diện thời gian thì có những quy định pháp luật hiện hành và những quy định
pháp luật trước đây về nghiệp vụ thị trường mở. Nếu xét về nội dung pháp luật thì
có những quy định pháp luật liên quan trực tiếp tới hoạt động của công cụ nghiệp vụ
thị trường mở, những quy định liên quan khác giúp cho hoạt động nghiệp vụ này
tiến hành thành công và văn bản hướng dẫn quy trình nghiệp vụ thị trường mở. Tuy
nhiên, trong phạm vi một khoá luận tốt nghiệp, tác giả sẽ nghiên cứu những quy
định pháp luật hiện hành liên quan trực tiếp tới hoạt động nghiệp vụ thị trường mở
và văn bản hướng dẫn quy trình nghiệp vụ thị trường mở.

Trang 2


Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở

5. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích của tác giả trong nghiên cứu của mình là tìm hiểu những quy định
pháp luật hiện hành về nghiệp vụ thị trường mở, để từ đó xem xét tính phù hợp của
những quy định này trong thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ quốc gia của Ngân
hàng Nhà nước. Và trên cơ sở đó, tác giả tìm ra những giải pháp để hồn thiện quy
định pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở.
6. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Xuyên suốt quá trình tìm hiểu và hồn thành khố luận tốt nghiệp của mình,
tác giả luôn dựa trên trước hết là cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lenin với phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử để nhìn nhận, đánh giá
và giải quyết vấn đề về pháp luật nghiệp vụ thị trường mở một cách khoa học,
khách quan và toàn diện. Đồng thời, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu cụ thể như thu thập tài liệu, số liệu, phân tích, so sánh đối chiếu, chứng minh,
đánh giá khái quát hoá và hệ thống hoá vấn đề và một số phương pháp nghiên cứu
khác để hồn thành khố luận tốt nghiệp của mình.

7. Ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn của khoá luận
Những nghiên cứu về pháp luật nghiệp vụ thị trường mở trong khố luận có
ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn sau đây:
Về mặt ý nghĩa khoa học: Thông qua những nghiên cứu của mình, trước hết,
khóa luận cung cấp một cách khá rõ ràng, đầy đủ những kiến thức lý luận về nghiệp
vụ thị trường mở. Nhưng trọng tâm nhất, khóa luận đem lại hiểu biết về những quy
định pháp luật hiện hành liên quan trực tiếp tới hoạt động nghiệp vụ thị trường mở,
và thơng qua đó, đưa ra được những giải pháp để hoàn thiện pháp luật về thị trường
mở trong tương lai.
Về mặt giá trị thực tiễn: Trong khố luận của mình, tác giả đã có những trình
bày và phân tích các quy định pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở. Đây có thể là
tài liệu tham khảo cho người đọc có nhu cầu tìm hiểu những quy định pháp luật về
nghiệp vụ thị trường mở, đặc biệt là trên phương diện nghiên cứu khoa học.

Trang 3


Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở

8. Bố cục của khố luận
Ngồi phần Lời nói đầu, khố luận được thiết kế gồm hai chương:
Chương 1: Lý luận chung về nghiệp vu thị trường mở
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở và đề
xuất hoàn thiện.

Trang 4


Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ

1.1 Quá trình hình thành nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam
Ngân hàng ra đời như một tất yếu của lịch sử trước đòi hỏi trao đổi các nguồn
vốn tiền tệ và hoạt động thanh toán. Hoạt động ngân hàng tác động đến mọi mặt của
đời sống kinh tế xã hội, quyết định đến sự phồn thịnh của mỗi quốc gia. Chính vì sự
quan trọng này mà nhà nước thấy rằng cần phải quản lý hoạt động ngân hàng nhằm
thực hiện được những mục tiêu của nhà nước. Tại mỗi quốc gia, nhà nước xây dựng
những mơ hình ngân hàng trung ương đặc trưng theo điều kiện, hồn cảnh của quốc
gia mình để điều phối hoạt động lưu thông tiền tệ. Ở Việt Nam, ngân hàng trung
ương được hình thành với tên gọi là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có hai chức năng chính là quản lý nhà nước về
tiền tệ và hoạt động ngân hàng và chức năng ngân hàng trung ương. Ngân hàng Nhà
nước ln ở vị trí trọng tâm và đóng vai trị vô cùng quan trọng trong sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong từng thời kỳ, bằng những chính sách
về tiền tệ hợp lý nhằm đem lại sự ổn định và phát triển cho nền kinh tế.
Theo quy định tại điều 2 Luật Ngân hàng Nhà nước số 01/1997/QH10 ngày
26/12/1997 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam số 10/2003/QH11 ngày 26/06/2003 thì “Chính sách tiền tệ quốc gia
(CSTTQG) là một bộ phận của chính sách kinh tế, tài chính của nhà nước nhằm ổn
định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân”.
Trong khái niệm CSTTQG này, có sự mâu thuẫn giữa hai mục tiêu là kiềm chế
lạm phát và phát triển kinh tế - xã hội. Vì thực tế rằng, nếu trong trường hợp Nhà
nước đẩy mạnh kiềm chế lạm phát thì sẽ hạn chế sự phát triển kinh tế - xã hội và
ngược lại. Điều này có thể được lý giải như sau, khi lạm phát diễn ra đồng nghĩa với
việc đồng tiền Việt Nam bị mất giá, do khối lương hàng hóa trong lưu thơng ít hơn
khối lương tiền. Khi đó Nhà nước sẽ tìm cách để nâng giá tiền đồng Việt Nam lên.
Và đây chính là mục tiêu kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, một hệ quả kéo theo khi
đồng tiền nội tệ tăng giá là hoạt động xuất khẩu sẽ bị hạn chế - điều này là một

trong những nguyên nhân chính kìm hãm sự phát triển của kinh tế - xã hội. Do đó,
khái niệm CSTTQG đã có sự thay đổi và được ghi nhận tại điều 3 Luật Ngân hàng
Trang 5


Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở

Nhà nước Việt Nam số 46/2010/QH12 ngày 29/06/2010 “CSTTQG là các quyết
định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm quyết
định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định
sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra”.
Quy định mới này đã khắc phục được nhược điểm của luật cũ khi không đưa ra
những mục tiêu mẫu thuẫn lẫn nhau. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số
46/2010/QH12 đưa ra mục tiêu của CSTTQG là ổn định giá trị đồng tiền và biểu
hiện thông qua chỉ tiêu lạm phát. Đây là quy định phù hợp, sẽ góp phần đem lại hiệu
quả cho việc tổ chức thực thi chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Vì thực tế
rằng, một khi đã xác định rõ ràng mục tiêu cần hướng đến thì việc điều hành chính
sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước sẽ dễ dàng và chuyên sâu.
Mặc dù quy định về CSTTQG có sự khác nhau qua từng giai đoạn phát triển,
nhưng tựu chung lại thì bản chất vẫn khơng thay đổi. Bản chất của CSTTQG là
chính sách ổn định giá trị đồng tiền nhằm thực hiện các mục tiêu khác nhau của Nhà
nước qua các thời kỳ.
Để thực hiện CSTTQG, Ngân hàng Nhà nước sẽ thông qua việc chi phối, điều
tiết hoạt động bơm rút tiền nhằm tác động vào q trình lưu thơng tiền tệ và khối
lượng tiền trong lưu thông. CSTTQG biến đổi tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế. Khi
tình hình kinh tế ở giai đoạn suy thối thì cần có chính sách nới lỏng tiền tệ, khuyến
khích đầu tư, mở rộng sản xuất bằng cách cung ứng tiền vào lưu thông. Ngược lại,
khi nền kinh tế có dấu hiệu lạm phát thì cần phải thắt chặt CSTTQG nhằm hạn chế
đầu tư, kìm chế sự gia tăng quá nhanh giá trị làm mất giá đồng tiền. CSTTQG phải
đảm bảo cân đối tổng cung – cầu tiền tệ trong nền kinh tế.

Và để thực hiện những tác động trên, Ngân hàng Nhà nước sử dụng những công
cụ nhất định mà pháp luật cho phép, thông qua cách thức vận hành của những công
cụ này, Ngân hàng Nhà nước điều tiết được khối lượng tiền trong lưu thơng để thực
hiện chính sách tiền tệ. Như vậy, các công cụ mà Ngân hàng Nhà nước sử dụng có ý
nghĩa quyết định trong điều hành CSTTQG và qua đó giúp cho nền kinh tế đất nước
phát triển ổn định, bền vững. Cơ sở đầu tiên cho hoạt động của các cơng cụ điều
hành chính sách tiền tệ là Luật Ngân hàng Nhà nước số 01/1997/QH10 ngày
26/12/1997. Trong luật này, Quốc hội quy định các công cụ mà Ngân hàng Nhà
nước có thể sử dụng, chủ yếu gồm tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt
buộc, nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM). Tuy nhiên trên thực tế, đến thời điểm đầu
Trang 6


Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở

năm 2000 thì việc sử dụng các công cụ trên của Ngân hàng Nhà nước vẫn cịn rất
nhiều hạn chế, thậm chí cịn có cả cơng cụ chưa được đưa vào sử dụng, cụ thể là
NVTTM. Cơng cụ NVTTM chính thức hoạt động vào tháng 7/2000, mốc thời điểm
này được bản thân Ngân hàng Nhà nước đánh giá là cần thiết và hợp lý. Cụ thể,
trong Đề án triển khai NVTTM phê duyệt theo Quyết định số 340/1999/QĐNHNN14 ngày 30/9/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Nhà
nước đã nhận định:
Trong tình hình hiện nay việc điều hành chính sách tiền tệ đang được
chuyển dần từ phương pháp điều hành trực tiếp sang gián tiếp, đòi hỏi phải đưa vào
sử dụng các cơng cụ thích hợp. Một trong những cơng cụ được ngân hàng trung
ương các nước phát triển kinh tế thị trường sử dụng là NVTTM. Nền kinh tế Việt
Nam bước đầu đang hình thành những điều kiện khách quan và chủ quan để có thể
từng bước áp dụng điều hành chính sách tiền tệ bằng những cơng cụ gián tiếp, trong
đó có NVTTM.
Như vậy, NVTTM chính thức ra đời khi hội đủ những điều kiện khách quan
và chủ quan. Cụ thể như sau:

¾ Về điều kiện khách quan: Sự địi hỏi của Ngân hàng Nhà nước về một cơng
cụ điều hành CSTTQG hữu hiệu hơn nữa, khi mà những công cụ đang sử dụng tỏ ra
kém hiệu quả đối với những diễn biến của tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam.
Công cụ tái cấp vốn trong giai đoạn từ 1997- đầu năm 2000 vẫn còn ở mức ban đầu,
không thường xuyên, phạm vị hẹp, tập trung chủ yếu ở các Ngân hàng thương mại
quốc doanh (khoảng 90%)1. Cơng cụ dự trữ bắt buộc thì có những quy định làm hạn
chế khả năng điều hành CSTTQG của Ngân hàng Nhà nước, như việc khơng quy
định phải tính dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng2. Với quy
định này vơ hình chung Ngân hàng Nhà nước đã bỏ qua việc kiểm soát một khối
lượng lớn tiền tệ trong nền kinh tế, đó là lượng tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng tại
                                                            
1

Đề án triển khai NVTTM phê duyệt theo Quyết định số 340/1999/QĐ-NHNN14 ngày 30/9/1999 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước.

