Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với tài sản của con theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.1 MB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

HỒ THANH VÂN

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHA MẸ
ĐỐI VỚI TÀI SẢN CỦA CON
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHA MẸ
ĐỐI VỚI TÀI SẢN CỦA CON
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03

Người hướng dẫn khoa học: Ts. Nguyễn Văn Tiến
Học viên: Hồ Thanh Vân
Khóa: 3 CHL - Vũng Tàu

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung
thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Các kết quả nghiên cứu luận
văn do tôi tự tổng hợp, phân tích một cách phù hợp và khách quan với thực tiễn áp
dụng của pháp luật Việt Nam. Những tài liệu tham khảo, thơng tin trích dẫn trong
luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc rõ ràng và chú thích minh bạch theo quy định.
Học viên thực hiện luận văn

Hồ Thanh Vân


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT

TỪ, CỤM TỪ ĐƯỢC VIẾT TẮT

TỪ VIẾT TẮT

1

Bộ luật dân sự

2

4

Hơn nhân và gia đình
HNGĐ
Nghị định 126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số

Nghị định 126
điều và biện pháp thi hành Luật hơn nhân và gia đình
Tịa án nhân dân
TAND

5

Viện kiểm sát nhân dân

3

BLDS

VKSND


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHA MẸ ĐỐI VỚI VIỆC QUẢN
LÝ TÀI SẢN CỦA CON........................................................................................... 7
1.1. Điều kiện để cha mẹ quản lý tài sản của con ............................................... 7
1.1.1. Theo ý chí của con .....................................................................................7
1.1.2. Theo quy định của pháp luật ...................................................................10
1.2. Chấm dứt quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với việc quản lý tài sản của con
............................................................................................................................... 16
1.2.1. Quyền của cha mẹ đối với việc quản lý tài sản của con chấm dứt khi con
từ đủ 15 tuổi trở lên tự mình quản lý tài sản riêng và khi con khôi phục hành vi
dân sự .................................................................................................................16
1.2.2. Quyền của cha mẹ đối với việc quản lý tài sản của con chấm dứt trong
trường hợp khác theo quy định của pháp luật ...................................................17

CHƯƠNG 2. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHA MẸ ĐỐI VỚI VIỆC ĐỊNH
ĐOẠT TÀI SẢN CỦA CON................................................................................... 20
2.1. Phạm vi định đoạt của cha mẹ đối với tài sản của con ............................. 20
2.1.1. Đối với tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc
không dùng để kinh doanh .................................................................................20
2.1.2. Đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc dùng tài
sản để kinh doanh ..............................................................................................22
2.1.3. Định đoạt tài sản riêng của con do cha mẹ là người giám hộ thực hiện 23
2.2. Nội dung định đoạt của cha mẹ đối với tài sản của con ........................... 25
2.2.1. Đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình ..................................................25
2.2.2. Vì lợi ích của con .....................................................................................27
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 34
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, tập hợp những người gắn bó với nhau về hơn
nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh quyền và nghĩa
vụ giữa họ với nhau. Các thành viên gia đình có mối quan hệ gắn bó với nhau về
trách nhiệm và quyền lợi, giữa họ có những điều ràng buộc có tính pháp lý, được
Nhà nước và pháp luật bảo vệ. Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ u thương, ni
dưỡng, giáo dục, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã
thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức làm
chủ hành vi hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc khơng có khả năng lao động
và khơng có tài sản để tự ni mình. Ngược lại con cũng có quyền và nghĩa vụ đối
với cha mẹ. Gia đình hạnh phúc thì xã hội phát triển, ngược lại gia đình bất hịa sẽ
làm phát sinh nhiều hệ lụy. Một trong nhiều nguyên nhân tạo nên gia đình hạnh

phúc là kinh tế, kinh tế tạo ra của cải vật chất, tài sản, thông qua việc sử dụng và
định đoạt tài sản của các thành viên trong gia đình góp phần giúp gia đình tồn tại và
phát triển, đáp ứng nhu cầu về mọi mặt của của các thành viên trong gia đình.
Hiến pháp nước ta thừa nhận quyền có tài sản và quyền sở hữu tài sản của
mỗi công dân. Từ quy định này, Bộ luật Dân sự, Luật Hơn nhân và gia đình đã ghi
nhận quyền có tài sản riêng và quyền sở hữu tài sản của cá nhân, khơng phân biệt về
độ tuổi, giới tính, đã thành niên hay chưa thành niên. Đối với con đã trưởng thành,
có đủ năng lực hành vi dân sự tự mình sử dụng và định đoạt tài sản riêng của mình.
Đối với con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng hạn chế năng lực hành vi
dân sự, có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi, mất năng lực hành vi dân sự
cha mẹ là người quản lý tài sản của con, đại diện cho con tham gia giao dịch dân sự,
định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con. Quyền lợi và nghĩa vụ ln song hành với
nhau, nếu cha mẹ có quyền quản lý và định đoạt tài sản của con thì cũng phải có
nghĩa vụ đối với tài sản của con.
Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, pháp luật Việt Nam nói chung, Bộ
luật dân sự, Luật Hơn nhân và gia đình nói riêng ngày càng hồn thiện, đáp ứng
được nhu cầu của nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Bên cạnh những kết quả
đã đạt được như trên, một số quy định pháp luật khi áp dụng vào thực tiễn khơng
tránh khỏi vướng mắc, khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến


2
quyền và nghĩa vụ của cha mẹ quản lý và định đoạt tài của con nhưng khơng nhằm
mục đích vì lợi ích của con.
Thứ nhất: Cha mẹ chuyển nhượng tài sản của con nhưng khơng phải vì lợi
ích chăm lo đời sống cho con mà sử dụng tiền để phục vụ nhu cầu cá nhân.
Thứ hai: Luật Hôn nhân và gia đình quy định con từ đủ 9 tuổi đến dưới 15
tuổi, cha mẹ định đoạt tài sản của con vì lợi ích của con thì phải xem xét nguyện
vọng của con, vậy nếu con khơng đồng ý thì cha mẹ có được định đoạt khơng, pháp
luật khơng quy định cụ thể vấn đề này.

