Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Quy định pháp luật về chuyển nợ thành vốn của doanh nghiệp (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (629.31 KB, 56 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
---oOo---

NGUYỄN TRẦN QUỲNH ANH

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
CHUYỂN NỢ THÀNH VỐN
CỦA DOANH NGHIỆP

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP. HCM – 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
---oOo---

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
CHUYỂN NỢ THÀNH VỐN
CỦA DOANH NGHIỆP

SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN TRẦN QUỲNH ANH
KHÓA: K35 – MSSV: 1055010009
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. PHẠM TRÍ HÙNG



TP. HỒ CHÍ MINH – 2014


 

LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Trần Quỳnh Anh, là tác giả của Khóa luận tốt nghiệp Cử
nhân Luật – chuyên ngành Luật Thương mại, Đề tài: “Quy định pháp luật về
chuyển nợ thành vốn của doanh nghiệp” (sau đây gọi là khóa luận).
Tơi xin cam đoan tất cả nội dung trong khóa luận này hồn tồn được thực
hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sỹ Phạm Trí Hùng – Giảng viên Khoa
Luật Thương mại, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh. Tất cả các ý kiến, quan
điểm khoa học được tác giả tham khảo và trích dẫn đều được ghi nhận trong Danh
mục tài liệu tham khảo ở phần cuối khóa luận và tuân thủ các quy định của pháp
luật về sở hữu trí tuệ. Tơi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước nhà trường về lời
cam đoan này.
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Trần Quỳnh Anh


 

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Cụm từ được viết tắt

AMC


Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc
Ngân hàng thương mại

DATC

Công ty mua bán nợ Việt Nam

NHTM

Ngân hàng thương mại

TCTC

Tổ chức tín dụng

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

VAMC

Cơng ty quản lý tài sản của các Tổ chức tín dụng


 

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………….1
1.


Tính cấp thiết của đề tài………………………………………………………1

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài………………………………………………….. 2

3.

Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………… 3

4.

Phương pháp tiến hành nghiên cứu………………………………………….. 4

5.

Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài…………………………….. 4

6.

Kết cấu đề tài………………………………………………………………… 5

Chương 1: Những vấn đề chung về chuyển nợ thành vốn của doanh nghiệp…. 6
1.1

Khái niệm chuyển nợ thành vốn…………………………………………...7

1.1.1 Đặc điểm của chuyển nợ thành vốn…………………………………………. 9
1.1.1.1 Chuyển nợ thành vốn là một giao dịch……………………………… 9

1.1.1.2 Chủ nợ trong giao dịch chuyển nợ thành vốn……………………… 12
1.1.1.3 Chủ nợ tham gia tái cơ cấu doanh nghiệp………………………….. 15
1.1.1.4 Cách xác định giá chuyển đổi nợ thành vốn……………………….. 16
1.1.2 Phân loại hình thức chuyển nợ thành vốn………………………………….. 17
1.1.2.1 Căn cứ vào loại hình doanh nghiệp khách nợ……………………… 17
1.1.2.2 Căn cứ vào loại chủ nợ trong hoạt động chuyển nợ thành vốn…….. 17
1.2

Ý nghĩa của hoạt động chuyển nợ thành vốn…………………………… 17

1.2.1 Ý nghĩa của chuyển nợ thành vốn đối với chủ nợ…………………………. 18
1.2.2 Ý nghĩa chuyển nợ thành vốn đối với khách nợ…………………………… 19
1.2.3 Tác động của chuyển nợ thành vốn đến nền kinh tế……………………….. 19
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1………………………………………………………… 20
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về chuyển nợ thành vốn và đề xuất
hoàn thiện pháp luật……………………………………………………………… 21
2.1

Quy định pháp luật về chuyển nợ thành vốn……………………………. 21

2.1.1 Quy định về chủ nợ của hoạt động chuyển nợ thành vốn………………….. 21
2.1.1.1 Chủ nợ là công ty mua bán nợ Việt Nam…………………………...21
2.1.1.2 Chủ nợ là Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam………. 23


 

2.1.1.3 Chủ nợ là doanh nghiệp khác………………………………………. 24
2.1.2 Đối tượng của hoạt động chuyển nợ thành vốn……………………………. 26
2.1.3 Cơ chế và thủ tục tiến hành hoạt động chuyển nợ thành vốn………………. 28

2.1.3.1 Chuyển nợ thành vốn thông qua DATC……………………………. 28
2.1.3.2 Chuyển nợ thành vốn thông qua VAMC…………………………… 30
2.1.3.3 Chủ nợ tự mình chuyển nợ thành vốn của doanh nghiệp khách nợ…33
2.1.4 Thực trạng áp dụng pháp luật về chuyển nợ thành vốn thơng qua một số vụ
việc điển hình……………………………………………………………………… 35
2.1.4.1 Vụ chuyển nợ thành vốn của công ty Sadico Cần Thơ…………….. 36
2.1.4.2 Vụ chuyển nợ thành vốn của công ty Thủy sản Bình An…………... 39
2.2

Đề xuất hồn thiện pháp luật về chuyển nợ thành vốn…………………. 42

2.2.1 Hoàn thiện các quy định hiện hành về hoạt động chuyển nợ thành vốn của
DATC, VAMC và các AMC………………………………………………………. 42
2.2.2 Ban hành các quy định mới tạo thuận lợi cho các TCTD và các doanh nghiệp
tự mình chuyển nợ thành vốn……………………………………………………… 44
2.2.3 Hồn thiện pháp luật về mua, bán nợ để thúc đẩy thị trường mua bán nợ…. 44
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2………………………………………………………… 46
KẾT LUẬN……………………………………………………………………….. 47


 

LỜI MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Chuyển nợ thành vốn của doanh nghiệp có lẽ khơng cịn là thuật ngữ xa lạ tại
Việt Nam khi nó đang dần trở thành một trong những hướng đi đáng xem xét để tái
sinh nhiều doanh nghiệp và giải quyết các khoản nợ khơng có khả năng thanh tốn

của các doanh nghiệp trong thời gian gần đây. Trong tình hình kinh tế suy thoái như
hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đều phải vay nợ để tiến hành hoạt động kinh
doanh, có thể là vay từ công ty mẹ hay từ các tổ chức tín dụng (TCTD)… nhưng lại
khó hồn trả đúng thời hạn, các khoản nợ để lâu ngày có thể được giải quyết theo
các thủ tục khác nhau. Nhiều chủ nợ, đặc biệt chủ nợ là TCTD đã từng bước áp
dụng thủ tục chuyển nợ thành vốn để giải quyết các khoản nợ quá hạn, nợ xấu và
giúp cho doanh nghiệp khách nợ thốt khỏi khó khăn tài chính, có hồ sơ sạch sẽ để
tiếp tục và duy trì hoạt động kinh doanh.
Có thể kể đến các doanh nghiệp điển hình đã được áp dụng thủ tục chuyển
nợ thành vốn như Tập đồn Thái Hịa, Cơng ty cổ phần Đường Kon Tum, Công ty
Sadico Cần Thơ, Công ty cổ phần Chế biến Thực phẩm Phương Nam, Công ty cổ
phần Thủy sản Bình An… Hiện nay, các doanh nghiệp này đã phần nào phục hồi
hoạt động kinh doanh thông qua sự hỗ trợ về nghiệp vụ của Công ty mua bán nợ
Việt Nam (DATC) trong thủ tục chuyển nợ thành vốn. Sự thật là các thương vụ
chuyển nợ thành vốn của doanh nghiệp ở Việt Nam chủ yếu được thực hiện thông
qua DATC, do đó nhiều người sẽ hiểu nhầm rằng DATC là chủ thể duy nhất có khả
năng và chức năng thực hiện hoạt động chuyển nợ thành vốn ở nước ta. Nguyên
nhân chính là do trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, các quy định về hoạt
động của DATC được ghi nhận từ năm 2003 trong đó có quy định về chuyển nợ
thành vốn của doanh nghiệp còn đối với các chủ thể khác thì chưa được ghi nhận rõ
ràng, cụ thể trong một văn bản pháp luật nào. Cũng cần đề cập đến Công ty quản lý
tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) vừa mới được thành lập và đi vào hoạt
động từ năm 2013. Nhưng do hoạt động của VAMC còn non trẻ và chỉ nhằm mục
đích giải quyết nợ của các TCTD, trên thực tế, VAMC chưa tiến hành chuyển một
khoản nợ nào thành vốn, nên thông qua các vụ việc cụ thể, người ta chỉ mới nhận
biết hoạt động chuyển nợ thành vốn thơng qua DATC mà khó biết đến hoạt động
của VAMC cũng như việc chủ nợ tự mình tiến hành chuyển nợ thành vốn của doanh
nghiệp đã được ghi nhận bởi các quy định rải rác tại Luật Doanh nghiệp và Bộ luật
Dân sự Việt Nam hiện hành. Đây là một thủ tục có ý nghĩa quan trọng trong sự
nghiệp xử lý nợ, nâng cao chất lượng nền kinh tế của nước ta nên không chỉ các bên

