Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Pháp luật về phát triển dịch vụ môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (948.69 KB, 56 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
-------

NGUYỄN MỸ LINH

PHÁP LUẬT
VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MÔI TRƢỜNG

CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƢƠNG MẠI

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
-------

PHÁP LUẬT
VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MÔI TRƢỜNG

CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƢƠNG MẠI

Sinh viên thực hiện: NGUYỄN MỸ LINH
Khóa: K38
MSSV: 1353801011104
Giảng viên hƣớng dẫn: ThS. TRẦN THỊ TRÚC MINH

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017




LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
đƣợc thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của ThS. Trần Thị Trúc Minh, đảm
bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham
khảo. Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả

Nguyễn Mỹ Linh


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT
BVMT
CNMT
DVMT
DN
Luật BVMT 2014
Nghị định số 19/2015/NĐ-CP
Nghị định số 15/2015/NĐ-CP

NỘI DUNG ĐƢỢC VIẾT TẮT
Bảo vệ môi trƣờng
Công nghiệp môi trƣờng
Dịch vụ môi trƣờng
Doanh nghiệp
Luật Bảo vệ môi trƣờng 2014
Nghị định số 19/2015/NĐ-CP quy định

chi tiết thi hành một số điều của Luật
Bảo vệ môi trƣờng
Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tƣ
theo hình thức đối tác công tƣ


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DỊCH VỤ MÔI TRƢỜNG ...................... 7
1.1. Khái niệm về dịch vụ môi trƣờng ......................................................................... 7
1.1.1.Khái niệm ......................................................................................................... 7
1.1.2.Phân loại......................................................................................................... 10
1.2. Đặc điểm của dịch vụ môi trƣờng ...................................................................... 14
1.2.1.Dịch vụ mơi trƣờng là hàng hóa, dịch vụ phi thị trƣờng ............................... 14
1.2.2.Dịch vụ mơi trƣờng là một loại hình dịch vụ công cộng ............................... 15
1.3.Tầm quan trọng của dịch vụ môi trƣờng đối với phát triển bền vững .............. 16
1.4. Kinh nghiệm của các nƣớc trong phát triển dịch vụ môi trƣờng và những vấn đề
đặt ra đối với Việt Nam ............................................................................................. 19
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................ 24
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ MÔI TRƢỜNG TẠI VIỆT NAM ....................... 25
2.1. Thực trạng phát triển dịch vụ môi trƣờng tại Việt Nam ..................................... 25
2.1.1.Chủ thể cung ứng dịch vụ môi trƣờng ........................................................... 25
2.1.2.Các loại hình doanh nghiệp dịch vụ mơi trƣờng............................................ 27
2.1.3.Cơ chế thành lập doanh nghiệp dịch vụ môi trƣờng đƣợc Nhà nƣớc khuyến
khích thực hiện theo Luật Bảo vệ môi trƣờng 2014 ............................................... 29
2.1.4.Điều kiện kinh doanh các ngành nghề dịch vụ mơi trƣờng ........................... 32
2.1.5.Chính sách ƣu đãi, hỗ trợ của Nhà nƣớc nhằm phát triển dịch vụ mơi
trƣờng ...................................................................................................................... 34
2.2. Giải pháp hồn thiện pháp luật về phát triển dịch vụ môi trƣờng tại Việt

Nam ........................................................................................................................... 42
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................ 47
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 48
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Môi trƣờng là khơng gian sinh sống và tồn tại của lồi ngƣời và các sinh vật.
Nó khơng chỉ là nơi cung cấp, chứa đựng các tài nguyên phục vụ cho đời sống, sinh
hoạt của con ngƣời mà cũng là nơi chứa đựng chất thải do chính con ngƣời thải ra
thơng qua những hoạt động sống đó. Có thể thấy đƣợc tác động mạnh mẽ của con
ngƣời thông qua những hoạt động khai thác tài nguyên, phát thải hay đơn giản chỉ là
những hành vi nhỏ của từng cá nhân trên Trái đất nhƣ chặt cây, phá rừng, xả rác…
Xu hƣớng của sự vận động là phát triển. Con ngƣời cũng vậy, từ xƣa đến nay,
lồi ngƣời vẫn ln ln tìm mọi cách để phát triển hơn về mọi mặt, cả về kinh tế,
xã hội, trí tuệ, thể chất. Nhƣng xu hƣớng phát triển của con ngƣời trƣớc giờ vẫn
thƣờng phải dựa vào mơi trƣờng hoặc phải tác động lên nó. Việc tác động một cách
thƣờng xuyên, tiêu cực có thể làm cho môi trƣờng vƣợt quá “sức tải” và khi đã quá
khả năng chịu đựng của mình, mơi trƣờng đƣơng nhiên cũng sẽ có những tác động
ngƣợc lại đến con ngƣời theo một cách tiêu cực nhất.
Trƣớc xu hƣớng đó, con ngƣời ln tìm cách để dung hịa đƣợc giữa sự phát
triển và hoạt động bảo vệ môi trƣờng (BVMT) để đảm bảo đƣợc sự “phát triển bền
vững” cho tƣơng lai. Và hiện nay, việc bảo vệ môi trƣờng không chỉ đơn thuần là
giúp cho môi trƣờng trở nên “xanh – sạch – đẹp” hơn mà cũng có thể tạo ra nhƣng
giá trị về kinh tế nhất định. Khai thác các giá trị kinh tế từ việc bảo vệ môi trƣờng
đã và đang dần trở thành xu thế chung không chỉ trên thế giới mà cịn ở Việt Nam
và đó cũng là tiền đề cho ngành dịch vụ môi trƣờng (DVMT) phát triển.
Có thể thấy, dịch vụ mơi trƣờng đang là vấn đề thƣờng xuyên đƣợc đƣa ra thảo

luận tại các vòng đàm phán, hiệp định hợp tác thƣơng mại hiện nay. Tại vòng đàm
phán DOHA, vấn đề liên quan đến dịch vụ môi trƣờng cũng đã đƣợc đƣa ra thảo
luận, trong đó xác định một trong các nhiệm vụ chính khi đàm phán trong lĩnh vực
thƣơng mại và môi trƣờng là thực hiện cắt giảm và tiến tới xóa bỏ hàng rào thuế
quan và phi thuế quan đối với hàng hóa dịch vụ mơi trƣờng. Theo đó, các thành
viên WTO cũng sẽ đi đến việc xây dựng cơ chế phối hợp xử lý các vấn đề liên quan
đến hàng hóa, dịch vụ môi trƣờng tại WTO với các nội dung quy định trong các
hiệp định đa phƣơng về môi trƣờng (MEAs) mà các nƣớc thành viên đã phê chuẩn.
Tại Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dƣơng (TPP) – hiệp định đƣợc xem
là một FTA thế hệ mới cũng dành ra hẳn một chƣơng riêng là Chƣơng 20 về Môi

1


trƣờng quy định các điều khoản tập trung vào các lĩnh vực liên quan đến mơi
trƣờng, trong đó có dịch vụ môi trƣờng.
Tại Việt Nam, nhận thức đƣợc tầm quan trọng và giá trị tiềm năng của hàng
hóa dịch vụ môi trƣờng, nhằm đi đến mục tiêu “phát triển bền vững” và theo kịp với
xu thế phát triển hiện nay trên thế giới, Đảng và Nhà nƣớc ta đã liên tục có những
chính sách và đề án nhằm phát triển ngành dịch vụ này nhƣ Đề án phát triển dịch vụ
mơi trƣờng đến năm 2020 đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt năm 2010; Đề án
phát triển mạng lƣới doanh nghiệp (DN) dịch vụ mơi trƣờng đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030 và Khung chính sách, pháp luật về phát triển dịch vụ mơi trƣờng
đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt năm 2016. Cụ thể cho việc đề cao tầm quan
trọng của phát triển ngành dịch vụ này chính là nội dung quy định tại Điều 150 Luật
Bảo vệ môi trƣờng 2014 (Luật BVMT 2014) về phát triển dịch vụ mơi trƣờng:
“Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân thành lập doanh nghiệp dịch vụ mơi
trường thơng qua hình thức đấu thầu, cơ chế hợp tác công tư”. Đây là những khung
pháp lý nền tảng, là cơ sở cho ngành dịch vụ môi trƣờng đi đến phát triển ở nƣớc ta
nhƣ ngày nay.