Thứ ba: Con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi định đoạt tài sản riêng là bất
động sản hay động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng phải có sự đồng ý
của cha mẹ bằng văn bản, trường hợp cha mẹ không đồng ý hoặc cha, hoặc mẹ
khơng đồng ý thì con có được định đoạt tài sản của mình hay khơng? Pháp luật
chưa quy định rõ vấn đề này.
Do đó việc nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với tài sản của con
hiện nay có ý nghĩa sâu sắc về lý luận và thực tiễn, nhằm đảm bảo quy định pháp luật
đi vào cuộc sống nên tác giả đã chọn đề tài “Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với
tài sản của con theo pháp luật Việt Nam” để làm đề tài luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với tài sản của con luôn là đề tài thu hút
không chỉ với các nhà Luật học mà còn là đề tài hấp dẫn đối với các chuyên gia
ngành khoa học xã hội khác. Đã có nhiều cơng trình, đề tài khoa học nghiên cứu
lĩnh vực này ở các góc độ khác nhau như:
- Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam (2016) của Trường Đại học
Luật TPHCM, Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam, tác phẩm có cách
nhìn tổng quát chung về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con. Đây là nền tảng
giúp tác giả có thêm tài liệu tham khảo về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với tài
sản của con, cơng trình nêu lên vấn đề việc cha mẹ được tiến hành định đoạt tài sản
riêng của con dưới 15 tuổi phải đảm bảo 3 điều kiện như: cha mẹ phải là người trực
tiếp quản lý tài sản của con; việc định đoạt tài sản đó phải được thực hiện vì lợi ích
của người con; ngoài ra việc định đoạt tài sản đó có tính đến nguyện vọng của con
nếu con từ 9 tuổi trở lên. Quan điểm này tác giả nhận thấy, để cha mẹ được định


3
đoạt tài sản riêng của con phải đảm bảo điều kiện cha mẹ phải là người trực tiếp
quản lý tài sản của con điều này chưa hợp lý, vì cha mẹ không quản lý tài sản của
con không đồng nghĩa với việc không được định đoạt tài sản riêng của con. Đây là
vấn đề luận văn cần quan tâm làm rõ.

- Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam (2009) của Trường Đại học
Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Cơng an nhân dân, trong cơng trình này tác giả bàn về
vấn đề cấp dưỡng và cho rằng “do điều kiện kinh tế xã hội ở mỗi vùng miền khác
nhau mà mức chi phí cho các nhu cầu thiết yếu đó cũng rất khác nhau. Việc ấn định
một mức cấp dưỡng chung là không phù hợp…”. Từ quan điểm này giúp cho tác
giả có ý tưởng nghiên cứu về con chưa thành niên từ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi ở
mỗi vùng miền khác nhau được quyền quản lý, định đoạt tài sản riêng của mình ở
một giá trị khác nhau.
- Sách chuyên khảo “Bình luận khoa học Luật Hơn nhân và gia đình”, Nhà
xuất bản Trẻ, năm 2002, tác giả Nguyễn Ngọc Điện chủ biên. Đã cho rằng “luật
khơng địi hỏi cha mẹ phải được sự đồng ý của con trong trường hợp cha mẹ định
đoạt tài sản của con từ 9 tuổi trở lên. Trên thực tế, việc thiết lập bằng chứng về việc
cha mẹ đã ghi nhận nguyện vọng của con hồn tồn khơng đơn giản. Vả lại, luật
cũng khơng địi hỏi sự tơn trọng của cha mẹ đối với nguyện vọng ấy. Nếu cha mẹ
khơng tính đến nguyện vọng của con và cuối cùng, định đoạt tài sản trái với lợi ích
của con thì ai có quyền kiện?”. Với ý kiến “luật khơng địi hỏi sự tôn trọng của cha
mẹ đối với nguyện vọng của con” là chưa đúng vì khoản 1 Điều 34 Luật Hơn nhân
và gia đình 2000 quy định cha mẹ có nghĩa vụ và quyền tơn trọng ý kiến của con.
Tuy nhiên quan điểm trên rất hay, làm nền tảng cho tác giả nghiên cứu sâu hơn về
quy định “nếu con từ đủ 9 tuổi trở lên phải xem xét nguyện vọng của con” theo
pháp luật hiện hành.
- Sách chuyên khảo “Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2005”, Tập 3,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2010, tác giả Hoàng Thế Liên - Bộ Tư pháp
Viện khoa học pháp lý chủ biên. Theo nội dung bình luận, tác giả nghiên cứu và phân
tích về thừa kế được quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005, trong đó bình luận về
người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi lập di chúc, tác giả cho rằng “ở độ tuổi từ 15
trở lên, người chưa thành niên đã có thể nhận thức và quản lý được tài sản riêng của
mình, bởi vậy họ có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Tuy nhiên, vì
người chưa từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên, để bảo vệ



4
quyền lợi cho người chưa thành niên, pháp luật quy định việc lập di chúc của họ phải
được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý”. Đây là quan điểm riêng của tác giả theo
hướng thống nhất quy định tại khoản 2 Điều 647 Bộ luật dân sự năm 2005, cho đến
khi Bộ luật dân sự năm 2005 hết hiệu lực thay thế bằng Bộ luật dân sự năm 2015 quy
định này vẫn giữ nguyên nhưng thay đổi vị trí trong luật thành khoản 2 Điều 625.
Quan điểm này phù hợp luật nhưng về lý luận phân tích dường như chưa ổn.
- Nguyễn Thị Lan (2012), “Một số vấn đề về lạm quyền của cha mẹ đối với
con” đăng trên Tạp chí Luật học số (02)/2012. Trong cơng trình này, tác giả cho
rằng rất nhiều trường hợp cha mẹ sử dụng hoặc định đoạt tài sản riêng của con
khơng vì lợi ích của người đó mà vì lợi ích của bản thân mình hoặc vì lợi ích của
người khác; cha mẹ vì nghiện hút, cờ bạc đã bán tài sản của con hoặc dùng tài sản
của con để mua ma túy, đánh bạc… Đây là những hành vi ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích hợp pháp của trẻ em với tư cách là con trong gia đình nhưng lại khó kiểm
soát và áp dụng. Bài viết đã phát hiện ra bất cập trong quy định cha mẹ thực hiện
quyền, nghĩa vụ quản lý và định đoạt tài sản riêng của con, tuy nhiên chưa đưa ra
hướng giải quyết và hoàn thiện pháp luật.
- Nguyễn Văn Quyền (2014), đề tài “Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với
con theo Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam” Luận văn thạc sĩ Luật học. Trong
luận văn này, tác giả nghiên cứu nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con theo
quy định của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 có đối chiếu, so sánh với Luật
Hơn nhân và gia đình năm 2014. Tác giả cho rằng “Luật Hơn nhân và gia đình quy
định cho cha mẹ quản lý tài sản riêng của con chưa thành niên và con mất năng lực
hành vi dân sự nhưng chỉ quy định về quyền định đoạt của cha mẹ đối với tài sản
của con dưới 15 tuổi mà không quy định về quyền định đoạt của cha mẹ đối với con
mất năng lực hành vi dân sự dưới 15 tuổi”. Đây là một phần nền tảng giúp tác giả
nghiên cứu sâu hơn về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ định đoạt tài sản của con bị
mất năng lực hành vi dân sự dưới 15 tuổi có tài sản riêng.
Các cơng trình trên có giá trị khoa học khá cao, các tác giả đã nghiên cứu

nhiều khía cạnh về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con, có đề cập đến quyền
và nghĩa vụ của cha mẹ đối với tài sản của con. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu theo
Luật Hơn nhân và gia đình 2000 nên một số ý kiến, quan điểm hiện nay không con
phù hợp theo Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014. Cùng với Bộ luật dân sự 2015
thay thế Bộ luật dân sự 2005 đã quy định thêm đối tượng người có khó khăn trong