1


 

chủ nợ và khách nợ mà các chủ thể khác của nền kinh tế cần phải có một cái nhìn
tồn diện và tổng thể về chuyển nợ thành vốn của doanh nghiệp để nhìn nhận đúng
đắn về việc áp dụng thủ tục này trên thực tế.
Chuyển nợ thành vốn của doanh nghiệp đóng một vai trị tương đối quan
trọng trong tình hình kinh tế Việt Nam hiện nay, nếu được quản lý một cách chặt
chẽ, thủ tục này có thể giúp nhiều doanh nghiệp phục hồi và tiếp tục hoạt động ổn
định, nâng cao chất lượng nền kinh tế cũng như các vấn đề xã hội. Ở một khía cạnh
khác, nhiều doanh nghiệp cũng có thể sử dụng hoạt động chuyển nợ thành vốn như
là một phương thức để thôn tính các doanh nghiệp khác, gây nhiều ảnh hưởng tiêu
cực cho doanh nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung.
Do đó, việc có cái nhìn tổng quan và toàn diện về chuyển nợ thành vốn của
doanh nghiệp trong nền kinh tế hiện nay đồng thời xem xét, đánh giá các quy định
của pháp luật về chuyển nợ thành vốn là một yêu cầu cấp thiết để từ đó có thể đưa
ra một cơ chế quản lý đồng bộ và hiệu quả cho hoạt động này trên thực tiễn. Với
mong muốn này, tác giả đã chọn nghiên cứu và trình bày về đề tài “Quy định pháp
luật về chuyển nợ thành vốn của doanh nghiệp”.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Đây là một đề tài mới và hầu như chưa có cơng trình nào nghiên cứu một
cách tồn diện về vấn đề này. Hiện nay, chỉ có một vài cơng trình nghiên cứu có
liên quan đến một phần nội dung trong đề tài mà tác giả lựa chọn, đó là:
-


Nguyễn Thị Bích Mai, 2010, Luận văn Thạc sỹ: Pháp luật về hoạt động mua
bán nợ của các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng.

-

Hồng Đình Trung, 2007, Chuyên đề thực tập tốt nghiệp: Chuyển đổi nợ
sang vốn chủ sở hữu.

Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Thị Bích Mai chỉ tập trung phân tích các quy
định pháp luật về hoạt động mua bán nợ và thực tiễn áp dụng, mà cụ thể là cơ chế
hoạt động mua bán nợ theo quy định của pháp luật của Cơng ty mua bán nợ quốc
gia DATC. Cịn đối với chun đề thực tập tốt nghiệp của Hồng Đình Trung, ngoại
trừ việc nêu ra cơ chế hoạt động của DATC theo quy định của pháp luật, các phần
còn lại của chuyên đề đều được tiếp cận từ góc độ kinh tế. Đồng thời, cả luận văn
và chuyên đề này được tiến hành trước khi VAMC ra đời (năm 2013) nên chưa đề
cập và phân tích các hoạt động của VAMC từ góc độ pháp lý cũng như trên phương
diện kinh tế. Mặt khác, từ khi các đề tài trên ra đời, các quy định pháp luật về hoạt
động chuyển nợ thành vốn cũng đã có nhiều thay đổi, nhiều văn bản đã hết hiệu lực
2


 

và được thay thế, cho nên cơ sở pháp lý mà các đề tài nghiên cứu áp dụng đã có
phần khơng phù hợp với tình hình hiện nay.
Ngồi ra, cịn có nhiều bài viết được đăng trên báo và tạp chí cũng có liên
quan một phần đến đề tài nghiên cứu như:
-

Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Ngọc Linh, 2014, “Xử lý nợ xấu bằng biện pháp

chuyển nợ thành vốn góp tại Việt Nam - Hiện trạng và kiến nghị”, Tạp chí
Ngân hàng, (số 7), tr. 8-11.

-

Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Thị Hương Thanh, 2014, “Thị trường mua bán nợ
- góc nhìn từ lý thuyết cung cầu”, Tạp chí Ngân hàng, (số 4), tr. 17-22.

Các bài viết trên chỉ mới nhìn nhận và đánh giá hoạt động chuyển nợ thành
vốn từ góc độ lý thuyết về kinh tế và thực tiễn hoạt động mà chưa có cái nhìn từ góc
độ pháp lý.
Tuy nhiên, thơng qua các tài liệu nói trên, cùng với nguồn thông tin dồi dào
trên mạng Internet, hiểu biết của tác giả về hoạt động chuyển nợ thành vốn của
doanh nghiệp đã phần nào được củng cố và tạo nên cơ sở để tác giả tiến hành
nghiên cứu đề tài của mình.
3.

Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Mục đích chính của khóa luận tốt nghiệp là:

-

Tổng hợp các quy định pháp luật riêng lẻ về chuyển nợ thành vốn của doanh
nghiệp trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện tại;

-

Nghiên cứu về cơ sở lý luận cũng như bản chất pháp lý của việc chuyển nợ
thành vốn, cũng như trình bày cơ chế, thủ tục của hoạt động chuyển nợ thành
vốn của doanh nghiệp một cách trực tiếp hoặc thông qua Công ty mua bán nợ

quốc gia hoặc Công ty quản lý tài chính của các TCTD, sau đó phân tích
thực trạng áp dụng của hoạt động này tại Việt Nam thông qua một vài vụ
chuyển nợ thành vốn cụ thể; và

-

Đưa ra đề xuất hoàn thiện để quản lý hiệu quả hoạt động chuyển nợ thành
vốn của doanh nghiệp trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay.

Tại các nước trên thế giới, nhắc đến chuyển nợ thành vốn không chỉ bao hàm
việc chuyển nợ thành vốn của các doanh nghiệp trong nước, mà cịn có nghĩa là việc
chuyển nợ của quốc gia đang phát triển thành vốn trong các doanh nghiệp nội địa.
Tuy nhiên, vì hạn chế về thời gian cũng như khả năng nghiên cứu, đối tượng nghiên
cứu của đề tài chỉ giới hạn trong các quy định pháp luật về chuyển nợ thành vốn của
3


 

doanh nghiệp tại Việt Nam, các vụ chuyển nợ thành vốn điển hình trên thực tế và
những yêu cầu của thực tiễn khách quan cần phải được điều chỉnh bởi quy định
pháp luật, bên cạnh đó là một vài kinh nghiệm tại các nước phát triển nhằm có đủ
cơ sở đưa ra những kiến nghị hồn thiện.
Dựa trên mục đích và đối tượng nghiên cứu nói trên, phạm vi nghiên cứu của
đề tài khóa luận chỉ giới hạn trong việc tìm hiểu và tổng hợp những quy định liên
quan đến bản chất pháp lý, nội dung và hình thức của chuyển nợ thành vốn của
doanh nghiệp, hệ thống hóa để đưa đến các kết luận cơ bản, đưa ra một vài vụ việc
chuyển nợ thành vốn thực tế tại Việt Nam và một vài đề xuất trong việc đồng bộ cơ
chế quản lý và hệ thống pháp luật để nâng cao hiệu quả thực hiện trên thực tiễn.
4.


