Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quan hệ bảo hiểm thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (696.38 KB, 59 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
------------------

ĐINH THỊ NGỌC MẾN

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
NGHĨA VỤ CUNG CẤP THÔNG TIN
TRONG QUAN HỆ BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP. HCM – 2009


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
----------

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
NGHĨA VỤ CUNG CẤP THÔNG TIN
TRONG QUAN HỆ BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI

SINH VIÊN THỰC HIỆN: ĐINH THỊ NGỌC MẾN
Khoá: 30
MSSV: 3020219
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: NGUYỄN THỊ THUỶ



TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2009


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin và dẫn chứng
đều là trung thực. Mọi hành vi gian dối trong việc đưa ra những kết luận, tơi xin hồn tồn
chịu trách nhiệm.

Tác giả khoá luận

Đinh Thị Ngọc Mến


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ NGHĨA VỤ CUNG CẤP
THÔNG TIN TRONG QUAN HỆ BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI ............................ 6
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ
CUNG CẤP THÔNG TIN ................................................................................ 6
1.1.1.Khái niệm bảo hiểm thương mại..................................................................... 6
1.1.2.Quan hệ pháp luật bảo hiểm thương mại ........................................................ 7
1.1.2.1. Chủ thể của quan hệ pháp luật bảo hiểm thương mại ....................... 7
1.1.2.2. Đối tượng của quan hệ bảo hiểm thương mại .................................... 8
1.1.2.3. Hợp đồng bảo hiểm thương mại ......................................................... 9
1.1.3. Các yếu tố hình thành quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong
quan hệ bảo hiểm thương mại ....................................................................... 10
1.1.4. Lý giải cụ thể về cơ sở hình thành nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quan hệ
bảo hiểm thương mại .................................................................................... 14
1.1.4.1. Ở khía cạnh pháp lý ............................................................................ 14

1.1.4.2. Ở khiá cạnh kinh tế ............................................................................. 16
1.1.4.3. Ở khía cạnh xã hội .............................................................................. 17
1.1.5. Sự hình thành nghĩa vụ cung cấp thơng tin trong quan hệ bảo hiểm thương mại
ở Việt Nam 17 .............................................................................................................
1.2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ NGHĨA VỤ CUNG
CẤP THÔNG TIN TRONG QUAN HỆ BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI ................... 21
1.2.1. Nội dung quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin ....................... 21
1.2.2. Hậu quả pháp lý của việc vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin ................... 27
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................................. 31
CHƯƠNG 2: NHỮNG VƯỚNG MẮC VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ CUNG CẤP THÔNG TIN TRONG QUAN HỆ BẢO
HIỂM THƯƠNG MẠI ................................................................................................. 34
2.1. NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ
CUNG CẤP THÔNG TIN TRONG QUAN HỆ BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI
............... 34 .................................................................................................................
2.1.1. Những vướng mắc trong quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong
quan hệ bảo hiểm thương mại ........................................................................ 35


2.1.2. Những vướng mắc trong quy định của pháp luật về hậu quả pháp lý của việc vi
phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quan hệ bảo hiểm thương mại ....... 39
2.2. HƯỚNG HOÀN THIỆN NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT VỀ NGHĨA VỤ CUNG CẤP THÔNG TIN ................................................... 41
2.2.1. Định hướng cho việc hoàn thiện quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông
tin … ............................................................................................................. 41
2.2.1.1. Xây dựng và phát triển một thị trường bảo hiểm vững mạnh ............ 41
2.2.1.2. Phát triển một hệ thống pháp luật bảo hiểm phù hợp với hoàn cảnh trong
nước và thơng lệ quốc tế .............................................................................. 42
2.2.2. Hướng hồn thiện các quy định của pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin
trong quan hệ bảo hiểm thương mại ............................................................. 44

2.2.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin của hai
bên trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm thương mại ...................................... 44
2.2.2.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về hậu quả pháp lý của hành vi vi phạm
nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm thương mại
48
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................................. 53
KẾT LUẬN… ................................................................................................................ 55


LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Nghị định số 100/CP/1993 ngày 18/12/1993 quy định về kinh doanh bảo hiểm ra
đời đã tạo nền tảng pháp lý cho sự ra đời chính thức của hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở
nước ta. Chỉ phát triển được gần 15 năm nay, nên thị trường bảo hiểm Việt Nam còn khá
non trẻ so với các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới, và vì vậy, nhận thức và hiểu
biết của mọi người về lĩnh vực này còn chưa nhiều.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là một lĩnh vực có đóng góp nhiều cho thị trường
tài chính, là nơi huy động vốn nhanh và hiệu quả không kém so với hoạt động của các
ngân hàng và các tổ chức tài chính – tín dụng vì nó có một nguồn tài chính khá dồi dào từ
phí của những người tham gia bảo hiểm (đặc điểm của bảo hiểm là thời điểm thu phí bảo
hiểm và thời điểm bồi thường bảo hiểm cách nhau một khoảng thời gian nhất định). Không
những thế, bảo hiểm cũng đóng vai trị quan trọng trong xã hội, thể hiện, bảo hiểm là hoạt
động nhằm khắc phục hậu quả rủi ro, giúp bên được bảo hiểm được phục hồi sản xuất kinh
doanh, ổn định đời sống và sản xuất.
Bảo hiểm là một lĩnh vực khá phức tạp, bởi tính ngẫu nhiên của đối tượng hoạt
động kinh doanh bảo hiểm – rủi ro, sự phức tạp trong các loại hình bảo hiểm, các khái
niệm bảo hiểm như người mua bảo hiểm, người nhận bảo hiểm, người được bảo hiểm….,
các điều kiện để được hưởng bảo hiểm – điều này phụ thuộc vào từng loại hình bảo hiểm
và mức độ của phí bảo hiểm, sẽ là khác nhau. Bên cạnh đó, sự phức tạp của bảo hiểm đã
gián tiếp tạo cơ hội cho những đối tượng có những hiểu biết và lợi thế hơn có những hành

vi trục lợi bất chính. Làm sao giúp các bên tham gia vào quan hệ bảo hiểm một cách tích
cực? Làm sao để ngăn cản những hành vi bất hợp pháp trong bảo hiểm? Ta thấy rằng mọi
vấn đề nêu trên đều do sự thiếu hiểu biết, thiếu thông tin về bảo hiểm. Giải quyết được vấn
đề này sẽ là cơ sở cho những bước phát triển tiếp theo trong quan hệ bảo hiểm, và giải
quyết được những vướng mắc nêu trên.
Thông tin là cần thiết và quan trọng trong mọi quan hệ xã hội, giúp mọi người hiểu
rõ về bản chất quan hệ xã hội mà mình tham gia. Đặc biệt, nó càng quan trọng hơn trong
quan hệ bảo hiểm bởi sự trừu tượng của đối tượng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm –
rủi ro và sự phức tạp của các loại hình bảo hiểm, cách thức thực hiện quyền và nghĩa vụ
của các bên trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm... Xuất phát từ bản chất của bảo hiểm là chia
sẻ rủi ro, hạn chế những tổn thất do rủi ro mang lại. Mà rủi ro là khách quan, không lường
trước được, là một sự không chắc chắn tổn thất, và rủi ro cũng là một điểm mấu chốt để có
1


thể thiết lập quan hệ bảo hiểm. Nếu khơng có thơng tin thì sự phức tạp của bảo
hiểm khơng được làm sáng tỏ, điều này hạn chế các bên xây dựng một quan hệ mà ở đó,
dịch vụ bảo hiểm được thực hiện. Vấn đề cần thiết đặt ra là phải có những quy định của
pháp luật để nhằm kiểm soát, hạn chế và đi đến loại trừ những hành vi này, đồng thời định
hướng cho hoạt động của mọi người trong xã hội, và góp phần phổ biến vai trò của bảo
hiểm đối với đời sống và sản xuất, tạo niềm tin cho người dân về bảo hiểm.
Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, mở ra quá trình
hội nhập và sự phát triển mới cho nền kinh tế, trong đó có lĩnh vực thương mại dịch vụ với việc kí kết và gia nhập hiệp định GATS (hiệp định về thương mại dịch vụ). Do đó,
việc xây dựng một hệ thống pháp luật về bảo hiểm một cách đồng bộ trong đó quan trọng
là nghĩa vụ cung cấp thông tin, sẽ là cơ sở cho việc khai thác và phát triển một thị trường
bảo hiểm nhiều tiềm năng trong tương lai.
2. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích của việc nghiên cứu các quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông
tin trong quan hệ bảo hiểm thương mại chính xuất phát từ các nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất là tìm hiểu một cách tồn diện, có hệ thống các quy định của pháp luật

về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quan hệ bảo hiểm, vị trí của nó trong việc quản lý đối
với sự phát triển ngày càng sôi động của thị trường bảo hiểm. Nghiên cứu về vấn đề này sẽ
giúp giải thích được tại sao phải có quy định của pháp luật như vậy, và quy định như thế
nào để có thể bảo vệ cho quyền lợi của của các bên trong quan hệ bảo hiểm.
- Thứ hai, tìm ra những thiếu sót và bất cập trong việc vận dụng các quy định đó
vào thực tiễn, để từ đó định hướng cho việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định
này, nhằm phù hợp với tình hình thực tế và bảo vệ lợi ích tối đa của các bên tham gia quan
hệ và đáp ứng nhu cầu quản lý xã hội.
- Thứ ba, tìm ra được những nhân tố hợp lý cho việc xây dựng và hoàn thiện các
quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quan hệ bảo hiểm thông qua việc
so sánh và đối chiếu với các quy định pháp luật trước đó và pháp luật nước ngồi cũng có
quy định về vấn đề này.
3. Phương pháp nghiên cứu trong khoá luận.
Trong quá trình xây dựng luận án, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, xem xét vấn đề
một cách toàn diện, kết hợp giữa lý luận với thực tiễn và xu hướng trên thế giới. Cụ thể,
khoá luận đã được sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, chứng minh, so sánh và
2