2

Quyết định 261/1995/QĐ-NH1 ngày 19/09/1995; Quyết định 135/1998/QĐ-NHNN ngày 01/04/1998;
Quyết định số 52/1999/QĐ-NHNN ngày 01/03/1999; Quyết định 191/1999/QĐ-NHNN1 ngày 31/05/1999 và
Quyết định 235/1999/QĐ-NHNN1 ngày 05/07/1999 của Ngân hàng Nhà nước về tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

Trang 7


Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở

các tổ chức tín dụng (TCTD). Và như vậy, hậu quả tất yếu là khả năng điều hành
chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước sẽ bị ảnh hưởng.
¾ Điều kiện chủ quan cho sự ra đời của NVTTM:

9
Thứ nhất, những căn cứ pháp lý đầu tiên cho sự ra đời của công cụ
NVTTM đã được Quốc hội, Ngân hàng Nhà nước quy định trong các văn bản pháp
luật như Luật Ngân hàng Nhà nước số 01/1997/QH10 ngày 26/12/1997; Luật các tổ
chức tín dụng số 07/1997/QH10 ngày 26/12/1997; Quy chế phát hành Tín phiếu
Ngân hàng Nhà nước do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành kèm theo Quyết
định số 211/QĐ-NH1 ngày 22/09/1994; Nghị định số 72/CP ngày 26/7/1994 của
Chính phủ về việc ban hành Quy chế phát hành Trái phiếu Chính phủ; Thông tư liên
Bộ Ngân hàng Nhà nước - Bộ Tài chính số 01/NHNN-TC ngày 10/02/1995 hướng
dẫn về việc phát hành Tín phiếu Kho bạc qua Ngân hàng Nhà nước; Quyết định của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế tổ chức đấu thầu Tín phiếu Kho
bạc qua Ngân hàng Nhà nước số 61/QĐ-NH19 ngày 08/3/1995.
9
Thứ hai, những kinh nghiệm tích luỹ được thơng qua những giao dịch
thực hiện trước đó, có mối liên quan với sự vận hành NVTTM như việc Ngân hàng
Nhà nước đã thực hiện và có kinh nghiệm trong giao dịch mua lại có thời hạn Trái
phiếu Kho bạc của Ngân hàng Công thương.
9
Thứ ba, việc hồn tất cơng tác chuẩn bị những yếu tố cần thiết cho sự
ra đời và hoạt động của NVTTM từ phía các chủ thể có trách nhiệm liên quan. Cụ
thể:

Một, để đảm bảo cho sự vận hành thành công của NVTTM, Ngân
hàng Nhà nước đã ban hành từ những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp tới hoạt
động NVTTM như Quy chế NVTTM được ban hành theo Quyết định số
85/2000/QĐ-NHNN14 ngày 09/3/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước; Quyết
định số 87/2000/QĐ-NHNN9 ngày 13/3/2000 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước
về việc thành lập Ban điều hành NVTTM; Quy định về việc đăng ký GTCG ngắn
hạn ban hành kèm theo Quyết định số 71/2000/QĐ-NHNN13 ngày 25/5/2000 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước; Quy chế quản lý vốn khả dụng được ban hành

theo Quyết định số 37/2000/QĐ-NHNN1 ngày 24/01/2000 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước. Và những văn bản liên quan khác như Quy chế về nghiệp vụ chiết

Trang 8


Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở

khấu, tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng theo Quyết
định 356/1999/QĐ-NHNN14 ngày 06/10/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước; Quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường nội tệ liên ngân hàng theo Quyết
định số 136 QĐ/NH2 ngày 20/7/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và Quy
chế tổ chức và hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo Quyết định số
101/1999/QĐ-NHNN13 ngày 26/3/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và
những văn bản hướng dẫn quy trình NVTTM như Quy trình NVTTM số
608/2000/QT-SGD ngày 08/5/2000 của Ngân hàng Nhà nước. Cho đến giai đoạn
hiện nay đã có những văn bản liên quan trực tiếp tới hoạt động NVTTM như Quyết
định số 01/2007/QĐ – NHNN ngày 05/01/2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước về Ban hành Quy chế NVTTM; Quyết định số 27/2008/QĐ – NHNN ngày
30/9/2008 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số
điều của Quy chế NVTTM ban hành kèm theo Quyết định số 01/2007/QĐ – NHNN
ngày 05/01/2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước; Công văn 10876/QT –
NHNN ngày 12/12/2008 của Ngân hàng Nhà nước về Quy trình NVTTM; Quyết
định số 11/2010/QĐ – NHNN ngày 06/01/2010 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước về Danh mục GTCG được sử dụng trong các giao dịch của Ngân hàng Nhà
nước.

Hai, Ngân hàng Nhà nước và các TCTD đã có sự chuẩn bị chu đáo về
cơ sở vật chất cho sự vận hành của NVTTM từ trang thiết bị máy móc như máy tính
nối mạng…đến việc thiết lập đội ngũ những người có thẩm quyền và năng lực tham

gia vào giao dịch thị trường mở.
NVTTM ra đời là sự đáp ứng những địi hỏi của tình hình thực tiễn, góp
phần tăng hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trong quá
khứ, hiện tại và cả tương lai.
1.2 Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở
Ngân hàng nhà nước sử dụng NVTTM để điều hành chính sách tiền tệ. Để việc
điều hành này hiệu quả đòi hỏi NVTTM trong phạm vi tác động của mình phải phù
hợp với tình hình thực tiễn, cũng như xu hướng vận động tương lai. Chính vì thế mà
trong thời gian qua, nhận thức về cơng cụ NVTTM có sự thay đổi, với mục đích