Phương pháp tiến hành nghiên cứu

Trong phần vấn đề chung về chuyển nợ thành vốn của doanh nghiệp, tác giả
chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn: các thông tin được thu thập từ
sách, báo, tạp chí, sau đó được phân tích, diễn giải và so sánh với nhau để đưa ra cái
nhìn tổng quan cho từng nội dung.
Trong phần thực trạng quy định của pháp luật và đề xuất hoàn thiện pháp
luật, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp để hệ thống hóa các quy định rải rác
trong hệ thống pháp luật Việt Nam và liên hệ thực tiễn để đưa ra một vài đề xuất
hoàn thiện cho hoạt động này trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Ngoài ra, trong tồn bộ khóa luận, tác giả cịn sử dụng các phương pháp biện
chứng, logic, đánh giá tổng quan để có cái nhìn đa diện về vấn đề được nghiên cứu,
nâng cao chất lượng nghiên cứu của đề tài.
5.

Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài

Khóa luận tốt nghiệp là kết quả nghiên cứu và tổng hợp một cách có hệ
thống những vấn đề về lý luận cũng như thực trạng pháp luật về thủ tục chuyển nợ
thành vốn tại Việt Nam. Nắm được các nội dung lý luận và pháp lý của chuyển nợ
thành vốn của doanh nghiệp sẽ giúp cả chủ nợ và khách nợ đưa ra được những
quyết định sáng suốt khi họ đứng trước lựa chọn phải chuyển nợ thành vốn của
doanh nghiệp. Ngoài ra, đối với các cơ quan Nhà nước, nắm được các vấn đề này sẽ
giúp họ đưa ra những quy định đúng đắn khi ban hành các văn bản pháp luật làm cơ
sở điều chỉnh cho hoạt động này.
Đây là kết quả của một q trình tìm tịi, nghiên cứu nghiêm túc và có trách
nhiệm của tác giả với mong muốn góp phần bổ sung nguồn tài liệu để cho các sinh

4



 

viên tham khảo trong quá trình học tập, đồng thời sẽ là nền tảng quan trọng để tác
giả nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này trong thời gian tới.
6.

Kết cấu đề tài

Ngồi lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận tốt nghiệp được
kết cấu thành 2 chương:
-

Chương 1: Những vấn đề chung về chuyển nợ thành vốn của doanh nghiệp.

Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về chuyển nợ thành vốn và đề xuất
hoàn thiện pháp luật.

5


 

Chương 1: Những vấn đề chung về chuyển nợ thành vốn của doanh nghiệp
Nhắc đến chuyển nợ thành vốn, hầu hết mọi người đều nghĩ đến thủ tục
chuyển một khoản nợ mà doanh nghiệp đã vay thành vốn chủ sở hữu trong chính
doanh nghiệp do chủ nợ nắm giữ đó nhằm mục đích xóa nợ, tăng vốn điều lệ trong
sổ sách và cân đối tỉ lệ nợ/vốn… Do đó có thể xem hoạt động chuyển nợ thành vốn
là một hình thức cứu cánh cho các doanh nghiệp khi khơng có khả năng trả nợ và

nằm trong tình hình tài chính tiêu cực. Tuy nhiên, cịn có một hình thức khác, mà
xét về mặt bản chất cũng được xem là chuyển nợ thành vốn, đó chính là sử dụng trái
phiếu chuyển đổi. Việc phát hành trái phiếu chuyển đổi được quy định tại Nghị định
số 90/2011/NĐ-CP1 và Thông tư số 211/2012/TT-BTC2 trong đó trái phiếu chuyển
đổi là loại trái phiếu do cơng ty cổ phần phát hành, có thể chuyển đổi thành cổ phiếu
phổ thông của doanh nghiệp phát hành theo điều kiện đã được xác định trong
phương án phát hành trái phiếu. Trái phiếu doanh nghiệp là loại chứng khoán nợ do
doanh nghiệp phát hành, xác nhận nghĩa vụ trả gốc, lãi và các nghĩa vụ khác của
doanh nghiệp đối với chủ sở hữu trái phiếu, do đó đây cũng là một khoản nợ của
doanh nghiệp đối với người mua trái phiếu. Theo quy định tại Nghị định số
90/2011/NĐ-CP thì khi đáp ứng được các điều kiện đã được xác định trong phương
án phát hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi sẽ được chuyển thành cổ phần phổ
thơng, theo đó chủ sở hữu trái phiếu từ chủ nợ của doanh nghiệp sẽ trở thành cổ
đông phổ thông - chủ sở hữu của doanh nghiệp. Dựa vào tính chất của trái phiếu
chuyển đổi sau này sẽ được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông, chủ thể phát hành
trái phiếu chuyển đổi chỉ có thể là cơng ty cổ phần. Ngồi ra, khơng phải cơng ty cổ
phần nào cũng có thể thực hiện hoạt động này mà chỉ có những cơng ty cổ phần đáp
ứng được điều kiện phát hành trái phiếu chuyển đổi được quy định tại Điều 13 Nghị
định số 90/2011/NĐ-CP mới được phát hành trái phiếu chuyển đổi nói trên. Các vấn
đề khác liên quan đến trái phiếu chuyển đổi đã được quy định cụ thể và chi tiết
trong Nghị định số 90/2011/NĐ-CP và Thông tư số 211/2012/TT-BTC. Tuy đây
cũng được xem là một phương thức chuyển nợ thành vốn, nhưng có phạm vi hẹp vì
chỉ được áp dụng cho công ty cổ phần, đồng thời đây là một hình thức chuyển nợ
thành vốn chủ động, các cơng ty cổ phần khi phát hành trái phiếu chuyển đổi đã lên
kế hoạch cho việc tăng vốn cổ phần vào thời điểm trái phiếu được chuyển thành cổ
phần, do đó khơng phù hợp mục đích nghiên cứu của tác giả, là các trường hợp
doanh nghiệp khơng có khả năng trả nợ và tiến hành chuyển nợ thành vốn. Vì vậy,
                                                            
1


Nghị định số 90/2011/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 14/10/2011 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp
Thông tư số 211/2012/TT-BTC của Bộ Tài Chính ngày 05/12/2012 hướng dẫn thực hiện một số điều của
Nghị định số 90/2011/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 14/10/2011 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp
2

6


 

trong đề tài nghiên cứu này, chuyển nợ thành vốn được hiểu là việc chuyển các
khoản nợ quá hạn, không thể thanh toán được của doanh nghiệp thành vốn chủ sở
hữu mà khơng bao gồm hình thức phát hành trái phiếu chuyển đổi của công ty cổ
phần.
1.1

Khái niệm chuyển nợ thành vốn

Hiện nay chưa có một khái niệm, định nghĩa cụ thể và chính thức nào về thủ
tục chuyển nợ thành vốn được cơng nhận. Trong q trình tìm hiểu và tham khảo từ
các nguồn khác nhau, tác giả xin trình bày và phân tích một số khái niệm chuyển nợ
thành vốn được các tác giả khác sử dụng, từ đó khái qt hoạt động chuyển nợ
thành vốn thơng qua khái niệm chung theo nghiên cứu của mình.
Tác giả Minh Huyền định nghĩa: “Chuyển nợ thành vốn góp là việc một chủ
nợ thay vì thu hồi tiền nợ đã cho doanh nghiệp vay, họ sẽ lấy khoản nợ phải thu đó
để “mua” chính cổ phần của doanh nghiệp (thường là cổ phần phát hành thêm) với
giá tương đương hoặc theo thỏa thuận giữa hai bên. Khi đã là cổ đông, ngân hàng
sẽ trực tiếp/gián tiếp tham gia vào công tác quản lý, hoạch định phương hướng sản
xuất kinh doanh, vực dậy doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp thốt khỏi tình trạng
“lầy lội” trong đống nợ nần.”3

Các tác giả Nguyễn Đức Thọ và Nguyễn Ngọc Linh xác định: “Chuyển nợ
thành vốn góp là việc chủ nợ hoặc tổ chức thay vì thu hồi tiền nợ đã cho doanh
nghiệp vay, họ sẽ lấy khoản nợ phải thu đó để “mua” chính cổ phần của doanh
nghiệp hoặc một đối tác quan tâm mua lại chính khoản nợ đó từ chủ nợ với giá
tương đương hoặc theo thỏa thuận. Khi đó, chủ nợ hoặc người mua nợ sẽ trở thành
chủ sở hữu của doanh nghiệp, đầu tư thêm vốn để tái cơ cấu toàn bộ hoạt động của
doanh nghiệp từ tổ chức nhân sự đến hoạt động kinh doanh và định hướng phát
triển.”4
Hai khái niệm này có nội dung và nội hàm tương tự nhau, tuy nhiên và hai
khái niệm đều này chưa thật chính xác để có thể khái qt tồn bộ nội hàm của
chuyển nợ thành vốn của doanh nghiệp. Bởi vì, các khái niệm trên đề cập đến việc
chuyển nợ thành vốn góp, nhưng lại giải thích là việc mua cổ phần phát hành thêm
trong công ty cổ phần để trở thành cổ đơng, có nghĩa là đã nêu thiếu việc chuyển nợ
thành vốn cổ phần nhưng lại giải thích thiếu chuyển nợ thành vốn góp. Riêng tác
giả Minh Huyền xác định chỉ có ngân hàng là chủ nợ có thể tiến hành thủ tục
                                                            
