Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Quy định pháp luật về chuyển rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ TUYẾT LAN
CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ

NGUYỄN THỊ TUYẾT LAN

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG MUA BÁN HÀNG HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ

KHĨA 28
TP HỒ CHÍ MINH - 02 - 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CHUYỂN RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107

Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Phạm Trí Hùng
Học viên: Nguyễn Thị Tuyết Lan
Lớp: Cao học Luật – Khóa 28

Thành phố Hồ Chí Minh, 2020




LỜI CAM ĐOAN
“Tôi cam đoan: Luận văn Thạc sĩ này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Phạm Trí Hùng, đảm bảo tính trung
thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi xin chịu
hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này”.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Tuyết Lan


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

BLDS 2015

Bộ luật Dân sự 2015

Công ước Viên 1980

Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế

UCC

Uniform Commercial Code



MỤC LỤC
Phần mở đầu .............................................................................................................. 1
Chương 1. Những vấn đề chung về chuyển rủi ro trong hoạt động mua bán
hàng hóa ..................................................................................................................... 7
1.1 Khái quát về chuyển rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa ................... 7
1.1.1 Khái niệm chuyển rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa ................ 7
1.1.1.1 Khái niệm rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa ....................... 7
1.1.1.2 Khái niệm thời điểm chuyển rủi ro .................................................... 9
1.1.1.3 Bản chất pháp lý của chuyển rủi ro trong hoạt động mua bán hàng
hóa .................................................................................................... 13
1.1.1.4 Ý nghĩa của việc xác định rủi ro, thời điểm chuyển rủi ro đối với
hàng hóa trong hoạt động mua bán hàng hóa ................................. 14
1.1.2 Đặc điểm của rủi ro đối với hàng hóa trong hoạt động mua bán hàng
hóa ............................................................................................................. 18
1.2 Các rủi ro thường gặp trong hoạt động mua bán hàng hóa ......................... 22
1.2.1 Các rủi ro và phân loại rủi ro .................................................................. 22
1.2.2 Sự cần thiết của quy định pháp luật về chuyển rủi ro trong hoạt động
mua bán hàng hóa.................................................................................... 30
Kết luận Chương 1 .................................................................................................. 33
Chương 2. Thực trạng quy định pháp luật về chuyển rủi ro trong hoạt động
mua bán hàng hóa và đề xuất hoàn thiện pháp luật ............................................ 34
2.1 Quy định pháp luật về chuyển rủi ro trong trường hợp có địa điểm giao
hàng xác định ..................................................................................................... 35
2.2 Quy định pháp luật về chuyển rủi ro trong trường hợp khơng có địa điểm
giao hàng xác định............................................................................................. 46
2.3 Quy định pháp luật về chuyển rủi ro trong trường hợp giao hàng cho người
nhận hàng để giao mà không phải là người vận chuyển ............................... 50
2.4 Quy định pháp luật về chuyển rủi ro trong trường hợp mua bán hàng hóa
đang trên đường vận chuyển............................................................................ 54

2.5 Quy định pháp luật về chuyển rủi ro trong các trường hợp khác ............... 58
Kết luận Chương 2 .................................................................................................. 63
KẾT LUẬN CHUNG .............................................................................................. 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hội nhập và phát triển kinh tế đã và đang là xu thế chung nổi bật của các nước
trên thế giới. Việt Nam cũng là một quốc gia đang trong quá trình hội nhập với
phương châm1 “đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Việt Nam sẵn sàng
là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và
phát triển”. Theo đó, có thể đánh giá kết quả, thành tựu hội nhập quốc tế của nước ta
trên một số mặt chủ yếu như sau: Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đơng
Nam Á (ASEAN) và chính thức tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN
(AFTA), tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) và được kết nạp vào
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Việt Nam chính thức
trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Với tư cách là thành
viên của các tổ chức kinh tế quốc tế: WTO, ASEAN, APEC, Việt Nam đã nỗ lực thực
hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết và tích cực tham gia các hoạt động trong khn
khổ các tổ chức này. Trong những năm gần đây, thế giới đang được chứng kiến sự
gia tăng nhanh chóng của các Hiệp định thương mại tự do (FTA) để thiết lập các Khu
vực thương mại tự do. Phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của thế giới và
khu vực, tiến trình đàm phán và ký kết các FTA của Việt Nam đã được khởi động và
triển khai cùng với tiến trình gia nhập các tổ chức quốc tế và khu vực. Việc gia nhập
Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (Công ước Viên
1980) đánh dấu một mốc mới trong quá trình tham gia các điều ước quốc tế đa phương
về thương mại và tăng cường mức độ hội nhập, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp

luật của Việt Nam về mua bán hàng hóa quốc tế và cho các doanh nghiệp Việt Nam
một khung pháp lý hiện đại, công bằng, an tồn để thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế của mình. Hội nhập giúp Việt Nam có nhiều cơ hội trong hợp tác, đầu tư
nhưng cũng đồng thời đem lại cho chúng ta nhiều thách thức. Nước ta đang ngày càng
hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, quá trình này mang lại cho chúng ta nhiều
tích cực như tạo điều kiện thuận lợi trong thị trường xuất nhập khẩu, thu hút nguồn
vốn đầu tư nước ngoài, tận dụng được kỹ thuật khoa học và cơng nghệ tiên tiến để
vận dụng vào q trình sản xuất kinh doanh của mình. Bên cạnh những mặt tích cực
do q trình hội nhập mang lại cịn có những khó khăn cho nền kinh tế nước ta, đặc

Lâm Quỳnh Anh, “Những thành tựu trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam”,
truy cập ngày 26/04/2019.
1


2

biệt là trong việc thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa. Cụ thể, hội nhập kinh tế
quốc tế với sự chuyển dịch tự do qua biên giới các yếu tố của q trình sản xuất hàng
hóa tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội, đồng thời hội
nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những yêu cầu hết sức cấp bách cho việc bổ sung và
hoàn thiện thể chế. Những thách thức này địi hỏi chúng ta phải có sự am hiểu thấu
đáo về kinh tế thế giới, nỗ lực để hồn thiện khn khổ pháp luật có liên quan đến
kinh tế và thương mại. Do đó, yêu cầu đặt ra cho pháp luật của mỗi quốc gia cần có
những thay đổi phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế, hướng tới góp phần thực
thi pháp luật quốc tế cả về nội dung lẫn hình thức. Theo đó, phải liên tục hồn thiện
mơi trường kinh doanh để thu hút đầu tư và phát huy mọi tiềm lực của tất cả các thành
phần kinh tế, khơng ngừng hồn thiện các quy định về cạnh tranh để bảo đảm một
môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hội nhập. Đặc biệt, ngày
18/12/2018, Việt Nam trúng cử thành viên Ủy ban Luật Thương mại quốc tế

(UNCITRAL) cũng tạo cơ hội cho Việt Nam trong việc tăng cường tham khảo, tiếp
thu kinh nghiệm quốc tế để hồn hiện khn khổ pháp luật trong nước theo hướng
phù hợp với chuẩn mực chung, tạo mơi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, vì mục
tiêu phát triển bền vữngViệt Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng. Vì vậy, Việt Nam
phải tiến hành những sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo cơ sở
pháp lý, khung pháp lý cho các quan hệ kinh tế hình thành và phát triển.
Cùng với quá trình hội nhập thì hoạt động mua bán hàng hóa cũng diễn ra ngày
càng rộng rãi, có sự phát triển mạnh mẽ. Khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa, một
trong những vấn đề mà các bên hết sức quan tâm là khi nào rủi ro được chuyển giao,
trách nhiệm của các bên đối với rủi ro được xác định như thế nào. Luật Thương mại
2005 đã có nhiều quy định mới và khác so với Luật Thương mại cũ về thời điểm
chuyển rủi ro, vì vậy việc tìm hiểu các nội dung này là điều rất cần thiết.
Hoạt động thương mại thường gặp rất nhiều rủi ro, đặc biệt là trong lĩnh vực
mua bán hàng hóa. Do đó, một trong những vấn đề quan trọng của các doanh nghiệp
trong hợp tác làm ăn với đối tác, đặc biệt là với đối tác nước ngồi là phải có sự hiểu
biết và nắm bắt được các quy định của pháp luật thương mại cũng như các tập quán
thương mại quốc tế. Cụ thể, trong hoạt động mua bán hàng hóa, thời điểm chuyển rủi
ro đối với hàng hóa là nội dung cơ bản hết sức quan trọng mà các thương nhân phải
nắm bắt được trong quá trình làm ăn, hợp tác. Rủi ro là điều mà các chủ thể trong
hoạt động mua bán hàng hóa khơng mong muốn, đó là sự mất mát, hư hỏng của hàng
hóa xảy ra bất kỳ lúc nào, ngồi ý chí của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng.