Trang 9


Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở

cuối cùng là nhằm nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Nhà nước.
Tại điều 9 Luật Ngân hàng Nhà nước số 01/1997/QH10 ghi nhận “NVTTM là
nghiệp vụ mua, bán giấy tờ có giá (GTCG) ngắn hạn do Ngân hàng Nhà nước thực
hiện trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện CSTTQG”.
Theo quy định trên, NVTTM là nghiệp vụ mà Ngân hàng Nhà nước sẽ tiến hành
giao dịch mua, bán với chỉ một đối tượng duy nhất, là các loại GTCG ngắn hạn, tức
các GTCG có thời hạn dưới 1 năm. Và với kỳ hạn giao dịch là không hạn chế, có
thể là ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn.
Đến Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam số 10/2003/QH11 tại điều 9, khái niệm về NVTTM có sự thay đổi “NVTTM
là nghiệp vụ mua, bán ngắn hạn các GTCG do Ngân hàng Nhà nước thực hiện trên
thị trường tiền tệ nhằm thực hiện CSTTQG”. Như vậy NVTTM lúc này vẫn là
nghiệp vụ mua, bán GTCG của Ngân hàng Nhà nước, tuy nhiên đối tượng thay đổi
theo hướng mở rộng hơn, với không chỉ các GTCG ngắn hạn mà cả những GTCG

trung hạn và dài hạn cũng được phép giao dịch trên thị trường này. Đồng thời với
đó, kỳ hạn giao dịch cũng thay đổi, nhưng theo chiều hướng thu hẹp hơn. Ngân
hàng Nhà nước chỉ thực hiện các giao dịch mua, bán ngắn hạn chứ không phải với
kỳ hạn không hạn chế như quy định trước. So với quy định của luật Ngân hàng Nhà
nước số 01/1997/QH10 thì quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 10/2003/QH11có những ưu điểm, cụ thể như
sau:
• Thứ nhất, với quy định NVTTM là việc mua, bán ngắn hạn các GTCG, đã
mở rộng đối tượng của NVTTM. Bởi lẽ, nếu như trước đây theo luật cũ, đối tượng
của NVTTM chỉ là các loại GTCG ngắn hạn, thì giờ đây theo luật mới đối tượng
này là tất cả các loại GTCG, mà khơng có sự phân biệt kỳ hạn là ngắn hay dài. Điều
này là vơ cùng cần thiết, góp phần đem lại hiệu quả cho công cụ NVTTM, bởi quy
định này đã tạo cho NVTTM một khối lượng hàng hóa - GTCG đa dạng hơn, phong
phú hơn, góp phần tạo sự linh hoạt, chủ động cho Ngân hàng Nhà nước, đặc biệt nó
tạo tính thanh khoản hơn cho thị trường mở.
• Thứ hai, với quy định thời hạn mua, bán GTCG là ngắn hạn làm cho các
TCTD năng động hơn trong việc sử dụng nguồn vốn của mình, khơng q ỷ lại vào

Trang 10


Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở

Ngân hàng Nhà nước trong NVTTM. Mặt khác, quy định này cũng tạo độ an toàn
hơn cho Ngân hàng Nhà nước khi thực hiện nghiệp vụ này, bởi lẽ, thời hạn mua bán
càng diễn ra lâu thì rủi ro mà Ngân hàng Nhà nước gặp phải càng cao. Cuối cùng, vì
bản chất và mục tiêu cuối cùng của CSTTQG là ổn định giá trị đồng tiền, do đó
Ngân hàng Nhà nước phải sử dụng các công cụ thực hiện CSTTQG như thế nào để
đạt mục tiêu này một cách nhanh nhất. Một trong các tiêu chí đánh giá hiệu quả tác
động của các cơng cụ đó là sự tác động trực tiếp hay gián tiếp, nhanh hay chậm vào

lưu lượng tiền trong lưu thơng từ đó làm thay đổi giá trị đồng tiền. Xuất phát từ lý
luận như vậy nên luật mới đã sửa đổi khái niệm NVTTM theo hướng rút ngắn lại
thời gian giao dịch các GTCG. Tuy nhiên quy định như vậy cũng có nhược điểm đó
là đối với các GTCG dài hạn thì việc mua, bán ngắn hạn các loại GTCG này tỏ ra
khơng hiệu quả. Chính vì thế mà gần đây nhất, theo Luật Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam số 46/2010/QH12 của Quốc hội ngày 29/06/2010, tại Điều 15 thì khái niệm
NVTTM đã được sửa đổi như sau:
“Ngân hàng Nhà nước thực hiện NVTTM thông qua việc mua, bán GTCG đối
với tổ chức tín dụng”. Đây là một quy định ban hành theo hướng mở rộng hoàn toàn
phạm vi của NVTTM. Bởi lẽ về đối tượng giao dịch không có bất cứ một sự giới
hạn nào, mà tất cả các loại GTCG dù là GTCG ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn, đều
được xem là hàng hoá của NVTTM. Đồng thời kỳ hạn giao dịch bao gồm tất cả các
giao dịch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Bên cạnh đó, quy định khái niệm NVTTM
là khá rõ ràng và đi thẳng vào trọng tâm vấn đề, giúp cho việc nhận diện cơng cụ
NVTTM được dễ dàng và chính xác. Cụ thể, nhà làm luật đã xác định rõ đối tác của
Ngân hàng Nhà nước trong giao dịch thị trường mở là các TCTD, điều này là chưa
được đề cập trong các quy định trước đây. Tuy nhiên, quy định mới về NVTTM lại
có sự mâu thuẫn với Quy chế NVTTM ban hành kèm theo Quyết định số
01/2007/QĐ – NHNN ngày 05/01/2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Tại
điều 2 Quy chế NVTTM ghi nhận “NVTTM là việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện
mua, bán ngắn hạn các loại GTCG với các TCTD”. Đây là cách hiểu về NVTTM
của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số
10/2003/QH11. Và theo nguyên tắc thì Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số
46/2010/QH12 của Quốc hội ngày 29/06/2010 với hiệu lực pháp lý cao hơn sẽ được
áp dụng. Cách hiểu này phù hợp với xu hướng mở rộng phạm vi tác động của

