Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Quy định pháp luật về hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.5 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

PHẠM YẾN NHI

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ
TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

PHẠM YẾN NHI

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ
TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế. Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phan Huy Hồng

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các


số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Nếu các số liệu, kết quả, thông tin
trong luận văn được sử dụng từ các cơng trình đã được cơng bố hoặc sử dụng từ các
tác giả khác đều được trích dẫn nguồn cụ thể và chính xác. Tơi xin hồn tồn chịu
trách nhiệm về tính xác thực này.

Tác giả luận văn

Phạm Yến Nhi


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ TRONG THỦ
TỤC PHÁ SẢN ...................................................................................................... 6
1.1. Khái quát chung về phá sản và thủ tục phá sản ............................................ 6
1.1.1. Khái niệm phá sản ........................................................................................ 6
1.1.2. Thủ tục phá sản ........................................................................................... 10
1.1.3. Mục tiêu của thủ tục phá sản ....................................................................... 18
1.2. Khái quát chung về Hội nghị chủ nợ .......................................................... 20
1.2.1. Khái niệm chủ nợ và phân loại chủ nợ ........................................................ 20
1.2.2. Hội nghị chủ nợ và vai trò của Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản......... 24
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ TRONG
THỦ TỤC PHÁ SẢN........................................................................................... 28
2.1. Triệu tập Hội nghị chủ nợ ........................................................................... 28
2.1.1. Mục đích triệu tập Hội nghị chủ nợ ............................................................. 28
2.1.2. Thời điểm triệu tập Hội nghị chủ nợ ........................................................... 30
2.1.3. Thành phần được triệu tập .......................................................................... 37
2.2. Điều kiện tiến hành Hội nghị chủ nợ .......................................................... 44
2.2.1. Điều kiện để tiến hành Hội nghị chủ nợ một cách hợp lệ ............................ 44

2.2.2. Các trường hợp không tiến hành Hội nghị chủ nợ ....................................... 47
2.2.3. Các trường hợp hoãn Hội nghị chủ nợ ........................................................ 48
2.2.4. Các trường hợp đình chỉ thủ tục phá sản do có chủ thể tham gia Hội nghị chủ
nợ vắng mặt .......................................................................................................... 50
2.3. Nội dung Hội nghị chủ nợ ............................................................................ 52
2.3.1. Nội dung Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất ....................................................... 52
2.3.2. Nội dung Hội nghị chủ nợ tiếp theo ............................................................. 60
2.4. Thực thi Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ ................................................... 61
2.4.1. Thực thi Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phục hồi hoạt động
kinh doanh ............................................................................................................ 61


2.4.2. Thực thi Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ trong thủ tục thanh lý tài sản ...... 63
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VỀ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN .......... 65
3.1. Kiến nghị chung ........................................................................................... 66
3.1.1. Mở rộng quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản .................................. 66
3.1.2. Quyền nộp đơn của doanh nghiệp khi nhận thấy doanh nghiệp có nguy cơ
phá sản ................................................................................................................. 66
3.1.3. Xây dựng thủ tục phá sản rút gọn ............................................................... 67
3.1.4. Tăng cường quyền tự quyết của chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ ................. 67
3.2. Yêu cầu và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về Hội
nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản ..................................................................... 68
3.2.1. Những yêu cầu nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về Hội nghị chủ nợ trong
thủ tục phá sản ..................................................................................................... 68
3.2.2. Những kiến nghị cụ thể ................................................................................ 69
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Pháp luật là nền tảng để duy trì trật tự xã hội. Trong nền kinh tế thị trường,
mơi trường kinh doanh ln mang tính cạnh tranh và đào thải cao với những rủi ro
luôn tồn tại, pháp luật phá sản chính là nền tảng pháp lý vững chắc để duy trì trật tự
xã hội nói chung và nền kinh tế nói riêng. Xét ở tầm vi mơ, pháp luật phá sản có ý
nghĩa vơ cùng quan trọng đối với doanh nghiệp phá sản, chủ nợ và người lao động.
Đối với doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, pháp luật phá sản đem lại những cơ hội
thuận lợi để phục hồi hoạt động kinh doanh hoặc rút lui khỏi thị trường một cách
trật tự. Đối với chủ nợ của doanh nghiệp, pháp luật phá sản tạo ra cơ chế cho phép
họ lựa chọn giải pháp tốt nhất để có thể bảo tồn nguồn vốn của mình. Đối với
người lao động trong doanh nghiệp, pháp luật phá sản tạo ra cơ chế pháp lý bảo vệ
quyền lợi của người lao động khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Ở tầm vĩ
mô, pháp luật phá sản góp phần thúc đẩy lưu thơng vốn cho nền kinh tế thông qua
những quy định bảo vệ chủ nợ, tạo tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư khi họ góp
vốn vào thị trường1. Tại Việt Nam, những thay đổi trong cơ chế quản lý kinh tế kể
từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986) đã cho ra đời nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, từ đây hình thành nên một mơi trường cạnh
tranh khắc nghiệt, trong đó những doanh nghiệp yếu kém hoặc mắc sai lầm sẽ bị
loại khỏi thương trường. Pháp luật phá sản Việt Nam ra đời như một tất yếu khách
quan nhằm duy trì trật tự xã hội, ổn định nền kinh tế trong điều kiện mới này.
Luật Phá sản doanh nghiệp đầu tiên của Việt Nam ra đời năm 1993. Đây là
văn bản đầu tiên có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh về phá sản doanh nghiệp. Ra
đời trong thời kỳ quá độ khi những nhận thức về thị trường vẫn chưa thực sự sâu
sắc, Luật đã bộc lộ nhiều bất cập sau 10 năm áp dụng. Luật Phá sản 2004 là bước

phát triển và có sự đổi mới quan trọng, phản ánh một cách đầy đủ hơn đời sống kinh
tế xã hội nói chung và tình hình phá sản doanh nghiệp ở nước ta nói riêng2. Trong
đó, quyền lợi của chủ nợ được bảo vệ tốt hơn, đồng thời những doanh nghiệp thua
lỗ có thêm cơ hội phục hồi hoạt động kinh doanh hoặc rút lui khỏi thị trường một
cách trật tự nhất.

1
2

Hồng Minh Hiếu (2004), “Góp ý dự thảo Luật phá sản sửa đổi”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (02), tr. 64.

Dương Đăng Huệ (2004), “Giới thiệu nội dung Luật Phá sản”, Kỷ yếu chương trình tập huấn bồi dưỡng
kiến thức pháp luật, Bộ Tư pháp, Bà Rịa – Vũng Tàu.


2
Để các chủ thể có lợi ích liên quan, đặc biệt là chủ nợ của doanh nghiệp
không xảy ra hỗn loạn khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, Luật Phá sản
2004 đã thiết kế thủ tục phá sản để giải quyết thỏa đáng quyền lợi của những chủ
thể, trong đó, Luật dành hẳn Chương V quy định về Hội nghị chủ nợ, đại diện cho ý
chí chung của tất cả các chủ nợ, có quyền quyết định cao nhất những vấn đề liên
quan đến lợi ích của chủ nợ.
Thực tiễn pháp luật quy định về Hội nghị chủ nợ cho thấy vai trò quan trọng
của cơ quan này trong việc ổn định trật tự, xây dựng tiếng nói chung cho những bên
liên quan trong việc định đoạt tương lai của doanh nghiệp mắc nợ và giải quyết các
vấn đề nợ nần thuộc trách nhiệm của doanh nghiệp. Đây là một thiết chế rất hay
hướng đến hài hòa lợi ích giữa chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ, là một trong những
khâu quan trọng giúp cho chủ nợ có thể hỗ trợ doanh nghiệp, cùng nhau tái cấu trúc
doanh nghiệp và xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên,
những quy định của Luật Phá sản 2004 về Hội nghị chủ nợ vẫn tồn tại một số bất