3

Vì vậy, việc làm rõ nội dung của thời điểm chuyển rủi ro là vấn đề có ý nghĩa quan
trọng về mặt pháp lý và thực tiễn.
Như vậy, hội nhập kinh tế dẫn đến hoạt động mua bán tiềm ẩn nhiều rủi ro;
hội nhập kinh tế phát sinh yêu cầu bổ sung, hoàn thiện pháp luật, tạo khung pháp lý
cho các quan hệ kinh tế hình thành, phát triển. Đồng thời, thời điểm chuyển rủi ro là

vấn đề tác động trực tiếp đến mục tiêu lợi nhuận của các bên khi tham gia hoạt động
mua bán hàng hóa, các bên tham gia phải nắm bắt được quy định pháp luật về chuyển
rủi ro để hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Hơn thế nữa, Luật Thương mại 2005 sau
thời gian dài áp dụng cần được nhìn nhận lại xem có bất cập gì cần phải giải quyết
trong mối quan hệ với các văn bản khác cũng như trong sự phù hợp với thực tiễn.
Với những lý do trên, đề tài “Quy định pháp luật về chuyển rủi ro trong
hoạt động mua bán hàng hóa” là cần thiết và cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề chuyển rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa đã được các luật gia,
các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu thể hiện qua các bài viết đăng trên các tạp chí
chuyên ngành cũng như được thể hiện qua các sách chuyên khảo, các luận văn Thạc
sĩ, có thể kể đến như:
Bài viết “Các trường hợp chuyển rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo
Luật Thương mại năm 2005” đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật số 11(260)/2013
của tác giả Bùi Huyền. Bài viết xem xét các trường hợp chuyển rủi ro phát sinh khi
chủ thể tham gia quan hệ mua bán hàng hóa có thỏa thuận, bao gồm: Chuyển rủi ro
trong trường hợp giao hàng có địa điểm giao hàng xác định và khơng có địa điểm
giao hàng xác định; chuyển rủi ro trong trường hợp giao hàng cho người nhận hàng
để giao mà không phải là người vận chuyển và chuyển rủi ro trong trường hợp mua
bán hàng hóa trên đường vận chuyển. Tác giả bài viết chỉ mới phân tích nội dung cơ
bản quy định pháp luật của một số trường hợp chuyển rủi ro, có liên hệ Cơng ước
Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Incoterms 2010 nhưng chưa
đầy đủ. Theo đó, tác giả sẽ kế thừa những nội dung mà bài viết đã đề cập, đồng thời
phân tích sâu, bao quát các trường hợp chuyển rủi ro để đưa ra được giải pháp nhằm
góp phần hồn thiện quy định pháp luật.
Sách chuyên khảo “Luật hợp đồng thương mại quốc tế” của các tác giả Dương
Anh Sơn, Lê Thị Bích Thọ, Nguyễn Văn Luyện của nhà xuất bản Đại học Quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh năm 2016; “Giáo trình pháp luật về thương mại hàng hóa và
dịch vụ” của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Hồng Đức



4

năm 2014. Các tác giả đã phân tích, làm rõ quy định pháp luật về các trường hợp
chuyển rủi ro; đồng thời cũng đã chỉ ra được một số điểm bất hợp lý trong các quy
định này. Trên cơ sở đó, bằng luận văn này tác giả sẽ làm rõ hơn các vấn đề pháp lý
đặt ra và đề xuất giải pháp hợp lý đối với quy định hiện hành về các trường hợp
chuyển rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa.
Sách chuyên khảo “Luật Kinh tế” của tác giả Nguyễn Thị Dung và tập thể
giảng viên bộ môn Luật Thương mại Đại học Luật Hà Nội của nhà xuất bản Lao Động
năm 2017. Các tác giả đã khái quát một cách ngắn gọn về các trường hợp chuyển rủi
ro đối với hàng hóa, đồng thời cũng có so sánh quy định chuyển rủi ro đối với hàng
hóa/tài sản giữa Luật Thương mại 2005 với Bộ luật Dân sự. Trên cơ sở đó, luận văn
sẽ đi sâu phân tích nhằm làm rõ hơn những vấn đề này.
Luận văn Thạc sĩ Luật “Xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu và chuyển
rủi ro đối với hàng hóa trong hợp đồng mua bán hàng hóa” của tác giả Phan Văn
Mạnh thực hiện tại Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh năm 2012. Luận
văn đề cập vấn đề khái quát về thời điểm chuyển quyền sở hữu và chuyển rủi ro đối
với hàng hóa, đồng thời cũng chỉ ra một số bất cập, giải pháp trong thực trạng và định
hướng hoàn thiện pháp luật về thời điểm chuyển quyền sở hữu và chuyển rủi ro đối
với hàng hóa. Tuy nhiên, với đề tài này thì tác giải tập trung làm rõ những vấn đề
chung về chuyển rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa, chỉ ra được chuyển rủi ro
trong hoạt động mua bán hàng hóa khác gì với chuyển rủi ro trong mua bán tài sản.
Đồng thời, phát triển một cách đầy đủ hơn những vấn đề bất hợp lý cũng như giải
pháp đặt ra đối với quy định về vấn đề này.
Luận văn Thạc sĩ kinh tế “Rủi ro và các giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam” của tác giả Đinh Ngọc Tuấn thực hiện
tại Trường Đại học ngoại thương năm 2004. Luận văn đã làm rõ vấn đề lý luận chung
về rủi ro, tác giả sẽ kế thừa những điều này để làm sáng tỏ những vấn đề chung về
chuyển rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa.

Từ những nghiên cứu trên, tác giả chưa tìm thấy có cơng trình nghiên cứu nào
đề cập một cách toàn diện và đầy đủ về nội dung “Quy định pháp luật về chuyển rủi
ro trong hoạt động mua bán hàng hóa”. Đồng thời, ở mỗi giai đoạn, mỗi thời điểm thì
vấn đề này được nhìn nhận dưới những góc độ, khía cạnh khác nhau phù hợp với bối
cảnh xã hội nên việc nghiên cứu đề tài này là cần thiết.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài


5

Luận văn nhằm mục đích đưa ra đề xuất đóng góp hồn thiện quy định của
pháp luật thương mại về chuyển rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa.
Bên cạnh đó, luận văn tập trung phân tích và làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ
bản về chuyển rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa; phân tích, đánh giá các quy
định của pháp luật hiện hành và thực tế áp dụng pháp luật, từ đó đưa ra các giải pháp
thống nhất phù hợp với thông lệ quốc tế và tổ chức thực hiện pháp luật về chuyển rủi
ro trong hoạt động mua bán hàng hóa.
Để đạt được mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:
Làm rõ những vấn đề cơ bản về rủi ro, thời điểm chuyển rủi ro trong hoạt động
mua bán hàng hóa.
Phân tích và làm rõ những vấn đề pháp lý về thời điểm chuyển rủi ro trong
hoạt động mua bán hàng hóa theo quy định của Luật Thương mại 2005, qua đó có so
sánh về thời điểm chuyển rủi ro giữa Luật Thương mại 2005 với Công ước Viên năm
1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, tập quán thương mại quốc tế Incoterms
2010. Từ đó, đánh giá nội dung những quy định của Luật Thương mại 2005 cũng như
khả năng áp dụng của các điều khoản này vào thực tiễn; tìm ra những điểm hạn chế
của Luật Thương mại 2005 để đề xuất bổ sung nhằm hoàn thiện các quy định này.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề khái quát về rủi ro, thời điểm chuyển rủi

ro. Trong đó chỉ đi sâu nghiên cứu về thời điểm chuyển rủi ro đối với hàng hóa chứ
khơng phải với tất cả tài sản theo quy định của Luật Thương mại 2005.
Tác giả chỉ nghiên cứu vấn đề chuyển rủi ro trong hoạt động mua bán hàng
hóa thơng thường chứ khơng đề cập đến các vấn đề hoạt động mua bán hàng hóa qua
Sở giao dịch hàng hóa, bởi lẽ sẽ có những quy chế khác so với hoạt động mua bán
hàng hóa thơng thường để phù hợp với những đặc trưng riêng của nó.
Nội dung về thời điểm chuyển rủi ro đối với hàng hóa được nghiên cứu chủ
yếu theo Luật Thương mại 2005, tuy nhiên ở một số nội dung cần thiết, các quy định
của Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Incorterms
2010 về cùng vấn đề cũng được đề cập.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng nhiều phương pháp, trong đó
chủ yếu là các phương pháp sau:


6

Phương pháp phân tích và phương pháp tổng hợp. Đây là hai phương pháp chủ
đạo được sử dụng xuyên suốt trong đề tài. Thông qua hai phương pháp này, tác giả
làm rõ các vấn đề mang tính chất lý luận, các quy định của pháp luật hiện hành cũng
như thực tiễn áp dụng các quy định về chuyển rủi ro trong hoạt động mua bán hàng
hóa. Ngồi ra, phương pháp tổng hợp cũng được sử dụng cho mục đích tổng kết, khái
quát các kết quả của quá trình nghiên cứu đề tài.
Phương pháp so sánh luật được sử dụng ở các tiểu mục của Chương 2 để so
sánh và đối chiếu các quy định của Luật Thương mại 2005 với Công ước Viên năm
1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Incoterms cũng như liên hệ pháp luật
nước ngồi. Qua đó, tác giả đánh giá những quy định tương đồng và có sự tham khảo,
học hỏi những quy định tiến bộ nhằm gợi mở và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện
pháp luật Việt Nam.
Phương pháp phân tích luật sử dụng ở các tiểu mục của Chương 2 nhằm đánh

giá quy định thực định của Luật Thương mại 2005 về chuyển rủi ro trong hoạt động
mua bán hàng hóa.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngồi mục lục, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần
nội dung của luận văn gồm có 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về chuyển rủi ro trong hoạt động mua bán
hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về chuyển rủi ro trong hoạt động
mua bán hàng hóa và đề xuất hồn thiện pháp luật.


7

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHUYỂN RỦI RO TRONG HOẠT
ĐỘNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1.1 Khái quát về chuyển rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa
1.1.1 Khái niệm chuyển rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa
1.1.1.1 Khái niệm rủi ro trong hoạt đông mua bán hàng hóa
Rủi ro, theo nghĩa chung nhất được hiểu là điều không tốt, không may bất ngờ
xảy đến. Đây là cách hiểu thơng thường nhất. Những gì được coi là rủi ro luôn mang
lại những điều mà con người không mong muốn.
Rủi ro là một thuộc tính bất ổn định của môi trường kinh doanh bao gồm tất
cả những sự kiện có thể dẫn đến thua lỗ hoặc thiệt hại. Trong vô vàng nguy cơ dẫn
đến thua lỗ, rủi ro thường là những nguy cơ có thể ngăn chặn, né tránh hoặc giảm
thiểu hậu quả bất lợi.2 Chẳng hạn, người kinh doanh vận tải nào cũng biết rằng mỗi
một lần xe lăn bánh đều tiềm ẩn đủ loại nguy cơ thua lỗ: từ hỏng hóc dọc đường, mưa
bão, lũ lụt, hỏa hoạn, vi phạm luật lệ, cho tới tai nạn va đập. Trong vơ số những nguy
cơ thua lỗ đó, những nguy cơ nào có thể phịng hoặc hạn chế, khắc phục được hậu
quả thì được gọi là rủi ro, ví dụ hỏng hóc kĩ thuật và va đập là rủi ro vì chủ xe có thể

mang theo phụ tùng thay thế hoặc mua bảo hiểm để hạn chế thiệt hại từ các tình huống
này.3
Cho đến nay chưa có một định nghĩa thống nhất về rủi ro. Những trường phái
khác nhau, các tác giả khác nhau đưa ra những định nghĩa rủi ro khác nhau. Những
định nghĩa này rất phong phú và đa dạng, nhưng nhìn chung các nghiên cứu về rủi ro
có thể chia thành hai trường phái: trường phái truyền thống và trường phái hiện đại.
Theo trường phái truyền thống, rủi ro được xem là tổn thất, mất mát, cụ thể là
sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút về lợi nhuận thực tế thu được so với lợi nhuận
đã dự kiến. Rủi ro còn được hiểu là những bất trắc xảy ra ngoài ý muốn trong quá
trình kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp, tác động xấu đến sự tồn tại và phát triển
của một doanh nghiệp.4
Theo đó, khi rủi ro xảy ra đồng nghĩa với việc chủ thể tiếp nhận nó phải chịu
một thiệt hại nhất định. Rủi ro gắn với khả năng xảy ra một biến cố không thể lường

Phạm Duy Nghĩa (2013), Giáo trình Luật kinh tế, Nhà xuất bản Cơng an nhân dân, tr. 399.
Phạm Duy Nghĩa, tlđd (2), tr. 399.
4
Đoàn Thị Hồng Vân, Kim Ngọc Đạt, Hà Đức Sơn (2009), Quản trị rủi ro và khủng hoảng, Nhà xuất bản
Lao Động - Xã Hội, tr. 29.
2
3


8

trước, biến cố mà ta khơng mong muốn và hồn tồn khơng biết chắc. Rủi ro ứng với
sai lệch giữa dự kiến và thực tế hay rủi ro là sự không thể lường trước được nguyên
nhân dẫn đến kết quả thực khác với kết quả dự đoán.
Theo trường phái hiện đại, rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được. Rủi ro là
sự bất trắc có thể liên quan đến việc xuất hiện những biến cố không mong đợi, rủi ro

là một tổng hợp những yếu tố ngẫu nhiên có thể đo lường được xác suất. Rủi ro là giá
trị và kết quả mà hiện thời chưa biết đến, rủi ro là sự biến động tiềm ẩn ở những kết
quả.5
Theo đó, rủi ro có tính hai mặt, nó vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu
cực,6 rủi ro có thể mang đến những tổn thất, mất mát nhưng cũng có thể mang lại
những lợi ích, những cơ hội cho con người. Vì vậy, nếu tích cực nghiên cứu rủi ro,
nhận dạng, đo lường rủi ro, quản trị rủi ro thì ta có thể tìm ra những biện pháp phòng
ngừa, hạn chế rủi ro.
Như vậy, rủi ro là một sự kiện xảy ra bất ngờ, gây nên những tổn thất cho con
người và tồn tại khách quan. Trong hoạt động mua bán hàng hóa rủi ro rất đa dạng và
phức tạp. Đặc biệt là mua bán hàng hóa quốc tế, những rủi ro có tính đa dạng, phức
tạp hơn với mức độ nghiêm trọng hơn so với những rủi ro xảy ra trong hoạt động kinh
doanh nói chung.7 Rủi ro trong mua bán hàng hóa là một dạng rủi ro và nó cũng mang
đầy đủ những đặc điểm cơ bản như bất kỳ một loại rủi ro nào. Rủi ro đối với hàng
hóa chính là những mất mát hay tổn thất đối với hàng hóa. Sự mất mát của hàng hóa
bao gồm các trường hợp hàng hóa khơng thể được tìm thấy, đã bị đánh cắp hoặc đã
được chuyển giao cho người khác. Sự tổn thất của hàng hóa bao gồm hàng hóa bị phá
hủy tồn bộ, sự hư hỏng, giảm sút chất lượng hàng hóa và sự thiếu hụt số lượng của
hàng hóa trong q trình vận chuyển hoặc lưu trữ.8 Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy một
số trường hợp rủi ro khác ngoài sự mất mát hay tổn thất hàng hóa như sự chậm trễ
của nhà chuyên chở sau khi người bán chuyển hàng hóa cho người chuyên chở, hay
các quy định của chính phủ cấm kinh doanh các mặt hàng mà hai bên mua bán vẫn
được xem là rủi ro đối với hàng hóa.9