5
nhận thức làm chủ hành vi cần phải có người giám hộ do tòa án chỉ định, nếu cha
mẹ được chỉ định làm người giám hộ sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của cha
mẹ đối với tài sản của con, vấn đề này chưa được các tác giả trên nghiên cứu. Do đó
đề tài nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với tài sản của con cũng là
một nhu cầu trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Tác giả nghiên cứu đề tài này với mục đích nhằm làm sáng tỏ các quy định của
pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với tài sản của con đối với con chưa
thành niên, con mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, có khó
khăn trong nhận thức làm chủ hành vi; thực tiễn giải quyết tranh chấp tại tòa án; các sự
việc được báo chí đưa tin. Từ đó tổng hợp, đánh giá những vướng mắc, bất cập của quy
định pháp luật để đưa ra kiến nghị góp phần hồn thiện quy định pháp luật.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu trên, đề tài sẽ tập trung làm sáng tỏ thực trạng quy
định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật có liên quan đến quyền và nghĩa vụ
của cha mẹ đối với tài sản của con đối với con chưa thành niên; con bị mất năng lực
hành vi dân sự; con bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; con có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi trên cơ sở tài liệu trong lãnh thổ nước Việt Nam. Đặc biệt,
cơng trình nghiên cứu sâu vào phạm vi quyền quản lý và định đoạt của cha mẹ đối
với tài sản của con, nghĩa vụ của cha mẹ đối với tài sản của con, kết hợp với dẫn
chứng các bản án, quyết định của tòa án, các quan hệ pháp luật xảy ra trong thực tế

để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 và Bộ luật dân sự năm 2015. Luận văn sử dụng các văn bản quy phạm pháp
luật từ thời điểm năm 1995 đến nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp giải thích luật, liệt kê, so sánh, phân tích, tổng hợp được sử
dụng tại chương 1 nhằm làm sáng tỏ những quy định của pháp luật về quyền và
nghĩa vụ của cha mẹ trong việc quản lý tài sản riêng của con, những bất cập khi cha


6
mẹ thực hiện quyền và nghĩa vụ này. Từ đó đưa ra cơ sở lý luận về quyền và nghĩa
vụ quản lý của cha mẹ đối với tài sản riêng của con qua quy định của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014, Bộ luật Dân sự năm 2015 (có đối chiếu với Bộ luật Dân
sự năm 2005) và các văn bản pháp luật có liên quan, đồng thời sử dụng các bản án,
quyết định của Tòa án, các sự việc được báo chí đưa tin để phân tích rút ra nhận xét
vấn đề đã đặt ra làm cơ sở kiến nghị hồn thiện pháp luật.
- Phương pháp giải thích luật, liệt kê, phân tích, tổng hợp tại chương 2, đưa
ra cơ sở lý luận về quyền và nghĩa vụ định đoạt của cha mẹ đối với tài sản của con
qua các quy định của pháp luật, thông qua thực tiễn áp dụng pháp luật của chế định
này trong đời sống xã hội, bản án để thấy sự phù hợp hoặc chưa phù hợp giữa cơ sở
lý luận và thực tiễn áp dụng, từ đó rút ra kết luận làm cơ sở kiến nghị hoàn thiện
pháp luật.
5. Các vấn đề dự kiến cần giải quyết
Đề tài sẽ là một tài liệu có giá trị cho những người quan tâm và có nhu cầu
nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với tài sản của con theo pháp luật
Việt Nam. Trong cơng trình nghiên cứu của mình, tác giả cịn phân tích sâu những
bất cập, vướng mắc từ thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ
của cha mẹ đối với tài sản của con nên đề tài cịn có giá trị tham khảo trong quá

trình thực thi pháp luật của các cơ quan Nhà nước; đồng thời, góp phần hồn thiện
những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với tài sản của
con trong thời gian tới khi được sửa đổi, bổ sung.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, phần mở đầu, phần kết luận, bố
cục luận văn được chia thành 02 (hai) chương:
Chương 1. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với việc quản lý tài sản của con
Chương 2. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với việc định đoạt tài sản
của con


7
CHƯƠNG 1
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHA MẸ ĐỐI VỚI VIỆC
QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA CON
1.1. Điều kiện để cha mẹ quản lý tài sản của con
Trong mối quan hệ gia đình, ngồi cha mẹ là người có tài sản để nuôi sống
bản thân và các thành viên khác trong gia đình thì con cũng có quyền có tài sản.
Luật hóa vấn đề này, khoản 1 Điều 75 Luật Hơn nhân và gia đình (HNGĐ) quy
định: “Con có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của con bao gồm tài sản được
thừa kế riêng, được cho tặng riêng, thu nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi tức
phát sinh từ tài sản riêng của con và thu nhập hợp pháp khác. Tài sản được hình
thành từ tài sản riêng của con cũng là tài sản riêng của con”. Việc cha mẹ quản lý
tài sản của con phải đáp ứng những điều kiện nhất định.
1.1.1. Theo ý chí của con
Luật HNGĐ cơng nhận con có quyền có tài sản riêng và có quyền quản lý tài
sản riêng của chính mình. Theo luật “con từ đủ 15 tuổi trở lên có quyền tự mình
quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý”.
Quy định này được hiểu, con đủ 15 tuổi trở lên mặc dù là người chưa thành
niên nhưng có tài sản riêng pháp luật cho phép con tự mình hoặc được quyền nhờ

cha mẹ quản lý, có nghĩa là tài sản riêng của con phụ thuộc vào ý chí của con quyết
định. Ở độ tuổi 15 trở lên, về mặt sinh học con người đã phát triển đến một giai
đoạn đã có đủ suy nghĩ, tính tốn để tự quản lý tài sản của chính mình, việc quản lý
tài sản cũng khơng khó khăn và khơng làm ảnh hưởng nhiều đến giá trị tài sản. Hơn
nữa, các nhà làm luật cũng đã cân nhắc khi giao quyền quản lý tài sản cho con từ 15
tuổi trở lên thể hiện ở chỗ “hoặc nhờ cha mẹ quản lý”, quy định này cho thấy sự
quan tâm, tôn trọng của nhà nước đối với con chưa thành niên làm chủ sở hữu tài
sản, nếu con tự nhận thấy không đủ khả năng thì có thể nhờ cha mẹ quản lý thay,
lúc này cha mẹ mới được thực hiện quyền quản lý tài sản của con.
Trước đây, Luật HNGĐ 2000 đã quy định vấn đề này tại khoản 1 Điều 45,
cho đến năm 2014 Luật HNGĐ 2000 hết hiệu lực được thay thế bởi Luật HNGĐ
mới nội dung quy định tại khoản 1 Điều 45 được giữ nguyên nhưng có sự thay đổi
vị trí điều luật thành khoản 1 Điều 76. Tuy pháp luật quy định như vậy, nhưng thực
tiễn thi hành vẫn còn bất cập.