đánh giá. Trong đó, phương pháp phân tích đóng vai trò chủ đạo và được sử dụng xuyên
suốt nội dung đề tài.
Trong Chương 1, để đưa ra những cơ sở lý luận cho việc hình thành nghĩa vụ cung
cấp thơng tin trong quan hệ bảo hiểm, nhằm làm rõ bản chất và vai trị của thơng tin trong
quan hệ bảo hiểm thương mại, tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích, và so sánh.
Trong Chương 2 – phát hiện những vướng mắc nhằm đề xuất hướng hoàn thiện, tác giả đã
sử dụng tất cả những phương pháp trên, nhằm tận dụng và khai thác hết những yếu tố có
tác động đến việc hình thành những quy định thiếu sót; đồng thời phục vụ cho việc tìm
kiếm hướng hồn thiện phù hợp. Việc sử dụng phương pháp chứng minh với những dẫn
chứng cụ thể, có vai trị quan trọng, nâng cao tính thuyết phục và có tính chất gợi mở cho

việc phát triển những lối tư duy pháp lý mới.
4. Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu của khoá luận chỉ dừng lại ở giới hạn trong việc xây dựng và
hoàn thiện quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong phạm vi của pháp luật
kinh doanh bảo hiểm chứ không bao gồm cả lĩnh vực bảo hiểm phi thương mại. Bởi, vai
trò của hoạt động kinh doanh bảo hiểm đối với sự phát triển của thị trường bảo hiểm và sự
phát triển xã hội. Chính xuất phát từ những lợi nhuận của bảo hiểm thương mại, nhiều
người ln muốn lợi dụng để tìm kiếm lợi nhuận tối đa và bất hợp pháp.
5. Ý nghĩa thực tiễn của của khố luận.
Trong q trình nghiên cứu và đưa ra những đề xuất mới cho việc xây dựng quy
định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quan hệ bảo hiểm thương mại, tác giả
đã không chỉ dựa trên những cơ sở lý luận cho việc hình thành nghĩa vụ cung cấp thơng tin
mà cịn có sự so sánh, đối chiếu với các quy định của pháp luật các quốc gia khác trên thế
giới đồng thời có xem xét đến tình hình thực tiễn trong nước.
Nội dung khoá luận là sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, do đó, có giá trị là tài
liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu pháp luật có cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện
quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quan hệ bảo hiểm thương mại.
Với những kiến thức cơ bản, khoá luận cung cấp cho người đọc những vấn đề quan
trọng, những hiểu biết cụ thể và rõ ràng trong việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin
và nâng cao sự nhận biết đối với những hành vi vi phạm nghĩa vụ này nhằm trục lợi. Giúp
các bên có những kiến thức vững vàng khi tham gia quan hệ bảo hiểm và nâng cao ý thức
tôn trọng pháp luật của họ.

3


Khố luận cịn có ý nghĩa định hướng cho các thẩm phán trong q trình xét xử
trong trường hợp có tranh chấp bảo hiểm xảy ra khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ cung cấp
thông tin trong quan hệ bảo hiểm thương mại.
6. Đóng góp về khoa học của khoá luận.

Việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin của
các bên trong quan hệ bảo hiểm thương mại tập trung vào việc làm rõ những cơ sở lý luận
và những vướng mắc trong các quy định đó, nhằm định hướng cho việc xây dựng và hoàn
thiện những quy định này. Việc này đã có những đóng góp khoa học cụ thể như sau:
- Thứ nhất, là nguồn tài liệu tham khảo phục vụ cho giảng dạy của giáo viên, và
phụ vụ cho việc học tập, nghiên cứu của các sinh viên về lĩnh vực pháp luật bảo hiểm.
- Thứ hai, nội dung khố luận đã phân tích và đánh giá vai trị của thơng tin và q
trình hình thành nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quan hệ bảo hiểm một cách tồn diện và
đầy đủ, ở nhiều khía cạnh: kinh tế, pháp lý và xã hội. Giúp những nhà nghiên cứu pháp
luật, những người có quan tâm về pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm hiểu một cách đầy đủ,
rõ ràng những quy định pháp luật, từ đó có những hành động đúng đắn và phù hợp.
- Thứ ba, khoá luận đã đưa ra những quan điểm riêng của tác giả về một số vấn đề
như khi nào hợp đồng bảo hiểm bị đình chỉ thực hiện, khi nào bị tuyên bố vơ hiệu, bằng
cách lấy mốc thời gian có hành vi vi phạm làm cơ sở để xác định. Những vấn đề này có
tính chất tham vấn, hoặc là những vấn đề gợi mở, để trên cơ sở đó những người nghiên
cứu về pháp luật phát triển hoặc đưa ra những kết quả khác hợp lý và thuyết phục hơn.
7. Kết cấu của khố luận.
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận gồm hai
chương:
Chương 1: Pháp luật Việt Nam hiện hành về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong
quan hệ bảo hiểm thương mại.
Chương 2: Những vướng mắc và hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về nghĩa
vụ cung cấp thông tin trong quan hệ bảo hiểm thương mại.

4


CHƯƠNG 1
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ NGHĨA VỤ CUNG CẤP THÔNG
TIN TRONG QUAN HỆ BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI

a. CƠ SỞ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ
CUNG CẤP THÔNG TIN
Khái niệm bảo hiểm thương mại.
Nói đến bảo hiểm thương mại chúng ta có thể hiểu đó là hành vi kinh doanh với
mục đích sinh lợi và được thực hiện bởi các chủ thể kinh doanh là các doanh nghiệp bảo
hiểm. Bảo hiểm là một lĩnh vực chuyên biệt, đặc thù và các chủ thể tiến hành hoạt động
kinh doanh bảo hiểm đòi hỏi phải đáp ứng được những điều kiện mà pháp luật quy định.
Sở dĩ đây là hoạt động kinh doanh mang tính đặc thù bởi đối tượng kinh doanh của hoạt
động này chính là rủi ro – một yếu tố khách quan, ngẫu nhiên, không thể lường trước
đươc. Sự xuất hiện hay biến mất của rủi ro không phụ thuộc vào ý chí con người. Cho dù
khoa học kĩ thuật có tiên tiến, hiện đại đến đâu, thì cũng chỉ giúp con người có những dự
báo tốt hơn về rủi ro chứ khơng thể giúp con người triệt tiêu hồn tồn rủi ro.
Bảo hiểm thương mại là một hoạt động kinh doanh sinh lợi, nhưng bên cạnh đó, nó
cịn mang tính xã hội và nhân đạo. Hai đặc tính này thể hiện ở sự tham gia của tồn xã hội
mà khơng có sự giới hạn đối với bất kì đối tượng nào, và cịn được thể hiện ở mục đích và
vai trị của bảo hiểm. Vai trị và mục đích của bảo hiểm đó là việc bảo vệ tính mạng, sức
khoẻ, tài sản của con người và giúp ổn định đời sống sản xuất, duy trì cuộc sống bình
thường của con người.
Đối tượng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm – rủi ro, luôn đi liền với tổn thất. Ở
mức độ tương đối, mọi tổn thất có thể được bù đắp bằng vật chất, nghĩa là có thể bù đắp
được nếu có một khoản tài chính đủ lớn. Điều này, một cá nhân không thể thực hiện được
nhưng nếu cả một tập hợp người thì vấn đề này sẽ trở nên đơn giản hơn rất nhiều. Hoạt
động tập hợp trong bảo hiểm sẽ là hoạt động hướng vào những người có cùng mục đích là
chia sẻ rủi ro và đối tượng của hoạt động này là những khoản tài chính của các đối tượng
tham gia bảo hiểm. Những khoản tài chính được tập hợp lại tạo thành một quỹ tài chính,
được thực hiện thơng qua việc doanh nghiệp bảo hiểm thu phí của người mua bảo hiểm.
Quỹ tài chính thu từ phí của người mua bảo hiểm kết hợp với số vốn kinh doanh mà doanh
nghiệp bảo hiểm sẵn có tạo thành quỹ bảo hiểm.