Đồn Thị Hồng Vân, Kim Ngọc Đạt, Hà Đức Sơn, tlđd (4), tr. 30.
“Rủi ro”, truy cập ngày 10/5/2019.
7
Nguyễn Thị Ngọc Huyền (2018), Pháp luật về thời điểm chuyển rủi ro đối với hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật – Đại học Huế, tr. 8.
8

Điều 66 Công ước Viên 1980.
9
Trường Đại học ngoại thương – Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (2016), 101 câu hỏi – đáp về Công
ước của Liên hiệp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG), Nhà xuất bản thanh niên, tr. 176.
5
6


9

Hoạt động mua bán hàng hóa là hình thức quan trọng và phổ biến nhất trong
hoạt động thương mại. Hoạt động mua bán hàng hóa có vai trị lớn đối với nền kinh
tế của mỗi quốc gia. Rủi ro trong mua bán hàng hóa thường dễ nhận thấy và được con
người quan tâm nhiều nhất. Bởi vì, trước hết kinh doanh là một hoạt động mang lại
lợi nhuận cho các chủ thể và lợi nhuận chính là động lực thúc đẩy các chủ thể không
ngừng phát triển hoạt động của mình. Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy rằng, kinh doanh
nói chung và kinh doanh quốc tế nói riêng thường có nhiều nhân tố tác động, ảnh
hưởng và làm gia tăng bất trắc. Những bất trắc thường xuyên xảy ra trong môi trường
kinh doanh dẫn đến những sai lệch bất lợi so với kết quả dự tính hay mong chờ. Khác
với một số rủi ro thông thường khác, rủi ro trong mua bán hàng hóa thường rất cụ thể
và có thể đo lường được. Sở dĩ như vậy là vì, khái niệm rủi ro trong mua bán hàng
hóa gắn với lợi nhuận và nhiều khi các chủ thể chấp nhận sự mạo hiểm cùng với khả
năng xảy ra rủi ro cao để có lợi nhuận kỳ vọng lớn. Rủi ro trong mua bán hàng hóa
đồng thời cũng rất đa dạng và phức tạp bởi nó chịu nhiều tác động, khơng những từ
nhân tố khách quan bên ngồi mà cịn chính từ nội bộ các chủ thể tham gia, từ chính
nền kinh tế trong nước.
Tóm lại, rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa là một vấn đề hết sức quan
trọng cần phải quan tâm tìm hiểu. Từ cách hiểu trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm
rủi ro đối với hàng hóa trong hoạt động mua bán hàng hóa như sau: Rủi ro đối với
hàng hóa trong hoạt động mua bán hàng hóa là sự mất mát, hư hỏng ảnh hưởng tới

giá trị hàng hóa. Đây là sự kiện khách quan, nằm ngoài sự mong đợi của các bên
trong hợp đồng và có thể lường trước được.
Trong q trình mua bán hàng hóa, các chủ thể có thể gặp phải rất nhiều rủi ro
và một trong những cách thức để các chủ thể giảm nhẹ tổn thất là chuyển dịch rủi ro.
1.1.1.2 Khái niệm thời điểm chuyển rủi ro
Rủi ro là gì và bên nào sẽ phải chịu trách nhiệm về nó là một vấn đề rất phức
tạp mà cả hai bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa đều quan tâm. Lý do là vì tính
chất đặc thù của vấn đề này có thể dẫn đến những hệ quả khó khăn, thậm chí khơng
cơng bằng và dẫn đến việc người mua vẫn bị buộc phải trả tiền cho hàng hóa ngay cả
khi họ khơng đánh mất hay gây thiệt hại cho hàng hóa bởi một sự kiện hay nghĩa vụ
liên quan đến mình. Bởi vậy, để tránh những hệ lụy đó, các bên thường đưa ra những
thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng. Mối bận tâm chính của các bên là sự chuyển dịch
rủi ro từ người bán sang người mua và liệu có trường hợp nào có thể loại trừ hậu quả
của việc chuyển dịch rủi ro.


10

Chuyển dịch rủi ro là một trong những cách thức để các chủ thể giảm nhẹ tổn
thất. Nếu các bên tham gia hợp đồng tự định liệu cách thức ngăn chặn và phân chia
trách nhiệm gánh chịu rủi ro thì người ta thường nói đến phân chia rủi ro. Luật pháp
can dự vào quá trình này bằng các quy tắc bắt buộc hoặc quy tắc mặc định (khi các
bên không có thỏa thuận mới áp dụng các quy tắc này) – sự can thiệp này thường
được gọi là phân bổ rủi ro bởi pháp luật. Công ước Viên 1980 và luật pháp một số
nước, trong đó có nước ta, dùng khái niệm “chuyển giao rủi ro”, nhấn mạnh sự chuyển
giao trách nhiệm gánh chịu rủi ro cho một bên tham gia hợp đồng.10
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, người bán và người mua là hai chủ thể của
hợp đồng, đồng thời là hai chủ thể gánh chịu rủi ro đối với hàng hóa. Do đó, sự chuyển
dịch rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa là sự chuyển dịch trách nhiệm về việc
gánh chịu tổn thất của hàng hóa từ người bán sang người mua. Khi đó, người mua

vẫn phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho số hàng hóa bị mất mát hoặc bị hư hỏng. Tuy
nhiên, cũng có thể buộc người bán chịu trách nhiệm đối với những tổn thất của hàng
hóa nếu chứng minh được sự mất mát hay hư hỏng hàng hóa do hành vi thiếu trách
nhiệm của người bán gây ra.
Ngoài ra, sự chuyển dịch rủi ro cịn có thể diễn ra giữa người bán hoặc người
mua cho người vận chuyển hàng hóa, vì trong hợp đồng mua bán hàng hóa, đặc biệt
là mua bán hàng hóa quốc tế, phần lớn việc giao hàng thơng qua người vận chuyển,
có rất nhiều hợp đồng mua bán hàng hóa cịn chỉ định cả người chun chở.11 Tuy
nhiên, do hợp đồng vận chuyển được ký kết độc lập với hợp đồng mua bán hàng hóa
và người vận chuyển chỉ chịu trách nhiệm nếu họ có lỗi trong quá trình chuyên chở
cho nên trong hợp đồng mua bán hàng hóa khơng đề cập đến sự chuyển dịch rủi ro từ
người bán hoặc người mua sang người vận chuyển mà chỉ đề cập đến sự chuyển dịch
rủi ro từ người bán sang người mua.
Từ lúc thiết lập hợp đồng mua bán cho đến khi có sự chuyển giao thực tế cho
người mua, hàng hóa có thể phải chịu mất mát hoặc hư hại tại rất nhiều thời điểm,
bởi vì hai hoạt động này có thể diễn ra cùng thời điểm nhưng cũng có thể có một
khoảng thời gian rất dài giữa hai sự kiện này. Trong suốt quá trình đó, ln ln tồn
tại khả năng hàng hóa bị mất mát hoặc hư hại do những lý do đột ngột mà khơng ai
mong muốn. Kết quả là hàng hóa có thể bị hao hụt, hư hại (khi chúng được đóng gói
Phạm Duy Nghĩa, tlđd (2), tr. 400.
Nguyễn Thị Tuyết Lan (2017), Chuyển rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa theo Luật Thương mại
2005, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật, Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh, tr. 17.
10
11