8
Ví dụ: Bà Nguyễn Thị Mua kết hơn với ơng Cao Văn Minh, q trình
chung sống có 03 người con, do mâu thuẫn gia đình bà Mua khởi kiện ra Tòa án
nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu u cầu Tịa án giải quyết ly hơn
với ông Minh. Về con chung, thời điểm cha mẹ khởi kiện ly hôn em Thảo chưa đủ
18 tuổi, bà Mua yêu cầu ông Minh cấp dưỡng đối với em Thảo 500.000
đồng/tháng cho đến khi em Thảo đủ 18 tuổi. Ông Minh đồng ý theo yêu cầu cấp
dưỡng của bà Mua.
TAND huyện Đất Đỏ đã xét xử sơ thẩm tại Bản án số 06/2014/HNGĐ-ST
ngày 22/4/2016, công nhận sự thỏa thuận giữa bà Nguyễn Thị Mua và ông Cao Văn
Minh, bà Mua được quyền nuôi em Thảo, ông Minh phải cấp dưỡng nuôi con đối
với em Thảo mỗi tháng 500.000 đồng, tiền cấp dưỡng giao cho bà Mua. Ngày
05/5/2014 bà Mua kháng cáo tồn bộ bản án sơ thẩm, u cầu Tịa án cấp phúc
thẩm xét xử lại toàn bộ vụ án. Tại phiên Tòa phúc thẩm bà Mua rút kháng cáo phần

quan hệ hơn nhân và ni con chung, Tịa án cấp phúc thẩm đã chấp nhận việc rút
một phần kháng cáo của bà Mua và đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần quan hệ
hôn nhân và nuôi con chung của bản án sơ thẩm, Quyết định của bản án sơ thẩm về
việc bà Mua được quyền nuôi con chung là em Cao Thị Hồng Thảo sinh ngày
25/7/1996, ông Minh phải cấp dưỡng nuôi con đối với em Thảo từ tháng 05/2014
cho đến khi em Thảo đủ 18 tuổi có hiệu lực pháp luật.
Vụ việc xảy ra vào năm 2014 nên Tòa án áp dụng Luật HNGĐ 2000 để xét
xử, theo khoản 11 Điều 8 Luật HNGĐ 2000 giải thích từ ngữ về cấp dưỡng: “Cấp
dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng
nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hơn nhân,
huyết thống hoặc ni dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên
nói chung, người đã thành niên mà khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản
để tự ni mình hoặc người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này”1.
Ngồi ra, có quan điểm cho rằng “quan hệ cấp dưỡng là một loại quan hệ pháp luật
về tài sản gắn liền với nhân thân vì nó liên quan đến những lợi ích về tài sản. Điều
đó thể hiện ở chỗ người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải chu cấp một số tiền hoặc tài
sản nhất định nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.

1

Luật HNGĐ 2014 thay thế Luật HNGĐ 2000 hết hiệu lực, giải thích từ ngữ về cấp dưỡng từ quy định tại
khoản 11 Điều 8 thành khoản 24 Điều 3, vị trí điều luật thay đổi nhưng nội dung vẫn giữ nguyên.


9
Người được cấp dưỡng cũng hướng tới và mong muốn có những tài sản, vật chất
nhất định để đáp ứng các nhu cầu đời sống thiết yếu khác của bản thân”2.
Như vậy theo giải thích trên, tiền hoặc tài sản khác mà người có nghĩa vụ cấp
dưỡng cho người được cấp dưỡng thì đó là tài sản của người được cấp dưỡng, phải
do người được cấp dưỡng quản lý, trừ trường hợp họ nhờ người khác quản lý thay

hay theo quy định của pháp luật phải do người khác quản lý3.
Trở lại bản án số 06/2014/HNGĐ-ST ngày 22/4/2016 của TAND huyện Đất
Đỏ cho thấy, ông Minh cấp dưỡng cho em Thảo 500.000 đồng/tháng số tiền này là
tài sản riêng của em Thảo mục đích để phục vụ nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống.
Thời điểm vào tháng 05/2014 em Thảo được cấp dưỡng chỉ còn vài tháng tuổi nữa
là bước qua tuổi 18, theo quy định của pháp luật lúc này em đã trên 15 tuổi cũng có
thể tự mình quản lý số tiền mà cha cấp dưỡng cho em. Bản án khơng thể hiện Tịa
án có hỏi ý kiến của em Thảo về việc em tự mình nhận tiền cấp dưỡng để quản lý
hay nhờ mẹ quản lý thay, điều này cho thấy em Thảo không nhờ mẹ quản lý thay
mình. Căn cứ khoản 1 Điều 76 Luật HNGĐ Tòa án giao số tiền cấp dưỡng của Thảo
cho mẹ em quản lý là không phù hợp.
Pháp luật quy định con từ đủ 15 tuổi trở lên tự mình quản lý tài sản là phù
hợp, điều này tạo điều kiện cho các em phát huy sự sáng tạo trong cuộc sống, phát
triển trí não; giúp cho các em có ý thức giữ gìn, biết quý trọng tài sản từ khi cịn nhỏ
thì khi con đủ tuổi trưởng thành sẽ khơng bỡ ngỡ, lo lắng khi tiếp nhận quản lý
những tài sản to lớn của chính mình và gia đình. Tuy nhiên khoảng cách địa lý các
vùng miền, cách sinh hoạt tập quán địa phương khác nhau làm cho các em ở cùng
độ tuổi nhưng suy nghĩ, tính tốn khơng giống nhau nên cần quy định chi tiết con
chưa thành niên được quản lý tài sản riêng giá trị bao nhiêu là phù hợp với lứa tuổi,
khả năng của các em và đối với vùng miền khác nhau thì giá trị các em được quản
lý tài sản cũng khác nhau, nguyên nhân vì giá cả hàng hóa khu vực thành thị đắt
hơn ở nông thôn. Đối với tài sản là động sản phục vụ nhu cầu sinh hoạt, giải trí
hàng ngày như: xe đạp, xe đạp điện, máy chụp ảnh, điện thoại di động, máy tính,
trang sức… con chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi tự mình quản lý;
đối với tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu cha mẹ quản lý
2

Trường Đại học luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam, Nhà xuất bản Công
an nhân dân, tr. 213.
3

Trường hợp con dưới 15 tuổi, con bị mất năng lực hành vi dân sự có tài sản riêng cha mẹ là người quản lý
quy định tại khoản 2 Điều 76 Luật HNGĐ 2014.