5



Rủi ro là một yếu tố ngẫu nhiên và còn là một yếu tố mang tính may rủi. Do đó,
thiệt hại chỉ xảy đến với một số ít những người tham gia bảo hiểm chứ không phải là tất
cả. Trong những trường hợp đó, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ sử dụng quỹ bảo hiểm để chi
trả cho những trường hợp này. Bảo hiểm là việc tập trung và phân phối nguồn tài chính từ
nhiều đối tượng đến với những đối tượng gặp thiệt hại do rủi ro gây ra.
Như vậy, qua phân tích như trên có thể hiểu, “Bảo hiểm thương mại là hoạt động
kinh doanh bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm với mục tiêu lợi nhuận, nhằm chia sẻ rủi
ro, hạn chế tổn thất do rủi ro mang lại cho bên mua bảo hiểm thông qua việc thu phí bảo
hiểm của bên mua bảo hiểm để tạo lập quỹ bảo hiểm nhằm chi trả cho những trường hợp
thuộc trách nhiệm bảo hiểm”.
Quan hệ pháp luật bảo hiểm thương mại.
Chủ thể của quan hệ pháp luật bảo hiểm thương mại.
Quan hệ pháp luật bảo hiểm thương mại hay có thể gọi là quan hệ mua bán giữa bên
mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, sản phẩm mà các bên đem ra mua bán chính là
rủi ro. Cũng giống như các quan hệ mua bán khác, các bên trong quan hệ thực hiện những
hành vi khác nhau và với mục đích khác nhau, nhưng đều hướng tới việc xác lập được một
mối quan hệ. Từ mối quan hệ đó các bên mới có thể thực hiện những hành vi và đạt được
mục đích. Quan hệ bảo hiểm được xác lập bằng một hợp đồng – hợp đồng bảo hiểm.


Bên nhận bảo hiểm trong quan hệ bảo hiểm thương mại.
Nói đến bảo hiểm thương mại là nói đến hoạt động kinh doanh sinh lợi và được
thực hiện bởi các chủ thể kinh doanh là các doanh nghiệp bảo hiểm – phải đạt được tiêu
chuẩn theo quy định của pháp luật (về trình độ chun mơn trong lĩnh vực bảo hiểm, về
vốn pháp định…). Như vậy, doanh nghiệp bảo hiểm là một bên trong quan hệ bảo hiểm –
tham gia vào quan hệ với mục tiêu lợi nhuận. Doanh nghiệp bảo hiểm đã lựa chọn rủi ro –
một yếu tố mang tính ngẫu nhiên làm đối tượng kinh doanh. Để tối đa hoá lợi nhuận và
đảm bảo cung cấp dịch vụ tốt nhất cho khách hàng, doanh nghiệp bảo hiểm phải tính tốn

thật kĩ sao cho các khoản phí mà người mua bảo hiểm đóng tương xứng với khoản tiền mà
doanh nghiệp sẽ có trách nhiệm chi trả khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Để có cơ sở tính tốn
được khoản phí mà bên mua bảo hiểm phải đóng, doanh nghiệp bảo hiểm phải có sự hiểu
biết nhất định về đối tượng được bảo hiểm. Việc hiểu biết về đối tượng được bảo hiểm
giúp doanh nghiệp bảo hiểm có căn cứ đánh giá rủi ro để từ đó doanh nghiệp bảo hiểm đi
đến quyết định chấp nhận hay không chấp nhận bảo hiểm và tính tốn mức phí bảo hiểm
phải thu từ người mua bảo hiểm.
6




Bên mua bảo hiểm trong quan hệ bảo hiểm thương mại.

Khi tham gia quan hệ bảo hiểm, mục đích của bên mua bảo hiểm là chia sẻ rủi ro,
chuyển giao rủi ro, hạn chế tổn thất, vì rủi ro là khách quan, nếu có tổn thất từ rủi ro xảy ra
thì một mình họ khơng thể có đủ khả năng tài chính để gánh vác. Vì lý do đó, bên mua bảo
hiểm tham gia vào quan hệ bảo hiểm nhằm chuyển giao rủi ro sang cho doanh nghiệp bảo
hiểm là bên có đủ khả năng tài chính từ việc tập hợp được một quỹ tài chính đủ lớn từ một
cộng đồng những người có cùng mục đích chia sẻ rủi ro gánh chịu.
Khác với các loại hợp đồng thông thường là sự thoả thuận và thống nhất ý chí giữa
các bên, hợp đồng bảo hiểm là loại hợp đồng gia nhập hay còn gọi là hợp đồng mẫu – do
bên cung ứng dịch vụ soạn sẵn. Pháp luật cho phép điều này vì tính phức tạp của hoạt
động kinh doanh bảo hiểm. Cụ thể, do khơng có chun mơn trong lĩnh vực này, người
mua bảo hiểm là những người không có sự hiểu biết nhiều về các yếu tố trong quan hệ bảo
hiểm bằng doanh nghiệp bảo hiểm. Khi tham gia vào quan hệ bảo hiểm người mua bảo
hiểm luôn muốn biết về dịch vụ mà mình được cung ứng, về những điều kiện được tham
gia, những lợi ích có thể có, những nghĩa vụ phải thực hiện, thời gian bảo hiểm là bao lâu.
Ngay cả vấn đề về bản chất của rủi ro – bên mua bảo hiểm cũng cần biết rủi ro có thể xảy
đến với đối tượng mà họ dự định mua bảo hiểm là bao nhiêu phần trăm, cách nào tốt nhất

để hạn chế tổn thất khi thiệt hại đã xảy ra… Những điều này nếu khơng có kiến thức nhất
định trong lĩnh vực bảo hiểm thì khơng thể biết được. Trước u cầu đó, để bên mua bảo
hiểm có thể tích cực và chủ động hơn trong việc mua bảo hiểm và lựa chọn sản phẩm bảo
hiểm thì việc cung cấp thơng tin của doanh nghiệp bảo hiểm cũng là một vấn đề quan
trọng. Sự quan trọng này không kém hơn so với yêu cầu thông tin từ bên mua bảo hiểm
trong việc xác lập một quan hệ bảo hiểm tốt đẹp và giúp cho mục đích của cả hai bên đều
đạt được.
Đối tượng của quan hệ bảo hiểm.
Đối tượng của quan hệ bảo hiểm thương mại có thể là tính mạng, sức khoẻ, tài sản
của con người – là những thứ quý giá nhất của con người. Nhưng những thứ đó khơng phải
là bất biến mà ln có những nguy cơ đe doạ đến chúng. Những đối tượng này nằm trong
sự kiểm soát của bên mua bảo hiểm hoặc bên mua bảo hiểm có lợi ích từ chúng, điều này
có nghĩa là bên mua bảo hiểm nắm đầy đủ và rõ ràng các thông tin về đối tượng bảo hiểm.
Như đã phân tích, bảo hiểm ra đời để bảo vệ những đối tượng trên khỏi những nguy cơ của
rủi ro hoặc giảm thiểu thiệt hại từ những rủi ro. Để đạt được điều này, các bên phải có sự
hiểu biết về rủi ro thơng qua việc hiểu biết về đối tượng được bảo hiểm. Vì vậy, địi hỏi
7


phải có sự cung cấp thơng tin của bên mua bảo hiểm, từ đó doanh nghiệp bảo hiểm
bằng nghiệp vụ của mình sẽ xử lý các thơng tin, chuyển những thơng tin được cung cấp
thành những thơng tin có liên quan đến việc đánh giá rủi ro cho đối tượng được bảo hiểm.
Từ đó, có cơ sở cho việc đề ra những biện pháp hạn chế, giảm thiểu tổn thất và cũng là cơ
sở cho việc xác định mức độ và mức phí bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm thương mại.
Xét trên phương diện lý thuyết, hợp đồng là sự thoả thuận giữa hai hay nhiều bên,
qua đó thể hiện sự thống nhất ý chí giữa các bên trong việc thực hiện hành vi. Sự thống
nhất ý chí thể hiện ở sự hợp tác, có qua có lại giữa các bên. Trong hợp đồng bảo hiểm có
sự khác biệt so với các loại hợp đồng khác, hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng gia nhập nghĩa
là doanh nghiệp bảo hiểm là bên đưa ra những điều khoản mẫu đã được soạn sẵn để khách