11

tại kho hàng của người bán, trên đường tới cảng nơi chúng được xuất đi hoặc trong
suốt chuyến vận tải đường biển hoặc từ cảng nhập khẩu đến kho của người mua). Câu

hỏi đặt ra là khi nào rủi ro được chuyển dịch sang cho người mua. Việc xác định được
câu trả lời cho câu hỏi đó có ý nghĩa quyết định rằng bên nào sẽ phải trả tiền cho
những thiệt hại đó ngay cả khi bên đó chưa nhận được hàng hoặc nhận được hàng
hóa trong tình trạng bị hỏng.
Như vậy, khi nói đến chuyển rủi ro, điều các bên hết sức quan tâm là thời điểm
mà trách nhiệm gánh chịu tổn thất của hàng hóa được chuyển giao, đó là thời điểm
chuyển rủi ro. Thời điểm chuyển rủi ro là một điểm mốc mà sau đó rủi ro đối với
hàng hóa được chuyển giao từ người này sang người khác. Có thể rút ra khái niệm
“thời điểm chuyển dịch rủi ro trong mua bán hàng hóa là một mốc thời gian cụ thể,
nhằm xác định được rủi ro đã được chuyển dịch từ bên bán sang bên mua, theo đó
các bên sẽ dựa vào cột mốc này để phân định quyền và nghĩa vụ của mình khi có rủi
ro xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng”.12
Thời điểm chuyển rủi ro đối với hàng hóa ln được quan tâm vì trên thực tế,
có những rủi ro có thể lường trước nhưng không thể nào lường trước hết mọi rủi ro
và khi đó rủi ro xảy ra thì tất yếu dẫn đến thiệt hại cho hàng hóa cũng như các bên
liên quan. Lúc này việc xem xét trách nhiệm chịu rủi ro thuộc về bên nào có ý nghĩa
hết sức quan trọng. Vì vậy, thời điểm chuyển rủi ro đối với hàng hóa được ghi nhận
trong hệ thống pháp luật của hầu hết các quốc gia. Nhìn chung, pháp luật của các
nước đều quy định thời điểm này do các bên thỏa thuận và các quốc gia quy định về
vấn đề này chủ yếu theo các quan điểm sau:13
Quan điểm thứ nhất: quan điểm của các quốc gia áp dụng nguyên tắc của luật
La Mã cổ đại – Perculum est emptoris như Thụy Sỹ, Hà Lan, Nhật Bản và một số
nước ở châu Mỹ La Tinh. Theo nguyên tắc này, rủi ro được chuyển từ người bán sang
người mua từ thời điểm ký kết hợp đồng mà không phụ thuộc vào việc quyền sở hữu
đối với hàng hóa đã chuyển giao cho người mua vào thời điểm đó hay chưa. Việc quy
định như vậy không phù hợp với thực tiễn, có thể dẫn đến trường hợp người mua
chưa nhận được hàng, chưa sở hữu hàng hóa đã phải gánh chịu rủi ro. Bởi lẽ, đối với
phần lớn các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế vào thời điểm hợp đồng được ký
kết, hàng hóa vẫn nằm trong tay người bán, nằm trong tầm kiểm soát của họ. Nếu


12
13

Nguyễn Thị Ngọc Huyền, tlđd (7), tr. 8.
Nguyễn Thị Tuyết Lan, tlđd (11), tr. 18.


12

người mua phải chịu rủi ro từ thời điểm giao kết hợp đồng thì điều này là khó chấp
nhận, bởi vì người mua có thể lập luận rằng người bán đã không thực hiện nghĩa vụ
một cách cần thiết, từ đó sẽ dẫn đến những tranh chấp nghiêm trọng và tranh tụng.
Quan điểm thứ hai: quan điểm của các nước áp dụng nguyên tắc rủi ro do chủ
sở hữu chịu - Res perit domino (như nước Anh). Nguyên tắc này quy định rủi ro đối
với hàng hóa được chuyển sang người mua đồng thời với việc chuyển quyền sở hữu.
Nhưng thời điểm chuyển quyền sở hữu theo pháp luật của các quốc gia đó lại được
xác định khác nhau. Việc quy định như vậy có phần khơng phù hợp vì quyền sở hữu
không phải lúc nào cũng gắn với hoặc liên quan đến khái niệm rủi ro. Hơn nữa, quan
điểm này không lý giải được những thông lệ mới nhất trong mua bán hàng hóa với
việc giữ lại quyền sở hữu, đó là những trường hợp mà người bán vẫn giữ quyền sở
hữu trong khi người mua nắm giữ hàng hóa trên thực tế. Điều này có nghĩa rằng,
người bán sẽ chịu rủi ro đối với hàng hóa đã nằm dưới sự quản lý của người mua (cho
đến khi quyền sở hữu được chuyển giao cho người mua). Hệ quả này khó mà chấp
nhận được đối với người bán, do vậy dễ dàng nảy sinh việc kiện tụng.
Quan điểm thứ ba: quan điểm của một số nước khác như Nga, Đức, … xác
định thời điểm chuyển dịch rủi ro trùng với thời điểm giao hàng, điều này có nghĩa là
bên nào quản lý hàng hóa trên thực tế sẽ phải chịu rủi ro. Quan điểm này tỏ ra hợp lý
và công bằng hơn cả bởi lẽ bên nào chiếm hữu thực tế hàng hóa sẽ ở một vị thế tốt
hơn để bảo vệ chúng, thực hiện những biện pháp phòng ngừa cần thiết để đảm bảo
cho sự an toàn của hàng hóa, hoặc tiến hành những biện pháp thích hợp để bảo vệ

chúng sau khi sự kiện gây thiệt hại đã xảy ra, thu gom những hàng hóa cịn ngun
vẹn, đánh giá thiệt hại và yêu cầu công ty bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm nếu hàng
hóa đã được mua bảo hiểm.
Xét thấy rằng, hai vấn đề chuyển quyền sở hữu và chuyển rủi ro trong khoa
học pháp lý thuộc hai phạm trù khác nhau, đó là phạm trù vật quyền và phạm trù trái
quyền.14 Do đó, dù theo quan điểm nào thì thời điểm chuyển quyền sở hữu và thời
điểm chuyển rủi ro cũng là hai vấn đề quan trọng của hợp đồng. Trong đó thời điểm
chuyển quyền sở hữu là vấn đề thuộc phạm vi vật quyền nhằm xác định quyền sở hữu
của ai, còn thời điểm chuyển rủi ro thuộc phạm vi trái quyền được sử dụng để phân
định trách nhiệm gánh chịu thiệt hại, mất mát đối với hàng hóa của các bên. Xác định
rõ được thời điểm này sẽ có ý nghĩa rất quan trọng.
14

Nguyễn Ngọc Lâm (2007), Tư pháp quốc tế, Nhà xuất bản Phương Đông, tr. 22.


13

Đối với Việt Nam, trước đây, Luật Thương mại 1997 quy định thời điểm
chuyển quyền sở hữu trùng với thời điểm chuyển rủi ro đối với hàng hóa, theo đó
người mua phải chịu rủi ro đối với hàng hóa trên đường vận chuyển kể từ thời điểm
quyền sở hữu hàng hóa được chuyển từ người bán sang người mua nếu không phải
do lỗi của người bán hoặc người vận chuyển.15 Tuy nhiên, quy định như vậy là chưa
phù hợp, bỡi lẽ trên thực tế quyền sở hữu không phải lúc nào cũng gắn với hoặc liên
quan đến khái niệm rủi ro, không phải lúc nào quyền sở hữu đối với hàng hóa cũng
được chuyển từ người bán sang người mua khi người bán thực hiện xong nghĩa vụ
giao hàng của mình. Hơn nữa, trong một chừng mực nhất định, điều khoản này vi
phạm nguyên tắc “tự do hợp đồng” của các bên trong việc xây dựng các quy định về
rủi ro có lợi nhất cho mình và trái với pháp luật, tập quán thương mại quốc tế. 16 Ví
dụ, theo hợp đồng bán CIF, Incoterms 2000 thì người mua chịu rủi ro kể từ thời điểm