10
cho con đến khi đủ 18 tuổi. Tài sản riêng mà con có được từ lao động thì con được
tự mình quản lý khơng giới hạn giá trị vì khi con từ 15 tuổi trở lên tự mình làm ra
của cải, vật chất mặc dù con chưa trưởng thành nhưng có đầu óc tư duy, tính tốn
như người lớn, đủ khả năng tạo ra tài sản thì sẽ đủ khả năng quản lý tài sản của
mình và việc con tự quản lý tài sản mình làm ra sẽ giúp con thuận lợi trong việc lao
động, kinh doanh hơn là để cha mẹ quản lý thay con.
Kiến nghị:
Nghị định 126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật HNGĐ (Nghị định 126) cần sửa đổi, bổ sung hướng dẫn thi hành khoản 1
Điều 76 Luật HNGĐ theo hướng sau: “Con từ đủ 15 tuổi trở lên tự mình quản lý tài
sản riêng hoặc nhờ cha mẹ, cá nhân, cơ quan, tổ chức quản lý. Đối với khu vực miền
núi, hải đảo tài sản là động sản con được quản lý đến 20 triệu đồng, khu vực thành
thị đến 40 triệu đồng, tài sản trên 40 triệu đồng và tài sản là bất động sản cha mẹ
quản lý; tài sản riêng con có được từ kinh doanh, lao động con tự mình quản lý”.
1.1.2. Theo quy định của pháp luật
1.1.2.1. Cha mẹ thực hiện quyền và nghĩa vụ quản lý tài sản của con chưa
thành niên dưới 15 tuổi
Khoản 2 Điều 76 Luật HNGĐ quy định “Tài sản riêng của con dưới 15
tuổi… do cha mẹ quản lý. Cha mẹ có thể ủy quyền cho người khác quản lý tài sản
riêng của con”.
Theo điều luật trên, tài sản riêng của con dưới 15 tuổi do cha mẹ quản lý.
Quy định này phù hợp với khoản 1 Điều 136 Bộ luật dân sự (BLDS) “cha mẹ là đại
diện theo pháp luật của con chưa thành niên” và khoản 2 Điều 139 BLDS “Người
đại diện có quyền xác lập, thực hiện hành vi cần thiết để đạt được mục đích của việc
đại diện”. Trong trường hợp này, thực hiện hành vi cần thiết có nghĩa là hành vi

quản lý tài sản của cha mẹ đối với tài sản của con.
Pháp luật trao cho cha mẹ quyền quản lý tài sản riêng của con dưới 15 tuổi,
vì trong giai đoạn này con chưa phát triển đầy đủ về mặt thể chất cũng như tinh thần
để có thể tự mình quản lý tài sản sao cho hợp lý và chính xác, con khơng có khả
năng quản lý hoặc quản lý khơng tốt sẽ dẫn đến thất thoát, mất mát tài sản. Điều này
gây thiệt hại cho con và có thể dẫn đến các tranh chấp, xung đột xã hội nên cần phải
có cha mẹ tham gia vào việc quản lý để giữ gìn và phát huy tối đa giá trị tài sản của


11
con. Nếu cha mẹ không thể thực hiện công việc quản lý tài sản thay con pháp luật
cho phép cha mẹ có quyền lựa chọn khác, đó là ủy quyền cho người khác quản lý tài
sản riêng của con.
Về góc độ thực tế, pháp luật quy định cha mẹ quản lý tài sản của con dưới 15
tuổi vì tinh thần và thể chất của con dưới 15 tuổi không đủ để tự quản lý tài sản
riêng của mình, mục đích cha mẹ quản lý thay là để gìn giữ tài sản cho con được
nguyên vẹn.
Thực tiễn xét xử của Tòa án tại Quyết định số 91/2016/QĐST-HNGĐ ngày
26/9/2016 của TAND huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên thể hiện vấn đề này. Chị Đào
Thị Thuận và anh Huỳnh Mẫn thuận tình ly hôn, thỏa thuận về con chung và phân
chia tài sản chung, chị Thuận được quyền quản lý, sử dụng diện tích đất 139,8m2,
anh Mẫn cũng được quyền quản lý, sử dụng diện tích đất kế bên đất của chị Thuận
diện tích 139,8m2. Ngơi nhà cấp 4 gắn trên đất của chị Thuận, anh chị thỏa thuận
giao lại cho con là Huỳnh Khôi Vỹ sinh năm 2003 được quyền quản lý, sử dụng và
sở hữu (ngôi nhà được gắn trên diện tích đất của chị Thuận), do chị Thuận giám hộ4
cho đến khi Vỹ đủ 18 tuổi.
Vụ việc trên cho thấy, thời điểm Vỹ được cha mẹ tặng cho tài sản chỉ mới 13
tuổi nên Tòa án căn cứ vào khoản 2 Điều 76 Luật HNGĐ công nhận thỏa thuận của
chị Thuận và anh Mẫn là giao cho chị Thuận quản lý tài sản riêng của con. Sự thỏa
thuận này được TAND huyện Tuy Hòa chấp thuận.

Tuy nhiên, trong thực tế không phải cha mẹ nào cũng ở bên cạnh con để
quản lý tài sản cho con, vì cuộc sống điều kiện kinh tế khó khăn cha mẹ phải đi làm
ăn xa hay vì lý do nào đó cha mẹ khơng nuôi dưỡng con nên việc quản lý tài sản của
con không thể thực hiện được. Dự liệu được trường hợp này có thể sẽ xảy ra nên
pháp luật đã quy định: “Cha mẹ có thể ủy quyền cho người khác quản lý tài sản
riêng của con”. Quy định này rất phù hợp với thực tế trong cuộc sống tại Việt Nam
đặc biệt là tình trạng di cư để mưu sinh, thế nhưng quy định này bộc lộ hạn chế khi
chỉ cho phép cha mẹ ủy quyền cho người khác quản lý tài sản riêng của con mà
không quy định cha mẹ được quyền ủy quyền cho cơ quan, tổ chức khác quản lý
thay. Trên thực tế xảy ra trường hợp ngoại lệ, cha mẹ không ủy quyền cho người
4

Xem thêm Quyết định số 91/2016/QĐST-HNGĐ ngày 26/9/2016 của Tòa án nhân dân (TAND) huyện Tuy
Hòa, tỉnh Phú Yên. Tác giả cho rằng TAND huyện Tuy Hịa cơng nhận cho chị Thuận giám hộ cho con là
khơng chính xác vì khoản 1 Điều 141 BLDS 2005 quy định “cha mẹ là người đại diện theo pháp luật đối với
con chưa thành niên”, vậy chị Thuận phải là người đại diện cho con chứ không phải giám hộ.