hàng xem xét trả lời chấp nhận hay không chấp nhận tham gia bảo hiểm. Nếu khách hàng
đồng ý tham gia bảo hiểm đồng nghĩa với việc chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng theo
điều khoản mẫu mà doanh nghiệp bảo hiểm đã đưa ra. Đặc thù của hoạt động kinh doanh
bảo hiểm là kinh doanh rủi ro, chủ thể thực hiện hoạt động này phải có kiến thức và
chun mơn nghiệp vụ trong việc dự đốn và đánh giá rủi ro. Mặt khác, hợp đồng bảo
hiểm thường chứa đựng những điều khoản tương tự nhau, hơn nữa nội dung của nó phức
tạp và tốn thời gian trong việc soạn thảo nên pháp luật cho phép doanh nghiệp bảo hiểm
được soạn sẵn các điều khoản mẫu. Chính vì xuất phát từ sự yếu thế của bên mua bảo
hiểm, tính phức tạp và khó hiểu của các điều khoản bảo hiểm, địi hỏi phải có sự cân bằng
lợi ích giữa các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm, nghĩa là doanh nghiệp bảo hiểm phải
cung cấp thông tin về dịch vụ bảo hiểm cho người mua bảo hiểm.
Khi tham gia quan hệ bảo hiểm thương mại, mục đích của doanh nghiệp bảo hiểm
là lợi nhuận thông qua hoạt động “kinh doanh rủi ro”, còn người mua bảo hiểm là tìm
kiếm sự an tồn, chia sẻ tổn thất, hạn chế rủi ro. Mục đích của các bên đa dạng và khác
nhau nhưng có thể thấy giao điểm của những mục đích này chính là việc đánh giá và chế
ngự được rủi ro. Những mục đích đó có thể coi như quyền lợi các bên được hưởng khi
tham gia vào quan hệ bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng song vụ, nghĩa là một
bên có quyền và một bên có nghĩa vụ và ngược lại, các bên trong quan hệ đều muốn đạt
được những quyền lợi nhất định và vì thế thì họ cũng phải thực hiện nghĩa vụ đối với nhau.
Nghĩa vụ thực chất là những hành vi, hành vi đó có thể dưới dạng hành động hoặc không
hành động.

8


Việc thông tin không chỉ cần thiết trong việc giao kết hợp đồng mà cịn cần thiết
trong q trình thực hiện hợp đồng, bởi rủi ro là bất ngờ, ngẫu nhiên, vận động và phát
triển không theo bất cứ một chu kì hay quy luật nào. Do đó để có biện pháp bảo vệ tốt nhất
cho đối tượng được bảo hiểm thì việc thơng tin về những thay đổi của đối tượng được bảo
hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng cũng rất cần thiết. Bởi vì mọi sự thay đổi của đối

tượng bảo hiểm đều có ảnh hưởng đến xu hướng phát triển của rủi ro, có thể làm gia tăng
hoặc phát sinh thêm rủi ro.
Yêu cầu về thông tin không chỉ một chiều từ bên mua bảo hiểm, mà như đã nói,
xuất phát từ những nguyên tắc trong quan hệ hợp đồng là hợp tác, thiện chí, bình đẳng –
phải có sự hợp tác của hai bên, nếu muốn được hưởng quyền lợi thì phải thực hiện nghĩa
vụ. Bên cạnh đó, hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng gia nhập – chỉ thể hiện ý chí đơn phương
của người soạn thảo hợp đồng và vì thế việc cung cấp thông tin của bên nhận bảo hiểm
trong việc giải thích về các điều khoản bảo hiểm cũng như về tính chất và nguy cơ của rủi
ro đối với đối tượng bảo hiểm là cần thiết.
Như vậy xuất phát từ vị thế không cân xứng trong việc nắm bắt các luồng thơng tin
trong việc đánh giá và dự đốn rủi ro, cùng với yêu cầu của quan hệ hợp đồng là thiện chí,
bình đẳng thì u cầu về sự hợp tác, về việc chuyển tải thông tin giữa các bên là cần thiết.
Có như thế mới đúng với bản chất quan hệ hợp đồng, hướng đến việc tạo lập một mối
quan hệ tốt đẹp và mục đích của các bên mới đạt được.
Các yếu tố hình thành quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong
quan hệ bảo hiểm thương mại.
- Thứ nhất, đối tượng của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là rủi ro.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm rất đặc biệt ở chỗ nó đã lựa chọn rủi ro làm đối
tượng kinh doanh. Rủi ro – một vấn đề khách quan, không thể lường trước được, là một sự
kiện được nghi ngờ là có thể xảy ra trong tương lai, ở thời điểm tham gia bảo hiểm các bên
đều không thể biết được rằng rủi ro có thể xảy ra hay khơng.
Rủi ro có thể xuất phát từ hai nguồn: thứ nhất là các rủi ro có nguồn gốc tự nhiên
như bão, lũ lụt, động đất, sóng thần… và thứ hai là các rủi ro có nguồn gốc xã hội.
Cho dù xuất phát từ nguồn gốc nào đi nữa thì rủi ro cũng là bất ngờ, không phải là
sự chắc chắn về tổn thất mà là nguyên nhân của tổn thất, nhưng nguyên nhân này khơng
thể nói chính xác được ở thời điểm hiện tại. Vấn đề về rủi ro không thể suy diễn bằng ý
thức chủ quan mà phải có những cơ sở khách quan. Rủi ro luôn hiện diện trong mọi hoạt
động của con người, ở bất kì khơng gian và thời gian nào. Rủi ro luôn gắn liền với sự phát
9



triển của xã hội loài người. Cho dù khoa học kĩ thuật có tiến bộ đến đâu thì con người cũng
chỉ có thể dùng những biện pháp giảm thiểu rủi ro, hạn chế những ảnh hưởng của rủi ro
đối với hoạt động của mình chứ khơng thể nào triệt tiêu hồn tồn được nó và cách ly nó
ra khỏi cuộc sống của con người.
Chính đặc điểm của rủi ro là ngẫu nhiên, để có thể có những biện pháp nhằm giảm
thiểu thiệt hại từ những rủi ro, hoặc dự đoán xu hướng của rủi ro không thể đưa ra các kết
luận mang tính chủ quan mà phải xuất phát từ những căn cứ khách quan. Điều này địi hỏi
phải có thông tin về rủi ro. Nhưng rủi ro là yếu tố khơng có thực và khơng thể xác định
được ở hiện tại, vì vậy chỉ có thể tìm hiểu về rủi ro thơng qua việc tìm hiểu các yếu tố có
liên quan đến đối tượng được bảo hiểm như hình dáng, kích thước, vị trí, xu hướng vận
động… của đối tượng được bảo hiểm. Những yếu tố này không ai có thể biết rõ bằng
người mua bảo hiểm vì chỉ có người mua bảo hiểm là người nắm giữ hoặc là người có lợi
ích đối với đối tượng được bảo hiểm. Mặc dù bên mua bảo hiểm là bên biết rất rõ các
thông tin liên quan đến đối tượng được bảo hiểm nhưng họ lại khơng có nghiệp vụ xử lý
các thơng tin trong việc dự đốn về rủi ro, mà nghiệp vụ này chỉ có bên mua bảo hiểm mới
thực hiện được. Như vậy để tạo thế cân bằng và để có những dự đốn về rủi ro thì phải có
sự phối hợp giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm. Và trong đó việc cung cấp
thơng tin của bên mua bảo hiểm là cần thiết.
- Thứ hai, bảo hiểm thương mại là hoạt động chia sẻ rủi ro.
Bảo hiểm thương mại là một lĩnh vực kinh doanh đặc biệt, bởi đối tượng của hoạt
động này không có thực ở thời điểm mà các bên tham gia bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo
hiểm chọn rủi ro làm đối tượng kinh doanh, với mục đích chia sẻ với những người gặp
nguy cơ tổn thất mà nếu bản thân một mình thì họ khơng thể nào gánh vác được.
Để tránh và hạn chế những thiệt hại, mọi người đã tham gia bảo hiểm, nhưng để
được gánh vác tổn thất trước hết phải có sự chấp nhận bảo hiểm của doanh nghiệp bảo
hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chấp nhận bảo hiểm khi họ có những hiểu biết rõ ràng
về rủi ro. Việc hiểu biết này được thực hiện dựa trên cơ sở xem xét đối tượng bảo hiểm. Vì
vậy, việc hiểu biết về đối tượng bảo hiểm càng chi tiết và rõ ràng là vấn đề hết sức cần
thiết và quan trọng trong việc đánh giá và dự đoán về rủi ro. Biết được thông tin về đối

tượng để dự đốn về rủi ro nhằm có những biện pháp để hạn chế rủi ro, giảm thiểu thiệt
hại khi rủi ro xảy ra thì cần phải có sự hợp tác của các bên có liên quan. u cầu này địi
hỏi các bên phải có sự chia sẻ những thơng tin mà mình biết được, khi đó mới có thể đánh