3

/> Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Ngọc Linh, 2014, “Xử lý nợ xấu bằng biện pháp chuyển nợ thành vốn góp tại
Việt Nam - Hiện trạng và kiến nghị”, Tạp chí Ngân hàng, (số 7), tr. 8-11 
4

7


 

chuyển nợ thành vốn của doanh nghiệp. Như vậy, các khái niệm trên là chưa chính
xác và chưa đầy đủ để thể hiện được bản chất của hoạt động chuyển nợ thành vốn
của doanh nghiệp mà tác giả muốn trình bày.

Hoặc theo từ điển Investopedia, chuyển nợ thành vốn được định nghĩa là một
giao dịch mà các nghĩa vụ (khoản nợ) của một doanh nghiệp hoặc cá nhân được trao
đổi với một vài vật có giá trị (vốn), trong trường hợp cơng ty đại chúng thì điều này
thường địi hỏi việc trao đổi trái phiếu cho cổ phiếu. Giá trị của cổ phiếu và trái
phiếu được xác định bằng giá trị của thị trường tại thời điểm chuyển đổi.5 Định
nghĩa này đồng thời giải thích rằng đây là một thỏa thuận tái cấp vốn mà qua đó chủ
nợ kiếm được một vị trí trong các chủ sở hữu của doanh nghiệp bằng cách xóa bỏ
các khoản nợ. Việc tiến hành chuyển nợ thành vốn nhằm giúp doanh nghiệp tiếp tục
hoạt động (bởi vì khi một cơng ty vỡ nợ khơng thể trả nợ hoặc cải thiện vị thế vốn
chủ sở hữu).
Nhìn chung, các định nghĩa nói trên đều có một điểm chưa chính xác đó là
xác định chỉ tồn tại việc chuyển nợ thành vốn cổ phẩn, tức là thủ tục này chỉ được
áp dụng cho các công ty cổ phần hoặc đồng thời với việc chuyển nợ thành vốn, các
doanh nghiệp phải chuyển đổi loại hình sang cơng ty cổ phần. Điều này là vơ lý bởi
vì khơng hề có một hạn chế nào đối với các loại hình doanh nghiệp khác về việc
chuyển nợ thành vốn góp hoặc tương tự. Điểm hạn chế thứ hai của các định nghĩa
trên là việc xác định giá chuyển đổi của khoản nợ được xác định bằng giá thị trường
tại thời điểm chuyển đổi. Giá trị của khoản nợ vào thời điểm chuyển đổi chắc chắn
sẽ chênh lệch so với giá trị tại thời điểm cho vay, do đó, xác định giá tại thời điểm
chuyển đổi sẽ ảnh hưởng đến bên chủ nợ hoặc bên vay nợ (thường là bên chủ nợ)
cho nên việc áp dụng giá chuyển đổi tại thời điểm chuyển đổi là rất khó xảy ra. Mặt
khác, do đây là một giao dịch nên hai bên có thể thỏa thuận với nhau về giá chuyển
đổi của khoản nợ đó để đạt được mục đích của mình mà khơng ảnh hưởng đến bên
cịn lại.
Từ các khái niệm trên, có thể khái quát việc chuyển nợ thành vốn trước tiên
là một giao dịch, bao gồm chuyển nợ thành vốn góp và vốn cổ phần trong các loại
hình doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Chủ thể của hoạt động này có thể
do chủ nợ của doanh nghiệp trực tiếp tiến hành, hoặc bên thứ ba mua lại khoản nợ
từ chủ nợ, sau đó với tư cách là chủ nợ để tiến hành các thủ tục chuyển nợ thành
vốn và các thủ tục đi kèm sau đó.

                                                            
5

/>
8


 

Qua quá trình nghiên cứu và tổng hợp từ các khái niệm trên, tác giả xin đưa
ra một khái niệm chung theo kiến thức và nghiên cứu của mình cho hoạt động
chuyển nợ thành vốn và sẽ được sử dụng để triển khai nghiên cứu các nội dung
khác trong toàn bộ khóa luận này:
Chuyển nợ thành vốn là một giao dịch trong đó chủ nợ thay vì thu hồi tiền nợ
đã cho doanh nghiệp vay, tự mình hoặc thỏa thuận bán lại một phần hoặc tồn bộ
khoản nợ đó cho bên thứ ba để góp vốn hoặc mua cổ phần của doanh nghiệp bằng
chính khoản nợ của mình với giá thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Kết
quả là chủ nợ và/hoặc người mua nợ sẽ trở thành chủ sở hữu và có đầy đủ mọi
quyền và nghĩa vụ của một chủ sở hữu trong doanh nghiệp, theo đó sẽ tham gia tái
cơ cấu doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hiện hành nhằm khôi phục hoạt
động của doanh nghiệp.
1.1.1 Đặc điểm của chuyển nợ thành vốn
Từ khái niệm trên, có thể nhận thấy rằng chuyển nợ thành vốn có các đặc
điểm: (i) là một giao dịch; (ii) chủ nợ có thể tự mình hoặc bán lại một phần hoặc
toàn bộ khoản nợ cho bên thứ ba để tiến hành chuyển nợ thành vốn; (iii) chủ nợ
tham gia tái cơ cấu doanh nghiệp và (iv) giá chuyển đổi của khoản nợ được các bên
thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
1.1.1.1 Chuyển nợ thành vốn là một giao dịch
Việc chuyển nợ thành vốn của doanh nghiệp chắc chắn phải đạt được sự thỏa
thuận giữa hai chủ thể tiến hành thủ tục chuyển nợ thành vốn, đó là chủ nợ và khách

nợ. Chủ nợ là các tổ chức cá nhân có nợ phải thu và khách nợ là các tổ chức, cá
nhân có nợ phải trả6. Mặc dù doanh nghiệp khách nợ đã rơi vào tình trạng khơng có
khả năng trả nợ nhưng họ lại khơng muốn giải quyết theo hướng chuyển nợ thành
vốn, hoặc vì nhiều lý do mà chính chủ nợ khơng muốn tiến hành chuyển nợ thành
vốn, thì cũng khơng thể thực hiện các thủ tục để chuyển nợ thành vốn được. Nếu
việc chuyển nợ thành vốn chỉ xuất phát từ mong muốn của một trong hai bên, hoặc
là chủ nợ hoặc là khách nợ, thì sẽ khơng thể xảy ra.
Giao dịch là hành vi thỏa thuận có ý thức của hai hay nhiều chủ thể nhằm đạt
được những mục đích nhất định. Dựa trên khái niệm và thủ tục chuyển nợ thành
vốn, giao dịch chuyển nợ thành vốn sẽ bao gồm các thỏa thuận chính về:
-

Giá chuyển nợ thành vốn:

                                                            
6

Xem thêm khoản 1, 2 Điều 7 Thông tư số 79/2011/TT-BTC ngày 8/6/2011 của Bộ Tài Chính ban hành Điều
lệ tổ chức và hoạt động của Công ty TNHH một thành viên mua bán nợ Việt Nam

9


 

Trong một giao dịch, “thuận mua vừa bán” có lẽ là yếu tố quan trọng hơn cả.
Mặc dù hai bên đều ngầm hiểu rằng giao dịch này sẽ có lợi cho mình trên
một phương diện nào đó nhưng giá chuyển nợ vẫn đóng vai trị quyết định,
nếu lợi ích mà mỗi bên nhận được không xứng với số tiền hoặc lợi ích vật
chất mà họ đã bỏ ra, tỷ lệ thành cơng của giao dịch đó sẽ rất thấp.