12
khác hoặc cơ quan, tổ chức khác quản lý tài sản riêng của con nhưng tài sản riêng
của con vẫn do cơ quan, tổ chức quản lý, đó là trường hợp bé Nhân Ái được đăng
trên báo Dân Trí với tiêu đề “Câu chuyện từ vị sứ thần 10 tháng tuổi”5 là một ví dụ.
Bé sinh ngày 06/11/2014, bố bé là Nguyễn Đức T. và mẹ là Vũ Thị D. quê ở
Hưng Yên, sau khi sinh con ít ngày đã đưa con đến bệnh viện Nhi Đồng 2 Thành
phố Hồ Chí Minh chữa bệnh, khoảng một tháng sau cha mẹ đã bỏ bé lại bệnh viện
lúc bé đang trong cơn nguy kịch và không xuất hiện nữa. Các bác sĩ tại đây đã chăm
sóc, chữa bệnh và đặt tên cho bé là Nhân Ái. Báo Dân Trí đã đăng tin về bé, bạn
đọc ủng hộ số tiền gửi đến bé Nhân Ái 2 tỷ đồng. Ngày 06/9/2010 bé Nhân Ái chết,
số tiền bạn đọc tặng bé được dùng cho Quỹ bé Nhân Ái để cứu giúp những trẻ khác
được hai cơ quan quản lý, Bệnh viện Nhi Đồng 2 sẽ chịu trách nhiệm quản lý số

tiền các mạnh thường quân đóng góp tại bệnh viện, Báo điện tử Dân Trí sẽ chịu
trách nhiệm quản lý số tiền do bạn đọc đóng góp tại báo. Sau đó báo Dân Trí đã tìm
được cha mẹ bé Nhân Ái, họ khơng có ý kiến gì với số tiền mà mạnh thường quân
trao tặng bé.
Theo quy định của pháp luật, số tiền mà các mạnh thường quân trao tặng bé
Nhân Ái là tài sản riêng của em, căn cứ vào khoản 2 Điều 76 Luật HNGĐ tài sản
riêng của em phải do cha mẹ em quản lý. Vì cha mẹ đã bỏ bé lại bệnh viện nên
khơng biết con mình có tài sản do đó khơng ủy quyền cho cá nhân hay cơ quan, tổ
chức quản lý thay, thế nhưng vì đảm bảo lợi ích cho bé Nhân Ái, Ban biên tập Báo
Dân Trí đã đại diện cha mẹ của em để tiếp nhận và quản lý tài sản của em. Về mặt
pháp lý, cha mẹ em vẫn có quyền yêu cầu cá nhân, tổ chức đang quản lý số tiền mà
mạnh thường quân đã ủng hộ con mình giao lại cho mình quản lý. Mặc dù cha mẹ
đã bỏ rơi em tại bệnh viện, nhưng khi nào Tòa án chưa ra quyết định hạn chế quyền
của cha mẹ đối với việc quản lý tài sản của con thì họ vẫn có quyền u cầu được
quản lý tài sản của con mình. Sự việc trên xét về lý, cá nhân, tổ chức đang quản lý
tài sản của em có thể khơng đúng nhưng xét về tình thì rất phù hợp vì mục đích của
Báo Dân Trí là quản lý tài sản của em để giữ gìn, giúp em chữa bệnh. Từ sự việc
trên, làm phát sinh quan hệ dân sự và quan hệ này chưa được quy định trong Luật
HNGĐ. Bởi lẽ, khoản 2 Điều 76 chỉ quy định cha mẹ có thể ủy quyền cho người
khác quản lý tài sản riêng của con.
5

Theo Báo Dân Trí, “Câu chuyện vị sứ thần mười tháng tuổi”, truy cập ngày 03/02/2017.


13
Kiến nghị:
Từ phân tích trên, tác giả đưa ra kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật
các vấn đề sau:
Thứ nhất: Nghị định 126 cần quy định chi tiết hướng dẫn khoản 2 Điều 76

Luật HNGĐ theo hướng “cha mẹ có thể ủy quyền cho người khác hoặc cơ quan, tổ
chức quản lý tài sản riêng của con. Tài sản riêng của con do cha mẹ hoặc người
khác hoặc cơ quan, tổ chức quản lý giao lại cho con khi con từ đủ 15 tuổi trở lên
hoặc khi con khôi phục năng lực hành vi dân sự đầy đủ”.
Thứ hai: Nghị định 126 cần quy định bổ sung hướng dẫn “trường hợp cha mẹ
bỏ rơi con, tài sản riêng của con sẽ do cá nhân, cơ quan, tổ chức đang trực tiếp nuôi
dưỡng quản lý”.
1.1.2.2. Cha mẹ thực hiện quyền và nghĩa vụ quản lý tài sản của con mất
năng lực hành vi dân sự, con có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi
Khoản 1 Điều 22 BLDS quy định người mất năng lực hành vi dân sự là
người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được
hành vi của mình. Cha mẹ có con mất năng lực hành vi dân sự mà con có tài sản thì
tùy thuộc vào từng độ tuổi của con vai trò quản lý của cha mẹ sẽ khác nhau, cụ thể:
- Con dưới 15 tuổi mất năng lực hành vi dân sự có tài sản riêng, cha mẹ sẽ
quản lý tài sản của con dưới hình thức đại diện đương nhiên cho con giống như con
có năng lực hành vi dân sự, khơng cần có quyết định Tịa án tun bố con mất năng
lực hành vi dân sự.
- Con từ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi pháp luật quy định con có thể tự mình
quản lý tài sản riêng, đó là con có năng lực hành vi dân sự, đối với con bị mất năng
lực hành vi dân sự lẽ dĩ nhiên không có khả năng tự mình quản lý tài sản của chính
mình do đó cha mẹ quản lý thay thơng qua hình thức đại diện, điều kiện là phải có
quyết định của Tòa án tuyên bố con là người mất năng lực hành vi dân sự.
- Đối với con từ đủ 18 tuổi trở lên mất năng lực hành vi dân sự cha mẹ muốn
hợp pháp quản lý tài sản của con phải có quyết định của Tịa án tun bố con mất
năng lực hành vi dân sự và chỉ định cha mẹ là người giám hộ, thực hiện nhiệm vụ
quản lý tài sản của con. Tòa án sẽ giải quyết yêu cầu của cha mẹ dựa trên cơ sở con
thành niên chưa có vợ, chồng, con hoặc đã có vợ, chồng, con mà vợ, chồng, con
không đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ đương nhiên