cập và những điểm chưa hợp lý: quy định về điều kiện hợp lệ để tổ chức Hội nghị
chủ nợ còn khá cao; thành phần tham gia và biểu quyết tại Hội nghị chủ nợ chưa
phù hợp, phạm vi thẩm quyền quyết định và cơ chế giám sát thi hành những quyết
định của Hội nghị chủ nợ còn một số vướng mắc, từ đó làm giảm hiệu lực điều
chỉnh của Luật Phá sản. Do đó, tác giả lựa chọn nghiên cứu “Quy định pháp luật về
Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản” làm đề tài luận văn thạc sĩ với mong muốn
nghiên cứu về những điểm tiến bộ và những bất cập của quy định pháp luật về Hội
nghị chủ nợ. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Luật Phá sản 2004 ra đời là một bước tiến mới, là kết quả của việc tiếp thu
kinh nghiệm tiến bộ của các nước trên thế giới và sự đúc kết kinh nghiệm thực tiễn
của hơn 10 năm thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp 1993, đã tạo điều kiện để
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có thể phục hồi, đồng thời rút gọn trình tự
giải quyết phá sản trong những trường hợp đặc biệt, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích
của chủ thể tham gia tố tụng phá sản. Tuy nhiên, qua hơn 09 năm áp dụng, Luật Phá
sản 2004 cũng đã bộc lộ những bất cập nhất định. Đã có rất nhiều cơng trình nghiên
cứu khoa học về pháp luật phá sản được thực hiện. Trong đó, có những cơng trình
nghiên cứu tồn diện các vấn đề liên quan đến pháp luật phá sản nhưng cũng có
những cơng trình nghiên cứu một hoặc một số khía cạnh nhất định liên quan đến
pháp luật phá sản. Có thể kể đến những cơng trình nghiên cứu như:


3
-

Cơng trình nghiên cứu “Pháp luật phá sản của Việt Nam” của PGS.TS Dương

Đăng Huệ. Đây là cơng trình nghiên cứu một cách toàn diện các vấn đề thuộc
nội dung của Luật Phá sản 2004 trên cơ sở so sánh với Luật Phá sản doanh
nghiệp 1993 và pháp luật phá sản của một số nước trên thế giới. Từ đó làm rõ
được bản chất và tính đặc thù của thủ tục phá sản. Đồng thời đưa ra những
đánh giá, góp ý xây dựng pháp luật phá sản Việt Nam trong chặng đường phát
triển sau này. Tuy nhiên, đây là một trong những cơng trình đầu tiên nghiên
cứu về Luật Phá sản 2004 sau 01 năm kể từ ngày Luật này được ban hành cho
nên chưa xem xét được tính hiệu quả và khả thi của Luật này.

-

Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện các quy định liên quan đến quản lý và thanh lý tài
sản” của Nguyễn Thị Hồng Vân năm 2008. Đây là cơng trình nghiên cứu
chun sâu về vấn đề quản lý và thanh lý tài sản.

-

Chuyên đề khoa học xét xử - Tập 1 của Viện Khoa học Xét xử, Tồ án Nhân
dân tối cao năm 2010. Cơng trình nghiên cứu này đã tổng kết, đánh giá những
quy định của pháp luật phá sản thông qua thực tiễn 05 năm thi hành Luật Phá
sản 2004 và làm rõ thực trạng giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản trong thời
gian qua, phát hiện những tồn tại, hạn chế của Luật Phá sản 2004 và các văn
bản có liên quan. Qua đó, đưa ra những kiến nghị nhằm tháo gỡ và nâng cao
hiệu quả giải quyết phá sản.

-

Bài viết “Quy định về Hội nghị chủ nợ trong Luật Phá sản 2004: Một số bất
cập và hạn chế” của PGS.TS Bùi Xuân Hải được đăng trên Tạp chí Khoa học
pháp lý số 01 năm 2011. Bài viết của tác giả đi sâu phân tích những bất cập,

hạn chế những quy định pháp luật về Hội nghị chủ nợ và đưa ra một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện chế định này.

-

Luận văn Thạc sĩ Luật học “Chế độ pháp lý về phá sản – Thực tiễn thi hành và
hướng hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Trường Nhật Phượng được bảo vệ năm
2004. Luận văn đã khái quát được những nội dung của Luật Phá sản 2004.
Trên cơ sở đó tìm ra những hạn chế bất cập của Luật Phá sản nhằm hoàn thiện
những quy định pháp luật phá sản.

Ngoài ra, còn rất nhiều bài báo, bài viết của nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề
phá sản. Những cơng trình nghiên cứu này, tác giả các bài viết nghiên cứu những
quy định pháp luật phá sản ở nhiều góc độ khác nhau. Trong đó, quy định về Hội
nghị chủ nợ được tác giả các bài viết lấy làm trọng tâm nghiên cứu hoặc chỉ đề cập
đến như một nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu của mình. Đây là một chế
định rất hay và được xem như một công cụ tái cấu trúc hiệu quả nhất giúp doanh


4
nghiệp thốt khỏi tình trạng phá sản. Cho nên, nghiên cứu để thấu hiểu được những
đặc thù và tính ưu việt của chế định này nhằm phát huy tối đa vai trị của Hội nghị
chủ nợ trong q trình tiến hành thủ tục phá sản là thật sự cần thiết.
3.

Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
- Làm rõ vai trị và thẩm quyền của Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản.
- Tìm ra những vướng mắc của quy định pháp luật làm hạn chế vai trò của
Hội nghị chủ nợ trong thực tiễn áp dụng.

- Đưa ra một số kiến nghị phát huy những mặt tích cực của Hội nghị chủ nợ
trong thủ tục phá sản.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khái quát những vấn đề cơ bản về Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản.
- Phân tích, đánh giá những điều kiện tiến hành và thông qua Nghị quyết của
Hội nghị chủ nợ; thẩm quyền của Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản.
- Phân tích những quy định còn bất cập trong thực tiễn áp dụng về Hội nghị
chủ nợ và đưa ra một số kiến nghị nhằm phát huy vai trò của Hội nghị chủ
nợ, góp phần vào sự thành cơng của thủ tục phá sản.
Phạm vi nghiên cứu:

Luận văn tập trung nghiên cứu quy định pháp luật Việt Nam về Hội nghị chủ
nợ trong thủ tục phá sản trên cơ sở tổng quan những vấn đề lý luận, quy định pháp
luật và thực tiễn áp dụng những quy định này. Qua đó thấy được những hạn chế, bất
cập và đưa ra những kiến nghị nhằm góp phần hồn thiện những quy định của Luật
Phá sản 2004.
4.

Phương pháp nghiên cứu

Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp trên cơ sở kế thừa
những giá trị khoa học của các đề tài trước đây. Từ đó, làm sáng tỏ nội dung nghiên
cứu của đề tài.
5.

Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài

Việc thực hiện nghiên cứu này sẽ mang lại những kiến thức và kinh nghiệm vô
cùng quý báu cho bản thân tác giả trong việc thấu hiểu và vận dụng Luật Phá sản
nói chung và Hội nghị chủ nợ nói riêng. Đồng thời, tác giả kỳ vọng nghiên cứu này



5
có thể là một phần đóng góp nhỏ trong việc bổ sung các kiến thức về Hội nghị chủ
nợ, vai trò của Hội nghị chủ nợ cũng như những vấn đề bất cập liên quan đến Hội
nghị chủ nợ trong quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp. Đồng thời với việc chỉ
ra những bất cập và đề xuất một số kiến nghị, tác giả mong muốn được góp phần
vào việc hoàn thiện Luật Phá sản.
Luận văn này được thực hiện sẽ góp phần vào việc bổ sung các kiến thức còn
chưa được nghiên cứu sâu về Hội nghị chủ nợ và vai trò của Hội nghị chủ nợ trong
thủ tục phá sản. Hội nghị chủ nợ là cơ quan đại diện cho chủ nợ, có ý nghĩa trong
việc thống nhất quan điểm của các bên có quyền lợi liên quan, qua đó hạn chế tình
trạng hỗn loạn khơng cần thiết, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả điều chỉnh của
Luật Phá sản và bảo đảm tính ổn định của nền kinh tế.
Đồng thời, những bất cập của Hội nghị chủ nợ trên thực tế áp dụng cũng sẽ
được phân tích trong luận văn và có thể được các nhà lập pháp dùng làm cơ sở tham
khảo trong việc đánh giá, điều chỉnh các quy định liên quan. Ngoài ra, tác giả cũng
mong muốn trong khuôn khổ của luận văn này, có thể đề xuất những kiến nghị phù
hợp để q trình thực thi Luật Phá sản nói chung và Hội nghị chủ nợ nói riêng diễn
ra một cách hiệu quả, đóng góp tích cực vào việc đạt được mục tiêu của pháp luật
nói chung và Luật Phá sản nói riêng là duy trì trật tự xã hội, ổn định nền kinh tế, tạo
cơ sở pháp lý vững chắc bảo vệ quyền lợi của các chủ thể có liên quan đến doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
6.

Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được kết cấu thành ba chương:

-


Chương 1. Khái quát chung về Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản.

-

Chương 2. Thực trạng pháp luật về Hội nghị chủ nợ trong thủ tục phá sản.

-

Chương 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về Hội nghị
chủ nợ trong thủ tục phá sản.


6

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỘI NGHỊ CHỦ NỢ
TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN
1.1. Khái quát chung về phá sản và thủ tục phá sản
1.1.1. Khái niệm phá sản
Trên thế giới, thuật ngữ phá sản được hình thành từ thời La Mã cổ đại. Khái
niệm này được đề cập đầu tiên trong Luật La Mã dùng để chỉ tình trạng một con nợ
khơng thanh tốn được các khoản nợ của mình như đã cam kết, kèm theo đó là
những biện pháp trừng trị con nợ rất hà khắc như chủ nợ có quyền tự xử con nợ hay
lệ băm xác con nợ thành nhiều mảnh rồi đem chia cho các chủ nợ3.
Ở Việt Nam, thuật ngữ phá sản được biết đến từ thời kỳ Pháp thuộc. Cùng với
quá trình thực dân hóa, người Pháp đã mang Bộ luật Thương mại Pháp vào Việt
Nam4. Tuy nhiên, thuật ngữ phá sản không được sử dụng phổ biến mà được thay
bằng thuật ngữ khánh tận. Thuật ngữ này dùng để chỉ tình trạng mất khả năng thanh
toán của một thương nhân và xuất hiện đầu tiên tại Điều 180 của Bộ luật Thương
mại Trung Kỳ 1942. Bộ luật Thương mại Sài Gòn 1972 được chính quyền Việt
Nam Cộng hịa ban hành đã chấm dứt hiệu lực của Bộ luật thương mại Trung Kỳ

1942. Theo đó, thuật ngữ khánh tận được nêu tại Điều 864 dùng để chỉ tình trạng
thương gia ngừng trả nợ có thể, đương nhiên hoặc theo đơn xin của trái chủ, bị Tòa
án tuyên khánh tận5.
Sau khi giành được độc lập, nước ta xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, chủ thể kinh tế chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước. Đặc trưng của nền
kinh tế này là nguyên tắc Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế, trong đó có hai thành phần
kinh tế: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Các doanh nghiệp hoạt động theo kế
hoạch và chỉ tiêu bằng nguồn vốn Nhà nước, lãi thì nộp vào ngân sách nhà nước và
được Nhà nước hỗ trợ bằng cách khoanh nợ, hoãn nợ, xóa nợ khi doanh nghiệp thua
lỗ để doanh nghiệp tiếp tục hoạt động hoặc bằng các biện pháp hành chính như sáp
nhập, giải thể để chấm dứt hoạt động. Trong hồn cảnh như vậy, khơng thể có hiện
tượng phá sản xảy ra.
Đến Đại hội Đảng lần thứ VI, nước ta bắt đầu xây dựng nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
3

Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật kinh tế, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, tr. 697.

4

Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật kinh tế, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, tr. 701.

5

Dương Đăng Huệ (2005), Pháp luật phá sản của Việt Nam, Nhà xuất bản Tư Pháp, tr. 31.


7
hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đây, các chủ thể kinh doanh phải chịu sự điều tiết bởi
các quy luật của nền kinh tế thị trường như quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu,

quy luật giá trị… Cho nên, pháp luật phá sản ra đời không phải là sự lựa chọn mà là
một nhu cầu tất yếu khách quan.
Ngày nay, các quốc gia đã tiếp nhận hiện tượng phá sản như một tất yếu khách
quan của nền kinh tế thị trường. Xu hướng này được mang vào quá trình lập pháp
của mỗi quốc gia, nội dung của pháp luật về phá sản đã mang tính nhân văn hơn,
thay vì hướng vào chủ nợ và trừng trị con nợ thì pháp luật phá sản ngày nay hướng
tới mục tiêu dung hịa lợi ích giữa chủ nợ và con nợ, chú trọng đến giải pháp khôi
phục doanh nghiệp mắc nợ thông qua những quy định về dấu hiệu xác định doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, các biện pháp bảo toàn tài sản, Hội nghị chủ nợ
(HNCN), biện pháp phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản và thứ tự thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản.
Mặc dù thuật ngữ phá sản được sử dụng rộng rãi nhưng chưa có văn bản pháp
luật phá sản nào chính thức giải thích về phá sản ở nước ta. Thay vào đó, thuật ngữ
“doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản” được sử dụng để chỉ trạng
thái làm phát sinh quyền của một số chủ thể nhất định được yêu cầu mở thủ tục phá
sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó.
Năm 1990, việc doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được nhắc đến như
tình trạng tại một thời điểm, tổng giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp nhỏ hơn
tổng giá trị các khoản nợ đến hạn của doanh nghiệp6.
Đến năm 1993, Luật Phá sản doanh nghiệp đã xác định “Doanh nghiệp đang
lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt
động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất
khả năng thanh toán nợ đến hạn” (Điều 2 Luật Phá sản doanh nghiệp 1993). Điều 3
Nghị định 189/CP ngày 23/12/1994 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Phá sản
doanh nghiệp đã cụ thể hóa các dấu hiệu để xác định một doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản như sau:

6

Điều 2 Luật Công ty năm 1990 quy định “Công ty gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt đơng kinh doanh

đến mức tại một thời điểm tổng số trị giá các tài sản cịn lại của cơng ty khơng đủ thanh toán tổng số các
khoản nợ đến hạn, là cơng ty đang lâm vào tình trạng phá sản” và Điều 17 Luật Doanh nghiệp tư nhân năm
1990 quy định “Doanh nghiệp tư nhân gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt đông kinh doanh đến mức tại
một thời điểm tổng số trị giá các tài sản còn lại của doanh nghiệp khơng đủ thanh tốn tổng số các khoản nợ
đến hạn, là doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản”.


8
-

Doanh nghiệp kinh doanh bị thua lỗ trong 02 năm liên tiếp đến mức không trả
được các khoản nợ đến hạn, không trả đủ lương cho người lao động theo thoả
ước lao động và hợp đồng lao động trong 03 tháng liên tiếp.

-

Khi lâm vào tình thế nêu trên, doanh nghiệp phải áp dụng các biện pháp tài
chính cần thiết như: Có phương án tổ chức lại sản xuất kinh doanh, quản lý
chặt chẽ các khoản chi phí, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm; có biện
pháp xử lý hàng hoá, sản phẩm, vật tư tồn đọng; thu hồi các khoản nợ và tài
sản bị chiếm dụng; thương lượng với các chủ nợ để hoãn nợ, mua nợ, bảo lãnh
nợ, giảm, xố nợ; tìm kiếm các khoản tài trợ và các khoản vay để trang trải các
khoản nợ đến hạn và đầu tư đổi mới công nghệ.

-

Sau khi đã áp dụng các biện pháp nêu trên mà vẫn không thanh tốn được nợ
thì bị coi là lâm vào tình trạng phá sản.