Nhìn chung, ngành dịch vụ mơi trƣờng hiện nay đang đƣợc chú trọng phát
triển ở các quốc gia trên thế giới, bao gồm cả Việt Nam. Phát triển ngành dịch vụ
môi trƣờng không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho quốc gia mà cịn góp phần cải
thiện đáng kể chất lƣợng mơi trƣờng. Có thể nói, dịch vụ môi trƣờng khi đƣợc quan
tâm, đầu tƣ đúng mức sẽ mang đến sự phát triển toàn diện và bền vững.
Xác định đƣợc tầm quan trọng của dịch vụ môi trƣờng đối với vấn đề phát
triển bền vững của nền kinh tế cũng nhƣ giá trị tiềm năng khi phát triển của loại
hình dịch vụ này ở Việt Nam, tác giả đã quyết định chọn nghiên cứu đề tài “Pháp
luật về phát triển dịch vụ mơi trƣờng” làm Khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dịch vụ môi trƣờng không phải là một ngành mới ở Việt Nam. Tuy nhiên, vì
chƣa đƣợc chú trọng đầu tƣ nên vẫn chƣa có nhiều bài viết nghiên cứu về lĩnh vực
này. Các báo cáo, đề tài, cơng trình nghiên cứu khoa học chủ yếu vẫn giới hạn phạm
vi rất nhỏ liên quan đến từng lĩnh vực cụ thể của dịch vụ mơi trƣờng chứ chƣa hề có
một bài viết nào đề cập trực tiếp đến các vấn đề pháp lý liên quan đến việc phát
triển chung cho ngành dịch vụ này.
Nghiên cứu trực tiếp về các vấn đề pháp lý liên quan đến dịch vụ mơi trƣờng
có tác giả Bùi Quang Tuấn, Hà Huy Ngọc và Phan Thị Phƣơng Hoa với cuốn sách
2


Phân cấp quản lý bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia sự thật, năm 2016. Tuy nhiên, nội dung nghiên cứu đề cập chủ yếu đến các
vấn đề pháp lý về những loại hình dịch vụ mơi trƣờng đƣợc thành lập theo cơ chế
hợp tác cơng tƣ (PPP) nhƣ hệ thống thốt nƣớc; hệ thống thu gom; xử lý nƣớc thải,
chất thải; hệ thống cung cấp nƣớc sạch; và xây dựng, kinh doanh nghĩa trang chứ
chƣa bao quát hết tất cả các lĩnh vực trong ngành dịch vụ môi trƣờng.
Ở cấp độ Luận văn Thạc sỹ có Luận văn của tác giả Phan Thỵ Tƣờng Vy
(2006) với đề tài Pháp luật môi trường Việt Nam trong xu hướng thương mại hóa
mơi trường. Luận văn không đề cập đến các vấn đề pháp lý liên quan đến dịch vụ

mơi trƣờng, những trong đó, tác giả có đề cập đến mơi trƣờng nhƣ một loại hàng
hóa, là yếu tố có giá trị khai thác trong thƣơng mại và đang trở thành lợi thế cạnh
tranh trên thị trƣờng. Tác giả cũng khẳng định ngành công nghiệp dịch vụ môi
trƣờng sẽ trở thành tiềm năng khai thác trong tƣơng lai. Luận văn của các tác giả
Chiêm Phong Phi (2015) với đề tài Pháp luật về kinh doanh dịch vụ thu gom chất
thải rắn thông thường, tác giả Hoàng Thị Vui (2008) với đề tài Pháp luật về quản lý
chất thải rắn thông thường ở Việt Nam và tác giả Võ Trung Tín (2006) với đề tài
Pháp luật về đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam – Thực trạng và hướng
hồn thiện cũng có nghiên cứu về các vấn đề pháp lý liên quan đến một số lĩnh vực
trong ngành dịch vụ môi trƣờng nhƣ dịch vụ thu gom chất thải rắn, đánh giá tác
động mơi trƣờng. Bên cạnh đó, những luận văn này cũng chỉ ra đƣợc những vấn đề
liên quan đến thực tiễn áp dụng của pháp luật và chỉ ra đƣợc những hạn chế, thiếu
sót cũng nhƣ nêu ra những đề xuất, biện pháp nhằm hồn thiện pháp luật có liên
quan. Tuy nhiên, nội dung của những luận văn này chỉ tập trung chuyên sâu về một
lĩnh vực cụ thể và không có những nghiên cứu chung về ngành dịch vụ mơi trƣờng
cũng nhƣ các giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm phát triển ngành.
Ở cấp độ Khóa luận tốt nghiệp cũng chƣa có bất kỳ khóa luận tốt nghiệp nào
có nghiên cứu về ngành dịch vụ mơi trƣờng mà chỉ có một số đề tài nghiên cứu có
liên quan đến một lĩnh vực cụ thể trong ngành. Và theo đánh giá chung của tác giả,
các cơng trình nghiên cứu ở cấp độ Khóa luận vẫn chƣa có đề tài nào có thể ghi
nhận là một cơng trình nghiên cứu về dịch vụ mơi trƣờng nói chung. Ngồi ra, phần
lớn các cơng trình nghiên cứu khoa học hiện nay, kể cả Luận văn và Khóa luận tốt
nghiệp, đều sử dụng Luật Bảo vệ môi trƣờng 2005 làm căn cứ pháp lý để nghiên
cứu đề tài của mình (trừ Luận văn của tác giả Chiêm Phong Phi (2015) với đề tài
Pháp luật về kinh doanh dịch vụ thu gom chất thải rắn thông thường) mà chƣa có
sự cập nhật, thay đổi theo quy định mới trong Luật Bảo vệ môi trƣờng 2014.

3



Tuy vậy, số lƣợng bài viết trên các tạp chí chuyên ngành cũng có khá nhiều, đề
cập đến các vấn đề pháp lý và những biện pháp cụ thể nhằm phát triển dịch vụ mơi
trƣờng nhƣ:
Tác giả Khắc Đồn (2011) với bài viết “Phát triển ngành công nghiệp môi
trƣờng (CNMT) Việt Nam”, Tạp chí Tài ngun và Mơi trường (số 17 (127)/2011)
đã cho thấy đƣợc tiềm năng khai thác của ngành dịch vụ môi trƣờng ở nƣớc ta cũng
nhƣ chỉ ra đƣợc những hạn chế về chính sách hỗ trợ đầu tƣ, hay ở chính bản thân
năng lực của các đơn vị cung cấp khiến cho việc phát triển ngành dịch vụ này vẫn
chƣa xứng tầm với tiềm năng của nó. Từ đó tác giả cũng đã đƣa ra những định
hƣớng phát triển ngành cơng nghiệp mơi trƣờng nói chung và ngành dịch vụ mơi
trƣờng nói riêng dựa trên “Đề án phát triển ngành công nghiệp môi trƣờng Việt
Nam đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025” đƣợc phê duyệt trong Quyết định số
1030/2009/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ ngày 20/7/2009.
Tác giả Trần Huy Hoàn, Võ Kim Tuyến với bài viết “Ngành dịch vụ môi
trƣờng trong bối cảnh hội nhập kinh tế” đã đề cập đến vấn đề định nghĩa về dịch vụ
môi trƣờng trong các tổ chức quốc tế cũng nhƣ tại Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả vẫn
chƣa đƣa ra dƣợc định nghĩa cụ thể về ngành dịch vụ này theo quan điểm của mình.
Ngồi ra, bài viết còn chỉ ra đƣợc những vấn đề liên quan đến thực trạng phát triển
dịch vụ môi trƣờng ở Việt Nam; các nhận định, đánh giá về hiện trạng, chính sách
thúc đẩy ngành dịch vụ này phát triển cũng nhƣ đƣa ra một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện vấn đề này.
Thêm vào đó, bài viết “Xây dựng chính sách phát triển dịch vụ môi trƣờng tại
Việt Nam” của tác giả Dƣơng Thị Thanh Xuyến, Nguyễn Thị Phƣơng Mai lại cho
thấy một cái nhìn tổng qt về khung chính sách phát triển dịch vụ môi trƣờng tại
Việt Nam hiện nay. Và tác giả Cao Trƣờng Sơn với bài viết “Chi trả dịch vụ môi
trƣờng – Công cụ mới trong quản lý tài ngun và mơi trƣờng”, Tạp chí Tài ngun
và Mơi trường, số 21 (227)/2015 đã nêu ra đƣợc một công cụ mới đang đƣợc ứng
dụng rộng rãi ở các nƣớc phát triển nhằm tăng cƣờng sự phát triển của dịch vụ mơi
trƣờng, chính là chi trả dịch vụ mơi trƣờng. Bên cạnh việc đƣa đến sự hiểu biết về
công cụ này, tác giả cịn cho thấy đƣợc tình hình cũng nhƣ triển vọng áp dụng chi

trả dịch vụ môi trƣờng ở Việt Nam…
Tất cả những cơng trình nghiên cứu, những bài viết, báo cáo trên đã giúp tác
giả có cái nhìn toàn diện về pháp luật trong phát triển ngành dịch vụ môi trƣờng
cũng nhƣ là tiền đề cho việc nghiên cứu về sau của tác giả. Tuy nhiên, nhƣ tác giả