Trong chuyển nợ thành vốn, việc xác định giá của khoản nợ được chuyển
thành vốn khơng có ý nghĩa như việc chủ thể góp vào một doanh nghiệp bao
nhiêu tiền bởi vì trên thực tế sẽ khơng có tiền được chuyển vào tài khoản vốn
của doanh nghiệp khách nợ7. Tuy nhiên xác định giá trị của khoản nợ được
chuyển thành vốn sẽ có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong việc xác định phần
vốn chủ sở hữu (vốn góp/vốn cổ phần) trong doanh nghiệp. Mục đích cuối
cùng và trên hết của chuyển nợ thành vốn là việc chủ nợ trở thành chủ sở
hữu của doanh nghiệp khách nợ và bằng khả năng quản lý của mình, góp
phần khơi phục hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và thu hồi vốn thông
qua việc tham gia tái cơ cấu doanh nghiệp. Do đó, phần vốn chủ sở hữu mà
chủ nợ nắm được trong doanh nghiệp sẽ là thước đo để họ có thể thực hiện
quyền quản lý của mình nhằm đạt được mục tiêu và ảnh hưởng đến giá trị
phần lợi nhuận họ sẽ thu về.
Cách tính giá chuyển đổi của khoản nợ thành vốn sẽ được trình bày trong
mục 1.1.1.4.
-

Phương án chuyển nợ thành vốn:
Phương án này được gọi là “phương án chuyển nợ thành vốn” tại Thông tư
số 79/2011/TT-BTC và là “phương án góp vốn điều lệ, vốn cổ phần” tại
Thơng tư số 19/2013/TT-NHNN8 (sau đây gọi chung là phương án chuyển
nợ thành vốn). Hiện nay chưa có định nghĩa nào về phương án chuyển nợ
thành vốn, nhưng nội dung của phương án chuyển nợ thành vốn được quy
định là các vấn đề nhằm phân tích, đánh giá hiệu quả chuyển nợ thành vốn,
tình hình tài chính và hoạt động của khách hàng vay, nguồn vốn để góp vốn,
khả năng thu hồi vốn, đề xuất các biện pháp thu hồi vốn và tham gia tái cơ
cấu khách hàng vay, xác định chi tiết cách thức tiến hành thủ tục chuyển nợ

                                                            
7


Ngoại trừ trường hợp chủ nợ quyết định rót thêm vốn nằm ngoài phạm vi khoản nợ được chuyển đổi để tiến
hành tái cơ cấu, khôi phục hoạt động doanh nghiệp, hoạt động này nằm ngồi nội dung nghiên cứu của tác
giả 
8
Thơng tư số 19/2013/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ngày 06/9/2013 quy định về việc mua, bán và xử
lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam

10


 

thành vốn cũng như các phương án khôi phục doanh nghiệp sau khi tiến hành
chuyển nợ thành vốn9.
Theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 8 Thông tư số 79/2011/TT-BTC,
phương án chuyển nợ thành vốn của DATC phải được cơ quan có thẩm
quyền phê duyệt. Đối với hoạt động chuyển nợ thành vốn mà VAMC là chủ
nợ, phương án chuyển nợ thành vốn chỉ cần có tính khả thi mà không cần
được một cơ quan nào thẩm tra hay phê duyệt. Điều này có nghĩa là để việc
chuyển nợ thành vốn được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật, đồng
thời bảo đảm quyền và lợi ích của chủ nợ và khách nợ, hai bên phải thỏa
thuận được phương án chuyển nợ thành vốn và trong một vài trường hợp cần
được sự phê duyệt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật.
Trong các vụ chuyển nợ thành vốn trên thực tế, chủ nợ sau khi trở thành chủ
sở hữu doanh nghiệp sẽ tham gia vào tái cơ cấu doanh nghiệp dẫn đến thay
đổi cơ cấu tổ chức, quản lý hoặc có trường hợp doanh nghiệp tiến hành các
thủ tục quan trọng như chuyển đổi loại hình doanh nghiệp thì các nội dung
này cần được ghi nhận trong phương án chuyển nợ thành vốn, cũng như các

cách thức, kế hoạch cụ thể để khôi phục hoạt động của doanh nghiệp cũng
cần được ghi nhận trong phương án này để đảm bảo tính khả thi của hoạt
động chuyển nợ thành vốn.
Ngoài thỏa thuận về giá của khoản nợ khi chuyển thành vốn và phương án
chuyển nợ thành vốn như đã trình bày ở trên, cịn phải nhắc đến thỏa thuận như việc
mua bán nợ giữa chủ nợ và bên thứ ba khi chủ nợ không trực tiếp tiến hành chuyển
nợ thành vốn của doanh nghiệp khách nợ. Đây cũng là một thỏa thuận tương đối
quan trọng. Thông thường, việc mua bán nợ không ảnh hưởng đến lợi ích của khách
nợ, dù chủ nợ là ai thì khách nợ vẫn có nghĩa vụ hồn trả đầy đủ cả vốn lẫn lãi cho
chủ nợ. Tuy nhiên, nếu việc mua bán nợ nhằm mục đích chuyển nợ thành vốn và
ảnh hưởng đến cơ cấu vốn, tổ chức hoạt động của doanh nghiệp, khách nợ chắc
chắn sẽ lên tiếng. Hoặc nếu khách nợ có mong muốn được chuyển nợ thành vốn mà
chủ nợ không đồng ý, cũng không đồng ý chuyển nhượng khoản nợ đó cho bên thứ
ba, thỏa thuận mua bán nợ chắc chắn sẽ không thành công. Ngoài ra hiện nay, ngoài
các doanh nghiệp chuyên mua bán và xử lý nợ như DATC, tới đây có thể là VAMC,
hiếm có trường hợp nào doanh nghiệp tự mình chuyển nợ thành vốn mà thường bán
nợ cho DATC để chuyển nợ thành vốn.
                                                            
9

Xem thêm khoản 3 Điều 36 Thông tư số 19/2013/TT-NHNN

11


 

Trên thực tế, có khi chủ nợ khơng đồng ý việc chuyển nợ thành vốn của
doanh nghiệp hoặc bán nợ của mình trong doanh nghiệp cho bên thứ ba để tiến hành
chuyển nợ thành vốn. Trường hợp Ngân hàng thương mại Cổ phần Hàng hải Việt

Nam (Maritime Bank) từ chối bán khoản nợ của Cơng ty Cổ phần Container phía
Nam (VSG) cho DATC10 để DATC tiến hành việc chuyển nợ thành vốn là một
minh chứng rõ ràng. Do đó tồn bộ phương án tăng vốn bằng cách chuyển nợ thành
vốn của VSG đều khơng thể thực hiện được. Về phía Ngân hàng Marritime không
đưa ra nguyên nhân của việc từ chối bán nợ. Nguyên nhân dẫn đến việc này có thể
là do chủ nợ không muốn bán nợ hoặc giữa các bên không thỏa thuận được giá
chuyển nhượng khoản nợ (sẽ được phân tích tại mục 1.1.1.4). Hoặc cũng có trường
hợp DATC từ chối mua nợ để chuyển thành vốn của doanh nghiệp nếu không đáp
ứng đủ các điều kiện bán nợ do pháp luật quy định.
Do đó có thể kết luận rằng, chuyển nợ thành vốn của doanh nghiệp trước hết
phải là một giao dịch và phải đạt được sự thỏa thuận của hai bên chủ nợ và khách
nợ trên mọi phương diện.
1.1.1.2 Chủ nợ trong giao dịch chuyển nợ thành vốn
Về mặt bản chất, khoản 1 Điều 322 Bộ luật Dân sự 2005 cơng nhận quyền
địi nợ là một trong các quyền tài sản được pháp luật cho phép chuyển nhượng. Do
đó chủ nợ có đầy đủ các quyền đối với khoản nợ mà khách nợ vay của mình, cụ thể,
chủ nợ có thể chuyển nhượng khoản nợ sang cho bên thứ ba. Như vậy, chủ nợ có
thể tiến hành bán khoản nợ đó cho một tổ chức, cá nhân khác để bên thứ ba trở
thành chủ nợ hoặc tự mình với vai trị là chủ nợ trong hoạt động chuyển nợ thành
vốn.
Mặc dù theo Quyết định số 150/2001/QĐ-TTg11 và 1390/2001/QĐ-NHNN12,
các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thương mại (AMC)
đã có chức năng mua bán nợ của các TCTD và của AMC trực thuộc các ngân hàng
thương mại (NHTM) khác, hoạt động mua bán nợ chỉ được phổ biến và phát triển
mạnh cùng với sự ra đời của DATC vào năm 2003 theo Quyết định số
109/2003/QĐ-TTg13 bởi vì hoạt động của các AMC hầu như không mang lại hiệu
quả trên thực tế. Gần đây, sự ra đời của VAMC cũng đã đóng góp một phần thúc
                                                            