Với những điều kiện được đặt ra như vậy, Luật Phá sản doanh nghiệp đã trở

thành rào cản các chủ thể có liên quan khơng thể sử dụng pháp luật phá sản như một
cơng cụ địi nợ theo mục tiêu ban đầu mà Luật Phá sản doanh nghiệp đã đề ra. Để
được coi là có dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản, doanh nghiệp phải kinh doanh
thua lỗ trong 02 năm liên tiếp. Có thể nói, kinh doanh thua lỗ là ngun nhân chính
dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán ở hầu hết các doanh nghiệp. Nhưng
không cần đợi tới 02 năm thua lỗ, tài sản của doanh nghiệp có thể khơng cịn gì sau
những giao dịch thất bại, hoặc do sự thay đổi của tình hình kinh tế thế giới hoặc do
thay đổi của chính sách trong nước có thể trong thời gian ngắn dẫn đến kiệt quệ tài
chính doanh nghiệp. Một tình huống khác, doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ nhưng
không liên tiếp 02 năm mà có sự đứt quãng, năm này thua lỗ nhưng năm tiếp theo
không lỗ, năm tiếp theo lại thua lỗ. Tổng hợp những lần thua lỗ này đã làm cho
doanh nghiệp khơng có khả năng thanh tốn các khoản nợ bằng chính tài sản của
mình. Thế nhưng, cũng khơng thể tiến hành phá sản bởi vì khơng đáp ứng đủ điều
kiện theo quy định.
Như vậy, nếu doanh nghiệp đáp ứng được các điều kiện theo quy định thì thủ
tục phá sản doanh nghiệp được xem như một biện pháp cuối cùng để xử lý tài sản
con nợ hơn là phục hồi doanh nghiệp. Khi tiếp cận được thủ tục phá sản thì tình
hình tài chính của doanh nghiệp đã kiệt quệ, doanh nghiệp phải giải quyết mâu
thuẫn với các chủ nợ và người lao động hơn là tìm cách tái cơ cấu lại doanh nghiệp
để vực dậy hoạt động kinh doanh. Lúc này, doanh nghiệp đã ở vào giai đoạn cuối
của quá trình sinh tồn. Cho nên, những quy định pháp luật về phục hồi doanh
nghiệp trong thủ tục phá sản khơng có giá trị áp dụng trên thực tế.


9
Khắc phục những hạn chế đó, Luật Phá sản 2004 đã thể hiện rõ mục tiêu bảo
vệ quyền lợi của chủ nợ, người lao động và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp,
hợp tác xã phá sản, nhận thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa lợi ích của chủ nợ và
doanh nghiệp mắc nợ. Theo đó, doanh nghiệp, hợp tác xã (sau đây gọi chung là
doanh nghiệp) được phục hồi thì lợi ích của chủ nợ được bảo đảm thanh tốn đầy đủ

nhất. Hơn nữa, tính nhân văn của pháp luật phá sản thể hiện ở chỗ là tạo cơ hội cho
doanh nghiệp mắc nợ phục hồi và trở lại thương trường, những nhà lập pháp đã có
sự điều chỉnh phù hợp hơn khi đưa ra dấu hiệu xác định doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản, theo đó “Doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản là
doanh nghiệp, hợp tác xã khơng có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn
khi chủ nợ có yêu cầu” (Điều 3 Luật Phá sản 2004). Như vậy, tương tự pháp luật
phá sản các nước trên thế giới, Luật Phá sản hiện hành xem việc mất khả năng
thanh tốn nợ đến hạn khi chủ nợ có u cầu là căn cứ cơ bản và duy nhất để xem
xét mở thủ tục phá sản doanh nghiệp mà không cần phải quan tâm đến các dấu hiệu
khác như Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 quy định. Sự tiến bộ của Luật Phá sản
2004 đã tạo điều kiện cho việc áp dụng thủ tục phá sản kịp thời, nâng cao khả năng
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp7.
Theo Điều 3 Luật Phá sản 2004, một doanh nghiệp bị coi là lâm vào tình trạng
phá sản khi đáp ứng các điều kiện sau:
Thứ nhất, khơng có khả năng thanh tốn các khoản nợ đến hạn. Luật Phá sản
2004 khơng quan tâm doanh nghiệp nợ bao nhiêu, chỉ cần có khoản nợ đến hạn trả
mà doanh nghiệp không trả được cho chủ nợ. Khi doanh nghiệp vi phạm cam kết trả
nợ như hai bên đã thỏa thuận trước đó thì được xem là đã lâm vào tình trạng phá
sản. Nhà làm luật không bắt buộc các chủ nợ phải chứng minh tình trạng tài chính
thực tế của doanh nghiệp, bởi tính minh bạch của thơng tin tài chính doanh nghiệp
và vấn đề bảo mật thông tin làm cho việc xác định tình hình tài chính thực tế của
doanh nghiệp là rất khó thực hiện.
Thứ hai, khi chủ nợ có yêu cầu thanh tốn nhưng doanh nghiệp khơng có khả
năng thanh tốn. Khi nợ đến hạn, doanh nghiệp khơng có khả năng thanh tốn mà
khơng biết cần số nợ phải thanh tốn là bao nhiêu thì được xem là lâm vào tình
trạng phá sản. Quy định này cho phép các chủ thể có liên quan sớm xác định dấu
hiệu doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản và Nhà nước có sự can thiệp kịp thời
đối với doanh nghiệp này. Qua đó, cơ hội phục hồi của doanh nghiệp sẽ cao hơn.
7


Dương Đăng Huệ (2004), Giới thiệu nội dung Luật Phá sản, Kỷ yếu chương trình tập huấn bồi dưỡng kiến
thức pháp luật, Bộ tư pháp, Bà Rịa – Vũng tàu, tr. 90.


10
Có thể nói, bất cứ quy định nào cũng có những ưu điểm và hạn chế nhất định.
Bỏ qua những bất cập vừa phân tích, chúng ta đã thấy được sự cố gắng của các nhà
lập pháp trong sự điều chỉnh quy định pháp luật để ngày càng phù hợp với điều kiện
kinh tế xã hội của đất nước mà vẫn không lạc nhịp với xu hướng chung của thế giới.
Tóm lại, căn cứ để xác định một doanh nghiệp có lâm vào tình trạng phá sản
hay khơng là dựa vào khả năng thanh toán nợ đến hạn của doanh nghiệp mà không
cần xác định tài sản thực tế của doanh nghiệp có đủ trả nợ hay khơng. Quy định này
là hợp lý và phù hợp với xu hướng chung của thế giới vì các chủ thể có quyền và lợi
ích liên quan dễ dàng xác định dấu hiệu doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản để
có biện pháp can thiệp kịp thời, hạn chế đến mức tối đa thiệt hại có thể xảy ra.
1.1.2. Thủ tục phá sản
1.1.2.1. Đặc điểm thủ tục phá sản
Phá sản là hiện tượng tất yếu của nền kinh tế thị trường. Dưới góc độ quản lý
nhà nước đối với nền kinh tế, Nhà nước tất yếu phải thiết kế thủ tục giải quyết mối
quan hệ xã hội này nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể có liên quan,
đồng thời làm lành mạnh môi trường kinh doanh, ổn định trật tự xã hội. Tuy nhiên,
quan hệ pháp luật phá sản liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau và có thể gây ra
những hậu quả tiêu cực cho xã hội nói chung và nền kinh tế nói riêng. Cho nên, nhà
làm luật xây dựng một thủ tục giải quyết đặc biệt điều chỉnh nhóm quan hệ này, tính
đặc biệt của thủ tục phá sản thể hiện ở những điểm sau:
-