4


đã đề cập, những cơng trình nghiên cứu trên hoặc là chƣa có nghiên cứu trực tiếp
liên quan đến pháp luật về phát triển dịch vụ môi trƣờng, hoặc là có nghiên cứu,
nhƣng nội dung chƣa chuyên sâu, chƣa cho thấy đƣợc một cách toàn diện về vấn đề
phát triển ngành dịch vụ này. Do vậy, việc tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài này là
hoàn toàn phù hợp và xuất phát từ tình hình nghiên cứu trên thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích của Khóa luận này là để làm rõ những vấn đề liên quan đến pháp
luật và chính sách phát triển dịch vụ mơi trƣờng tại Việt Nam cũng nhƣ những mặt
cịn hạn chế liên quan đến pháp luật và cơ chế quản lý, thực thi đã tạo nên khó khăn
và trở ngại trong việc phát triển ngành dịch vụ này. Từ đó, tác giả cũng đề xuất
những ý kiến, giải pháp nhằm mục đích làm rõ hơn và hồn thiện quy định của pháp
luật về phát triển dịch vụ môi trƣờng, bảo vệ môi trƣờng và thực hiện mục tiêu phát
triển bền vững.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài: các loại hình dịch vụ môi trƣờng và pháp luật
liên quan đến việc hỗ trợ, đầu tƣ và phát triển ngành dịch vụ môi trƣờng. Tìm hiểu
thực trạng về việc áp dụng pháp luật để phát triển các loại hình dịch vụ này trên
thực tế và những điểm bất cập, hạn chế còn tồn tại trong chính sách pháp luật nhằm
đề xuất những giải pháp hoàn thiện.
Phạm vi nghiên cứu đề tài: tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành về phát triển dịch vụ mơi trƣờng nói chung và các ngành trong
dịch vụ mơi trƣờng nói riêng. Ngồi ra, cịn nghiên cứu chính sách pháp luật của

một số quốc gia và những biện pháp thực tiễn nhằm phát triển ngành dịch vụ môi
trƣờng trong nƣớc.
5. Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Trong đề tài này, tác giả sử dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng làm cơ sở
phƣơng pháp luận. Ngồi ra, tác giả cịn sử dụng kết hợp các phƣơng pháp nghiên
cứu cụ thể nhƣ:
- Phƣơng pháp thống kê: Thống kê các số liệu liên quan đến tình hình phát
triển dịch vụ mơi trƣờng ở Việt Nam, những thành tựu đã đạt đƣợc trong giai đoạn
gần đây liên quan đến dịch vụ môi trƣờng và những tiềm năng còn chƣa đƣợc khai
thác hiệu quả để làm tiền đề cho q trình phân tích - chứng minh.

5


- Phƣơng pháp phân tích - chứng minh: Phân tích các quy định của pháp luật
hiện hành về phát triển dịch vụ mơi trƣờng nói chung và trong từng lĩnh vực dịch vụ
cụ thể, phân tích các số liệu thống kê, báo cáo về tình hình phát triển ngành dịch vụ
mơi trƣờng ở Việt Nam, những lĩnh vực có tiềm năng cịn chƣa đƣợc khai thác hiệu
quả. Từ đó chứng minh rằng ngành dịch vụ môi trƣờng ở Việt Nam có tiềm năng
phát triển và lợi thế cạnh tranh rất lớn, cũng nhƣ pháp luật Việt Nam hiện hành vẫn
còn những bất cập, hạn chế cần đƣợc bổ sung, hoàn thiện hơn nhằm thúc đẩy quá
trình phát triển của ngành, phát huy tối đa những tiềm năng và lợi thế vốn có.
- Phƣơng pháp so sánh: So sánh các quy định của pháp luật về phát triển dịch
vụ môi trƣờng nói chung và trong từng lĩnh vực cụ thể của ngành để thấy đƣợc sự
thiếu đồng bộ, mâu thuẫn giữa các quy định. So sánh các biện pháp nhằm phát triển
ngành dịch vụ môi trƣờng ở Việt Nam với một số quốc gia phát triển trên thế giới
để học hỏi kinh nghiệm và cách thức tổ chức thực hiện của các nƣớc này.
- Phƣơng pháp tổng hợp: Từ quá trình so sánh, phân tích – chứng minh, tác giả
có thể đƣa ra những đề xuất thực tiễn, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, cơ chế
quản lý, thực hiện nhằm phát triển ngành dịch vụ môi trƣờng tại Việt Nam.

6. Bố cục tổng quát của khóa luận
Khóa luận gồm 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong
đó, phần nội dung bao gồm 2 chƣơng với những nội dung chính sau:
Chƣơng 1: Lý luận chung về dịch vụ môi trƣờng.
Chƣơng 2: Thực trạng và giải pháp hồn thiện pháp luật về phát triển dịch vụ
mơi trƣờng tại Việt Nam.

6


CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ DỊCH VỤ MÔI TRƢỜNG
1.1. Khái niệm về dịch vụ môi trƣờng
1.1.1. Khái niệm
DVMT là loại hình dịch vụ đã tồn tại trong nền kinh tế từ khi những loại hình
dịch vụ cơ bản và đầu tiên của ngành dịch vụ này nhƣ vận chuyển, thu gom và xử lý
chất thải, hay cung cấp nƣớc sinh hoạt… xuất hiện. Theo sự phát triển của nền kinh
tế cũng nhƣ những yêu cầu, tiêu chuẩn cao hơn về mơi trƣờng thì DVMT càng ngày
càng phát triển đa dạng các ngành nghề dịch vụ và chất lƣợng cung ứng dịch vụ
cũng ngày càng đƣợc nâng cao hơn. Tuy vậy, khái niệm về DVMT hiện nay vẫn
chƣa đƣợc làm rõ và thống nhất khơng chỉ ở Việt Nam mà cịn với các quốc gia trên
thế giới. Điều này dẫn đến việc lý giải hay định nghĩa về DVMT chủ yếu là bằng
phƣơng thức liệt kê các lĩnh vực thuộc phạm vi hoạt động của nó (thơng qua các
danh mục phân loại DVMT). Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO) cũng định nghĩa
về DVMT bằng phƣơng thức này. Theo đó, DVMT nằm trong Bảng phân loại các
ngành dịch vụ trong WTO đƣợc xây dựng dựa trên hệ thống phân loại CPC của
Liên hợp quốc và đƣợc phân thành 7 nhóm chính1. Định nghĩa bằng cách liệt kê
danh mục các phân ngành thuộc ngành DVMT sẽ làm rõ những loại hình dịch vụ
nào đƣợc xem là DVMT và không gây ra bất kỳ sự nhầm lẫn nào cả. Ngoài ra, việc
WTO quy định cụ thể về các phân ngành trong ngành DVMT là để nhận diện và có

những cơ chế pháp lý phù hợp cho từng ngành. Tuy nhiên, cách định nghĩa nhƣ vậy
cũng có những hạn chế nhất định, đó là mặc dù nó có thể làm rõ đƣợc đâu là DVMT
dựa trên bảng liệt kê, nhƣng nó lại khơng thể cho biết đƣợc ngồi những dịch vụ
nêu trên thì cịn những DVMT nào khác vẫn đang tồn tại trên thực tế hay không.
Để hiểu thế nào về DVMT, đầu tiên cần phải xem xét đến những khái niệm có
liên quan hay bao hàm cả nội dung về DVMT, đó là CNMT và dịch vụ công cộng.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) không đƣa ra một định nghĩa
cụ thể nào về DVMT mà đƣa ra khái niệm rộng hơn là “ngành cơng nghiệp mơi
trƣờng”. Theo đó, ngành CNMT bao gồm tất cả các loại hình hoạt động để sản xuất
ra hàng hóa và dịch vụ bắt đầu từ các thiết bị nguồn, các công nghệ làm sạch và

Trần Huy Hồn, Võ Kim Tuyến, “Ngành Dịch vụ Mơi trƣờng trong bối cảnh hội nhập kinh
tế”, />truy cập ngày 22/5/2017.
1

7


kiểm sốt ơ nhiễm, tới các dịch vụ kĩ thuật và tái chế2… Cũng tƣơng tự nhƣ vậy, ở
Việt Nam hiện nay, khái niệm về DVMT cũng thƣờng đƣợc hiểu thông qua định
nghĩa về ngành CNMT theo quy định tại khoản 14 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trƣờng
2014: “là một ngành kinh tế cung cấp các công nghệ, thiết bị, dịch vụ và sản phẩm
phục vụ các yêu cầu về bảo vệ môi trường”. Từ cách định nghĩa trong Luật Bảo vệ
môi trƣờng 2014 về CNMT, tác giả cũng xác định DVMT là một ngành chuyên
cung cấp các dịch vụ nhằm phục vụ các yêu cầu về BVMT.
Có thể thấy đƣợc cách định nghĩa về DVMT theo xu hƣớng hiện nay trên thế
giới và ở Việt Nam chính là thông qua khái niệm về ngành CNMT và phƣơng thức
liệt kê các loại hình DVMT. Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn về bản chất, đối tƣợng của
DVMT thì cần phải phân tích khái niệm của dịch vụ cơng cộng trong mối tƣơng
quan với DVMT.