hàng hóa được giao cho người vận chuyển còn quyền sở hữu đối với hàng hóa chỉ
được chuyển từ người bán sang người mua tại thời điểm người bán giao chứng từ liên
quan đến hàng hóa cho người mua, bởi lẽ khi nào người bán cịn giữ vận đơn chứng
từ thì khi đó họ cịn có quyền định đoạt số phận của hàng hóa. Vì vậy, đến Luật
Thương mại 2005 quy định thời điểm chuyển rủi ro do các bên thỏa thuận, pháp luật
chỉ can thiệp khi các bên khơng có sự thỏa thuận. Đây là điều vô cùng quan trọng
trong hoạt động mua bán hàng hóa, trong nền kinh tế thị trường khi mà việc mua bán
ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích kinh doanh của chính các bên trong hợp đồng. Theo đó,
khi các bên khơng có thỏa thuận về thời điểm chuyển rủi ro thì Luật Thương mại
2005 quy định thời điểm chuyển rủi ro trong các trường hợp cụ thể chứ không đưa ra
một căn cứ cụ thể. Tùy vào từng trường hợp sẽ có thời điểm chuyển rủi ro khác nhau
nhưng các quy định về thời điểm chuyển rủi ro đều có điểm chung là khơng gắn thời
điểm chuyển quyền sở hữu với thời điểm chuyển rủi ro.
1.1.1.3 Bản chất pháp lý của chuyển rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa
Chuyển rủi ro là sự chuyển dịch trách nhiệm về việc gánh chịu tổn thất do rủi
ro gây ra từ người bán sang người mua. Để xác định rủi ro đã được chuyển dịch từ
bên bán sang bên mua căn cứ vào mốc thời gian cụ thể là thời điểm chuyển rủi ro,
theo đó các bên sẽ dựa vào cột mốc này để phân định quyền và nghĩa vụ của mình
khi có rủi ro xảy ra trong q trình thực hiện hợp đồng. Từ thời điểm rủi ro được
Điều 76 Luật Thương mại 1997.
Lê Hồng Oanh (2007), Bình luận các vấn đề mới của Luật Thương mại trong điều kiện hội nhập, Nhà xuất
bản Tư pháp, tr. 84.
15
16


14

chuyển sang người mua, người mua phải chịu mọi hậu quả của việc hàng hóa bị mất
mát, hư hỏng trong quá trình vận chuyển do những tình huống bất thường. Mất mát

hoặc hư hỏng hàng hóa xảy ra sau thời điểm rủi ro được chuyển cho bên mua khơng
giải phóng cho bên mua khỏi nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng, trừ trường hợp việc
mất mát hoặc hư hỏng đó là do hành động hoặc sơ suất của bên bán.17 Đồng thời, sau
thời điểm này nếu muốn buộc người bán phải chịu trách nhiệm về khuyết tật của hàng
hóa hay hàng hóa bị thiếu, người mua phải chứng minh được rằng, hàng hóa bị mất
mát hay hư hỏng trước thời điểm rủi ro được chuyển sang người mua.
Trong hoạt động mua bán hàng hóa, rủi ro được chuyển cho người mua càng
sớm càng có lợi cho người bán. Việc người mua không thực hiện nghĩa vụ thông báo
cho người bán; dẫn đến người mua trì hỗn nhận hàng, kéo dài thời điểm chuyển rủi
ro so với quy định của hợp đồng mua bán hàng hóa là điều khơng thể chấp nhận được.
Do đó, trong một vài trường hợp rủi ro đối với hàng hóa có thể được chuyển sớm từ
người bán sang người mua. Đó là khi người mua khơng thông báo cho người bán về
người nhận hàng, về địa điểm nhận hàng khi người mua có quyền này thì sẽ dẫn đến
việc di chuyển sớm rủi ro và rủi ro sẽ được di chuyển sang cho người mua kể từ ngày
hết thời hạn thỏa thuận hoặc kể từ ngày hết thời hạn nhận hàng.18 Như vậy, trong quá
trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa, việc di chuyển rủi ro có thể diễn ra sớm
hơn dự định thậm chí trước khi giao hàng. Đây là một ngoại lệ nhằm buộc người mua
phải có hành động tích cực cũng như tinh thần trách nhiệm cao trong việc thực hiện
hợp đồng, tránh trường hợp người mua không chịu tiếp nhận hàng đã được giao đúng
quy định hoặc không thực hiện nghiêm túc các thủ tục đã thỏa thuận nhằm tạo điều
kiện thuận lợi để người bán giao hàng cho mình như không đưa ra các chỉ dẫn về thời
gian, địa điểm giao hàng. Lúc này, rủi ro được chuyển từ người bán sang người mua
theo thời hạn thỏa thuận trong hợp đồng chứ không phụ thuộc vào việc người mua đã
nhận hàng trên thực tế hay chưa.
1.1.1.4 Ý nghĩa của việc xác định rủi ro, thời điểm chuyển rủi ro đối với hàng
hóa trong hoạt động mua bán hàng hóa
Trong hoạt động mua bán hàng hóa, lợi nhuận ln là mục đích hàng đầu mà
các bên hướng tới, cho nên một khi có sự mất mát, hư hỏng hàng hóa xảy ra thì mục
đích đó khó có thể đạt được. Rủi ro là điều mà không ai mong muốn và chuyển rủi ro


17
18

Điều 66 Công ước Viên 1980.
Đặng Văn Được (2006), Hướng dẫn pháp luật hợp đồng thương mại, Nhà xuất bản Lao động, tr. 71.


15

là một vấn đề mà cả người bán hàng và người mua hàng đều quan tâm bởi lẽ nó có
thể ảnh hưởng rất lớn đến việc mua bán và kết quả của giao dịch. Các nguyên tắc về
chuyển dịch rủi ro trả lời câu hỏi liệu người mua có buộc phải trả tiền cho hàng hóa
ngay cả khi chúng vơ tình bị thiếu hụt hay thiệt hại hoặc liệu người bán có quyền địi
đủ tiền trong trường hợp đó khơng? Vì vậy, khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa,
các bên cố gắng đưa ra những điều khoản rõ ràng để tránh những sự hiểu nhầm và
việc kiện tụng sau này.19 Quy định về thời điểm chuyển rủi ro nhằm mục đích giúp
cho các bên có thể tính tốn được rủi ro khi nó xảy ra và tìm biện pháp hạn chế thiệt
hại do nó gây ra đến mức thấp nhất.
Vì vậy, việc xác định thời điểm mà tại đó người bán khơng cịn phải chịu trách
nhiệm về rủi ro và người mua bắt đầu phải chịu rủi ro đối với hàng hóa là đối tượng
của hợp đồng mua bán hàng hóa vừa có ý nghĩa pháp lý, vừa có ý nghĩa thực tiễn hết
sức quan trọng. Cụ thể, khi xác định thời điểm chuyển rủi ro đối với hàng hóa sẽ
mang lại ý nghĩa quan trọng như sau:
Việc xác định thời điểm chuyển rủi ro giúp xác định được ranh giới trong việc
phân chia trách nhiệm gánh chịu rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa giữa người
mua và người bán. Theo đó, kể từ thời điểm rủi ro được chuyển giao, người mua phải
tự chịu trách nhiệm trong việc xem xét và áp dụng những biện pháp để hạn chế đến
mức thấp nhất những mất mát hay hư hỏng có thể xảy ra đối với hàng hóa của mình.
Và cũng từ thời điểm đó mọi hậu quả của việc hàng hóa bị mất mát hay hư hỏng trong
quá trình vận chuyển hoặc bảo quản do những tình huống bất thường sẽ do người

mua gánh chịu. Tuy nhiên, nếu người mua chứng minh được những mất mát, hư hỏng
hàng hóa xảy ra trước thời điểm chuyển rủi ro thì người mua có thể buộc người bán
gánh chịu những tổn thất ấy.
Ví dụ 1: Tranh chấp trong hợp đồng mua bán cà phê hạt.
Công ty TNHH A (công ty A) ký hợp đồng mua của Công ty TNHH B (công
ty B) 210 tấn cà phê hạt với giá 10.000.000 đồng/tấn vào ngày 01/01/2010. Hợp đồng
có hiệu lực kể từ thời điểm ký kết và công ty B sẽ giao hàng tại kho của công ty A
làm 3 đợt, mỗi đợt 70 tấn trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày ký hợp đồng, công ty A
sẽ thanh toán bằng chuyển khoản, ngay sau mỗi đợt nhận hàng.