Là cơng cụ địi nợ mang tính tập thể

Khi quyền và lợi ích bị xâm phạm, chủ nợ có quyền lựa chọn biện pháp pháp

lý cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Khi doanh nghiệp khơng trả nợ
đến hạn, chủ nợ có quyền kiện địi theo thủ tục tố tụng dân sự. Tuy nhiên, phần lớn
tài sản doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khơng đủ để thanh toán nợ đầy đủ
cho tất cả các chủ nợ và không bảo đảm được quyền lợi chủ nợ một cách cơng bằng
và thỏa đáng. Chủ nợ có thể dùng mọi biện pháp hợp pháp lẫn bất hợp pháp để tài
sản đó thuộc về mình.
Nhằm thiết lập trật tự và bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể có liên
quan, pháp luật phá sản ra đời để đảm bảo công bằng cho các chủ nợ, quyền lợi của
người lao động, đồng thời tránh được sự tẩu tán tài sản của doanh nghiệp mắc nợ.
Để thực hiện quyền địi nợ của mình, pháp luật cho phép chủ nợ có quyền nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp để thanh toán nợ. Tuy nhiên, việc giải
quyết yêu cầu này không tiến hành riêng lẻ cho từng chủ nợ, tất cả các khoản nợ


11
đều được giải quyết trong một thủ tục chung – thủ tục phá sản. Những chủ nợ
không nộp đơn yêu cầu vẫn được giải quyết như những chủ nợ khác, ngay cả những
khoản nợ chưa đến hạn vẫn được thanh toán như những khoản nợ khác khi tiến
hành thanh lý tài sản doanh nghiệp (Điều 34 Luật Phá sản 2004). Cho nên, mỗi chủ
nợ không thể là một nguyên đơn độc lập mà tất cả các chủ nợ được tập hợp lại
thành một chủ thể thống nhất là HNCN. HNCN sẽ đại diện cho tất cả các chủ nợ để
tham gia vào q trình giải quyết phá sản.
-

Cơng cụ điều hịa lợi ích giữa các bên có liên quan

Thủ tục phá sản được coi là thủ tục đòi nợ đặc biệt, khác với thủ tục địi nợ
thơng thường chỉ nhằm thanh toán nợ cho chủ nợ đối với những khoản nợ đến hạn
phải trả theo đúng cam kết. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường mà rủi ro luôn
ẩn chứa trong từng hoạt động kinh doanh, để khuyến khích doanh nghiệp tham gia

đầu tư vào nền kinh tế, pháp luật phá sản đã tạo ra cơ chế pháp lý để xử lý nợ, đồng
thời vẫn giúp con nợ vượt qua tình trạng khó khăn về tài chính, trở lại hoạt động
bình thường. Đối với những con nợ khơng có khả năng phục hồi, pháp luật cũng tạo
điều kiện thuận lợi để thanh lý tài sản và chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp
trong thời gian sớm nhất nhằm hạn chế tối đa những thiệt hại do doanh nghiệp phá
sản mang lại.
Một mặt, thủ tục phá sản cung cấp cho chủ nợ một cơng cụ địi nợ ngồi thủ
tục địi nợ dân sự. Thủ tục phá sản không phải là biện pháp tối ưu để bảo đảm quyền
lợi của từng chủ nợ một cách tốt nhất do số nợ có thể sẽ khơng được thanh tốn đầy
đủ. Tuy nhiên, pháp luật ra đời nhằm thiết lập trật tự xã hội. Khơng nằm ngồi mục
tiêu chung đó, pháp luật phá sản ra đời trước tiên và chủ yếu để bảo vệ cho tất cả
chủ nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Thông qua HNCN, pháp luật
phá sản đã tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho các chủ nợ thực hiện quyền địi nợ
của mình khi quyền này có nguy cơ bị xâm phạm, bảo vệ một cách công bằng, thỏa
đáng cho các chủ nợ cũng như các chủ thể có lợi ích liên quan nhằm khuyến khích
các chủ thể mạnh dạn đầu tư, tăng nguồn vốn cho nền kinh tế.
Mặt khác, thủ tục phá sản đã cân bằng lợi ích giữa chủ nợ và doanh nghiệp
mắc nợ bên cạnh bảo vệ lợi ích của các chủ nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản thơng qua quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; quyền cử người đại
diện tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản (QLTLTS); quyền tham gia HNCN và
biểu quyết những vấn đề quan trọng liên quan đến lợi ích của mình; quyền khiếu nại
quyết định của Tịa án; thơng qua các biện pháp bảo tồn tài sản của doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản để mở rộng khả năng thu hồi nợ của các chủ nợ. Tuy


12
nhiên, nhà làm luật nhận ra rằng, hoạt động kinh doanh chứa đựng nhiều rủi ro và
ln được khuyến khích, cho nên pháp luật phá sản đã tạo điều kiện cho doanh
nghiệp tái tổ chức hoạt động kinh doanh, khắc phục tình trạng mất khả năng thanh
tốn thơng qua biện pháp phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, giúp

doanh nghiệp trở về hoạt động bình thường, tiếp tục tạo ra của cải, vật chất cho bản
thân doanh nghiệp và cho toàn xã hội, hạn chế những thiệt hại do phá sản mang lại.
Tóm lại, pháp luật phá sản có vai trị rất lớn để nền kinh tế vận hành trôi chảy.
Cho nên, việc thiết kế pháp luật phá sản địi hỏi phải có sự cân bằng lợi ích giữa chủ
nợ và con nợ. Nếu pháp luật phá sản chỉ được thiết kế để bảo vệ lợi ích chủ nợ sẽ
dẫn đến triệt tiêu sự sáng tạo và mạnh dạn đầu tư vào những lĩnh vực mới, mang
tính mạo hiểm, đồng thời làm giảm đi tính chia sẻ rủi ro trong hoạt động kinh
doanh. Ngược lại, nếu pháp luật phá sản chỉ bảo vệ doanh nghiệp mắc nợ sẽ làm
dập tắt thị trường tín dụng, khơng chủ nợ nào mạnh dạn cho vay khi khơng có cơ
chế pháp lý bảo vệ họ, người cho vay sẽ khơng có động cơ để cho vay. Vì lẽ đó mà
pháp luật phá sản của hầu hết các quốc gia trên thế giới ln cân bằng giữa lợi ích
của chủ nợ, con nợ và những chủ thể có liên quan để các nhóm lợi ích trong quan hệ
pháp luật phá sản ln được hài hòa.
-

Trên thực tế ở Việt Nam, kết quả thường dẫn đến chấm dứt tồn tại doanh nghiệp

Tình trạng mất khả năng thanh toán đã thể hiện phần nào sự nguy kịch về tài
chính của doanh nghiệp. Về lý thuyết, khả năng hồi phục của doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản thông qua biện pháp phục hồi hoạt động kinh doanh là có thể.
Nhưng trên thực tế, có rất ít doanh nghiệp được trở lại hoạt động bình thường khi đã
áp dụng thủ tục phá sản. Nguyên nhân xuất phát từ tâm lý e ngại áp dụng thủ tục
phá sản bởi chính doanh nghiệp mắc nợ và cả chủ nợ của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp mắc nợ, khi rơi vào tình trạng mất khả năng thanh tốn
nợ đến hạn, họ sẽ tìm cách thương lượng hoặc hỗn nợ với chủ nợ của mình. Hơn
nữa, việc chứng minh khơng vi phạm các chế độ tài chính của doanh nghiệp là rất
khó. Cho nên, được hưởng những lợi ích do thủ tục phá sản mang lại như doanh
nghiệp được phục hồi để làm lại từ đầu là rất khó. Ngược lại, họ phải đối mặt với
những vi phạm của mình trước pháp luật như không tuân thủ chế độ kế tốn chứng
từ, thậm chí những người quản lý doanh nghiệp cấp cao nhất hay chủ doanh nghiệp

có thể bị cấm thành lập doanh nghiệp mới trong thời hạn từ 01 đến 03 năm kể từ
ngày quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp có hiệu lực pháp luật.
Đối với chủ nợ, đòi nợ bằng thủ tục phá sản là sự lựa chọn sau cùng. Trước
hết, chủ nợ sẽ sử dụng phương pháp thương lượng, hòa giải hoặc sử dụng uy tín để