Trang 11


Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở


NVTTM trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước trong giai
đoạn hiện nay.
Thông qua việc mua, bán GTCG trên thị trường mở, Ngân hàng Nhà nước có
thể tác động đến khối lượng tiền trong lưu thơng nhằm mục đích ổn định giá trị
đồng tiền. Cụ thể là nếu xảy ra lạm phát, lượng tiền dư thừa, Ngân hàng Nhà nước
sẽ phải giảm lượng tiền trong lưu thông bằng cách là Ngân hàng Nhà nước sẽ bán
GTCG trên thị trường mở. “Giá bán” hấp dẫn sẽ khiến các TCTD mua vì có lợi hơn
là cho vay. Khi đó dự trữ tiền tệ của TCTD giảm xuống làm cho khả năng cho vay
ra của TCTD cũng sẽ giảm theo tương ứng, điều này làm cho lượng tiền trong lưu
thông giảm. Và ngược lại, khi nền kinh tế có dấu hiệu trì trệ, hoặc suy thoái Ngân
hàng Nhà nước sẽ mua GTCG của các TCTD với giá hợp lý và có thể là cao để gia
tăng khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Lúc này dự trữ tiền tệ của các TCTD
sẽ tăng lên và khả năng cho vay cũng tăng lên, điều này làm cho khối lượng tiền
trong lưu thông tăng lên.
Trong mối tương quan với các công cụ điều hành CSTTQG khác thì NVTTM
với cách tác động riêng của mình, được xem là khá hiệu quả và là ưu tiên số của
Ngân hàng trung ương ở nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, NVTTM cũng được đánh
giá là công cụ tối ưu nhất mà Ngân hàng Nhà nước có thể sử dụng để điều hành
Chính sách tiền tệ. Mặt khác trong tương lai không xa, khi Ngân hàng Nhà nước
đẩy mạnh việc điều hành Chính sách tiền tệ bằng cơng cụ vận hành mang đậm tính
thị trường hơn, thì NVTTM lại càng hiệu quả. Cụ thể so với các cơng cụ điều hành
CSTTQG khác thì NVTTM có những ưu điểm nối bật sau:
• Thứ nhất, NVTTM được xem là công cụ hữu hiệu nhất trong điều hành
CSTTQG. Điều này được lý giải do cơ sở pháp lý để thực hiện NVTTM là hợp
đồng3. Tức NVTTM vận hành không xuất phát từ quyền lực mang tính hành chính
của Ngân hàng Nhà nước như công cụ dự trữ bắt buộc, mà để thực hiện NVTTM
địi hỏi phải có sự phối hợp tự nguyện của các TCTD. Nhu cầu của các TCTD là
yếu tố khách quan của thị trường, vì thế Ngân hàng Nhà nước phải điều hành
NVTTM theo đòi hỏi của thị trường sao cho phù hợp nhất. Đây thật sự là mong

muốn và hướng đến của Ngân hàng Nhà nước trong việc sử dụng các công cụ để
                                                            
3

/>
Trang 12


Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở

điều hành CSTTQG. Vì điều hành theo tín hiệu của thị trường là việc điều hành
chính xác và thành cơng nhất. Tái cấp vốn cũng là cơng cụ mang tính hợp đồng.
Tuy nhiên, cơng cụ này lại có nhiều khuyết điểm hơn NVTTM như là cơng cụ có
“tính một chiều” tức chỉ tác động nhằm tăng lượng tiền trong lưu thông; lãi suất tái
cấp vốn là lãi suất ấn định của Ngân hàng Nhà nước nên khơng mang tính thị
trường, điều này là một khuyết điểm mà trong xu hướng vận động, phát triển của
các cơng cụ điều hành chính sách tiền tệ cần được hạn chế; trong công cụ tái cấp
vốn Ngân hàng Nhà nước không thể chủ động được thời điểm áp dụng hoặc khối
lượng tiền tệ có thể điều chỉnh, vì điều này cịn phụ thuộc vào bản thân các TCTD
có nhu cầu tham gia vào giao dịch tái cấp vốn hay khơng. Đồng thời với đó, lãi suất
NVTTM thường cao hơn lãi suất tái cấp vốn nên NVTTM có khả năng thu hút được
nhiều TCTD tham gia.
• Thứ hai, NVTTM tự nó có thể kiểm sốt được tồn bộ khối lượng tiền tệ
trong lưu thông mà công cụ này cần phải tác động vào nhằm đem lại sự thành cơng
cho việc điều hành chính sách tiền tệ. Điều này có thể được lý giải như sau: Cơ sở
để Ngân hàng Nhà nước sử dụng NVTTM tác động theo hướng tăng hoặc giảm
khối lượng tiền tệ trong lưu thông khi thực hiện CSTTQG là dựa trên dự báo vốn
khả dụng của các TCTD là thành viên NVTTM; nhu cầu mua, bán GTCG của các
TCTD; khối lượng GTCG mua, bán giữa các TCTD. Những thông tin này sẽ giúp
Ngân hàng Nhà nước kiểm soát được khối lượng tiền tệ trong lưu thông cần phải

điều tiết. Tuy nhiên, những cơ sở mà Ngân hàng Nhà nước phải dựa vào này chỉ
thật sự đáng tin cậy khi khối lượng tiền tệ các TCTD nắm giữ có một tiếng nói thật
sự. Điều này hồn toàn được minh chứng khi Ngân hàng Nhà nước hiện nay vẫn
đang nhận định rằng các TCTD là một bộ phận chủ yếu của hệ thống tài chính, nơi
nắm giữ một khối lượng tiền tệ vô cùng lớn của nền kinh tế. Việc kiểm soát này
ngày càng tốt khi trong giai đoạn hiện nay, số lượng các TCTD tham gia NVTTM
ngày càng nhiều hơn. Trong khi đó hành vi kiểm sốt này khơng thể có được với
các cơng cụ khác như dự trữ bắt buộc. Công cụ dự trữ bắt buộc tự nó khơng phản
ánh được tồn bộ dự trữ của hệ thống các TCTD. Vì dự trữ bắt buộc chỉ áp dụng đối
với các TCTD có thực hiện hoạt động nhận tiền gửi của khách hàng. Vì thế con số
dự trữ bắt buộc chỉ phản ánh được một phần khối lương tiền tệ mà các TCTD này
thật sự nắm giữ. Đó chỉ là khối lượng tiền được xem là hàng hố của thị trường tiền
tệ. Như vậy cịn có một khối lượng tiền tệ là hàng hoá của thị trường vốn các TCTD
Trang 13


Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở

này nắm giữ khơng được phản ánh. Vì vậy, có thể khẳng định rằng nếu sử dụng
công cụ dự trữ bắt buộc, Ngân hàng Nhà nước sẽ khơng kiểm sốt được khối lượng
tiền trong lưu thơng.
• Thứ ba, NVTTM có thể khắc phục được “tính một chiều” của cơng cụ tái cấp
vốn và dự trữ bắt buộc. “Tính một chiều” thể hiện thơng qua việc công cụ tái cấp
vốn chỉ tác động làm tăng lượng tiền trong lưu thơng, cịn cơng cụ dự trữ bắt buộc
thì có tác dụng ngược lại, khi chỉ làm giảm lượng tiền trong lưu thơng. Trong khi đó
thơng qua việc mua, bán GTCG, NVTTM có thể tác động theo cả hai chiều là làm
tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thơng.
• Thứ tư, với NVTTM, khối lượng tiền tệ trong lưu thông cần điều chỉnh trong
mỗi lần giao dịch có thể nhiều hoặc ít. Cụ thể, nếu Ngân hàng Nhà nước muốn điều
chỉnh một khối lượng lớn hay nhỏ tiền tệ trong lưu thơng thì chỉ cần thực hiện việc

mua hoặc bán một khối lượng GTCG lớn hoặc nhỏ tương ứng, điều này dễ dàng
thực hiện được. Đồng thời chi phí để thực hiện các giao dịch NVTTM, đặc biệt
trong các giao dịch điều chỉnh những thay đổi nhỏ là rất hợp lý, vì quy trình thực
hiện đơn giản và không quá tốn kém. Điều này khắc phục được nhược điểm của các
công cụ dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn khi điều chỉnh những thay đổi nhỏ vì tốn kém
về chi phí quản lý…và nhìn chung là khơng khả thi.
• Thứ năm, khi sử dụng cơng cụ NVTTM, Ngân hàng Nhà nước sẽ dễ dàng
đảo ngược được tình thế khi có quyết định sai lầm. Cụ thể, nếu Ngân hàng Nhà
nước thấy rằng cung ứng tiền tệ quá nhanh do việc mua quá nhiều GTCG trên thị
trường mở thì Ngân hàng Nhà nước có thể sửa chữa ngay bằng cách bán GTCG
thông qua NVTTM để thu hồi lại số tiền thừa trong cung ứng.
• Thứ sáu, với một quy trình thực hiện mang tính tự động cao, việc mua, bán
GTCG trong NVTTM có thể được tiến hành và hồn thành nhanh chóng, khơng gây
nên những chậm trễ về mặt hành chính. Khi muốn thay đổi cơ số tiền tệ hoặc dự trữ,
Ngân hàng Nhà nước có thể quyết định và thực hiện ngay trong phiên giao dịch.
• Và cuối cùng, với mức lãi suất NVTTM hợp lý trong tương quan so sánh với
lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cho vay của các TCTD, Ngân hàng Nhà nước sẽ
thuận lợi trong việc sử dụng NVTTM để điều hành chính sách tiền tệ. Cụ thể, trong
trường hợp Ngân hàng Nhà nước muốn rút bớt tiền trong lưu thơng thì sử dụng lãi
suất NVTTM ở mức cao hơn lãi suất cho vay của các TCTD và thấp hơn lãi suất tái

Trang 14


Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở

cấp vốn. Và ngược lại, nếu Ngân hàng Nhà nước muốn bơm tiền vào lưu thơng thì
lãi suất NVTTM được sử dụng phải cao hơn lãi suất tái cấp vốn và thấp hơn lãi suất
cho vay.
Tuy nhiên, ngồi những ưu điểm thì trong q trình vận hành NVTTM cũng có

những hạn chế nhất định. Và đây là những hạn chế chung của công cụ theo cơ chế
hợp đồng:
™
Thứ nhất, các tác động của NVTTM đến khối lượng tiền lưu thơng có
thể bị triệt tiêu bởi các tác động ngược chiều làm cho dự trữ của hệ thống các TCTD
không tăng hoặc giảm tương ứng theo ý muốn của Ngân hàng Nhà nước khi thực
hiện mua, bán GTCG trên thị trường mở. Trên thực tế, các hoạt động mua GTCG
của Ngân hàng Nhà nước nhằm bơm thêm vốn khả dụng có thể bị triệt tiêu một
phần hoặc toàn bộ do mất cân đối trong cán cân thanh tốn. Khi có sự mất cân đối
trong cán cân thanh toán, mà cụ thể trong trường hợp trên cán cân thanh toán biểu
hiện các khoản phải chi lớn hơn các khoản thu, tức tình trạng thiếu ngoại tệ đang
diễn ra. Lúc này, trên thị trường ngoại tệ sẽ diễn ra hoạt động bán ngoại tệ để thu về
nội tệ, tức khối lượng nội tệ trong lưu thông sẽ giảm xuống. Và như thế việc Ngân
hàng Nhà nước thực hiện việc mua GTCG nhằm tăng khối lượng tiền trong lưu
thông trong thời điểm này sẽ bị triệt tiêu, có thể là một phần hoặc tồn bộ tuỳ vào
diễn biến của tình hình cụ thể.
™
Thứ hai, khả năng phát huy hiệu quả của NVTTM không chỉ phụ
thuộc vào Ngân hàng Nhà nước, mà cịn bị chi phối bởi mơi trường kinh tế vĩ mô,
hành vi của công chúng và các quyết định của các TCTD. Chẳng hạn khi lãi suất thị
trường giảm xuống như là kết quả tất yếu của sự tăng lên của khối lượng tiền trong
lưu thông, khơng phải lúc nào tín dụng cho nền kinh tế cũng tăng lên tương ứng.
Điều này còn phụ thuộc vào khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, mức độ rủi ro và
ổn định môi trường đầu tư. Việc sử dụng lượng dự trữ dư thừa cho mục tiêu tín
dụng khơng chỉ phụ thuộc vào quyết định của các TCTD mà còn phụ thuộc nhiều
yếu tố khác.
Mặc dù còn tồn tại những khuyết điểm, nhưng đây không thuộc về bản chất
của công cụ NVTTM mà là yếu tố khách quan trong q trình vận động, phát triển
của chính nền kinh tế. Vì vậy, nếu trong quá trình hoạt động, công cụ NVTTM
không đem lại những kết quả như mong đợi thì đấy khơng phải do cơng cụ này

khơng khả dĩ, mà đòi hỏi ở đây một sự phát triển toàn diện của nền kinh tế.
Trang 15


Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở

1.3 Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở
1.3.1 Về mặt lượng - Tác động vào dự trữ của các tổ chức tín dụng
Hành vi mua, bán các GTCG trên thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước có
khả năng ảnh hưởng ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của các TCTD thông qua
ảnh hưởng đến tiền gửi của các TCTD tại Ngân hàng Nhà nước. Khi Ngân hàng
Nhà nước thực hiện bán GTCG cho các TCTD thì tiền gửi của các TCTD tại Ngân
hàng Nhà nước sẽ giảm xuống tương ứng với khối lượng GTCG mà Ngân hàng Nhà
nước bán ra. Kết quả là dự trữ của các TCTD giảm sút tương ứng với khối lượng
GTCG mà Ngân hàng Nhà nước bán ra. Sự giảm sút này làm giảm khả năng cho
vay của các TCTD và vì thế khối lượng tín dụng giảm, dẫn đến cung tiền trong lưu
thơng sẽ giảm tương ứng. Ngược lại, khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện mua
GTCG trên thị trường mở, kết quả làm dự trữ của các TCTD tăng lên, từ đó làm
tăng khối lượng tín dụng của các TCTD và cung tiền trong lưu thông sẽ được tăng
lên tương ứng.
Như vậy, khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện NVTTM sẽ tác động đến dự trữ
của các TCTD, làm ảnh hưởng đến khối lượng tín dụng, từ đó ảnh hưởng đến khối
lượng tiền cung ứng.
1.3.2 Về mặt giá – Tác động qua lãi suất
Hành vi mua, bán GTCG của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường mở có thể
ảnh hưởng gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua hai con đường sau:
Thứ nhất, khi dự trữ của các TCTD bị ảnh hưởng, nó tác động đến cung –
cầu vốn trên thị trường, một khi cung – cầu vốn thay đổi sẽ kéo theo lãi suất trên thị
trường thay đổi theo. Cụ thể như sau, nếu Ngân hàng Nhà nước mua GTCG trên thị
trường mở, dự trữ của các TCTD sẽ tăng, từ đó cung tiền tệ trên thị trường sẽ tăng

làm cho lãi suất trên thị trường sẽ giảm. Và ngược lại, nếu Ngân hàng Nhà nước bán
GTCG trên thị trường mở thì sẽ làm cho lãi suất trên thị trường tăng lên.
Thứ hai, việc mua, bán GTCG sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung –
cầu về loại GTCG đó trên thị trường mở và do đó tác động đến giá cả của loại
GTCG này. Khi giá GTCG thay đổi, tỷ lệ sinh lời của của chúng cũng thay đổi theo.
Nếu đó là loại GTCG chiếm tỷ trọng lớn trong giao dịch trên thị trường tài chính thì
sự thay đổi tỷ lệ sinh lời của nó sẽ tác động trở lại lãi suất thị trường.

Trang 16


Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở

1.4 Vai trò của nghiệp vụ thị trường mở
1.4.1 Đối với Ngân hàng Nhà nướcViệt Nam
Để thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, Ngân hàng Nhà nước xây
dựng và thực thi các công cụ CSTTQG nhằm bơm, rút tiền trong lưu thơng theo tín
hiệu của thị trường. Trong đó, NVTTM là công cụ thực hiện CSTTQG quan trọng
nhất tại nhiều quốc gia và cả ở Việt Nam. Thông qua việc mua, bán GTCG tại thị
trường mở, Ngân hàng Nhà nước có thể bơm hoặc rút khối lượng tiền tệ trong lưu
thông và tác động một cách tốt nhất đến lượng tiền cung ứng. Như vậy, NVTTM đã
tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước hạn chế sử dụng các công cụ mang tính trực
tiếp trong điều hành CSTTQG như hạn mức tín dụng, lãi suất, tỷ giá.
1.4.2 Đối với các tổ chức tín dụng
Hoạt động kinh doanh của các TCTD trong cơ chế thị trường ngày càng đa
dạng dẫn đến hoạt động quản lý và sử dụng vốn khả dụng cần phải chủ động và linh
hoạt hơn. Vì vậy vấn đề đặt ra đối với các TCTD là làm thế nào để sử dụng vốn linh
hoạt, hiệu quả và giải quyết được khó khăn tạm thời hoặc dài hạn về vốn, khơng gây
ách tắc trong thanh tốn cũng như đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tín dụng. Thơng qua
NVTTM các TCTD có thể huy động được khối lượng tín dụng mà mình cần. Đồng

thời, xuất phát từ quy chế của NVTTM, tức các ngân hàng tự nguyện tham gia thực
hiện theo các ngun tắc thị trường, khơng mang tính bắt buộc và cũng khơng có
tác động như một hình thức “đánh thuế” đối với hoạt động của các TCTD như dự
trữ bắt buộc, lãi suất trên thị trường mở cũng mang tính thị trường chứ khơng bị áp
đặt như trong công cụ chiết khấu GTCG của Ngân hàng Nhà nước. Và hàng hoá
trên thị trường mở thường là các GTCG có tính thanh khoản và độ an tồn rất cao
nên rất thuận lợi cho các TCTD khi tham gia giao dịch trên thị trường mở với Ngân
hàng Nhà nước.
Ngoài ra, NVTTM sẽ gián tiếp thay đổi danh mục đầu tư GTCG, góp phần
đa dạng hố các nghiệp vụ kinh doanh, từ đó cải thiện theo hướng tích cực cơ cấu
sử dụng vốn, làm giảm dự trữ không sinh lợi của các TCTD.
1.4.3 Đối với nền kinh tế
Thông qua việc phát hành, mua, bán GTCG trên thị trường mở, các chủ thể
của thị trường mở đã làm tăng thêm tính thanh khoản cho các GTCG này. Điều này