10


giá đúng bản chất của rủi ro từ đó có thể kiểm sốt rủi ro một cách có hiệu quả và mục
đích chia sẻ tổn thất mới đạt được.
- Thứ ba, bảo hiểm thương mại là hoạt động dùng phí hiện tại của bên mua bảo hiểm
đóng để tính tốn cho các nghiệp vụ bảo hiểm trong tương lai.
Khi tiến hành hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp bảo hiểm luôn muốn cung
cấp dịch vụ tốt nhất cho khách hàng và tạo được nhiều lợi nhuận. Để đạt được điều này,
doanh nghiệp bảo hiểm phải tính tốn sao cho phù hợp giữa mức phí bảo hiểm và số tiền
mà họ phải chi trả cho bên mua bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Bởi vì bản chất
của phí là giá cả của dịch vụ được cung ứng, nó bao gồm những chi phí mà nhà cung ứng
phải bỏ ra để tạo ra dịch vụ đó. Để tính tốn được mức phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo
hiểm phải biết được những vấn đề có liên quan đến đối tượng được bảo hiểm, hay nói cách
khác tuỳ thuộc vào đối tượng bảo hiểm và mức độ rủi ro mà người mua bảo hiểm cần được
bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra mức phí cho phù hợp. Cụ thể, phí bảo hiểm
được tính dựa trên cơ sở đặc tính của đối tượng bảo hiểm, nguy cơ rủi ro đe doạ nhiều hay
ít đến đối tượng bảo hiểm, và điều đặc biệt là nếu rủi ro xảy ra và làm phát sinh trách
nhiệm bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm phải bỏ ra số tiền là bao nhiêu để chi trả cho
trường hợp đó.
Để xem xét tính tốn mức phí bảo hiểm địi hỏi doanh nghiệp bảo hiểm phải có một
sự hiểu biết nhất định về đối tượng mà mình sẽ bảo hiểm hay nói cách khác doanh nghiệp
bảo hiểm phải có thơng tin về đối tượng đó. Những thơng tin về đối tượng được bảo hiểm
khơng ai có thể biết rõ bằng người mua bảo hiểm bởi họ chính là người có lợi ích liên quan
đối với đối tượng được bảo hiểm. Do đó, doanh nghiệp bảo hiểm muốn có được những
thơng tin về đối tượng bảo hiểm chỉ có thể bằng hai cách; thứ nhất, doanh nghiệp bảo hiểm

bằng nghiệp vụ của mình có thể tự thu thập những thông tin cần thiết trong việc đánh giá
rủi ro; thứ hai, doanh nghiệp bảo hiểm có thể yêu cầu bên mua bảo hiểm cung cấp hoặc
được bên mua bảo hiểm tự nguyện cung cấp những thơng tin đó. Nếu xét cả hai cách nêu
trên thì cách thứ nhất mặc dù doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chủ động hơn đối với các thơng
tin mà mình thu thập được nhưng lại phải tốn chi phí và thời gian, những chi phí này
doanh nghiệp bảo hiểm có thể tính vào phí bảo hiểm nhưng điều này có thể làm giảm sức
cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm so với các doanh nghiệp bảo hiểm khác. Còn với
cách thứ hai, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thụ động đối với các luồng thông tin mà bên mua
bảo hiểm cung cấp vì có những thơng tin bên mua bảo hiểm cố tình cung cấp sai hoặc
không cung cấp nhằm tham gia vào quan hệ bảo hiểm để được nhận tiền bồi thường.
11


Trong nghiệp vụ của mình, để có thơng tin trong việc đánh giá và dự đoán rủi ro, doanh
nghiệp bảo hiểm hoặc sử dụng cách thứ nhất kết hợp với cách thứ hai, hoặc chỉ cần cách
thứ hai. Như vậy, trong mọi trường hợp cách thứ hai đều được áp dụng mặc dù nó chứa
đựng những bất lợi hơn cho doanh nghiệp bảo hiểm. Bởi vì, cho dù doanh nghiệp có
những thiết bị tiên tiến, hiện đại và trình độ cao đến đâu, cũng khơng thể có hết được
những thơng tin về đối tượng bảo hiểm đặc biệt là những thơng tin mang tính bí mật mà
chỉ có bên mua bảo hiểm hoặc bên được bảo hiểm có được. Vì vậy, việc cung cấp thông
tin của người mua bảo hiểm là cần thiết, đồng thời để bảo vệ quyền lợi cho các bên, pháp
luật phải có cơ chế để buộc họ phải cung cấp một cách đầy đủ và chính xác các thông tin
liên quan đến việc đánh giá mức độ rủi ro.
Kĩ năng và khả năng đánh giá rủi ro phụ thuộc rất nhiều vào những thông tin mà
bên bảo hiểm có được, từ thơng tin do việc điều tra và thông tin mà bên mua bảo hiểm
cung cấp, trong đó quan trọng là những thơng tin từ bên mua bảo hiểm. Bằng những
nghiệp vụ của mình, bên bảo hiểm đã sử dụng những thơng tin đó để đánh giá rủi ro, từ đó
tính tốn được mức phí mà bên mua bảo hiểm phải đóng. Khoản phí này phải đảm bảo bù
đắp những chi phí mà bên bảo hiểm phải bỏ ra, bao gồm những chi phí đã bỏ ra và sẽ bỏ ra
trong tương lai khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Vì vậy, trao đổi thơng tin trong bảo hiểm

của cả bên bảo hiểm và bên mua bảo hiểm là rất cần thiết.
Lý giải cụ thể về cơ sở hình thành nghĩa vụ cung cấp thơng tin trong quan hệ bảo
hiểm thương mại.
Như đã phân tích trong phần 1.1, có thể nói bản chất sâu xa của việc hình thành
nghĩa vụ cung cấp thơng tin trong quan hệ bảo hiểm thương mại xuất phát từ bản chất của
quan hệ bảo hiểm thương mại. Quan hệ bảo hiểm có thề nhìn ở ba góc độ - pháp lý, kinh
tế, xã hội. Ở góc độ pháp lý, trong quan hệ bảo hiểm, không phải bên nào cũng thiện chí
hợp tác, cách suy nghĩ của mỗi cá nhân là khác nhau nên khi hành động cũng khác nhau,
do đó để thống nhất về hành vi và ràng buộc các bên thì các bên phải đề ra các nguyên tắc
để dựa vào những nguyên tắc đó thống nhất hành động của mình cho phù hợp với hành
động của bên kia. Trong quan hệ bảo hiểm thì vấn đề thiện chí, trung thực trong việc cung
cấp thông tin giữa các bên được coi là nguyên tắc cốt lõi hình thành nên mối quan hệ bền
vững. Ở góc độ kinh tế, các bên tham gia quan hệ bảo hiểm thương mại nhằm đạt được
những lợi ích nhất định: bên mua bảo hiểm là bảo tồn cho đối tượng mình đang nắm giữ
khỏi những tổn thất, bên nhận bảo hiểm – mục đích lợi nhuận từ việc kinh doanh “rủi ro”.
Còn nếu xét về góc độ xã hội, quan hệ bảo hiểm cũng là một quan hệ xã hội, mà tại đó
12


những người có cùng mục đích liên hệ với nhau một cách gián tiếp thông qua một tổ chức
– doanh nghiệp bảo hiểm để cùng nhau chia sẻ những mất mát do rủi ro mang lại. Bảo
hiểm ra đời nhằm bảo tồn cho những lợi ích vật chất và tinh thần, giúp duy trì hoạt động
bình thường của con người, ổn định sản xuất và đời sống xã hội.
Cơ sở cho việc hình thành nghĩa vụ cung cấp thơng tin cũng xuất phát từ bản chất
của quan hệ bảo hiểm, do đó nó cũng được giải thích ở ba khía cạnh: pháp lý, kinh tế và xã
hội.
Ở khía cạnh pháp lý.
Trong bảo hiểm thương mại, rủi ro là điểm mấu chốt, mức độ chính xác trong việc
dự đốn rủi ro sẽ tỉ lệ thuận với mức độ an toàn cho đối tượng bảo hiểm của bên mua bảo
hiểm và tỉ lệ thuận với lợi nhuận mà bên bảo hiểm đạt được. Nhưng rủi ro lại là yếu tố mà