13
tạo sức ép cho doanh nghiệp nhanh chóng trả nợ. Chủ nợ có thể kiện địi theo thủ
tục tố tụng dân sự để địi nợ. Bởi vì, thủ tục phá sản được xem là thủ tục đòi nợ tập
thể, khi doanh nghiệp áp dụng thủ tục phá sản thì tài sản của doanh nghiệp được
đem chia sẻ cho tất cả các chủ nợ theo tỷ lệ tương ứng, tài sản mà mình nhận về có
thể bằng khơng.
Chính vì những lý do trên mà những chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản đã trì hỗn khởi động thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp đã lâm vào tình
trạng phá sản. Điều này làm cho cơ hội phục hồi của doanh nghiệp rất thấp, khi thủ
tục phá sản được áp dụng thì doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng nguy kịch thật sự.
Việc còn lại của thủ tục phá sản chỉ là thanh lý tài sản và tuyên bố phá sản doanh
nghiệp. Vì vậy, kết quả của thủ tục phá sản thường dẫn đến sự chấm dứt tồn tại của
doanh nghiệp.
1.1.2.2. Các bước của thủ tục phá sản
a. Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản
Khi nhận thấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, các chủ thể bao gồm:
chủ nợ khơng có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần, người lao động, doanh
nghiệp mắc nợ, chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước, cổ đông công ty cổ phần, thành
viên hợp danh của cơng ty hợp danh có quyền nộp đơn u cầu mở thủ tục phá sản
đối với doanh nghiệp8.
Thứ nhất, chủ nợ khơng có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần
Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 cũng như Luật Phá sản hiện hành dành quyền
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cho chủ nợ khơng có bảo đảm và chủ nợ có bảo
đảm một phần. Khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, quyền lợi của chủ nợ

bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Cho nên, pháp luật phá sản đã cung cấp cơng cụ địi nợ
cho các chủ nợ này. Tuy nhiên, quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không
thuộc về chủ nợ có bảo đảm vì xuất phát từ quan điểm cho rằng, quyền địi nợ của
các chủ nợ có bảo đảm được ưu tiên thanh toán bằng tài sản bảo đảm của doanh
nghiệp.
Thứ hai, người lao động nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Luật Phá sản 2004 cho phép người lao động được quyền nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản khi doanh nghiệp không trả được lương và các khoản nợ khác mà
không cần phải 03 tháng liên tiếp không trả lương như Luật Phá sản doanh nghiệp
8

Đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, nộp đơn yêu cầu mở thủ tục là nghĩa vụ của doanh nghiệp.


14
1993. Tuy nhiên, người lao động không được trực tiếp nộp đơn mà phải cử người
đại diện hoặc thông qua đại diện cơng đồn (Điều 14 Luật Phá sản 2004).
Thứ ba, doanh nghiệp mắc nợ có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là nghĩa vụ của doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản. Hơn ai hết, doanh nghiệp tự nhận biết được tình hình tài chính
cũng như khả năng thanh tốn trong nội bộ doanh nghiệp mình. Trong thời hạn 03
tháng kể từ ngày nhận thấy doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, chủ doanh
nghiệp hoặc đại diện hợp pháp doanh nghiệp phải nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản doanh nghiệp (Điều 15 Luật Phá sản 2004). Đây là nghĩa vụ của doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản. Đối với cơng ty hợp danh, các thành viên hợp danh đều
có quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh hằng
ngày của công ty (Khoản 1 Điều 137 Luật Doanh nghiệp 2005). Do đó, Luật Doanh
nghiệp khơng bắt buộc trong Điều lệ công ty hợp danh phải ghi rõ người đại diện
theo pháp luật như công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần (Khoản 8 Điều
22 Luật Doanh nghiệp 2005). Điều này đặt ra vấn đề, thành viên hợp danh nào có

nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi công ty hợp danh lâm vào tình
trạng phá sản? Trách nhiệm nộp đơn rất khó xác định thuộc về thành viên hợp danh
nào khi chậm nộp đơn gây thiệt hại cho các chủ thể có liên quan. Tuy nhiên, Luật
Phá sản 2004 chưa quy định cụ thể khi công ty lâm vào tình trạng phá sản thì thành
viên hợp danh nào có nghĩa vụ nộp đơn sẽ gây lúng túng trong quá trình tiến hành
thủ tục phá sản.
Thứ tư, chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước, cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng công
ty cổ phần, thành viên hợp danh của công ty hợp danh cũng có quyền nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản
Đây là điểm mới của Luật Phá sản 2004 so với Luật Phá sản doanh nghiệp
1993. Xuất phát từ quan điểm tiến bộ trong quản trị doanh nghiệp, cần phải có sự
tách bạch giữa chủ sở hữu và người quản lý phần vốn chủ sở hữu. Bởi vì, người có
vốn chưa hẳn quản lý giỏi và ngược lại. Tuy nhiên, chính vì người quản lý và điều
hành tại doanh nghiệp không phải là chủ sở hữu nguồn vốn đó nên rất dễ dẫn đến
hoạt động tư lợi làm ảnh hưởng đến lợi ích của chủ sở hữu. Chính vì vậy, pháp luật
cho phép chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước và cổ đông công ty cổ phần được
quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi nhận thấy doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản (Điều 15 và Điều 16 Luật Phá sản 2004).
Đối với thành viên hợp danh trong công ty hợp danh, khi nhận thấy cơng ty
lâm vào tình trạng phá sản, thành viên này có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục


15
phá sản đối với cơng ty hợp danh đó (Điều 17 Luật Phá sản 2004). Quy định này
xuất phát từ quan điểm cho rằng thành viên hợp danh có chế độ trách nhiệm đặc
biệt hơn so với thành viên của các loại hình doanh nghiệp khác, trách nhiệm của họ
khơng chỉ giới hạn trong phần vốn góp vào doanh nghiệp mà kể cả tài sản riêng của
mình. Cho nên, thơng qua việc nộp đơn, họ có quyền chủ động lựa chọn biện pháp
pháp lý để bảo vệ quyền lợi của mình trước nguy cơ phá sản của doanh nghiệp.
Tịa án cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính có thẩm quyền thụ lý đơn

yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp đó. Sau khi thụ lý đơn, Chánh án
sẽ phân công từ một đến ba thẩm phán phụ trách giải quyết việc phá sản. Sau khi
được phân công, thẩm phán hoặc tổ thẩm phán sẽ thông báo và yêu cầu doanh
nghiệp và người nộp đơn cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của
mình. Trên cơ sở xem xét tài liệu, chứng cứ, Thẩm phán/Tổ Thẩm phán quyết định
mở hoặc không mở thủ tục phá sản.
Sau khi xem xét tài liệu của người nộp đơn cung cấp và ý kiến phản hồi của
doanh nghiệp, Thẩm phán xét thấy có đủ căn cứ xác định doanh nghiệp đã lâm vào
tình trạng phá sản, Thẩm phán/Tổ Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục phá sản.
Quyết định mở thủ tục phá sản sẽ được gửi cho doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản, Viện kiểm sát Nhân dân cùng cấp, đăng báo địa phương, báo trung
ương trong 03 số liên tiếp và phải được thông báo cho các chủ nợ và những người
mắc nợ doanh nghiệp.
Trong thời hạn 30 ngày sau khi nhận được bảng kê chi tiết tài sản doanh
nghiệp và danh sách chủ nợ, người mắc nợ doanh nghiệp, Thẩm phán/Tổ Thẩm
phán phải triệu tập HNCN lần thứ nhất. Giấy triệu tập HNCN phải được gửi cho
người có quyền tham gia HNCN và người có nghĩa vụ tham gia HNCN. Trong thời
hạn 15 ngày, Thẩm phán/tổ Thẩm phán phải tập hợp tất cả các tài liệu có liên quan
để lập chương trình và nội dung Hội nghị. Thời gian này tương đối ngắn để Thẩm
phán/Tổ Thẩm phán phải tổng hợp, đánh giá và chọn lọc thông tin và chứng cứ do
các bên cung cấp. Cũng trong khoảng thời gian 15 ngày này, doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản phải xây dựng kế hoạch, phương án tổ chức lại hoạt động kinh
doanh và kế hoạch thanh tốn nợ cho doanh nghiệp để trình bày trong cuộc họp
HNCN.
Tại HNCN lần đầu tiên được triệu tập, Tổ trưởng Tổ QLTLTS sẽ thơng báo
tình hình kinh doanh và thực trạng tài chính của doanh nghiệp; kết quả kiểm kê tài
sản; danh sách chủ nợ và người mắc nợ doanh nghiệp. Đại diện hợp pháp của doanh
nghiệp sẽ trình bày ý kiến về nội dung Tổ QLTLTS đã thông báo tại Hội nghị, đề