10


/>Quyết định số 150/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 05/10/2001 về việc thành lập Công ty
quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc NHTM
12
Quyết định số 1390/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 07/11/2001 ban hành
Điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc NHTM
13
Quyết định số 109/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 05/6/2003 về việc thành lập công ty mua
bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (hiện nay là Công ty TNHH một thành viên Mua bán nợ Việt
Nam)
11

12


 

đẩy hoạt động của thị trường mua bán nợ ở nước ta. Các vấn đề liên quan đến hoạt
động mua bán nợ của các AMC, DATC và VAMC đều được quy định trong các văn
bản pháp luật, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có văn bản nào điều chỉnh hoạt động
mua, bán nợ của các doanh nghiệp không thuộc hoặc khơng thơng qua các tổ chức
trên, đây chính là một thiếu sót lớn trong hệ thống pháp luật nước ta. Việc đưa ra
một cơ chế quản lý cho hoạt động mua bán nợ của các doanh nghiệp nói chung là
một việc làm hết sức cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của thị trường mua bán nợ
Việt Nam.
Khoản 1 Điều 3 Quy chế mua, bán nợ của các TCTD ban hành kèm theo
Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN14 ghi nhận “Mua, bán nợ là việc chuyển nhượng
khoản nợ, theo đó, bên bán nợ chuyển giao quyền chủ nợ của khoản nợ cho bên
mua nợ và nhận thanh toán từ bên mua nợ”. Trong đó, khoản nợ bao gồm cả nợ
gốc, lãi và lãi phạt. Như vậy, có thể hiểu mua, bán nợ là một hoạt động mua bán mà
theo đó, bên bán chuyển giao khoản nợ (bao gồm nợ gốc, lãi và lãi phạt) mà bên nợ

hiện đang nợ bên bán cho bên mua nợ và nhận tiền thanh toán, bên mua nợ có nghĩa
vụ trả tiền cho bên bán nợ và tiếp nhận các quyền của chủ nợ đối với toàn bộ khoản
nợ đã mua theo thỏa thuận của hai bên. Hoạt động mua, bán nợ đòi hỏi phải được
lập thành hợp đồng để ghi nhận các nội dung và thỏa thuận cơ bản của hai bên trong
giao dịch mua bán nợ, hợp đồng mua bán nợ được định nghĩa tại khoản 10 Điều 3
Quy chế này là “văn bản thỏa thuận giữa bên mua nợ, bên bán nợ và các bên có
liên quan (nếu có) về việc mua bán nợ, chuyển quyền chủ nợ từ bên bán nợ sang
bên mua nợ và các thỏa thuận khác liên quan”.
Từ các quy định về thủ tục mua bán nợ được quy định tại Quyết định số
59/2006/QĐ-NHNN đối với chủ nợ là TCTD và Thông tư số 79/2011/TT-BTC đối
với chủ nợ là các doanh nghiệp và bên mua nợ là DATC, có thể khái quát các đặc
điểm của một hoạt động mua bán nợ như sau:
-

Một khoản nợ có thể được mua, bán một phần hay tồn bộ và một khoản nợ
có thể được bán cho một hoặc nhiều bên thứ ba và được mua, bán nhiều lần15
dựa trên thỏa thuận của các bên trong hợp đồng mua, bán nợ. Đối với các
khoản nợ do DATC mua, vì mục đích của DATC là mua nợ để tiến hành tái
cơ cấu, xử lý nợ để khôi phục hoạt động của doanh nghiệp nên thông thường,
DATC sẽ không bán lại khoản nợ nhiều lần.

                                                            
14

Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày 21/12/2006 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam ban hành Quy chế
mua bán nợ của các TCTD
15
Xem thêm khoản 2, 5 Điều 4 và khoản 4 Điều 9 Quy chế mua, bán nợ của các TCTD ban hành kèm theo
Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN


13


 

-

Các bên có thể lựa chọn phương thức mua, bán nợ thông qua đấu giá các
khoản nợ thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản hoặc
phương thức mua, bán nợ thông qua đàm phán trực tiếp giữa bên bán nợ và
bên mua nợ hoặc thông qua môi giới16. Tuy nhiên, nếu bên mua nợ là Cơng
ty mua bán nợ quốc gia DATC thì khơng thể tiến hành mua bán nợ thông qua
môi giới theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 Thông tư số 79/2011/TTBTC, thay vào đó, DATC có thể phải mua nợ theo chỉ định của Thủ tướng
Chính phủ. Điều này là bởi DATC được công nhận là doanh nghiệp nhà
nước (DNNN) hạng đặc biệt17 có mục tiêu xử lý nợ tồn đọng để khôi phục
hoạt động của các doanh nghiệp và cải thiện nền kinh tế bằng cách mua, bán
nợ và các phương thức xử lý nợ. Việc DATC phải mua, bán nợ theo chỉ định
của Thủ tướng Chính phủ chính là điểm khác cơ bản giữa hoạt động của
DATC và VAMC cũng như các doanh nghiệp khác khi mua, bán nợ. Trước
mắt, nhiệm vụ lớn của DATC là tiến hành cổ phần hóa hàng loạt các DNNN
khơng đủ điều kiện cổ phần hóa thơng qua các phương thức xử lý nợ, đặc
biệt là công cụ chuyển nợ thành vốn của DNNN đó. Đồng thời, bản thân
DATC đã là một doanh nghiệp chuyên mua, bán nợ nên không cần phải
thông qua một bên môi giới nào để tiến hành thủ tục mua bán nợ nhằm phát
huy tối đa khả năng, chức năng của mình và giảm thiểu tối đa chi phí cho
hoạt động mua, bán nợ.

-

Giá mua, bán nợ được xác định là (i) giá do các bên thỏa thuận trực tiếp hoặc

thông qua bên môi giới hoặc (ii) giá mua cao nhất trong trường hợp khoản nợ
được bán theo phương thức đấu giá18 đối với bên bán là các TCTD. Trong
khi đó, DATC xác định giá mua nợ dựa trên cơ sở khả năng thu hồi thực tế
của các khoản nợ khi thanh lý doanh nghiệp hoặc nhượng bán nợ sau khi đã
trừ đi các khoản chi phí hợp lý hợp lệ có liên quan (kể cả chi phí th tư vấn
định giá khoản nợ); có tính đến khả năng sinh lời khi thực hiện phương án cơ
cấu chuyển đổi doanh nghiệp khách nợ thành công ty cổ phần có vốn góp
của DATC thơng qua chuyển nợ thành vốn góp (điểm d khoản 1 Điều 8
Thơng tư số 79/2011/TT-BTC).