Khái niệm về dịch vụ công cộng hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau. Có
thể hiểu về dịch vụ công cộng thông qua định nghĩa về “dịch vụ công” của tác giả
Phạm Quang Lê: “Dịch vụ công là những hoạt động của các tổ chức nhà nước hoặc
của các DN, tổ chức xã hội, tư nhân được Nhà nước uỷ quyền để thực hiện nhiệm
vụ do pháp luật quy định, phục vụ trực tiếp những nhu cầu thiết yếu của cộng đồng,
công dân; theo nguyên tắc không vụ lợi; đảm bảo sự công bằng và ổn định xã
hội”3. Hoặc đƣợc định nghĩa cụ thể: “Dịch vụ cơng cộng là các dịch vụ có thu phí
nhằm đáp ứng các nhu cầu bức thiết của công dân mang tính phi lợi nhuận do các
cơ sở thực hiện theo yêu cầu của cơ quan hành pháp nhà nước (thông qua hợp đồng
hoặc nhiệm vụ phân giao) như: cung cấp nước sinh hoạt, thốt nước, vệ sinh mơi
trường (thu gom rác thải), tang lễ, cây xanh, chiếu sáng, giao thông vận tải cơng
cộng, tài chính, ngân hàng…”4.DVMT cũng là dịch vụ cơng cộng nên cũng có thể
có cách hiểu tƣơng tự. Theo đó, DVMT cũng là hoạt động của các tổ chức nhà nƣớc
hoặc của các DN, tổ chức, cá nhân đƣợc nhà nƣớc ủy quyền nhằm cung cấp các
dịch vụ thiết yếu cho xã hội. Hay nói cách khác, chủ thể cung ứng dịch vụ ở đây
chính là các tổ chức, cá nhân.
Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN) đã
có định nghĩa về DVMT trong “IUCN Definition – English”, theo đó: “These
services describe qualitative (even spatial) functions provided by the natural
Trần Huy Hoàn, Võ Kim Tuyến, tlđd (1).
Chu Văn Thành (2015), Dịch vụ cơng và xã hội hóa dịch vụ cơng – Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tr.15.
4
Đỗ Thị Hải Hà, Mai Ngọc Anh (2015), “Cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam hiện nay”, Tạp
chí Kinh tế và Phát triển, số 218/2015, tr.4.
2
3

8



resources”. Có thể hiểu, DVMT (environmental services) là những dịch vụ mà mơ
tả chức năng định tính (bao gồm cả không gian) đƣợc cung cấp bởi các nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Tại Việt Nam, khái niệm về DVMT cũng đã từng đƣợc nêu ra
nhƣ “DVMT là các hoạt động dịch vụ nhằm mang lại lợi ích về mơi trường”5. Tuy
nhiên, những khái niệm trên lại định nghĩa DVMT dƣới những góc độ khác nhau.
Nếu IUCN định nghĩa DVMT dƣới góc độ của một Liên minh quốc tế về bảo tồn
thiên nhiên dẫn đến cách định nghĩa sẽ giới hạn phạm vi của DVMT liên quan đến
những chức năng “định tính” của nó đƣợc cung cấp từ mơi trƣờng, từ nguồn tài
nguyên thiên nhiên (nhƣ chức năng liên quan đến sản xuất: nƣớc, đất đai, khơng
khí; chức năng giải trí; chứa đựng các sản phẩm xả thải…) nhằm khuyến khích việc
bảo tồn nguồn tài nguyên quý giá này thì tác giả Vũ Văn Tự trong bài viết của mình
lại định nghĩa DVMT bằng cách đề cập đến kết quả, lợi ích mà nó mang lại cho mơi
trƣờng. Từ đó, có thể thấy cách định nghĩa về DVMT sẽ khác nhau tùy vào quan
điểm tiếp cận của từng tác giả. Ở đây, tác giả đồng ý với cách định nghĩa của tác giả
Vũ Văn Tự, tuy nhiên, định nghĩa này vẫn chƣa bao hàm đƣợc tất cả chức năng của
DVMT. Theo đó, DVMT khơng chỉ mang lại các lợi ích cụ thể về mơi trƣờng mà
nó cịn có chức năng “ngăn ngừa” ô nhiễm môi trƣờng, quản lý bền vững nguồn tài
nguyên thiên nhiên.
Kế thừa những quan điểm trên, tác giả muốn làm rõ hơn khái niệm về DVMT
căn cứ vào các tiêu chí: bản chất, chức năng và chủ thể cung ứng DVMT, từ đó định
nghĩa này có thể đƣợc tiếp cận trên nhiều phƣơng diện. Khác với những cách định
nghĩa trƣớc đây vẫn còn chƣa rõ về chủ thể cung ứng DVMT, về bản chất của
ngành dịch vụ này hoặc buộc phải dựa vào một bảng danh mục liệt kê các lĩnh vực
thuộc DVMT để xác định đâu là lĩnh vực thuộc DVMT thì khái niệm này, cũng có
thể xác định đƣợc các lĩnh vực thuộc ngành DVMT một cách rõ ràng, cụ thể nhất.
Theo đó, tác giả đƣa ra khái niệm về DVMT nhƣ sau: “Dịch vụ môi trƣờng là một
loại hình dịch vụ cơng cộng, do các tổ chức, cá nhân thực hiện nhằm đảm bảo
các chức năng sinh thái của môi trƣờng, ngăn ngừa ô nhiễm và quản lý bền
vững tài nguyên thiên nhiên”.


Vũ Văn Tự, “Cần xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về xã hội hóa dịch
vụ mơi trƣờng”,
, truy cập ngày 05/6/2017.
5

9


1.1.2. Phân loại
Hiện nay, tại Việt Nam vẫn chƣa có một hệ thống phân loại hay danh mục cụ
thể về các loại hình DVMT. DVMT thƣờng đƣợc phân loại theo nhiều cách khác
nhau: dựa vào chức năng cua từng loại hình dịch vụ, vào yếu tố mơi trƣờng mà nó
tác động đến hoặc dựa trên mức độ quan trọng và vai trị chung của nó đối với bản
thân ngành DVMT và với xã hội. Tuy vậy, chính sách đầu tƣ và phát triển DVMT ở
nƣớc ta chỉ đề cập đến một số ngành đƣợc xem là quan trọng và mũi nhọn chứ chƣa
có một chính sách phát triển tồn diện các ngành nghề DVMT. Vậy nên nội dung
này sẽ chủ yếu đề cập đến các loại hình DVMT theo quy định trong pháp luật về
đầu tƣ và phát triển ngành DVMT. Dựa trên các quy định tại Điều 150 Luật BẢO
VỆ MÔI TRƢỜNG 2014 và Quyết định số 1570/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính
phủ ngày 09/08/2016 về việc phê duyệt khung chính sách, pháp luật về phát triển
DVMT, có thể thống kê đƣợc 08 loại hình DVMT, bao gồm: (1) Dịch vụ tƣ vấn,
đào tạo, cung cấp thông tin về môi trƣờng; (2) Dịch vụ quan trắc, phân tích mơi
trƣờng; (3) Dịch vụ giám định về môi trƣờng đối với máy móc, thiết bị, cơng nghệ,
giám định thiệt hại về mơi trƣờng; (4) Dịch vụ thiết kế, chế tạo, xây dựng hệ thống
xử lý chất thải; (5) Dịch vụ thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải; (6) Dịch
vụ khắc phục và cải tạo môi trƣờng; (7) Dịch vụ phát triển, chuyển giao công nghệ
sản xuất thân thiện với môi trƣờng, công nghệ môi trƣờng; và (8) Dịch vụ kiểm tốn
mơi trƣờng.
(1) Dịch vụ tƣ vấn, đào tạo, cung cấp thông tin về môi trƣờng:

Tƣ vấn, đào tạo, cung cấp thơng tin về mơi trƣờng là một loại hình DVMT
đƣợc sử dụng rộng rãi hiện nay. Có thể kể đến một vài lĩnh vực tƣ vấn môi trƣờng
nhƣ tƣ vấn thủ tục, giấy phép môi trƣờng, tƣ vấn về ISO (Hệ thống quản lý môi
trƣờng - ISO 14001:2015, ISO 50001…), tƣ vấn về chính sách pháp luật mơi
trƣờng, các giải pháp làm giảm tác động đến môi trƣờng, khắc phục sự cố mơi
trƣờng… Chƣơng trình đào tạo về mơi trƣờng chủ yếu đƣợc xây dựng dựa trên thế
mạnh đào tạo của đơn vị cung cấp dịch vụ và các đơn đặt hàng từ khách hàng nên
nội dung chƣơng trình đào tạo thƣờng rất đa dạng. Đối với dịch vụ cung cấp thông
tin về môi trƣờng, các thông tin đƣợc cung cấp có thể bao gồm thơng tin về các văn
bản quy phạm pháp luật về môi trƣờng, hiện trạng môi trƣờng quốc gia, các khu
vực bị ô nhiễm, danh sách, thông tin về các nguồn thải, các loại chất thải có nguy cơ
gây hại đến sức khỏe con ngƣời và mơi trƣờng… Có thể nói, đây là những lĩnh vực
rất đa dạng và có phạm vi cung ứng rộng rãi không chỉ về đối tƣợng đƣợc cung ứng
(cá nhân, tổ chức có nhu cầu) mà cịn ở phạm vi cung ứng dịch vụ.