14
cho con, đồng nghĩa với việc cha mẹ giám hộ luôn tài sản của con, bởi lẽ khoản 1
Điều 59 BLDS quy định: “Người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự
có trách nhiệm quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình”.
Pháp luật trao quyền quản lý tài sản của con cho cha mẹ quản lý, tuy nhiên cũng xác
định đây là “trách nhiệm” mà cha mẹ phải thực hiện và phải xem như là tài sản của
chính mình, mục đích quy định này nhằm để ràng buộc cha mẹ quản lý tốt nhất tài
sản cho con, tránh thất thoát và quản lý khơng hiệu quả và vì ngun nhân khác nữa
là quyền quản lý tài sản của con thành niên mất năng lực hành vi dân sự đi kèm với
nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng.
Thực tiễn quyền của cha mẹ trong việc quản lý tài sản của con bị mất năng lực
hành vi dân sự được Tòa án xét xử như sau: Tại Quyết định số 97/2016/QĐSTHNGĐ ngày 08/11/2016 của TAND huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, quyết định cơng
nhận thuận tình ly hơn và sự thỏa thuận của các đương sự. Nội dung vụ việc, ông
Phan Văn Phước và bà Huỳnh Thị Ái Diễm thỏa thuận về vấn đề ly hơn, con chung
và tài sản chung. Tịa án đã cơng nhận sự thuận tình ly hơn và thỏa thuận về con
chung, ơng Phước có nghĩa vụ trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng và giáo dục con
chung là Phan Ra Đô sinh năm 1989 (bị bệnh tâm thần), bà Diễm có nghĩa vụ trơng
nom, chăm sóc và giáo dục con chung Phan Thị Hịa Bình sinh năm 2010, khơng ai
có nghĩa vụ cấp dưỡng ni con với ai; các con chung Phan Rô Đa và Phan Rô Cơ đã
thành niên và có thể tự lao động ni sống bản thân nên Tịa án khơng xét. Về tài sản
chung: Bà Diễm và các con chung Phan Ra Đô, Phan Rô Đa, Phan Rơ Cơ và Phan
Thị Hịa Bình được quyền sử dụng diện tích đất ở 250m2 do Ủy ban nhân dân huyện
Phú Hịa cấp cho ơng Phan Văn Phước và bà Huỳnh Thị Ái Diễm. Ơng Phước có
nghĩa vụ giám hộ quyền sử dụng đất cho con chung Phan Ra Đơ, bà Diễm có nghĩa
vụ giám hộ6 quyền sử dụng đất cho con chung Phan Thị Hịa Bình đến khi cháu Bình
đủ 18 tuổi. Tại thời điểm năm 2016, Phan Ra Đô được 27 tuổi là đã thành niên, chưa
có vợ (hoặc chồng), con nhưng bị bệnh tâm thần dẫn đến mất năng lực hành vi dân sự
có tài sản riêng, tài sản đó sẽ do cha mẹ quản lý thơng qua hình thức giám hộ.
Năm 2015, Quốc hội thơng qua BLDS mới quy định về người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi. Khoản 1 Điều 23 BLDS quy định: “Người thành

niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ
6

Tác giả cho rằng TAND huyện Tuy Hòa công nhận cho chị Huỳnh Thị Ái Diễm giám hộ cho con là Phan
Thị Hịa Bình 6 tuổi là chưa đúng, vì khoản 1 Điều 141 BLDS 2005 quy định “cha mẹ là người đại diện theo
pháp luật đối với con chưa thành niên”, vậy chị Thuận phải là người đại diện cho con không phải giám hộ.


15
hành vi nhưng chưa đến mất năng lực hành vi dân sự thì theo u cầu của người
này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ
sở giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có
khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định
quyền, nghĩa vụ của người giám hộ”. Người bị tuyên bố có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi là “người thành niên”, lý giải cho điều này có lẽ nếu là người
chưa thành niên thì sẽ được xác định người đại diện theo pháp luật như trường hợp
người chưa thành niên chứ khơng cần tun bố nữa7. Họ cần có người hỗ trợ trong
việc gìn giữ tài sản hay xác lập giao dịch dân sự liên quan đến tài sản nhằm phục vụ
nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, nhu cầu lợi ích của những người có liên quan khác do
đó quy định người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi ra đời nhằm kịp
thời điều chỉnh các mối quan hệ dân sự trong tình hình hiện tại và tương lai.
Quy định trên làm phát sinh thêm mối quan hệ pháp luật dân sự mới đối với
lĩnh vực hơn nhân gia đình đó là, tài sản riêng của con có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi ai sẽ là người quản lý? Vì là chủ thể mới xuất hiện vào năm 2015
nên Luật HNGĐ 2014 không quy định chủ thể này.
Trong gia đình, cha mẹ có con đã thành niên mà có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi không nhất thiết cha mẹ là người quản lý tài sản của con vì
muốn được quản lý tài sản của con bắt buộc cha mẹ phải là người giám hộ cho con,
tùy từng trường hợp Tòa án xem xét, chỉ định người giám hộ. Tòa án xem xét dựa
trên cơ sở người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi khơng có vợ hoặc

chồng, con hoặc có nhưng vợ hoặc chồng, con khơng đủ năng lực hành vi dân sự
mà cha mẹ đủ năng lực hành vi dân sự Tòa án sẽ giao cho cha mẹ giám hộ. Trường
hợp con đã có vợ hoặc chồng nhưng vì vợ, chồng khơng sống chung, khơng quan
tâm chăm sóc, có hành vi bạo lực, ngược đãi con mình nên cha mẹ muốn làm người
giám hộ cho con thì tại thời điểm u cầu tun bố con có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi mà con có năng lực thể hiện ý chí của mình chọn cha mẹ là
người giám hộ, Tòa án sẽ chỉ định cha mẹ là người giám hộ. Từ đây phát sinh quyền
quản lý của cha mẹ đối với tài sản riêng của con nhưng cha mẹ chỉ được quản lý
trong phạm vi Tòa án xác định (khoản 2 Điều 59 BLDS 2015).

7

Nguyễn Ngọc Hồng Phượng (2016), Những điểm mới của quy định về năng lực hành vi dân sự và giám hộ
của cá nhân trong BLDS năm 2015, tr.13.


16
Hơn nữa, quy định “Con từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tự mình quản lý tài sản
riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý” bao gồm con là người chưa thành niên và đã thành
niên. Trong khi đó, trường hợp con 17 tuổi bất ngờ xảy ra yếu tố tâm lý như cha mẹ
ly hôn, học hành căng thẳng, kinh doanh thất bại, thi cử làm cho tinh thần rối loạn
dẫn đến có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Trước khi rơi vào tình trạng
này con có tài sản riêng đang nhờ người khác quản lý, tài sản có thể là vật chất hay
tiền vốn và lợi nhuận đang kinh doanh thì cha mẹ có thể u cầu Tịa án tun bố
con của mình bị khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi để tranh chấp quyền
quản lý tài sản của con với người đang quản lý tài sản không? Với quy định của
Điều 23 BLDS Tịa án khơng thể đáp ứng u cầu của cha mẹ.
Kiến nghị:
Thứ nhất, chủ thể người có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi mới
được quy định nên Luật HNGĐ 2014 chưa bổ sung kịp thời, do đó Luật HNGĐ cần

bổ sung thêm quy định quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con có khó khăn trong
nhận thức làm chủ hành vi để tương thích với BLDS.
Thứ hai, tại khoản 1 Điều 23 BLDS sửa đổi cụm từ “người thành niên” thành
“người từ đủ 15 tuổi trở lên” cho phù hợp với thực tiễn, giúp cơ quan Tòa án dễ dàng
áp dụng pháp luật khi nhận được yêu cầu tuyên bố người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi, để cha mẹ của các em từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi được quản lý tài sản của con vì suy cho cùng
con cịn nhỏ hay đã trưởng thành mà bị khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì
đa số trong suy nghĩ của cha mẹ vẫn phải chịu trách nhiệm ni dưỡng, chăm sóc con
và nếu con có tài sản thì cha mẹ cũng mong muốn được quản lý, giữ gìn cho con.
1.2. Chấm dứt quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với việc quản lý tài sản
của con
Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với việc quản lý tài sản của con chấm dứt
khi con tự mình quản lý tài sản riêng, con đủ 15 tuổi trở lên, con khôi phục năng lực
hành vi dân sự đầy đủ hoặc trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
1.2.1. Quyền của cha mẹ đối với việc quản lý tài sản của con chấm dứt khi con
từ đủ 15 tuổi trở lên tự mình quản lý tài sản riêng và khi con khôi phục hành vi dân sự
Khoản 2 Điều 76 Luật HNGĐ quy định “…Tài sản riêng của con do cha mẹ
hoặc người khác quản lý được giao lại cho con khi con từ đủ 15 tuổi trở lên hoặc