cả bên bảo hiểm và bên mua bảo hiểm đều không biết rõ. Chính vì khơng biết rõ nên xuất
hiện nguy cơ là các bên có thể có những hiểu biết và dự đốn xu hướng của rủi ro là khơng
giống nhau hoặc có khi mâu thuẫn nhau và điều này là rất nguy hiểm trong việc đề ra
những biện pháp an toàn cho đối tượng được bảo hiểm. Trong quan hệ bảo hiểm, chỉ bên
mua bảo hiểm mới là bên có những thơng tin về đối tượng được bảo hiểm, cịn bên bảo
hiểm là bên hiểu rõ những điều thuộc về nghiệp vụ bảo hiểm, đó là lợi thế của mỗi bên và
cũng là bất lợi cho bên kia. Hay nói cách khác, trong quan hệ bảo hiểm, các bên có sự mất
cân xứng trong việc nắm giữ các luồng thông tin, điều này lại càng làm các bên có những
hiểu biết khác nhau về rủi ro và dẫn đến hạn chế các bên trong việc thống nhất ý chí.
Quan hệ bảo hiểm giữa bên mua bảo hiểm và bên bảo hiểm được thiết lập bằng một
hợp đồng. Hợp đồng là nơi thể hiện sự thống nhất ý chí của các bên về việc thực hiện các
quyền và nghĩa vụ để có thể đạt được những mục đích nhất định khi tham gia quan hệ bảo
hiểm. Tuy nhiên, bản chất của rủi ro và sự mất cân xứng trong việc nắm giữ các thơng tin
chính là rào cản làm cản trở các bên đi đến thống nhất ý chí – làm ảnh hưởng đến nguyên
tắc tự do ý chí. Và đồng thời, chính sự mất cân xứng đó cũng là ngun nhân tạo nên sự
bất bình đẳng về vị trí giữa bên bảo hiểm và bên mua bảo hiểm – làm ảnh hưởng đến
ngun tắc bình đẳng. Trong khi đó, hai ngun tắc bình đẳng và tự do ý chí được chính
thức ghi nhận trong các quy định của pháp luật về quan hệ hợp đồng và chúng là hai trong
số những ngun tắc cốt lõi đảm bảo tính có hiệu lực của hợp đồng.
Giữa tồn tại đặc thù của quan hệ bảo hiểm – bản chất của rủi ro, sự mất cân xứng
trong việc nắm giữ các thông tin; và các ngun tắc đảm bảo tính có hiệu lực của hợp đồng
– nguyên tắc tự do ý chí và nguyên tắc bình đẳng đã nảy sinh các vấn đề mâu thuẫn nhau.
13


Để giải quyết mâu thuẫn này, cần phải quy định một nghĩa vụ mà ở đó sẽ tạo vị thế cân
bằng và giúp các bên có sự chia sẻ để hiểu rõ nhau và hiểu rõ về vấn đề mà các bên đang
phải đối mặt. Từ đó đi đến thống nhất ý chí, nhằm sớm thiết lập một mối quan hệ hợp
đồng theo đúng bản chất của nó. Nghĩa vụ mà chúng ta đang nói đến đó là nghĩa vụ cung
cấp thơng tin.

Cũng theo ngun tắc bình đẳng, nghĩa vụ cung cấp thông tin không chỉ được áp
đặt cho riêng bên mua bảo hiểm (vì họ là những người có những thông tin liên quan đến
đối tượng bảo hiểm) mà nó cịn là nghĩa vụ của bên bảo hiểm trong quan hệ hợp đồng. Bởi
vì khơng thể loại trừ các trường hợp có những thơng tin bên bảo hiểm biết mà không thể
đến được với bên mua bảo hiểm. Điều này cũng xuất phát từ một nguyên tắc khác trong
quan hệ hợp đồng và được ghi nhận trong quy định của pháp luật – nguyên tắc thiện chí.
Như vậy, cơ sở pháp lý cho việc hình thành nghĩa vụ cung cấp thơng tin trong quan
hệ bảo hiểm chính xuất phát từ bản chất của quan hệ hợp đồng bảo hiểm thương mại đứng
trước các nguyên tắc của quan hệ hợp đồng – ngun tắc tự do ý chí, bình đẳng và thiện
chí.
Ở khía cạnh kinh tế.
Khi tham gia quan hệ bảo hiểm thương mại, mục đích mà bên mua bảo hiểm hướng
tới là việc được bảo đảm an toàn cho tính mạng, sức khoẻ, tài sản của mình tránh khỏi
những thiệt hại, cịn đối với bên bảo hiểm chính là lợi nhuận. Đạt được những mục đích
này, điều mà các bên phải đối mặt là phải có sự hiểu biết về rủi ro, để từ đó, đánh giá và
dự đốn rủi ro, đề ra những biện pháp ngăn ngừa và hạn chế tổn thất. Thực hiện tốt những
vấn đề này, bên mua bảo hiểm sẽ bảo toàn hoặc giảm thiểu thiệt hại cho đối tượng được
bảo hiểm, và đồng thời, trách nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm cũng có thể sẽ
giảm đi. Trong lĩnh vực bảo hiểm thương mại – một lĩnh vực có đối tượng kinh doanh
khơng mấy làm rõ ràng, và với những lợi thế cũng như những bất lợi riêng lẻ của mỗi bên,
thì địi hỏi phải có sự hợp tác, khi đó những lợi thế và bất lợi sẽ được dàn đều thành những
thuận lợi chung cho các bên.
Trong việc đánh giá, dự đoán rủi ro đối với đối tượng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo
hiểm có thể có thơng tin bằng hai cách: thứ nhất, do bên mua bảo hiểm cung cấp; thứ hai,
doanh nghiệp bảo hiểm bằng nghiệp vụ của mình, sẽ tự thu thập. Bằng cách thứ hai, doanh
nghiệp bảo hiểm chắc chắn phải tốn chi phí rất lớn. Chi phí mà doanh nghiệp bảo hiểm
phải bỏ ra là một trong những cơ sở cho việc tính phí bảo hiểm và việc làm này đôi khi
cũng tốn rất nhiều thời gian – là một trong những vấn đề nhạy cảm, quan trọng trong lĩnh
14



vực thương mại nói chung và thương mại dịch vụ nói riêng. Đơi khi tính gấp rút và giới
hạn về mặt thời gian trong việc giao kết hợp đồng sẽ gây áp lực cho việc điều tra, thu thập
thông tin của bên bảo hiểm và vì thế có thể sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của nguồn thơng
tin. Phí bảo hiểm, thời gian và chất lượng dịch vụ chính là những yếu tố ảnh hưởng đến
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Trong một số hợp đồng bảo hiểm mà
thời gian giới hạn kí kết là rất ngắn thì biện pháp tự thu thập thơng tin khơng đảm bảo, có
khi bỏ lỡ mất cơ hội kí kết hợp đồng. Và từ đó làm giảm sức cạnh tranh, giảm lợi nhuận
của doanh nghiệp bảo hiểm với các doanh nghiệp bảo hiểm khác.
Với cách thức thứ nhất, nếu đặt trong một hồn cảnh lý tưởng – thơng tin mà bên
mua bảo hiểm cung cấp là rõ ràng và chính xác. Khi đó, bên bảo hiểm sẽ có thể có đầy đủ
thông tin đồng thời giúp bên bảo hiểm tiết kiệm được một khoảng chi phí và thời gian. Lúc
này mức phí bảo hiểm cũng sẽ thấp hơn và dịch vụ cung cấp cho khách hàng sẽ có chất
lượng tốt hơn.
Như vậy, thay vì tự mình thu thập thơng tin với sự tốn kém thời gian và tiền bạc
không cần thiết, thì chỉ cần bên mua bảo hiểm cung cấp thông tin mà họ đang nắm giữ cho
bên mua bảo hiểm, bên mua bảo hiểm sẽ nhanh chóng có thơng tin cho việc đánh giá và dự
đốn rủi ro.
Ở khía cạnh xã hội.
Việc hình thành nghĩa vụ cung cấp thơng tin nếu ở khía cạnh pháp lý đó là xuất
phát từ những vấn đề mang tính nguyên tắc được ghi nhận trong các văn bản pháp luật, ở
khía cạnh kinh tế chính là vấn đề lợi ích, thì ở khía cạnh xã hội, đó chính là thiết lập một
mối quan hệ thân thiện, và bền vững. Sự trung thực và chân thành luôn được đề cao trong
các mối quan hệ, vấn đề này không loại trừ quan hệ bảo hiểm thương mại.
Thêm vào đó, sự cần thiết phải có một kênh tuyên truyền những kiến thức về bảo
hiểm cho mọi người thấy được vai trò của bảo hiểm trong việc ổn định sản xuất và đời
sống xã hội. Việc làm này phải có sự chia sẻ từ những người có chuyên môn nghiệp vụ
trong lĩnh vực bảo hiểm và phải có sự đóng góp ý kiến của những người có nhu cầu bảo
hiểm. Trên cơ sở đó, sẽ phát huy, mở rộng và làm đa dạng hơn nữa các loại hình bảo hiểm
phục vụ cho mọi loại đối tượng trong xã hội.