10


(2) Dịch vụ quan trắc, phân tích mơi trƣờng:
Quan trắc mơi trƣờng là q trình theo dõi có hệ thống về thành phần môi
trƣờng, các yếu tố tác động lên môi trƣờng nhằm cung cấp thông tin đánh giá hiện
trạng, diễn biến chất lƣợng môi trƣờng và các tác động xấu đối với mơi trƣờng6.
Cịn phân tích mơi trƣờng là một hoạt động bổ trợ, nhằm cung cấp các chỉ số thông
tin về môi trƣờng, tạo cơ sở cho việc theo dõi môi trƣờng trong hoạt động quan
trắc.Đây là một thị trƣờng có tính chất lâu đời và gắn liền với lịch sử hình thành
khoa học mơi trƣờng ở Việt Nam. Tuy nhiên, ngành dịch vụ này có yêu cầu về vốn
đầu tƣ rất cao (mua sắm máy móc, vật tƣ, thiết bị) để phục vụ cho hoạt động phân
tích, đánh giá số liệu và nguồn nhân lực có trình độ cao.
(3) Dịch vụ giám định về môi trƣờng đối với máy móc, thiết bị, cơng nghệ,
giám định thiệt hại về môi trƣờng:

Giám định về môi trƣờng đối với máy móc, thiết bị, cơng nghệ là hoạt động sử
dụng các phƣơng pháp nghiệp vụ và các trang thiết bị đo lƣờng chuyên dùng để xác
định sự phù hợp của máy móc, thiết bị, cơng nghệ đó đối với các quy chuẩn về môi
trƣờng theo sự thỏa thuận của các bên hoặc theo quy chuẩn chung nhằm BẢO VỆ
MÔI TRƢỜNG của quốc gia đối với loại hàng hóa đó. Cịn giám định thiệt hại về
môi trƣờng là hoạt động giám định chất lƣợng của môi trƣờng sau khi môi trƣờng bị
ô nhiễm, suy thối để từ đó xác định đƣợc giá trị thiệt hại về môi trƣờng do hành vi
làm ô nhiễm gây ra. Cũng tƣơng tự nhƣ các loại hình dịch vụ quan trắc, phân tích
mơi trƣờng, đây cũng là loại hình DVMT địi hỏi trình độ chun mơn và kinh
nghiệm cao. Vậy nên các đơn vị cung ứng dịch vụ tƣ nhân rất khó tiếp cận và tham
gia hoạt động trong lĩnh vực này.
(4) Dịch vụ thiết kế, chế tạo, xây dựng hệ thống xử lý chất thải:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 101 Luật BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG 2014 về
hệ thống xử lý nƣớc thải thì các đối tƣợng phải có hệ thống xử lý nƣớc thải bao
gồm: khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung; khu, cụm công nghiệp làng nghề;
cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không liên thông với hệ thống xử lý nƣớc thải
tập trung. Từ đó có thể thấy đƣợc nhu cầu thiết kế, xây dựng một hệ thống xử lý
chất thải theo đúng quy chuẩn là rất lớn. Đây là một lĩnh vực có tiềm năng lớn và
cần đƣợc đầu tƣ đúng mực nhằm phát triển ngành DVMT nói chung và khoa học
công nghệ trong lĩnh vực thiết kế, chế tạo nói riêng.

6

Khoản 20 Điều 3 Luật BVMT 2014.

11


(5) Dịch vụ thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải:
Đây là lĩnh vực khá quen thuộc với mỗi ngƣời trong cuộc sống thƣờng ngày.

Thị trƣờng cho ngành dịch vụ này luôn rộng mở và tiềm năng.
Rác thải đƣợc thu gom và xử lý chia thành 2 loại: rác thải thông thƣờng và rác
thải nguy hại. Đối với dịch vụ thu gom, xử lý rác thải thông thƣờng, loại hình DN
cung cấp dịch vụ hiện nay chủ yếu vẫn là các DN nhà nƣớc (các công ty môi
trƣờng). Các DN tƣ nhân trên thực tế vẫn chƣa có sự tham gia đáng kể vào lĩnh vực
này bởi yêu cầu về số lƣợng nhân viên nhiều, chi phí đầu tƣ các phƣơng tiện vận
chuyển, xử lý rác thải cao cũng nhƣ các yêu cầu về bãi chôn, khu vực tập kết rác
thải gây khó khăn cho các DN tƣ nhân với số vốn đầu tƣ thấp…
Đối với dịch vụ thu gom, xử lý chất thải nguy hại, đây là lĩnh vực liên quan
đến chất thải nguy hại nên việc cung cấp dịch vụ thu gom, xử lý loại chất thải này
cần đáp ứng các yêu cầu kĩ thuật và đƣợc cấp phép từ Bộ Tài nguyên và Môi
trƣờng. Theo số liệu của Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trƣờng (C49),
hàng năm, lƣợng CTNH của cả nƣớc ƣớc tới 156.000 tấn. Con số này còn cao hơn
rất nhiều lần trong báo cáo của Sở Tài nguyên và Mơi trƣờng các tỉnh, thành phố.
Theo đó, lƣợng chất thải nguy hại phát sinh hàng năm lên đến 800.000 tấn/năm
(Con số này chất thải nguy hại này đƣợc thống kê dựa trên số lƣợng chất thải nguy
hại tối đa dự kiến phát sinh từ các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và không bao
gồm chất thải nguy hại phát sinh từ các hộ gia đình)7. Có thể thấy có một sự chênh
lệch về thơng tin điều tra, thống kê rất lớn ở nƣớc ta hiện nay. Nhƣng dù là con số
nào thì với khoảng 100 DN thu gom, xử lý chất thải vào thời điểm này, có thể thấy
rõ sự phát triển của các DN DVMT trong lĩnh vực xử lý chất thải nguy hại vẫn chƣa
tƣơng xứng với tiềm năng của nó.
(6) Dịch vụ khắc phục và cải tạo môi trƣờng:
Đây là dịch vụ cung cấp các giải pháp cũng nhƣ thực hiện các hoạt động khắc
phục và cải tạo môi trƣờng sau khi môi trƣờng bị ô nhiễm hoặc sau hoạt động khai thác
tài nguyên. Có thể kể đến một vài dịch vụ khắc phục và cải tạo môi trƣờng nhƣ: dịch
vụ khắc phục và cải tạo ô nhiễm đất, dịch vụ khắc phục và cải tạo ô nhiễm nƣớc, dịch
vụ khắc phục và cải tạo ô nhiễm không khí, dịch vụ khắc phục sự cố tràn dầu, dịch vụ
cải tạo môi trƣờng của mỏ khai thác tài nguyên sau khi dừng hoạt động… Ở Việt Nam,
Theo TTXVN, “Mỗi năm Việt Nam phát sinh khoảng 800.000 tấn chất thải nguy hại”,

/>747688/language/vi-VN/Default.aspx, truy cập ngày 30/6/2017.
7

12


các loại dịch vụ chủ yếu đƣợc cung cấp là khắc phục và cải tạo ô nhiễm đất, nƣớc, cải
tạo môi trƣờng của mỏ khai thác tài nguyên. Đối với dịch vụ khắc phục và cải tạo ơ
nhiễm khơng khí và dịch vụ khắc phục sự cố tràn dầu, chƣa có DN nào ở nƣớc ta cung
cấp loại hình dịch vụ này. Những trƣờng hợp có sự cố tràn dầu nghiêm trọng hầu hết
đều sử dụng các chuyên gia từ nƣớc ngồi hoặc huy động từ các cơng ty dầu khí ở Việt
Nam tham gia vào xử lý, khắc phục sự cố.
(7) Dịch vụ phát triển, chuyển giao công nghệ sản xuất thân thiện với môi
trƣờng, công nghệ môi trƣờng:
Đây là một loại hình dịch vụ khá đặc thù, địi hỏi trình độ chun mơn cao nên
chỉ có những DN chuyên về lĩnh vực nhập khẩu công nghệ hoặc những đơn vị,
trung tâm nghiên cứu mới có đủ khả năng và chun mơn để thực hiện. Cũng bởi vì
tính đặc thù của nó nên trên thị trƣờng, khơng phải ở đâu cũng có khả năng cung
cấp loại hình dịch vụ này và những đơn vị đã có khả năng khai thác trong loại hình
dịch vụ này sẽ có đƣợc nguồn lợi nhuận rất lớn từ chi phí chuyển giao cơng nghệ,
chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ. Vì vậy, cần có những cơ chế khuyến khích đầu tƣ,
phát triển loại dịch vụ này nhằm phát triển nền khoa học, công nghệ của nƣớc nhà
nói chung và ngành DVMT nói riêng.
(8) Dịch vụ kiểm tốn mơi trƣờng:
Đây là một cơng cụ quản lý môi trƣờng nhằm hạn chế và ngăn ngừa ô nhiễm
môi trƣờng ngay từ các giai đoạn đầu tƣ ban đầu. Dịch vụ kiểm tốn mơi trƣờng bao
gồm các hoạt động kiểm tra, rà sốt các quy trình sản xuất, các hoạt động, sự kiện,
hệ thống quản lý có liên quan đến môi trƣờng xem đã đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về
môi trƣờng hay chƣa, nhƣ ISO 14001 (quy định các yêu cầu đối với một Hệ thống
quản lý mơi trƣờng)… Hiện nay, vẫn chƣa có u cầu bắt buộc các DN sản xuất