“Chuyển dịch rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế”, truy cập ngày 10/5/2019.
19


16

Vào ngày 05/01/2010, sau khi đã gọi điện báo trước, công ty B giao đợt hàng
đầu tiên 70 tấn. Sau khi nhận hàng cơng ty A thanh tốn cho cơng ty B theo giá đã
thỏa thuận trong hợp đồng. Ngày 07/01/2010 công ty B tiếp tục giao 70 tấn của đợt
2. Công ty A từ chối không nhận 70 tấn của đợt 2 với lý do công ty B giao hàng khơng
báo trước nên cơng ty khơng có kho chứa hàng. Ngay đêm đó mưa rất to, do khơng
lường trước được tình huống trên, nên cơng ty B khơng có phương tiện che chắn, hậu
quả 50 tấn cà phê bị ướt và hư hỏng hoàn toàn. Trước sự kiện trên, công ty B cho
rằng công ty A đã cố ý gây thiệt hại cho mình, nên khơng tiếp tục giao hàng đợt 3.
Vào ngày 15/01/2010 công ty B gửi công văn cho công ty A với yêu cầu công ty A
phải bồi thường thiệt hại đối với lô hàng 70 tấn của đợt 2 theo giá trị hợp đồng đã ký
kết, do lỗi không nhận hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng dẫn đến cà phê bị mưa
ướt và hư hỏng hồn tồn.
Có thể thấy rằng, một trong những vấn đề đặt ra trong tình huống này là vấn
đề xác định thời điểm chuyển rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa. Theo đó, ai

là chủ thể có trách nhiệm gánh chịu tổn thất, thiệt hại đối với hàng hóa bị hư hỏng?
Xét vấn đề chuyển rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa để xác định trách
nhiệm gánh chịu thiệt hại đối với hàng hóa trong vụ việc trên, thấy rằng:
Về thời hạn giao hàng thì theo quy định tại khoản 2 Điều 37 Luật Thương mại
2005, “trường hợp chỉ có thỏa thuận về thời hạn giao hàng mà không xác định thời
điểm giao hàng cụ thể thì bên bán có quyền giao hàng vào bất kỳ thời điểm nào trong
thời hạn đó và phải thơng báo trước cho bên mua”.
Căn cứ theo nội dung thỏa thuận trong vụ việc trên, công ty A và công ty B có
thỏa thuận thời hạn giao hàng là 10 ngày chia làm 3 đợt nhưng không xác định thời
điểm giao hàng cụ thể cho từng đợt giao hàng thì cơng ty B có quyền giao hàng bất
cứ thời điểm nào trong thời hạn đó và phải báo trước cho cơng ty A. Tuy nhiên, trường
hợp này công ty B đã vi phạm nghĩa vụ thông báo, nên rủi ro sẽ do công ty B chịu.
Cụ thể, vấn đề xác định thời điểm chuyển rủi ro từ bên bán sang bên mua trong vụ
việc này thuộc trường hợp chuyển rủi ro trong các trường hợp khác theo quy định tại
Điều 61 Luật Thương mại 2005. Khi các bên khơng có thoả thuận, mặc dù hàng hóa
thuộc quyền định đoạt của bên mua và bên mua vi phạm hợp đồng do không nhận
hàng nhưng rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hố khơng được chuyển cho bên
mua nếu hàng hóa không được thông báo cho bên mua.20 Như vậy, việc không thông
20

Khoản 2 Điều 61 Luật Thương mại 2005.


17

báo trước khi giao hàng của công ty B dẫn đến vấn đề rủi ro đối với hàng hóa chưa
được chuyển sang cho công ty A. Đồng thời, đối với trường hợp này, bên có lỗi là
cơng ty B và việc số cà phê trên bị ướt vì nước mưa do khơng có chỗ để khơng thuộc
trường hợp bất khả kháng được pháp luật quy định để có thể miễn trách nhiệm đối
với hành vi. Vì vậy, theo quy định tại Khoản 2 Điều 61 Luật Thương mại 2005 thì

cơng ty B phải gánh chịu thiệt hại của rủi ro đối với lô hàng 70 tấn của đợt 2.
Việc xác định thời điểm chuyển rủi ro giúp các bên trong hợp đồng thực hiện
việc mua bảo hiểm cho hàng hóa của mình. Khi rủi ro xảy ra thì thiệt hại đối với hàng
hóa là khơng nhỏ, vì vậy một khi rủi ro được chuyển giao cho bên nào thì bên đó có
trách nhiệm mua bảo hiểm cho hàng hóa để bù đắp thiệt hại cho mất mát hoặc hư
hỏng hàng hóa của mình.
Việc xác định thời điểm chuyển rủi ro cho biết địa điểm chuyển rủi ro, mà địa
điểm chuyển rủi ro có vai trị trong việc xác định luật áp dụng cho hợp đồng trong
trường hợp hai bên không thỏa thuận chọn luật áp dụng khi ký kết hợp đồng. Như
vậy, xác định thời điểm chuyển rủi ro góp phần xác định nguồn luật áp dụng trong
một số trường hợp nhất định.
Ví dụ 2: Tranh chấp trong ba hợp đồng mua bán hàng hóa.21
Bên mua ký ba hợp đồng với bên bán mua cùng một loại sản phẩm theo những
quy cách phẩm chất đã quy định trong hợp đồng. Theo hợp đồng, bên mua đã thanh
toán 90% giá trị mỗi hợp đồng khi nhận được bộ chứng từ gửi hàng. Hàng được giao
theo hợp đồng thứ nhất và thứ ba đạt đúng với quy cách phẩm chất quy định, tuy
nhiên các bên đã có tranh cãi về phẩm chất hàng giao theo hợp đồng thứ hai trước khi
hàng được giao lên tàu. Khi tiến hành giám định lô hàng thứ hai tại cảng đến người
ta phát hiện rằng hàng không đạt quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng. Cuối
cùng sau khi đã gia công lại để hàng dễ bán hơn, bên mua đã phải bán lại lô hàng trên
cho bên thứ ba với một khoản lỗ khá lớn. Theo đó, bên mua từ chối thanh tốn 10%
giá trị còn lại của các hợp đồng. Bên bán đã khởi kiện trước trọng tài địi được thanh
tốn số tiền 10% trên. Trong trường hợp này, trọng tài giải quyết vấn đề về luật áp
dụng như sau: Hợp đồng được ký giữa các bên khơng có điều khoản về luật áp dụng.
Tuy nhiên, theo hợp đồng này thì luật áp dụng sẽ được xác định theo quyết định của
các trọng tài viên phù hợp với Điều 13(3) của Quy tắc trọng tài của Phòng Thương

21

Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam VIAC (2002), 50 Phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc, Nhà xuất

bản Chính trị quốc gia, tr. 55 – 57.


18

mại Quốc tế (ICC). Theo Điều này, các trọng tài viên sẽ áp dụng hệ thống luật thực
chất được xác định theo quy phạm luật xung đột mà họ cho là phù hợp để giải quyết
tranh chấp. Trong trường hợp này, hợp đồng được ký kết giữa các bên thuộc các quốc
tịch khác nhau dưới dạng FOB, theo đó thời điểm chuyển rủi ro là khi hàng hóa đã
được chuyển qua lan can tàu tại cảng bốc hàng. Điều này cho thấy rủi ro được chuyển
cho bên mua trên lãnh thổ của bên bán. Do đó, nước của bên bán được coi là nước có
mối liên hệ chặt chẽ nhất với hợp đồng. Từ đó, Ủy ban trọng tài xác định luật của bên
bán là luật điều chỉnh hợp đồng giữa các bên.
Việc xác định thời điểm chuyển rủi ro có tác động rất lớn đối với q trình
thực hiện hợp đồng giữa các bên. Hợp đồng được giao kết dựa vào sự thỏa thuận bình
đẳng, tự nguyện. Do đó, khi thời điểm chuyển rủi ro được thỏa thuận một cách rõ
ràng trong giao kết hợp đồng thì nếu có rủi ro xảy ra, việc xác định thời điểm này và
chủ thể gánh chịu tổn thất sẽ dễ dàng, nhanh chóng. Từ đó, q trình thực hiện hợp
đồng sẽ diễn ra suôn sẻ, tránh được những cách hiểu khác nhau dẫn đến tranh chấp
làm lãng phí thời gian, tiền bạc và ảnh hưởng đến sự hợp tác giữa các bên.
Việc xác định thời điểm, địa điểm giao hàng và qua đó xác định thời điểm
chuyển rủi ro là cơ sở để các bên xác định giá hàng hóa. Trong quan hệ giữa người
bán và người mua khi thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa, rủi ro được chuyển giao
càng sớm càng có lợi cho người bán và ngược lại. Theo đó, khi thời điểm chuyển dịch
rủi ro diễn ra muộn, phạm vi chịu rủi ro của người bán càng lớn, người bán phải mua
bảo hiểm để phòng ngừa rủi ro đối với hàng hóa thì lúc này giá hàng hóa sẽ cao. Cịn
trong trường hợp thời điểm chuyển dịch rủi ro xảy ra sớm, phạm vi chịu rủi ro của
người bán thu hẹp, trách nhiệm mua bảo hiểm thuộc về người mua thì giá hàng hóa
sẽ thấp hơn.
1.1.2 Đặc điểm của rủi ro đối với hàng hóa trong hoạt động mua bán hàng