Trang 17


Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở

góp phần thúc đấy các thị trường tài chính phát triển. Từ đó, tạo điều kiện cho các
trung gian tài chính thu hút vốn trong nền kinh tế để phát triển đời sống kinh tế xã
hội.
Đồng thời, việc Ngân hàng Nhà nước sử dụng thành cơng cơng cụ NVTTM
để điều hành chính sách tiền tệ đã góp phần quan trọng vào sự ổn định và phát triển
của nền kinh tế đất nước.
1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế vận hành của nghiệp vụ thị trường mở
1.5.1 Nhân tố khách quan
1.5.1.1 Trình độ phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn và các cơng cụ
thực hiện Chính sách Tiền tệ Quốc gia khác

NVTTM là cơng cụ có tính chất tự nguyện theo các ngun tắc thị trường.
Chính vì vậy, hoạt động NVTTM không chỉ phụ thuộc vào Ngân hàng Nhà nước
mà cịn bị chi phối bởi mơi trường kinh tế vĩ mô, sự tham gia thị trường và nhu cầu
giao dịch của các TCTD.
Các TCTD tham gia NVTTM nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản và mục
tiêu lợi nhuận từ việc kinh doanh GTCG. Để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của
mình, các TCTD có thể thực hiện việc bán GTCG, vay từ tổ chức tài chính - tín
dụng khác hoặc vay từ Ngân hàng Nhà nước. Khả năng tìm kiếm các nguồn vốn
khác của các TCTD phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển của thị trường tiền tệ,
thị trường vốn quốc gia. Chính vì vậy nếu các TCTD có thể đáp ứng được nhu cầu
thanh khoản của mình trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn hoặc thông qua các
công cụ khác như lãi suất tái cấp vốn ưu đãi hơn lãi suất của việc tham gia
NVTTM… thì việc giao dịch NVTTM tại Ngân hàng Nhà nước sẽ giảm xuống, làm
cho khả năng tác động của NVTTM sẽ bị hạn chế.
1.5.1.2 Hàng hoá thị trường mở do Ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng
nắm giữ
Để tham gia thị trường mở, nhất là khi cần bổ sung nguồn vốn, các TCTD
phải nắm giữ một lượng hàng hoá nhất định cả về số lượng và chủng loại phù hợp
với điều kiện và nhu cầu giao dịch của Ngân hàng Nhà nước. Chỉ khi các hàng hoá

Trang 18


Pháp luật về nghiệp vụ thị trường mở

nắm giữ của các TCTD phù hợp với nhu cầu giao dịch của Ngân hàng Nhà nước thì
các TCTD mới có thể tham gia giao dịch với Ngân hàng Nhà nước được. Và điều
ngược lại cũng vậy, khi Ngân hàng Nhà nước cần bán các GTCG thì muốn đạt được
thành cơng cho NVTTM thì hàng hố mà Ngân hàng Nhà nước nắm giữ cũng phải
đa dạng và đặc biệt là phải có khả năng sinh lời cao.

Đồng thời với đó, nếu danh mục GTCG được chấp thuận sử dụng trong giao
dịch NVTTM càng đa dạng thì các TCTD cũng có thêm sự lựa chọn trong cơ cấu
đầu tư GTCG nhằm đảm bảo tính thanh khoản và khả năng sinh lợi.
1.5.2 Nhân tố chủ quan
1.5.2.1 Dự báo về vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng
Với vai trị tổ chức, xây dựng và điều hành các hoạt động NVTTM, trên cơ
sở dự báo tình hình vốn khả dụng của các TCTD, Ngân hàng Nhà nước quyết định
thời điểm, khối lượng chào mua, chào bán GTCG, thời hạn và phương thức giao
dịch NVTTM nhằm đạt được mục đích trong điều chỉnh khối lượng tiền tệ trong lưu
thông nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế.
Khi dự báo vốn khả dụng dư thừa, Ngân hàng Nhà nước sẽ thực hiện các
phiên chào bán các GTCG trên thị trường mở nhằm hấp thụ vốn khả dụng dư thừa
đó. Trường hợp dự báo vốn khả dụng thiếu hụt thì Ngân hàng Nhà nước sẽ thực
hiện chào mua các GTCG để cung ứng vốn cho các TCTD. Vì vậy, việc quyết định
thực hiện các phiên giao dịch NVTTM và kết quả giao dịch NVTTM phụ thuộc rất
nhiều vào độ chính xác của việc dự báo vốn khả dụng của các TCTD. Nếu việc dự
báo vốn khả dụng của Ngân hàng Nhà nước phù hợp với thực tế diễn biến thị
trường thì khả năng tham gia phiên giao dịch của các TCTD sẽ cao hơn. Nếu dự báo
sai và ngược chiều thì kết quả giao dịch NVTTM sẽ khơng cao.
1.5.2.2 Các quy định về nghiệp vụ thị trường mở
Trong sự vận động và phát triển của đời sống kinh tế - xã hội và cho đến thời
điểm hiện tại, pháp luật - yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, được xem là khuôn
khổ pháp lý cho hoạt động của tất cả các chủ thể trong xã hội và NVTTM cũng
không là ngoại lệ. NVTTM ra đời, hoạt động và phát triển thơng qua các quy định
của cơ quan có thẩm quyền. Cụ thể như các quy định về phạm vi thị trường, hàng
hoá, chủ thể của thị trường, phương thức giao dịch… của NVTTM, cũng như các

Trang 19



×