Trong trường hợp chủ nợ bán khoản nợ cho bên thứ ba thì phải áp dụng các
quy định của pháp luật về mua, bán nợ như trên. Sau khi mua nợ, bên thứ ba đương
                                                            
16

Xem thêm Điều 6 Quy chế mua, bán nợ của các TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 59/2006/QĐNHNN
17
Quyết định số 55/2004/QĐ-TTg ngày 06/04/2004 phê duyệt DNNN hạng đặc biệt
18
Xem thêm Điều 7 Quy chế mua, bán nợ của các TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 59/2006/QĐNHNN

14


 

nhiên trở thành chủ nợ của khoản nợ đã mua, có đầy đủ quyền của chủ nợ và có thể
tiến hành chuyển khoản nợ đã mua thành vốn nếu thỏa thuận được với doanh nghệp
khách nợ về chuyển nợ thành vốn.
1.1.1.3 Chủ nợ tham gia tái cơ cấu doanh nghiệp

Các quy định của pháp luật hiện hành ghi nhận việc DATC, VAMC có
quyền tham gia tái cơ cấu của doanh nghiệp khách nợ sau khi chuyển nợ thành vốn.
Đối với các doanh nghiệp khác, hiện vẫn chưa có quy định nào ghi nhận điều này.
Đây chính là một đặc điểm cơ bản của hoạt động chuyển nợ thành vốn khiến cho
việc chủ nợ trở thành chủ sở hữu doanh nghiệp từ chuyển nợ thành vốn khác với trở
thành chủ sở hữu thơng qua việc góp vốn/mua cổ phần.
Mục đích chính của chủ nợ khi tiến hành thủ tục chuyển nợ thành vốn có lẽ
là thu hồi lại khoản nợ cho vay19. Tuy nhiên, để làm được điều này, các chủ nợ phải
dùng khả năng quản lý của mình để tái cơ cấu doanh nghiệp, đưa hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp về mức bình thường, khơng cịn trì trệ và chậm chạp
như trước để tăng lợi nhuận, từ đó họ mới có khả năng thu hồi vốn sớm. Còn đối
với một số chủ thể, khi trở thành chủ sở hữu của doanh nghiệp, việc họ quan tâm
không phải là quyền lực quản lý, điều hành doanh nghiệp mà là phần lợi nhuận, cổ
tức mà họ được nhận. Do đó, phần lớn các nhà đầu tư này thường lựa chọn góp vốn,
mua cổ phần tại các doanh nghiệp có hoạt động và lợi nhuận ổn định trên thị
trường. Ví dụ điển hình là cổ đơng nắm giữ cổ phần ưu đãi cổ tức trong công ty cổ
phần, họ không có quyền biểu quyết, dự họp Đại hội đồng cổ đông, đề cử người vào
Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát theo quy định tại Điều 82 Luật Doanh nghiệp
2005, nhưng họ lại được trả một phần cổ tức cao hơn so với mức cổ tức mà các cổ
đông phổ thông nhận được.
Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005, chủ sở hữu có quyền tham gia
quản lý, điều hành hoạt động của doanh nghiệp, tuy tỉ lệ vốn chủ sở hữu là một
thước đo quan trọng đối với phạm vi quản lý, điều hành mà họ có thể thực hiện.
Theo các quy định hiện hành, các chủ sở hữu/cổ đơng nắm giữ tỉ lệ vốn góp/cổ phần
nhỏ trong doanh nghiệp thường bị các chủ sở hữu/cổ đông lớn chèn ép trong việc
tham gia quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc chủ nợ tiến hành tái cơ cấu doanh
nghiệp lại khơng phụ thuộc vào tỉ lệ vốn góp/vốn cổ phần mà họ nắm giữ trong
doanh nghiệp. Điều này nhằm tạo điều kiện cho chủ nợ phát huy khả năng quản lý,
                                                            
19


Đối với DATC, việc mua nợ từ các DNNN hoạt động không hiệu quả để chuyển thành vốn và tiến hành cổ
phần hóa doanh nghiệp đó nhằm mục đích giúp nhà nước cải thiện các DNNN, nâng cao chất lượng sử dụng
nguồn vốn nhà nước để khơng lãng phí thêm các nguồn lực nhà nước thì việc thu hồi vốn không phải là mục
tiêu quan trọng nhất.

15


 

điều hành trong một doanh nghiệp đang thụt lùi, đưa hoạt động sản xuất kinh doanh
trở lại bình thường và thu lợi nhuận.
1.1.1.4 Cách xác định giá chuyển đổi nợ thành vốn
Đối với khoản nợ được chuyển thành vốn do DATC là chủ nợ, giá trị của
khoản nợ phải được xác định bởi tổ chức định giá được thành lập và hoạt động theo
quy định của pháp luật theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 8 Thông tư số
79/2011/TT-BTC. DATC là một DNNN hạng đặc biệt có mục đích mua bán và xử
lý nợ nhằm khơi phục kinh tế nước ta, do đó xác định giá trị khoản nợ thông qua
một tổ chức định giá là một vấn đề quan trọng trong việc đảm bảo hoạt động của
DATC vừa có hiệu quả, vừa cơng bằng và trong sạch.
Đối với các trường hợp chuyển nợ thành vốn còn lại, hiện chưa có quy định
nào về giá chuyển đổi thành vốn của khoản nợ, do đó các bên có thể thỏa thuận về
giá chuyển đổi sao cho cả hai bên đều có lợi. Thơng thường, giá chuyển đổi sẽ được
căn cứ vào khả năng kinh tế của các bên cũng như giá trị thị trường của khoản nợ.
Đối với chủ nợ là tổ chức, cá nhân mua nợ từ chủ nợ cũ của khoản nợ đó, giá
chuyển đổi cịn được xem xét thỏa thuận dựa trên giá mua nợ. Bởi không ai chấp
nhận mua nợ với giá cao mà sau khi chuyển thành vốn lại được một khoản vốn chủ
sở hữu thấp hơn quá nhiều so với khoản tiền mà mình đã bỏ ra.
Sau khi chuyển thành vốn, giá trị của phần vốn điều lệ, vốn cổ phần đã được

chuyển từ nợ sang sẽ được tính tương ứng với tỷ lề phần vốn điều lệ, vốn cổ phần
của chủ nợ trong doanh nghiệp khách nợ với tư cách là một chủ sở hữu doanh
nghiệp có đầy đủ quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Mặc dù như đã đề
cập ở trên, giá trị khoản nợ khi chuyển đổi sẽ không ảnh hưởng đến số tiền mà chủ
sở hữu phải góp vào doanh nghiệp và việc chuyển tiền như việc góp vốn bình
thường nhưng nó sẽ tác động đến tỉ lệ vốn góp mà chủ sở hữu có trong doanh
nghiệp đó, đồng thời sẽ là khoản lợi nhuận mà chủ sở hữu thu được khi doanh
nghiệp khôi phục hoạt động kinh doanh và làm ăn có lãi. Do đó, thỏa thuận giá trị
của khoản nợ khi chuyển thành vốn đóng vai trị tiên quyết trong tồn bộ hoạt động
chuyển nợ thành vốn mà cả hai bên chủ nợ và khách nợ phải thỏa thuận một cách kỹ
lưỡng.
Chuyển nợ thành vốn là một cơ chế còn tương đối mới mẻ với nền kinh tế
nước ta. Đây là một giao dịch có ý nghĩa đối với cả hai bên chủ nợ và khách nợ mà
trong đó, họ có khả năng thỏa thuận các vấn đề về giá cả, hình thức và cách thức
của hoạt động chuyển nợ thành vốn. Dựa vào các đặc điểm nói trên, có thể nói
chuyển nợ thành vốn gắn với việc tái cơ cấu doanh nghiệp là một hướng đi hiệu quả
16


 

trong việc xử lý nợ, làm lành mạnh hóa tình hình tài chính của nền kinh tế nói
chung và của chủ nợ nói riêng. Thị trường mua, bán nợ cũng đóng một vai trị quan
trọng trong hoạt động chuyển nợ thành vốn với tình hình kinh tế nước ta hiện nay.
1.1.2 Phân loại hình thức chuyển nợ thành vốn
Hiện nay chưa có phương án chính thức nào để phân loại chuyển nợ thành
vốn. Do đó có thể tạm thời phân loại các hình thức chuyển nợ thành vốn dựa trên
các tiêu chí sau:
1.1.2.1 Căn cứ vào loại hình doanh nghiệp khách nợ
-


Chuyển nợ thành vốn điều lệ;

-

Chuyển nợ thành vốn cổ phần.

1.1.2.2 Căn cứ vào loại chủ nợ trong hoạt động chuyển nợ thành vốn
-

Chủ nợ là Công ty mua bán nợ Việt Nam (DATC);

-

Chuyển nợ thành vốn thông qua Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt
Nam (VAMC);

-

Chủ nợ là Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc NHTM (AMC);

-

Chủ nợ là các doanh nghiệp khác không thuộc ba trường hợp trên.

Trên đây là hai căn cứ chủ yếu để phân loại hình thức chuyển nợ thành vốn,
ngồi ra, cịn có thể phân loại hình thức chuyển nợ thành vốn dựa vào việc chuyển
nợ thành vốn gắn/khơng gắn với chuyển đổi loại hình doanh nghiệp; chuyển nợ vay
từ các TCTD thành vốn hoặc chuyển nợ vay từ doanh nghiệp không phải TCTD
thành vốn.