hóa
Từ khái niệm có thể thấy rủi ro đối với hàng hóa trong hoạt động mua bán
hàng hóa có một số thuộc tính sau:
- Rủi ro đối với hàng hóa trong hoạt động mua bán hàng hóa là một sự kiện
khách quan, không phụ thuộc vào ý chí con người về sự tồn tại, thời điểm phát sinh
của nó. Cụ thể, rủi ro về mất mát, hư hỏng hàng hóa có thể xảy ra từ những biến cố
tự nhiên như thiên tai, bão lụt, động đất, sóng thần, từ những biến cố xã hội như chiến
tranh, biểu tình, bãi cơng hay từ những biến cố về mặt pháp lý như sự thay đổi chính
sách pháp luật của nhà nước dẫn đến hàng hóa hiện tại theo quy định của pháp luật


19

trở thành hàng hóa cấm lưu thơng hoặc tàng trữ. Các biến cố rủi ro là tất yếu và tồn
tại khách quan, phổ biến, bởi lẽ:
Thứ nhất, rủi ro có thể xuất hiện bất cứ với ai, bất kỳ tổ chức nào và ở bất cứ
đâu, trong mọi hoạt động của cá nhân và doanh nghiệp.
Thứ hai, do con người khơng đủ khả năng kiểm sốt và/hoặc đo lường một
cách chính xác một yếu tố là nguyên nhân của các biến cố. Trong thế giới tự nhiên và
trong xã hội con người có nhiều sự vật, hiện tượng mà con người chưa khám phá ra,
chưa nhận biết hoặc chưa giải thích được. Muốn biết được, con người phải trả lời các
câu hỏi: nó là gì?, tại sao có nó?, nó xảy ra khi nào và ở đâu?, khi nó xảy ra thì có tác
động đến con người như thế nào?. Để trả lời những câu hỏi như vậy con người cần
có nhiều kiến thức, có sự hiểu biết đa dạng, phong phú và sâu sắc, cần phải có các
nghiên cứu nghiêm túc, công phu và lâu dài về cả lý luận và thực tiễn. Song thực tế
cho thấy rằng ở trong một thời kỳ nhất định tri thức chung của lồi người là có giới
hạn khơng ai có thể dự đốn đầy đủ và đúng những gì sẽ xảy ra và cũng khơng ai có
kiến thức và kinh nghiệm để giải quyết mọi cơng việc, mọi tình huống xảy ra.
Thứ ba, do con người bị hạn chế trong việc thu thập và xử lý thơng tin. Thơng
tin có hằng ngày, thường xuyên, liên tục với mức độ đa dạng và phức tạp. Mặc dù có

nhiều phương tiện hiện đại và phương pháp thu thập thông tin, nhưng con người
không thể nắm bắt hết tất cả các thông tin khác nhau theo đúng như mong muốn. Mặt
khác, việc thu thập thông tin và xử lý thông tin phụ thuộc khá nhiều vào năng lực,
trình độ của người nhận tin nên với cùng dung lượng và chất lượng thơng tin có người
đạt được kết quả mong muốn và cũng có người khơng đạt được kết quả mong muốn.
Thậm chí, trong nhiều tình huống có những thơng tin sai, gây nhiễu cho việc xử lý
thông tin làm cho con người ra quyết định không phù hợp và kết cục là phải gánh
chịu những tổn thất khó lường.
- Rủi ro trong hoạt động mua bán hàng hóa là một biến cố khơng mong đợi,
mang tính bất ngờ vì chẳng có chủ thể nào khi tham gia hoạt động mua bán hàng hóa
mà mong muốn rủi ro xảy ra đối với mình, đồng thời rủi ro xảy đến một cách ngẫu
nhiên và chúng ta không biết trước chính xác, rõ ràng về thời gian, địa điểm xảy ra
rủi ro.
- Thiệt hại mà rủi ro đối với hàng hóa trong hoạt động mua bán hàng hóa
mang lại ln là thiệt hại vật chất, đó là sự hư hỏng, mất mát đối với hàng hóa. Tất
cả các điều khoản quy định thời điểm chuyển rủi ro trong Luật Thương mại 2005 đều
đề cập đến rủi ro là mất mát, hư hỏng hàng hóa, trong đó hàng hóa là tài sản bao gồm


20

tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn
liền với đất.22
- Rủi ro đối với hàng hóa trong hoạt động mua bán hàng hóa có tính bất
định.23 Nghĩa là chỉ có thể lường trước được rủi ro nhưng khơng thể đánh giá một
cách chính xác về mức độ của rủi ro và khi nào rủi ro xảy ra. Hay nói cách khác tính
có thể lường trước được đối với rủi ro về hàng hóa trong hợp đồng mua bán khơng
phải ở chỗ xác định chính xác các yếu tố của rủi ro về loại sự cố, mức thiệt hại, thời
gian và địa điểm xảy ra rủi ro mà lường trước ở đây là sự dự trù đối với hàng hóa như
vậy, chặng đường vận chuyển, đối tác như thế thì có thể xảy ra những vấn đề gì làm

mất mát, hư hỏng hàng hóa và xảy ra ở mức độ nào mà thôi. Như vậy, các bên tham
gia hoạt động mua bán hàng hóa có thể đo lường được rủi ro thông qua việc đánh giá
về mức độ tần suất và hậu quả của rủi ro. Tần suất xảy ra có nghĩa là rủi ro có xảy ra
hay khơng, nó được thể hiện bằng xác suất hoặc khả năng xuất hiện của biến cố. Hậu
quả của rủi ro là mỗi lần rủi ro xảy ra có lớn hay khơng, lớn bao nhiêu, tính chất nguy
hiểm và mức độ thiệt hại như thế nào. Theo đó, khi xem xét rủi ro người ta thường
xem xét đến khả năng chắc chắn hay không chắc chắn xảy ra của rủi ro và mức độ
hậu quả khi rủi ro đó xảy ra.24 Xác định được kỹ hai yếu tố này chúng ta có thể tìm
ra biện pháp để giảm thiểu rủi ro, đặc biệt đối với trường hợp rủi ro tần suất lớn và
biên độ lớn. Tuy nhiên, sự lường trước đó cũng chỉ mang tính ước lượng, dự đốn
chứ khơng chính xác, rõ ràng đối với những biến cố có thể xảy đến. Do vậy, rủi ro là
một sự không chắc chắn về những tổn thất có thể xảy ra trong tương lai.
- Rủi ro trong mua bán hàng hóa có tính tương lai vì khi bàn đến rủi ro nghĩa
là nó chưa xảy ra, con người chỉ dự đoán, đo lường trước trong tương lai, ở thời điểm
ta dự báo rủi ro chưa xảy ra.
- Rủi ro đối với hàng hóa trong hoạt động mua bán hàng hóa là nguy cơ tiềm
ẩn khơng mang tính chắc chắn. Hay nói cách khác rủi ro có tính khả năng.25 Khi nói
đến rủi ro, người ta phải đề cập đến tính khả năng của rủi ro nghĩa là nó có thể trở
thành hiện thực hoặc khơng, khả năng rủi ro có thể biến thành thế này hay thế khác,
chỉ có thể dự đốn nó xảy ra hay không trong giới hạn thời gian và không gian, nó có
Khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại 2005.
Đinh Ngọc Tuấn (2004), Rủi ro và các giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học ngoại thương, tr. 20.
24
“Khái niệm chung về rủi ro”, truy cập ngày
20/04/2019.
25
Đinh Ngọc Tuấn, tlđd (23), tr. 21.
22
23



×