Sự hình thành nghĩa vụ cung cấp thơng tin trong quan hệ bảo hiểm thương mại ở
Việt Nam.
Nghĩa vụ cung cấp thông tin ở Việt Nam được ghi nhận lần đầu tiên trong hệ thống
pháp luật bảo hiểm của Việt Nam mà cụ thể là tại Điều 204, 207 Bộ luật Hàng hải 1990 và
15


được áp dụng cho quan hệ bảo hiểm hàng hải. Bộ luật Hàng hải 1990 ra đời là do ngành
hàng hải là một ngành mang tính quốc tế cao và đem lại nhiều lợi nhuận to lớn. Nước ta lại
có đường bờ biển dài, rất thích hợp và có điều kiện để phát triển ngành hàng hải. Mặc
khác, xu hướng của các quốc gia trên thế giới lúc bấy giờ, ngành hàng hải đã ra đời từ rất
lâu ở Châu Âu và lan nhanh sang các quốc gia trên thế giới từ thế kỉ XV. Đứng trước xu
thế đó, yêu cầu đặt ra cho Việt Nam là cũng phải có một hệ thống pháp luật chuyên ngành
để thiết lập trật tự trong quan hệ hàng hải.
Vào năm 1990 – lúc Bộ luật Hàng hải ra đời, bảo hiểm ở Việt Nam chưa phát triển
và đương nhiên một hệ thống pháp luật để điều chỉnh trong lĩnh vực này chưa được hình
thành là điều tất yếu. Mãi đến năm 1993, với sự ra đời của Nghị Định số 100/CP/1993 của
chính phủ được ban hành vào ngày 18/12/1993 quy định về hoạt động kinh doanh bảo
hiểm, thì nước ta mới thực sự có mảng pháp luật riêng về vấn đề bảo hiểm.
Trong Bộ luật Hàng hải 1990, đã có quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của
bên mua bảo hiểm, cụ thể tại khoản 1 điều 204 : “Người được bảo hiểm có nghĩa vụ cung
cấp cho người bảo hiểm biết tất cả các thơng tin mà mình biết hoặc cần phải biết liên
quan đến việc nhận bảo hiểm và các điều kiện bảo hiểm, trừ loại thông tin mà mọi người
đều biết hoặc người bảo hiểm đã biết hoặc cần phải biết”.
Vì tính quốc tế của ngành hàng hải nên lúc bấy giờ, những quy định của Bộ luật Hàng hải
1990 cũng có những quy định hồ nhập và thống nhất với quy định của các quốc gia trên
thế giới. Do đó, nội dung của quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin tại điều 204 Bộ luật
Hàng hải 1990 gần giống với nguyên tắc thiện chí trong quan hệ hàng hải của các nước
trên thế giới, ví dụ như pháp luật của Anh: “Người mua bảo hiểm phải tiết lộ cho người
bảo hiểm… mọi thông tin quan trọng được biết đến bởi người mua bảo hiểm, và người

mua bảo hiểm được coi là biết đến mọi thông tin nếu trong quá trình hoạt động kinh
doanh bình thường của mình, anh ta phải biết về thơng tin đó… mọi thơng tin được coi là
quan trọng nếu nó ảnh hưởng tới đánh giá của một người bảo hiểm khôn ngoan trong việc
định mức bảo hiểm phí, hoặc quyết định liệu có tham gia tiếp nhận [bảo hiểm] rủi ro hay
khơng”1 hay như trong quy định của Pháp cũng có nội dung tương tự: “người mua bảo
hiểm phải tiết lộ chính xác, vào thời điểm hợp đồng được hình thành, tất cả các trường

1

Tham khảo từ bài viết “Cơ sở hình thành nghĩa vụ cung cấp thơng tin trong giao kết hợp đồng bảo hiểm” (3/2004),

- tác giả Phạm Sĩ Hải Quỳnh, đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý – Đại học Luật TP.HCM.

16


hợp trong kiến thức của mình và có thể ảnh hưởng tới nhận thức của người bảo hiểm về
rủi ro”2.
Sau đó, với sự ra đời của Bộ luật Dân sự 1995 – Bộ luật Dân sự đầu tiên của nước
Cộng hồ XHCN Việt Nam, ngun tắc thiện chí mà cụ thể là nghĩa vụ cung cấp thông tin
trong quan hệ bảo hiểm cũng được ghi nhận nhưng có điểm khác biệt so với quy định của
Bộ luật Hàng hải 1990, cụ thể tại điều 577 Bộ luật Dân sự 1995: “khi giao kết hợp đồng
bảo hiểm, theo yêu cầu của bên bảo hiểm, bên mua bảo hiểm phải cung cấp cho bên bảo
hiểm đầy đủ các thơng tin có liên quan đến đối tượng bảo hiểm, trừ các thông tin mà bên
bảo hiểm đã biết hoặc phải biết.”. Theo quy định của Bộ luật Dân sự 1995 - là luật chung
điều chỉnh quan hệ hợp đồng và tất nhiên trong đó bao gồm cả lĩnh vực hàng hải, có quy
định về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quan hệ bảo hiểm có phần khác với Bộ luật
Hàng hải 1990 và xu thế chung của các nước trên thế giới. Cụ thể là trong Bộ luật Dân sự
1995, quy định bên mua bảo hiểm chỉ cần cung cấp thông tin khi nào được bên bảo hiểm
yêu cầu và trong giới hạn những thơng tin có liên quan đến đối tượng được bảo hiểm. Còn

trong Bộ luật Hàng hải 1990, bên mua bảo hiểm phải có nghĩa vụ cung cấp thơng tin ngay
cả khi khơng có u cầu của bên bảo hiểm và phải cung cấp tất cả các thông tin mà bên
mua bảo hiềm biết không chỉ liên quan đến đối tượng được bảo hiểm mà còn liên quan đến
việc nhận bảo hiểm và các điều kiện bảo hiểm. Như vậy, nghĩa vụ cung cấp thông tin trong
quan hệ pháp luật bảo hiểm ở Việt Nam được hình thành từ năm 1990, nhưng lại có sự
khác biệt về nội dung trong Bộ luật Hàng hải 1990 và Bộ luật Dân sự 1995.
Hoạt động hàng hải là một hoạt động mang tính quốc tế cao, đem lại nguồn lợi
nhuận dồi dào nhưng đi liền với nó ln là một điều khó tránh khỏi – rủi ro và vì thế cần
có hoạt động bảo hiểm. Pháp luật hàng hải và pháp luật bảo hiểm ở các nước phát triển đã
có từ thế kỉ XV, trước nhu cầu đó, Việt Nam cũng phải xây dựng hệ thống pháp luật để
điều chỉnh lĩnh vực này. Vì ra đời sau so với pháp luật các nước và chưa có kinh nghiệm,
do đó khi soạn thảo Bộ luật Hàng hải 1990, các nhà làm luật Việt Nam đã nghiên cứu và
tham khảo pháp luật của các nước về lĩnh vực này. Để làm cho hoạt động hàng hải trong
nước phù hợp với thơng lệ quốc tế,vì thế mà có điểm tương đồng trong các quy định của
pháp luật hàng hải nói chung và quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quan hệ
hàng hải nói riêng với quy định của pháp luật các nước. Tuy nhiên, ở thời điểm Bộ luật
2

Tham khảo từ bài viết “Cơ sở hình thành nghĩa vụ cung cấp thơng tin trong giao kết hợp đồng bảo hiểm” (3/2004),

- tác giả Phạm Sĩ Hải Quỳnh, đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý – Đại học Luật TP.HCM.

17


Dân sự 1995 ra đời có thể tư duy của các nhà làm luật phát triển theo một hướng khác, họ
nhận thấy rằng, bảo hiểm là một lĩnh vực khá mới mẻ ở Việt Nam, mọi người chưa hiểu
hết về bản chất của nó. Mặt khác, hoạt động kinh doanh bảo hiểm là một hoạt động cần có
chun mơn nghiệp vụ, khơng phải ai cũng có thể thực hiện được, nếu quy định theo
hướng buộc bên mua bảo hiểm tự cung cấp những thơng tin mà họ biết có liên quan đến