16
xuất phương án, giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, khả năng và thời hạn
thanh toán nợ. Sau đó, Hội nghị sẽ thảo luận những vấn đề Tổ trưởng Tổ QLTLTS
và đại diện hợp pháp doanh nghiệp trình bày để đi đến thống nhất chung và lựa
chọn phương án tối ưu cho “bài toán” mất khả năng thanh tốn của doanh nghiệp.
Đây là cơ sở để HNCN thơng qua Nghị quyết khi quá nửa số chủ nợ không có bảo
đảm có mặt tại Hội nghị đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ khơng có bảo đảm
trở lên thông qua Nghị quyết9. Trong thời hạn 30 ngày kể từ khi nhận được Nghị
quyết của HNCN lần thứ nhất, doanh nghiệp phải xây dựng phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh nộp cho Tòa án. Sau khi nhận được phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, nếu khơng có u cầu doanh nghiệp (hoặc chủ
thể khác xây dựng phương án phục hồi này) sửa đổi bổ sung phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh thì trong thời hạn 15 ngày, Thẩm phán ra quyết định đưa
phương án phục hồi ra HNCN xem xét, quyết định và trong thời hạn 10 ngày, kể từ
ngày quyết định đưa phương án phục hồi hoạt động kinh doanh ra HNCN, Thẩm
phán phải triệu tập HNCN xem xét và thảo luận thông qua.
Tại HNCN lần tiếp theo, phương án phục hồi hoạt động kinh doanh được
HNCN xem xét và thơng qua khi có q nửa số chủ nợ khơng có bảo đảm đại diện
cho từ hai phần ba tổng số nợ khơng có bảo đảm trở lên thơng qua. Đây là cơ sở để
doanh nghiệp áp dụng bước tiếp theo đó là phục hồi hoạt động kinh doanh cho
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Đây là tiền đề vô cùng quan trọng cho bước phục hồi hoạt động kinh doanh.
Nếu như phương án phục hồi hoạt động kinh doanh được thực hiện thành cơng sẽ
đem lại lợi ích cho tất cả các bên có liên quan, người lao động sẽ khơng mất việc
làm, doanh nghiệp thốt khỏi tình trạng nợ nần trở lại hoạt động bình thường, tiếp
tục hoạt động kinh doanh tạo ra của cải cho mình và xã hội, các chủ nợ có cơ hội
được thanh tốn đầy đủ số nợ của mình.
b. Phục hồi hoạt động kinh doanh
Sau khi Thẩm phán ra quyết định công nhận Nghị quyết của HNCN về
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp tiến hành triển khai các

nội dung của phương án. Thời hạn tối đa để doanh nghiệp phục hồi là 03 năm.
Trong giai đoạn này, doanh nghiệp được trở về hoạt động bình thường, khơng cịn

9

Điều 64, 65 Luật Phá sản 2004.


17
chịu sự kiểm tra, giám sát của Thẩm phán và Tổ QLTLTS10, chủ nợ là người có
nghĩa vụ giám sát việc thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Việc giám sát của chủ nợ trong giai đoạn này là rất quan trọng và cần
thiết. Thông qua hoạt động giám sát, chủ nợ là người đồng hành cùng doanh nghiệp
mắc nợ thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, kịp thời phát hiện
những khó khăn, vướng mắc và có biện pháp áp dụng phù hợp trong quá trình áp
dụng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh11. Đồng thời, nâng cao ý thức chấp
hành quy định pháp luật và nghiêm túc thực hiện phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh như đã cam kết của doanh nghiệp mắc nợ. Tuy nhiên, Luật Phá sản
2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có quy định nào hướng dẫn thực hiện
vấn đề này. Chủ nợ thực hiện việc giám sát như thế nào, thông qua cơ chế nào luật
chưa quy định cụ thể đã gây lúng túng cho Thẩm phán khi hướng dẫn thực hiện quy
định pháp luật trong quá trình tiến hành giải quyết phá sản cho doanh nghiệp.
c. Thanh lý tài sản, các khoản nợ
Mở đầu thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp, Thẩm phán ra quyết định
mở thủ tục thanh lý tài sản. Nếu khơng có khiếu nại, kháng nghị, Quyết định này sẽ
được thi hành. Tài sản của doanh nghiệp được tiến hành phân chia theo thứ tự được
quy định tại Điều 35, 36 và 37 Luật Phá sản 2004.
d. Tuyên bố phá sản
Thẩm phán sẽ ra quyết định tuyên bố phá sản trong các trường hợp sau:
-


Phương án phân chia tài sản đã được thực hiện xong;

-

Doanh nghiệp khơng cịn tài sản hoặc cịn nhưng khơng đủ thanh tốn phí phá
sản.

Các bước trong trình tự thủ tục phá sản có mối liên hệ với nhau. Tuy nhiên,
giữa các bước trong thủ tục phá sản có sự độc lập tương đối. Điều đó đã tạo nên tính
linh hoạt trong quá trình giải quyết thủ tục phá sản, tạo điều kiện để doanh nghiệp
nhanh chóng chấm dứt sự tồn tại khi đã khơng cịn khả năng phục hồi, tiết kiệm chi
phí và thời gian giải quyết vụ phá sản.

10

Theo Điều 73 Luật Phá sản 2004, trong thời hạn thực hiện phương án phục hồi, định kỳ sáu tháng một lần,
doanh nghiệp phải gửi báo cáo cho Tòa án về tình hình thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.

11

Trong trường hợp xét thấy cần thiết, chủ nợ đại diện cho từ một phần ba tổng số nợ khơng có bảo đảm trở
lên u cầu Thẩm phán triệu tập Hội nghị chủ nợ để giải quyết những vấn đề vướng mắc thuộc thẩm quyền
của Hội nghị chủ nợ.


18
1.1.3. Mục tiêu của thủ tục phá sản
1.1.3.1. Cung cấp công cụ hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi đồng thời xây dựng thủ tục
thanh toán hiệu quả đối với những doanh nghiệp khơng có khả năng phục hồi