kinh doanh thực hiện việc kiểm tốn mơi trƣờng tại Việt Nam, nên mặc dù đã xuất
hiện trên thị trƣờng, ngành dịch vụ này vẫn cịn gặp rất nhiều khó khắn để có thể
phát triển hơn trong tƣơng lai.
DVMT là một ngành dịch vụ rất đa dạng với nhiều loại hình dịch vụ khác
nhau. Theo quá trình du nhập xu hƣớng phát triển chung của thế giới, Việt Nam
cũng đã học hỏi và tiếp thu thêm nhiều loại hình DVMT mới, bổ sung vào hệ thống
các loại hình DVMT trong nƣớc hiện nay. Ngồi 08 loại hình dịch vụ đƣợc nêu dựa
trên các quy định của pháp luật về hỗ trợ đầu tƣ phát triển DVMT thì trên thực tế,
tại Việt Nam vẫn cịn rất nhiều loại hình DVMT khác nhƣ: DVMT rừng, dịch vụ
cung cấp nƣớc sinh hoạt, dịch vụ bảo tồn đa dạng sinh học, dịch vụ duy trì cảnh
13


quan,…Đây là những loại dịch vụ không đƣợc liệt kê trong danh mục các loại hình
DVMT nói chung, nhƣng các loại hình dịch vụ này đều đƣợc điều chỉnh bởi những
quy định cụ thể trong Luật Bảo vệ và Phát triển rừng 2004, Luật Đa dạng sinh học
2008, Nghị định số 117/2007/NĐ-CP về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nƣớc sạch,
Nghị định số 99/2010/NĐ-CP về chính sách chi trả DVMT rừng và Nghị định số
147/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 99/2010/NĐ-CP.
1.2. Đặc điểm của dịch vụ môi trƣờng
1.2.1. Dịch vụ môi trƣờng là hàng hóa, dịch vụ phi thị trƣờng
Giá trị của hàng hóa, dịch vụ có thể đƣợc xác định bằng hai cách khác nhau là
giá trị thị trƣờng và giá trị phi thị trƣờng. Giá trị thị trƣờng, nói một cách đơn giản
nhất là mức giá trị đƣợc thị trƣờng thừa nhận tại thời điểm thẩm định giá. Theo
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, giá trị thị trƣờng, một mặt là
giá trị trung bình của những hàng hoá đƣợc sản xuất ra trong một khu vực sản xuất
nào đó, mặt khác phải coi giá trị thị trƣờng là giá trị cá biệt của những hàng hoá
đƣợc sản xuất ra trong những điều kiện trung bình của khu vực đó và chiếm khối
lƣợng lớn trong số những sản phẩm của khu vực này. Đây chính là căn cứ chủ yếu
để xác định giá đối với hầu hết các loại hàng hóa, tài sản. Tuy nhiên, trên thực tế có

nhiều loại hàng hóa, đặc biệt là dịch vụ ngƣời ta khơng thể xác định đƣợc giá trị
chính xác của nó khi đƣa ra thị trƣờng tiêu thụ mà chỉ có thể ƣớc lƣợng một mức
giá đƣợc xem là hợp lý. Giá trị ƣớc tính nhƣ vậy đƣợc gọi là giá trị phi thị trƣờng8.
DVMT nhƣ đã định nghĩa ở trên là các hoạt động nhằm thực hiện chức năng
sinh thái của môi trƣờng hoặc để đảm bảo việc thực hiện chức năng đó mang lại lợi
ích, sự an tồn cho môi trƣờng, ngăn ngừa ô nhiễm và quản lý bền vững tài nguyên.
Vốn dĩ dịch vụ là một loại hàng hóa vơ hình và có tính khơng đồng nhất, nghĩa là khó
có thể có một tiêu chuẩn chung nào để đánh giá chất lƣợng của dịch vụ và trả một
mức tiền theo chất lƣợng đó, mà mơi trƣờng lại khơng phải hàng hóa thơng thƣờng,
nó là một loại hàng hóa “đặc biệt” nên việc xác định giá trị thị trƣờng của loại hàng
hóa, DVMT chủ yếu vẫn dựa trên các quy tắc, quy ƣớc tính giá trị (chứ khơng thể
dựa vào các yếu tố sản xuất, nguyên liệu, lao động mà xác định giá trị của nó nhƣ các
loại hàng hóa thơng thƣờng đƣợc). Vậy nên, có thể khẳng định DVMT là một loại
Theo Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam số 03 đƣợc ban hành với Thông tƣ số
158/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 27/10/2014 thì giá trị phi thị trƣờng là “mức giá ước
tính của một tài sản tại thời điểm, địa điểm thẩm định giá, không phản ánh giá trị thị trường mà
căn cứ vào đặc điểm kinh tế - kỹ thuật, chức năng, công dụng của tài sản, những lợi ích mà tài sản
mang lại trong quá trình sử dụng, giá trị đối với một số người mua đặc biệt, giá trị khi giao dịch
trong điều kiện hạn chế, giá trị đối với một số mục đích thẩm định giá đặc biệt và các giá trị không
phản ánh giá trị thị trường khác”.
8

14


hàng hóa, dịch vụ phi thị trƣờng. Đối với DVMT vốn dĩ khơng có giá thị trƣờng thì
cần phải xác định một mức giá “sẵn lòng trả” (Willingness to pay)9.
1.2.2. Dịch vụ mơi trƣờng là một loại hình dịch vụ cơng cộng
DVMT là một loại hình dịch vụ cơng cộng bởi nó đáp ứng các yếu tố của một
dịch vụ công cộng, bao gồm: chủ thể cung ứng, chủ thể tiếp nhận và mục tiêu.

1.2.2.1. Về chủ thể cung ứng
Theo nhƣ định nghĩa về dịch vụ cơng (có thể hiểu bao hàm cả dịch vụ công
cộng) của tác giả Phạm Quang Lê thì chủ thể cung ứng dịch vụ cơng cộng là các tổ
chức nhà nƣớc hoặc các DN, tổ chức xã hội, tƣ nhân đƣợc nhà nƣớc ủy quyền cung
ứng các dịch vụ công cộng cho xã hội. Đây vốn dĩ là một chức năng, nhiệm vụ của
nhà nƣớc, tuy nhiên nhà nƣớc đã chuyển giao việc thực hiện các chức năng đó cho
các DN, tổ chức tƣ nhân, tổ chức xã hội nhằm giảm bớt gánh nặng cho mình và tăng
hiệu quả cung ứng dịch vụ hơn nhờ vào các nguồn lực từ tƣ nhân. Đối với DVMT,
bên cung ứng dịch vụ “thông thường là những người tạo ra các DVMT hay những
người có quyền sở hữu tài nguyên (thường là đất đai) có khả năng tạo ra các
DVMT. Bên cung ứng cũng có thể là cá nhân (sở hữu tư nhân, cộng đồng (sở hữu
tập thể) hoặc các cơ quan nhà nước (sở hữu nhà nước)”10. Vì môi trƣờng và các
loại tài nguyên (đất, nƣớc, rừng…) là một loại hàng hóa “đặc biệt”, thuộc sở hữu
của tồn dân và do nhà nƣớc quản lý nên nhà nƣớc cũng là chủ thể có chức năng
cung cấp các DVMT. Ngồi ra, bên cung ứng DVMT cũng có thể là “những người
tạo ra các DVMT” nên việc các cá nhân, DN, các tổ chức xã hội có thể tham gia
vào cung ứng DVMT là hồn tồn có thể nếu họ có khả năng cung cấp dịch vụ này
hoặc đƣợc nhà nƣớc ủy quyền thực hiện thông qua cơ chế hợp tác, đầu tƣ.
1.2.2.2. Về chủ thể tiếp nhận
Hoàn toàn giống với dịch vụ công cộng, chủ thể tiếp nhận (hay bên mua
DVMT) là những ngƣời trực tiếp sử dụng các DVMT hoặc đƣợc hƣởng các lợi ích
từ DVMT, có thể kể đến nhƣ những ngƣời sử dụng dịch vụ thu gom, xử lý rác thải
sinh hoạt; các DN sử dụng dịch vụ thiết kế, chế tạo, xây dựng hệ thống xử lý chất
Có thể lấy ví dụ về mức giá “sẵn lòng trả” này: giá vé tham quan Vƣờn quốc gia Nam Cát
Tiên (đây là loại hình dịch vụ du lịch cảnh quan) là 60.000 đồng/ngƣời đối với ngƣời từ đủ 16 tuổi
trở lên9. Tham quan Vƣờn quốc gia là một loại hình DVMT nhằm thực hiện chức năng giải trí, du
lịch, giáo dục của mơi trƣờng. Tuy nhiên, mức giá 60.000 đồng cho mỗi lƣợt tham quan không
phản ánh một cách đầy đủ và chính xác giá trị thực tế của Vƣờn quốc gia Nam Cát Tiên và giá trị
mà ngƣời tham quan đƣợc thụ hƣởng từ việc sử dụng dịch vụ này. Nên mức giá này đƣợc xem là
một mức giá ƣớc tính.