Trong khóa luận, tác giả khơng phân tích hoạt động chuyển nợ thành vốn
theo một căn cứ cố định nào ở trên. Các hình thức chuyển nợ thành vốn này sẽ được
tác giả đan xen phân tích trong các phần của khóa luận tốt nghiệp.
1.2

Ý nghĩa của hoạt động chuyển nợ thành vốn

Có thể nói hiện nay, Nhà nước đã bước đầu công nhận việc chuyển nợ thành
vốn ở nước ta, đây là bước đi khá táo bạo nhằm từng bước khôi phục nền kinh tế
Việt Nam. Trong khi hoạt động của DATC đã khá vững chắc thì VAMC vẫn đang
được triển khai và dần phát triển nhằm hỗ trợ cho các TCTD trong việc xử lý nợ
xấu, chưa kể đến thực tiễn hoạt động chuyển nợ thành vốn của các doanh nghiệp
khác. Qua sự kiện Bianfishco vực dậy sau khi tiến hành chuyển nợ thành vốn với cổ
đông mới là NHTM cổ phần Sài Gòn, nhiều người cho rằng chuyển nợ thành vốn là
17


 

một phương pháp xử lý nợ hữu hiệu đối với cả chủ nợ và khách nợ, nhất là các
doanh nghiệp chìm sâu vào nợ nần và có nguy cơ phá sản. Tuy nhiên, thực sự
chuyển nợ thành vốn có ý nghĩa như thế nào đối với các bên chủ nợ và khách nợ
cũng như đối với nền kinh tế nước ta? Đây vẫn còn là một câu hỏi còn để ngỏ mà
phải giải đáp được điều này, chúng ta mới có thể áp dụng chuyển nợ thành vốn một
cách có hiệu quả cho toàn bộ nền kinh tế Việt Nam. Liệu đây chỉ là một giải pháp
tình thế hay chính là chìa khóa để giải quyết các khoản nợ của doanh nghiệp trong
tình hình hiện tại?
1.2.1 Ý nghĩa của chuyển nợ thành vốn đối với chủ nợ
Thực chất, việc chuyển nợ thành vốn chỉ là chuyển đổi khoản tiền cho vay
sang hình thức đầu tư tài chính và chuyển đổi từ danh nghĩa là một chủ nợ sang chủ

sở hữu của doanh nghiệp chứ chưa làm thay đổi về chất của khoản nợ đó. Tuy
nhiên, chuyển nợ thành vốn lại mang đến cho chủ nợ những quyền của một chủ sở
hữu mà dựa vào đó, khi tham gia vào tái cơ cấu doanh nghiệp, họ có cơ hội vực dậy
doanh nghiệp, làm ăn thu lợi nhuận và lấy lại vốn. Dựa trên các đánh giá về khả
năng hồi phục của doanh nghiệp, chủ nợ lựa chọn phương án chuyển nợ thành vốn
và tiến hành tái cơ cấu doanh nghiệp với vai trò chủ sở hữu, đem đến khả năng thu
hồi tiền đã bỏ ra. Đặc biệt, đối với chủ nợ có tiềm lực kinh tế, trong một vài trường
hợp, họ sẽ khơng ngần ngại rót thêm vốn vào doanh nghiệp để đẩy mạnh tốc độ
khôi phục hoạt động của doanh nghiệp đó với mục đích đẩy nhanh thời gian thu hồi
vốn. Điều này sẽ có tác dụng tích cực đối với cả chủ nợ và khách nợ nếu chủ nợ
cùng với doanh nghiệp có khả năng thực sự để vận hành hoạt động doanh nghiệp,
nếu không sẽ tăng rủi ro thu hồi vốn và nắm chắc là một vụ đầu tư thất bại. Với tâm
lý chung muốn thu lại tiền, các chủ nợ thay vì ngồi đợi doanh nghiệp khơi phục hoạt
động kinh doanh, thu lợi nhuận để trả nợ cho mình thì thà là tự mình tham gia quản
lý hoạt động, chủ động hơn trong việc thu lại tiền trong thời gian ngắn nhất có thể.
Do đó, có thể công nhận rằng đây sẽ là một giải pháp phù hợp cho cho chủ nợ có
tiêu chí “được ăn cả, ngã về không”!
Tuy nhiên, cũng cần đề cập đến khi chủ nợ là các TCTD, trường hợp chuyển
nợ thành vốn trong một doanh nghiệp kinh doanh các lĩnh vực mà (tất nhiên) không
thuộc chuyên môn của ngân hàng, việc được quyền tham gia tái cơ cấu doanh
nghiệp sẽ không mang nhiều ý nghĩa đối với nhu cầu thu hồi tiền nhanh chóng của
các TCTD mà cịn là một phương án hết sức rủi ro vì nguy cơ sai lầm khi các
chuyên gia ngân hàng thực hiện quản trị kinh doanh ở các lĩnh vực khác luôn

18


 

thường trực. Do đó, khơng hẳn chuyển nợ thành vốn luôn là một lựa chọn khôn

ngoan đối với các chủ nợ khi giải quyết các khoản nợ và thu hồi tiền.
1.2.2 Ý nghĩa chuyển nợ thành vốn đối với khách nợ
Sẽ khơng một doanh nghiệp nào muốn vì mất khả năng trả nợ mà hoạt động
kinh doanh dậm chân tại chỗ và tệ hơn nữa là phải đối mặt với thủ tục phá sản.
“Còn nước còn tát”, chuyển nợ thành vốn chính là một cơng cụ hữu hiệu đối với
doanh nghiệp khách nợ trong trường hợp này. Chuyển nợ thành vốn sẽ phần nào
giải quyết và giảm bớt các khoản nợ của doanh nghiệp, làm sạch báo cáo tài chính,
cân đối tỉ lệ nợ/vốn và mở đường cho doanh nghiệp làm lại từ đầu, khôi phục hoạt
động sản xuất kinh doanh bằng các khoản vay ngân hàng hoặc thu hút các nguồn
vốn đầu tư khác. Việc chuyển nợ thành vốn góp sẽ ngay lập tức giúp doanh nghiệp
bỏ áp lực trả nợ cho chủ nợ, tập trung vào kinh doanh, tạo thu nhập, giúp doanh
nghiệp sớm thốt khỏi tình thế hiểm nghèo.
Trong tình hình kinh tế suy thối tồn cầu như hiện nay, một trong những
nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của các doanh nghiệp chính là khả năng tổ chức,
quản lý. Sau khi tiến hành chuyển nợ thành vốn, hầu hết các doanh nghiệp đều được
tái cơ cấu do chủ sở hữu mới thực hiện. Đây cũng là một ưu điểm của việc chuyển
nợ thành vốn, mang đến một luồng gió mới cho cơng tác quản lý điều hành của
doanh nghiệp với mục đích thay đổi hiệu quả kinh doanh, khơi phục khả năng tài
chính của doanh nghiệp khách nợ. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào khả năng
và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp sau khi chuyển nợ thành vốn có thực sự
hiệu quả hay khơng, nếu khơng thì hoạt động này cũng chỉ có ý nghĩa về mặt giấy
tờ mà không hề mang lại lợi ích gì cho cả chủ nợ lẫn khách nợ, chưa kể ảnh hưởng
đến các TCTD và các nhà đầu tư đã rót thêm vốn vào doanh nghiệp đó.
1.2.3 Tác động của chuyển nợ thành vốn đến nền kinh tế
Nếu không giải quyết được các khoản nợ, khả năng doanh nghiệp đứng trước
nguy cơ phá sản là rất cao, việc xử lý nợ xấu theo biện pháp chuyển nợ thành vốn
góp sẽ giảm thiểu được những tác động tiêu cực mà thủ tục phá sản doanh nghiệp
mang lại cho xã hội như: người lao động mất việc làm, các chủ nợ mất khả năng thu
hồi tiền đặc biệt là các NHTM… Biện pháp này không chỉ giúp các chủ nợ có khả
năng thu hồi được nợ mà cịn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội phục hồi

và đồng thời phát triển nền kinh tế.
Tuy nhiên, trên một khía cạnh khác, khoản nợ của doanh nghiệp thực chất
chỉ được đổi tên và hình thức biểu hiện mà trong tổng thể nền kinh tế, bản chất của
19


×