Thủ tục phá sản không đồng nghĩa với tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Pháp
luật phá sản hiện đại đã can thiệp sớm hơn đối với doanh nghiệp có dấu hiệu đổ vỡ.
Đây là cơ hội tuyệt vời để doanh nghiệp tiến hành tái cấu trúc bộ máy quản lý cũng
như hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi thủ tục phá sản được áp dụng,
mọi khoản nợ của doanh nghiệp đều được tạm ngưng thanh toán. Đây là điều kiện
để doanh nghiệp ổn định tình hình tài chính và tìm kiếm giải pháp để khắc phục tình
trạng mất khả năng thanh tốn như: Tìm và loại bỏ những nguyên nhân làm ảnh
hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp; tích cực đòi các khoản nợ của
doanh nghiệp; cắt giảm những khoản chi tiêu không hợp lý; ngưng đầu tư vào
những dự án kém hiệu quả. Bên cạnh đó, phát huy những thế mạnh của doanh
nghiệp, khắc phục những mặt hạn chế của doanh nghiệp. Chẳng hạn, khi có sự thay
đổi về chính sách vĩ mơ làm cho mặt hàng kinh doanh khơng cịn phù hợp và hiệu
quả, doanh nghiệp có thể chuyển sang ngành nghề khác phù hợp với nhu cầu thị
trường, đồng thời phát huy được thế mạnh của chính bản thân doanh nghiệp để
hướng đến mục tiêu lớn nhất của thủ tục phá sản là thốt khỏi tình trạng mất khả
năng thanh tốn và trở lại hoạt động bình thường. Ví dụ: Do đầu tư dàn trải và
khơng kiểm sốt được nguồn vốn nên Cơng ty Mai Linh khơng thanh toán được nợ
lãi và nợ gốc đến hạn cho người cho vay. Hiện nay, do thu hồi vốn ở một số lĩnh
vực hoạt động kém hiệu quả dẫn đến nợ rất nhiều chủ nợ. Tuy nhiên, chủ doanh
nghiệp đã đứng ra trấn an, giải trình với các chủ nợ, đồng thời đưa ra phương hướng
khắc phục như bán bớt tài sản, thanh lý bất động sản, trạm dừng chân và ô tô và tái
cấu trúc lại công ty12.
Mặt khác, nếu như phương án phục hồi không được áp dụng hoặc áp dụng
khơng thành cơng thì ít nhất những quy định pháp luật về thủ tục phá sản cũng đã
điều hòa được mâu thuẫn giữa các chủ thể, đưa vụ phá sản doanh nghiệp vào vòng
trật tự. Suy cho cùng, thủ tục phá sản bao gồm hai thủ tục cơ bản là phục hồi hoạt
động kinh doanh và thanh lý tài sản để thanh toán nợ. Nếu như phục hồi không
thành công, pháp luật phá sản đã thiết kế thủ tục thanh lý tài sản để thanh toán nợ
cho chủ nợ và người lao động, thứ tự ưu tiên thanh tốn để bảo đảm cơng bằng và
thỏa đáng cho các chủ thể tham gia thủ tục phá sản.

12

/>

19
Có thể nói, tính khả thi của Luật Phá sản tỷ lệ thuận với thời gian để giải quyết
một vụ phá sản, các chi phí và giá trị tài sản có thể thu hồi. Để Luật Phá sản thật sự
là cơng cụ địi nợ tập thể cho các chủ nợ ưu tiên lựa chọn, trước hết cần phải đơn
giản hóa và rút ngắn thời gian xử lý. Vì vậy, Luật Phá sản đã thiết kế một thủ tục
giải quyết đối với những trường hợp đặc biệt khi doanh nghiệp không còn khả năng
phục hồi nhằm giúp doanh nghiệp sớm rút lui khỏi thị trường, tiết kiệm được thời
gian, chi phí và tránh gây thiệt hại cho những chủ thể có liên quan13.
1.1.3.2. Bảo toàn tối đa giá trị tài sản của doanh nghiệp
Doanh nghiệp có thể dùng tài sản của chính doanh nghiệp, cũng có thể sử
dụng tài sản vay mượn để tiến hành hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lời
và lợi nhuận doanh nghiệp hưởng, lỗ doanh nghiệp chịu. Tuy nhiên, những chủ nợ
mà doanh nghiệp chiếm dụng vốn thì khơng phải vậy. Họ khơng được lợi từ hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Cho nên, họ khơng có lý do gì phải chịu lỗ
cùng doanh nghiệp. Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ nợ pháp
luật phá sản đã đưa ra quy định về những hành vi cấm, hạn chế doanh nghiệp thực
hiện, tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, bên cạnh đó Thẩm phán có quyền quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Cơ chế quản lý và kiểm tra, giám sát tài
sản và hoạt động của doanh nghiệp nhằm bảo toàn khối tài sản của doanh nghiệp và
hoạt động của doanh nghiệp tuân thủ Nghị quyết của HNCN, quyết định của Thẩm
phán và những quy định pháp luật.
Pháp luật phá sản như một công cụ để bảo vệ lợi ích của các bên có liên quan
từ hoạt động kiếm lời của doanh nghiệp, hạn chế hành vi tẩu tán và làm thất thoát
tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
1.1.3.3. Bảo đảm cơng bằng và bình đẳng cho các chủ thể
Kinh doanh ln mang trong mình yếu tố rủi ro. Doanh nghiệp tham gia thị

trường ngồi mục đích tìm kiếm lợi nhuận cịn đóng góp một phần khơng nhỏ cho
nền kinh tế quốc dân. Hàng năm, doanh nghiệp đóng góp một khoản tiền khổng lồ
vào ngân sách nhà nước, giải quyết tình trạng thất nghiệp, tạo ra giá trị thặng dư cho
xã hội. Chính vì những đóng góp đó mà doanh nghiệp cũng cần phải được chia sẻ
rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình. Thơng qua thủ tục phá sản, pháp luật
cho phép doanh nghiệp rút khỏi thị trường và làm lại từ đầu nếu như thua lỗ do
những nguyên nhân khách quan tác động. Những rủi ro này được chia sẻ cho các
13

Phan Thị Bích Nguyệt (2008), “Nợ và vấn đề phá sản của các doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Phát triển
Kinh tế, (212).


20
chủ nợ của doanh nghiệp theo thứ tự ưu tiên thanh toán và tỷ lệ nợ của từng chủ nợ.
Bởi vì, ngồi doanh nghiệp tư nhân và cơng ty hợp danh thì hợp tác xã và các loại
hình doanh nghiệp còn lại chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của doanh nghiệp,
hợp tác xã trong giới hạn khối tài sản của doanh nghiệp. Như vậy, không phải tất cả
các chủ nợ đều chắc chắn được thanh toán đầy đủ các khoản nợ của mình. Cho nên,
thủ tục phá sản – thủ tục thanh toán nợ tập thể đã thay thế cho thủ tục đòi nợ riêng
lẻ của từng chủ nợ khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản để bảo đảm sự công
bằng cho tất cả các chủ nợ. Điều đó có nghĩa là những chủ nợ có cùng điều kiện như
nhau thì quyền lợi sẽ được giải quyết như nhau và được thể hiện thông qua các quy
định về quyền và nghĩa vụ của các chủ nợ, thứ tự ưu tiên thanh toán trong thủ tục
thanh lý tài sản của doanh nghiệp.
1.1.3.4. Góp phần làm trong sạch môi trường kinh doanh
Một mặt, pháp luật phá sản cảnh báo các doanh nghiệp phải có sự thận trọng
cần thiết trong kinh doanh. Có thể nói, pháp luật phá sản như một cơng cụ răn đe,
nhắc nhở doanh nghiệp có sự cẩn trọng cần thiết khi đầu tư vào những lĩnh vực mạo
hiểm, sử dụng đòn bẩy nợ hợp lý, hiệu quả. Bên cạnh đó doanh nghiệp phải ln

khơng ngừng phát triển, tạo lợi thế cạnh tranh bằng sự khác biệt thì mới có thể chịu
được sự đào thải khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường.
Mặt khác, phá sản nhằm loại bỏ những doanh nghiệp yếu kém, không đủ sức
cạnh tranh và khơng có khả năng tồn tại14. Đây là quy luật chọn lọc và đào thải tự
nhiên, nền kinh tế thị trường sẽ chọn lọc và giữ lại những doanh nghiệp kinh doanh
hiệu quả, tạo môi trường kinh doanh an tồn, bình đẳng, hiệu quả, thu hút đầu tư,
góp phần phát triển kinh tế đất nước.
1.2. Khái quát chung về Hội nghị chủ nợ
1.2.1. Khái niệm chủ nợ và phân loại chủ nợ
1.2.1.1. Khái niệm về chủ nợ
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, chủ nợ là người cho vay nợ trong quan hệ với
người vay nợ15.
Ngoài ra, Điều 7 Thơng tư số 79/2011/TT-BTC ngày 08/6/2011 của Bộ Tài
chính về việc ban hành điều lệ tổ chức và hoạt động của cơng ty trách nhiệm hữu
14

Phạm Bình An (2002), Một số vấn đề pháp lý và thực tiễn về thực hiện Luật phá sản doanh nghiệp trên địa
bàn Tp. Hồ Chí Minh, Đề tài nghiên cứu cấp Thành phố.

15

Nguyễn Như Ý (2011), Đại từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Tp. HCM, tr. 299.


×