10
Cao Trƣờng Sơn (2015), “Chi trả dịch vụ môi trƣờng – Công cụ mới trong quản lý tài
ngun và mơi trƣờng”, Tạp chí Tài ngun và Môi trường, số 21 (227)/2015, tr.25.
9

15


thải,… Bên mua DVMT có thể là cá nhân, tổ chức hoặc thậm chí là nhà nƣớc. Nhà
nƣớc sử dụng các DVMT này có thể nhằm duy trì các DVMT đó hoặc để thực hiện
các chức năng cơ bản của mình trong việc BVMT. Chẳng hạn nhƣ có một sự cố tràn
dầu xảy ra trên một vùng biển rộng thuộc lãnh hải của quốc gia ven biển, trƣờng
hợp này, quốc gia đó có thể tự mình khắc phục sự cố môi trƣờng trên hoặc sử dụng
dịch vụ từ một DN DVMT chuyên cung cấp các dịch vụ khắc phục, cải tạo môi
trƣờng bị ô nhiễm nhằm BVMT.
1.2.2.3. Mục tiêu
Mục tiêu của DVMT là cung cấp những dịch vụ thiết yếu nhất cho cộng đồng,
xã hội liên quan đến các lĩnh vực về môi trƣờng, đồng thời cũng cung ứng các dịch
vụ nhằm phòng ngừa, giảm thiểu sự tác động của hoạt động kinh doanh, sản xuất
đến môi trƣờng. Thông qua hoạt động cung ứng các dịch vụ này, DVMT không chỉ
mang lại những lợi ích về kinh tế nhất định mà cịn góp phần BVMT một cách “trực
tiếp” hoặc “gián tiếp”, tạo nên một môi trƣờng trong sạch cho cộng đồng. Trong khi
đó, dịch vụ cơng cộng cũng cung cấp các dịch vụ phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của
cộng đồng, của công dân, đảm bảo sự công bằng và ổn định xã hội, trong đó bao
gồm nhu cầu đƣợc sống trong một môi trƣờng trong sạch và lành mạnh. Vậy nên có
thể nói mục tiêu của việc cung ứng DVMT nói riêng và dịch vụ cơng cộng nói
chung là không khác nhau và không tách rời nhau.
1.3. Tầm quan trọng của dịch vụ môi trƣờng đối với phát triển bền vững
Nhƣ đã nói, mọi hoạt động sống của con ngƣời đều có xu hƣớng tác động vào
mơi trƣờng. Và sự phát triển của xã hội loài ngƣời và của mỗi cá nhân là “sự tổng

hợp hài hòa các yếu tố, các mối quan hệ nội tại giữa các thành phần trong xã hội,
mà mối quan hệ cơ bản làm nền tảng cho sự phát triển của con người đó chính là
mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và mơi trường11”. Có thể thấy DVMT là một
ngành dịch vụ có sự tổng hịa giữa phát triển kinh tế và BVMT, bảo tồn nguồn tài
nguyên thiên nhiên, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội bền
vững của mỗi quốc gia, trong đó có cả Việt Nam. Ngoài ra, phát triển DVMT cũng
làm tăng cƣờng năng lực xử lý chất thải của quốc gia.
Thứ nhất, DVMT là một ngành kinh tế mang lại những giá trị về mặt kinh tế
nhất định thông qua việc cung ứng dịch vụ cho các đối tƣợng có nhu cầu. Theo số
liệu thống kê của Viện nghiên cứu Thƣơng mại, “Năm 2014, thương mại tồn cầu
đối với hàng hóa - DVMT đạt khoảng 4.000 tỷ USD, ước tính con số này sẽ tăng lên
Phan Thỵ Tƣờng Vy (2006), Pháp luật mơi trường Việt Nam trong xu hướng thương mại
hóa môi trường, Luận văn thạc sĩ luật học,Trƣờng đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.21.
11

16


10.000 tỷ USD vào năm 2020 với tốc độ tăng trưởng rất cao. Tại thị trường Việt
Nam, năm 2014 đã đạt 20 tỷ USD, chiếm 0,5% thị trường toàn cầu và đứng thứ 33
trong Top 50 quốc gia trên thị trường hàng hóa - DVMT của thế giới12”. Con số
này chính là con số cụ thể hóa những tiềm năng về kinh tế mà DVMT có thể mang
lại cho khơng chỉ riêng Việt Nam mà còn các quốc gia trên thế giới. Bên cạnh đó,
các yêu cầu, điều kiện về đảm bảo an tồn mơi trƣờng ngày càng đƣợc nâng lên đối
với các DN sản xuất, nên kéo theo đó sẽ là sự phát triển của các ngành dịch vụ về
phát triển, chuyển giao công nghệ sản xuất thân thiện với môi trƣờng, công nghệ
môi trƣờng; dịch vụ quan trắc, phân tích mơi trƣờng; dịch vụ giám định về mơi
trƣờng đối với máy móc, thiết bị, cơng nghệ, giám định thiệt hại về môi trƣờng…
Những ngành dịch vụ trên phát triển cũng sẽ dẫn đến một hệ quả tất yếu có lợi cho
nền kinh tế, chính là sự phát triển của nền khoa học công nghệ của nƣớc nhà, giúp

cho nền kinh tế phát triển một cách hiệu quả và nhanh chóng nhất.
Thứ hai, DVMT là biện pháp hiệu quả nhằm BVMT và quản lý bền vững nguồn
tài nguyên thiên nhiên, giúp cân bằng hai yếu tố kinh tế và mơi trƣờng. Nhƣ đã nói,
DVMT có vai trị BVMT một cách “trực tiếp” và “gián tiếp”. Những loại hình
DVMT nhƣ thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải, thiết kế, xây dựng hệ thống xử lý
chất thải hay khắc phục và cải tạo môi trƣờng đã làm giảm một lƣợng đáng kể các
chất thải phát sinh trong môi trƣờng, đồng thời cũng khắc phục đƣợc những vấn đề về
ô nhiễm môi trƣờng do hoạt động của con ngƣời gây ra. Đây là hình thức BVMT một
cách trực tiếp và hiệu quả của nó đƣợc thể hiện ra một cách rõ ràng. Bên cạnh đó,
những loại hình DVMT khác nhƣ dịch vụ quan trắc, phân tích mơi trƣờng; dịch vụ
giám định về mơi trƣờng đối với máy móc, thiết bị, cơng nghệ, giám định thiệt hại về
môi trƣờng; dịch vụ phát triển, chuyển giao công nghệ sản xuất thân thiện với môi
trƣờng… lại đƣa ra những giải pháp nhằm đảm bảo môi trƣờng sẽ không bị ô nhiễm
thông qua các việc phát triển cơng nghệ, máy móc xử lý hoặc thơng qua việc rà soát,
kiểm tra ban đầu những yếu tố có thể ảnh hƣởng xấu đến mơi trƣờng và nguồn tài
ngun thiên nhiên. Từ đó, duy trì đƣợc chất lƣợng ổn định của môi trƣờng.
Thứ ba, DVMT thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ. Đây là một trong
những vai trò quan trọng của ngành DVMT. Khi DVMT phát triển sẽ kéo theo sự
phát triển về khoa học, công nghệ về ngành dịch vụ này liên quan đến các lĩnh vực
về xử lý chất thải, quản lý môi trƣờng. Sự phát triển đó đã góp phần nâng cao năng

Thùy Dƣơng, “Nhiều tiềm năng phát triển thị trƣờng hàng hóa - dịch vụ môi trƣờng”,
truy cập ngày 22/6/2017.
12

17


lực xử lý chất thải và năng lực BVMT của quốc gia, tạo nên uy tín của các quốc gia
về mơi trƣờng trên thế giới.

Thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa thị trƣờng, Việt Nam đã đạt đƣợc
những thành tựu nhất định trong phát triển kinh tế và nâng cao đời sống của ngƣời
dân. Tuy nhiên, với một nền kinh tế đang phát triển chủ yếu dựa trên các ngành
cơng nghiệp khai khống, cơng nghiệp chế biến thì việc phát triển kinh tế cũng
đồng nghĩa với đánh đổi các lợi ích về mơi trƣờng, làm cho mơi trƣờng suy thối và
ơ nhiễm nặng nề. Từ đó cho thấy, DVMT là một ngành kinh tế có thể mang lại sự
tổng hịa giữa lợi ích kinh tế và lợi ích về môi trƣờng, đảm bảo đƣợc sự phát triển
bền vững trong tƣơng lai đối với đất nƣớc.
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của ngành dịch vụ này, nhà nƣớc ta cũng đã
có những chủ trƣơng nhằm xây dựng các đề án, chính sách phát triển ngành dịch vụ
này. Theo đó, mục tiêu đƣợc đề ra trong Quyết định số 249/QĐ-TTg ngày
10/02/2010 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án phát triển DVMT
đến năm 2020 là: “Phát triển DVMT nhằm cung ứng dịch vụ BVMT cho các ngành,
lĩnh vực, địa phương; tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực dịch vụ trong nền kinh tế,
tạo thêm việc làm và hướng tới mục tiêu phát triển bền vững đất nước”. Đây là tiền
đề cho những chính sách, đề án phát triển DVMT trong những năm tiếp theo nhằm
thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của ngành dịch vụ này nhƣ Khung chính sách, pháp
luật về phát triển DVMT đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt trong Quyết định số
1570/QĐ-TTg ngày 09/8/2016; Đề án phát triển mạng lƣới DNDVMT đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030 đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt trong Quyết
định số 1463/QĐ-TTg ngày 22/7/2016. Đề án này cũng nêu rõ tầm quan trọng của
việc phát triển các DN DVMT tại Việt Nam, đó là: “nhằm tăng cường năng lực xử
lý chất thải, kiểm soát và khắc phục ô nhiễm, nâng cao chất lượng môi trường; phù
hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội của đất nước, thể chế kinh tế thị trường
và các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); trên cơ sở quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và điều kiện thực tế của từng vùng kinh tế, từng
địa phương, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững”.
Có thể nói, DVMT là một ngành dịch vụ đang có tiềm năng phát triển ở Việt
Nam hiện nay. Với dự đoán về sự tăng trƣởng cao trong tƣơng lai, DVMT chính là
yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nƣớc, thúc đẩy

nền kinh tế đi lên, góp phần nâng cao đời sống xã hội.

18


1.4. Kinh nghiệm của các nƣớc trong phát triển dịch vụ môi trƣờng và những
vấn đề đặt ra đối với Việt Nam
Xu thế chung của sự phát triển hiện nay chính là phát triển bền vững. Vậy nên
phát triển ngành DVMT cũng trở thành vấn đề quan trọng trong chính sách phát
triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới. Nhìn chung, Việt Nam là một quốc gia
đƣợc đánh giá là có tiềm năng trong ngành DVMT. Tuy nhiên, với nhiều nguyên
nhân từ chính sách phát triển, nguồn vốn, năng lực về con ngƣời, về khoa học công
nghệ đã ảnh hƣởng không nhỏ đến sự cạnh tranh và phát triển DVMT ở Việt Nam
so với các quốc gia phát triển trên thế giới. Các quốc gia nhƣ Anh, Mỹ, Nhật Bản,
Nam Phi là những quốc gia có ngành DVMT rất phát triển hiện nay. Sự phát triển
đó xuất phát từ nhiều yếu tố và sự tận dụng ƣu điểm của từng quốc gia. Đó cũng
chính là những điểm mà Việt Nam cịn thiếu sót và cần phải học hỏi để hoàn thiện
hơn cơ chế phát triển ngành DVMT của mình.
Thứ nhất, về cách phân loại các ngành DVMT: Các quốc gia phát triển trên thế
giới hiện nay có cách phân loại ngành DVMT rất rõ ràng và có lĩnh vực khá tƣơng
đồng với danh mục các ngành DVMT của các tổ chức trên thế giới (WTO,
OECD…). Việc có một danh mục cụ thể, rõ ràng về các ngành DVMT giúp cho các
quốc gia có những chính sách đầu tƣ cụ thể và phù hợp với từng lĩnh vực, ngành cụ
thể mà vẫn đảm bảo sự cân bằng và phát triển toàn diện giữa các ngành. Ngoài ra,
việc phân loại các ngành DVMT bao gồm các ngành tƣơng tự với các tổ chức thế
giới giúp cho các quốc gia có thể tiếp cận với các chính sách, nguồn vốn hỗ trợ từ
nƣớc ngoài một cách thuận lợi hơn rất nhiều. Có thể lấy ví dụ cụ thể về việc phân
loại các ngành DVMT ở Anh. Ở Anh, ngƣời ta sử dụng thuật ngữ “Dịch vụ sinh
thái” (Ecosystem services) thay cho thuật ngữ “Dịch vụ môi trƣờng” và ngành dịch
vụ này đƣợc chia thành 4 nhóm dịch vụ chính dựa trên The Millennium Ecosystem

Assessment (MA) (Báo cáo Đánh giá Hệ sinh thái Thiên niên kỷ)13, dựa trên chức
năng của từng DVMT:
(i) Nhóm dịch vụ hỗ trợ (Supporting services): đây là nhóm dịch vụ “cần thiết
cho việc sản xuất tất cả các dịch vụ sinh thái khác” nhƣ: dịch vụ tái tạo chất dinh
dƣỡng (nutrient recycling), sản xuất sơ cấp (primary production) và hình thành đất
(soil formation).

“Ecosystem
Services”,
/>aspx, truy cập ngày 14/7/2017.
13

19


(ii) Nhóm dịch vụ cung cấp (Provisioning services): cung cấp các sản phẩm
thu đƣợc từ hệ sinh thái, bao gồm: nƣớc, thực phẩm, nguyên vật liệu, nguồn gen,
khoáng sản sinh học, năng lƣợng, tài ngun trang trí…
(iii) Nhóm dịch vụ điều chỉnh (Regulating services): là những dịch vụ mang
lại lợi ích từ việc điều chỉnh quy trình của hệ sinh thái nhƣ: Hấp thụ cacbon và
điều tiết khí hậu, phân hủy chất thải và giải độc, làm sạch nƣớc và khơng khí,
kiểm sốt sâu bệnh.
(iv) Nhóm dịch vụ văn hóa (Cultural services): nhóm dịch vụ này mang lại
những lợi ích phi vật chất mà con ngƣời có đƣợc từ các hệ sinh thái nhƣ: giá trị tinh
thần, tín ngƣỡng, giá trị văn hóa, du lịch…
Cách phân loại nhƣ vậy tạo thuận lợi lớn cho sự quản lý và phân bổ các chính
sách hỗ trợ đầu tƣ và phát triển một cách phù hợp. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam
vẫn chƣa có một hệ thống, danh mục phân loại các ngành DVMT một cách rõ ràng.
Các ngành DVMT ở nƣớc ta chỉ mới đƣợc liệt kê trong các đề án, khung chính sách
về phát triển một số ngành DVMT cụ thể, nhìn chung là chƣa đầy đủ. Ngồi ra,

những ngành DVMT khác thì lại quy định trong các văn bản pháp luật khác nhau,
rời rạc và khơng có sự thống nhất về cơ chế phân loại DVMT. Sự phát triển chƣa
đồng bộ các ngành DVMT khiến cho một số ngành DVMT cũng còn khá mới mẻ
trên thị trƣờng và hệ thống các ngành DVMT ở nƣớc ta vẫn còn chƣa thực sự hồn
chỉnh để có thể phân loại.
Thứ hai, về chính sách phát triển các ngành DVMT, đây là vấn đề quyết định
đến sự phát triển của ngành DVMT trong mỗi quốc gia. Nhìn chung, các quốc gia
có ngành DVMT phát triển đều có những chính sách hỗ trợ đầu tƣ ngành nghề một
cách hiệu quả và toàn diện. Các quốc gia có ngành DVMT phát triển trên thế giới
nhƣ Anh, Mỹ, Nam Phi… đều có những chính sách pháp luật khá hiệu quả nhằm
thúc đẩy ngành DVMT phát triển và các hoạt động BVMT. Đây là những quốc gia
nằm trong top 10 các quốc gia có chính sách pháp luật về môi trƣờng phát triển theo
Chỉ số dân chủ về mơi trƣờng (Environmental Democracy Index). Theo đó, vấn đề
quan trọng trong việc phát triển DVMT chính là phát triển nhƣng vẫn tạo sự cân
bằng giữa nhu cầu của con ngƣời với khả năng cung ứng của hệ sinh thái. Một vấn
đề khác biệt giữa các quốc gia phát triển ngành DVMT với một số quốc gia khác
chính là xác định rõ quyền sử dụng đất và vốn, vốn là vấn đề thƣờng xảy ra bất cập
tại các nƣớc đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Ngồi ra, các quốc gia này cịn
có một cơ chế quản lý nhà nƣớc rất hiệu quả đối với dịch vụ cơng nói chung và các

20


×