việc giao kết hợp đồng là vấn đề không hề đơn giản. Bởi, thứ nhất, bên mua bảo hiểm
không phải là chuyên gia hay những người có am hiểu về pháp luật đặc biệt là pháp luật
bảo hiểm nên họ sẽ khơng biết những điều kiện gì đảm bảo cho việc giao kết hợp đồng.
Thứ hai, bên mua bảo hiểm cũng không biết những thông tin nào là cần thiết cho việc đánh
giá và dự đoán rủi ro, nếu họ cung cấp hết những thông tin mà họ biết, do sơ xuất vơ ý mà
họ lại cịn đề sót lại những thông tin quan trọng hơn hoặc, họ cố ý cung cấp cho bên bảo
hiểm ít hơn những thơng tin mà họ có, lúc này khơng có cơ sở để có thể phát hiện ra hành
vi che giấu thơng tin đó… Tư duy của các nhà làm luật theo hướng bên bảo hiểm là bên
hiểu rõ về hoạt động bảo hiểm và có khả năng xử lý thơng tin để đánh giá rủi ro, nên họ
phải chủ động yêu cầu bên mua bảo hiểm cung cấp những thông tin mà họ cần. Chính lối
tư duy như vậy, các nhà làm luật đã có quy định như trong Bộ luật Dân sự 1995. Sai lầm là
họ đã để cho có hai nội dung khác nhau quy định về cùng một vấn đề ở hai văn bản pháp
luật khác nhau.
Có thể Việt Nam chưa thực sự có một nền tảng lý luận vững chắc nào cho việc xây
dựng nên quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin. Dường như quy định về vấn đề này ra
đời theo xu hướng của quốc tế và những lập luận mơ hồ của những người ban hành các
quy định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm.
Tóm lại, để hiểu được sự cần thiết phải có những quy định của pháp luật về nghĩa
vụ cung cấp thơng tin, cần phải biết được cơ sở hình thành và tầm quan trọng của nó trong
hoạt động bảo hiểm. Điểm mấu chốt của tất cả các vấn đề về bảo hiểm chính là rủi ro –
một yếu tố khách quan, không lường trước được nhưng lại phải đánh giá nó, điều này địi
hỏi phải có sự hợp tác của các bên về hai vấn đề: phải có thơng tin có liên quan đến việc
đánh giá rủi ro hay nói cách khác phải có thơng tin về đối tượng được bảo hiểm, và phải có
nghiệp vụ trong việc xử lý các thơng tin đó. Ngồi ra, việc hiểu rõ nguyên tắc giao kết hợp
đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo hiểm, vai trò vị thế của việc nắm
giữ các nguồn thông tin… để khai thác tốt những vấn đề đó phục vụ cho việc hiểu rõ cơ sở
lý luận cho việc hình thành nghĩa vụ cung cấp thông tin. Từ cơ sở lý luận đó sẽ giúp các
nhà làm luật đưa ra những quy định pháp lý về vấn đề này cho phù hợp. Việc đưa ra một
18



quy định pháp luật mới không thể dựa trên những sự nhận thức chủ quan, phiến diện mà
cần phải tìm hiểu đúng vào bản chất lịch sử của vấn đề.
1.2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ NGHĨA VỤ CUNG
CẤP THÔNG TIN TRONG QUAN HỆ BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI.
Nội dung quy định của pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thơng tin.
Cơ sở hình thành nên nghĩa vụ cung cấp thông tin trong quan hệ bảo hiểm thương
mại chính xuất phát từ bản chất của quan hệ bảo hiểm thương mại – đảm bảo cho sự bình
đẳng, tự nguyện, tự do ý chí mà nguyên nhân sâu xa là do sự mất cân xứng giữa bên mua
bảo hiểm và bên bảo hiểm trong việc nắm giữ các luồng thơng tin có liên quan trong việc
dự đốn và đánh giá rủi ro. Rủi ro là chìa khố của mọi vấn đề, có thể nói như vậy, bởi vì
rủi ro là yếu tố khách quan, không thể lường trước được, là yếu tố vơ hình nên các bên dễ
có những nhận thức khác nhau về một vấn đề không mấy làm rõ ràng, và điều này đã làm
hạn chế tự do ý chí của các bên, hạn chế các bên trong việc quyết định giao kết hợp đồng.
Nếu rủi ro được hiểu biết tốt thì các bên sẽ mạnh dạn trong việc giao kết hợp đồng, thống
nhất trong việc thực hiện nội dung hợp đồng, đề ra số tiền bảo hiểm và mức phí bảo hiểm
hợp lý và đề xuất các biện pháp giảm thiểu rủi ro hiệu quả.
Một quan hệ có diễn ra tốt đẹp và đạt được mục đích như mong muốn hay khơng là
phụ thuộc vào ý chí và sự thiện chí của các bên trong quan hệ, trong đó ý chí là điều kiện
cần và thiện chí là điều kiện đủ để có thể thiết lập một quan hệ hợp đồng hợp pháp. Những
mục đích mà các bên muốn đạt được là những lợi ích, có thể là những lợi ích vật chất hoặc
tinh thần và phải là những lợi ích hợp pháp được pháp luật thừa nhận. Như vậy nếu có sự
vi phạm sự tự do ý chí, có hành vi lừa dối để đạt những lợi ích bất hợp pháp thì sẽ khơng
được pháp luật thừa nhận.
Trong quan hệ dân sự, nguyên tắc bình đẳng, tự do, tự nguyện luôn được đặt lên
hàng đầu và được quy định tại Điều 4 (nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận),
Điều 5 (ngyên tắc bình đẳng), Điều 6 (ngun tắc thiện chí, trung thực) của Bộ luật Dân
sự. Chỉ khi có sự bình đẳng, tự nguyện khi tham gia quan hệ thì các bên mới có thể thể
hiện ý chí thật sự của mình. Trong quan hệ dân sự, yếu tố ý chí rất quan trọng, ý chí của
mỗi người là khác nhau, nhưng khi tham gia quan hệ, các ý chí đó phải thống nhất với

nhau và sự thống nhất ý chí phải là tự nguyện của các bên – tự do ý chí. Ý chí của mỗi bên
trước khi tham gia quan hệ là tự do tuyệt đối – chỉ làm những gì họ muốn, khơng ai có thể
bắt buộc họ. Nhưng khi đã tham gia quan hệ hợp đồng, để đạt được những lợi ích, cần phải
có sự thống nhất ý chí của các bên. Lúc này tự do ý chí chỉ mang tính tương đối – nghĩa là
19


các bên để đạt được sự thống nhất phải “tự” ràng buộc ý chí mình cân bằng với ý chí của
bên kia và sự ràng buộc này là do chính bản thân họ chứ khơng phải có sự tác động của bất
kì yếu tố chủ quan cũng như khách quan nào. Trong quan hệ hợp đồng, vấn đề ý chí rất
quan trọng và mọi vấn đề ảnh hưởng đến sự tự do ý chí như sự khơng bình đẳng về địa vị
pháp lý hay yếu tố lừa dối (không trung thực) đều có thể ảnh hưởng đến tính hiệu lực của
hợp đồng, đến việc thiết lập một quan hệ hợp đồng và như vậy mục đích của các bên
khơng đạt được.
Trong quan hệ hợp đồng, các nguyên tắc trên được cụ thể hoá tại Điều 389, Bộ luật
Dân sự - nguyên tắc giao kết hợp đồng: (1) tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái
pháp luật và đạo đức xã hội. (2) tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và
ngay thẳng.
Trong hợp đồng bảo hiểm thương mại thì những vấn đề trên cần được quan tâm
hơn nữa, bởi đối tượng mà quan hệ hợp đồng hướng tới là rủi ro – một yếu tố khách quan,
vơ hình và bất ngờ, tại thời điểm giao kết các bên đều khơng biết được về nó nhưng lại
phải đánh giá nó. Ngồi ra, sự bất cân xứng trong việc nắm giữ các luồng thơng tin địi hỏi
các bên phải cân bằng lại và phải thiện chí hợp tác một cách tích cực để cùng nhau đánh
giá, dự đốn rủi ro.
Rủi ro luôn là nguy cơ đe doạ đến đối tượng được bảo hiểm. Do đó, để đánh giá và
dự đốn rủi ro khơng thể xem xét chính nó một cách trực tiếp mà chỉ có thể đánh giá rủi ro
thông qua việc xem xét về đối tượng bảo hiểm – đối tượng mà rủi ro ln có nguy cơ đe
doạ đến. Tất cả những thông tin này đều nằm trong sự kiểm soát của bên mua bảo hiểm.
Bên bảo hiểm cũng có thể có được những thơng tin về đối tượng bảo hiểm bằng cách tự
thu thập, nhưng khơng thể đầy đủ và chính xác bằng những thơng tin mà bên mua bảo

hiểm đang nắm giữ. Bên bảo hiểm lại phải đánh giá về rủi ro để đưa ra quyết định chấp
nhận bảo hiểm hay không, bảo hiểm ở mức độ nào, với mức phí là bao nhiêu… Do đó,
pháp luật quy định bên mua bảo hiểm phải có nghĩa vụ cung cấp thơng tin cho bên bảo
hiểm. Việc này không chỉ làm cân bằng vị thế của các bên trong việc nắm giữ các nguồn
thông tin (thể hiện tính cơng bằng) mà cịn thể hiện sự thiện chí hợp tác của bên mua bảo
hiểm khi tham gia quan hệ bảo hiểm – thể hiện bản chất “chia sẻ” của quan hệ bảo hiểm. Ở
khía cạnh xã hội còn giúp tạo lập nhiều mối quan hệ tốt đẹp và ở khía cạnh quản lý, sẽ
giúp ổn định xã hội, tránh những hành vi tiêu cực, trục lợi bất hợp pháp.
Nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm được quy định tại khoản 1 điều
573 Bộ luật Dân sự: “Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, theo yêu cầu của bên bảo hiểm,
20


×