17
khi con khôi phục hành vi dân sự, trừ trường hợp cha mẹ và con có thoả thuận
khác”. Vậy, nếu khơng có thỏa thuận con nhờ cha mẹ quản lý tài sản riêng, quyền
và nghĩa vụ của cha mẹ quản lý tài sản của con sẽ chấm dứt khi con đủ 15 tuổi trở
lên, con khôi phục năng lực hành vi dân sự quy định này rất rõ ràng và hợp lý. Sở dĩ
khoản 2 Điều 76 quy định tài sản riêng của con do cha mẹ quản lý giao lại cho con
khi đủ 15 tuổi trở lên vì khoản 1 Điều 76 đã cho phép con từ 15 tuổi trở lên tự mình
quản lý tài sản.
Con bị mất năng lực hành vi dân sự mà khôi phục năng lực hành vi dân sự

muốn quản lý tài sản riêng của chính mình phải đáp ứng điều kiện, con khơi phục
năng lực hành vi từ 15 tuổi trở lên.
Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 76 Luật HNGĐ không phải trong mọi trường
hợp con từ 15 tuổi trở lên đều được tự mình quản lý tài sản mà bị giới hạn bởi
trường hợp “có thể”.
Ví dụ: Ơng A và bà B kết hơn, có con là C 10 tuổi. C được ơng bà nội cho tài
sản 100.000.000 đồng, do C còn nhỏ nên giao cho cha mẹ C quản lý. Năm C 13 tuổi
cha mẹ ly hôn C ở với mẹ, số tiền 100.000.000 đồng mẹ quản lý. Năm C 17 tuổi mẹ
lấy chồng khác ít quan tâm đến con và hay chơi số đề. C muốn mua một chiếc điện
thoại Iphone trị giá 20.000.000 đồng, số tiền cịn lại tự mình cất giữ, bà B khơng
đồng ý. Ơng A đại diện cho con khởi kiện tại Tòa án yêu cầu bà B phải giao tài sản
của con để con tự quản lý. Tại tòa án, bà B cho rằng C chưa thành niên, đang đi học
và chơi với các bạn có biểu hiện quậy phá, ở tuổi mới lớn dễ bị chi phối bởi bạn bè
xấu, nếu giao tiền cho C quản lý lo lắng con sẽ tiêu xài hoang phí. C chỉ nên mua
điện thoại phù hợp với lứa tuổi, số tiền còn lại để dành cho việc học tập.
Trong tình huống này lý do hai bên đưa ra đều chính đáng và việc xử lý có
nhiều ý kiến khác nhau.
Kiến nghị:
Từ phân tích trên, tác giả kiến nghị Nghị định 126 hướng dẫn thi hành khoản
1 Điều 76 Luật HNGĐ cần hướng dẫn bổ sung quy định khoản 1 Điều 76 theo
hướng cho phép con từ đủ 15 tuổi trở lên được tự mình quản lý tài sản riêng. Điều
này giúp cho quy định của pháp luật được dứt khoát, rõ ràng hơn.
1.2.2. Quyền của cha mẹ đối với việc quản lý tài sản của con chấm dứt trong
trường hợp khác theo quy định của pháp luật


18
Khoản 4 Điều 76 Luật HNGĐ quy định: “Trong trường hợp cha mẹ đang
quản lý tài sản riêng của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành
vi dân sự mà con được giao cho người khác giám hộ thì tài sản riêng của con được

giao lại cho người giám hộ quản lý theo quy định của BLDS”.
Vậy, không phải trong mọi trường hợp con chưa thành niên, con đã thành
niên mất năng lực hành vi dân sự có tài sản riêng cha mẹ ln là người quản lý tài
sản cho con. Trường hợp con chưa thành niên có cha mẹ đủ năng lực hành vi dân sự
nhưng cha mẹ có những hành vi vi phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 85 Luật
HNGĐ như: bị kết án tù; phá tán tài sản của con; có lối sống đồi trụy; xúi giục, ép
buộc con làm điều trái pháp luật, trái đạo đức xã hội… sẽ bị hạn chế quyền đối với
con. Hậu quả cha mẹ sẽ bị Tịa án ra quyết định khơng cho thực hiện một số quyền
đối với con, trong đó có quyền quản lý tài sản của con trong thời hạn từ 01 năm đến
05 năm và giao cho người giám hộ hực hiện.
Thực chất đây là biện pháp chế tài có thời hạn của Luật hơn nhân và gia đình
đối với hành vi vi phạm pháp luật của cha mẹ làm xâm hại đến lợi ích của con, dẫn
đến quyền quản lý tài sản của con của cha mẹ chấm dứt tạm thời trong vòng 01 đến
05 năm. Nếu trong thời gian này cha mẹ khắc phục hậu quả, sữa chữa lỗi lầm, ăn
năn hối cãi, chăm sóc cho con tốt hơn, chấp hành xong án phạt tù thì có thể Tịa án
sẽ xem xét rút ngắn thời hạn này. Nếu cha vi phạm thì Tịa án chỉ hạn chế quyền của
người cha nhưng quyền quản lý tài sản riêng của con của người mẹ vẫn còn và
ngược lại. Khi thời hạn hạn chế quyền của cha mẹ theo bản án tòa tun đã hết thì
cha mẹ đương nhiên được khơi phục quyền quản lý tài sản của con.
Quyền quản lý tài sản của cha mẹ đối với con cũng chấm dứt trong trường
hợp khi con là chủ sở hữu tài sản chết, vì tài sản sẽ được giao lại cho người được
thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật quản lý. Ngồi ra, khi con khơng cịn là
chủ sở hữu tài sản, quyền và nghĩa vụ quản lý tài sản của cha mẹ cũng khơng cịn.


19
Kết luận Chương 1
Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ trong việc quản lý tài sản của con đối với tài
sản của con là trẻ em nói riêng và con là người chưa thành niên, con bị mất năng lực
hành vi dân sự hay có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi nói chung được

pháp luật ưu tiên bảo vệ. Do đó, Luật HNGĐ và BLDS đã quy định cụ thể quyền và
nghĩa vụ của cha mẹ quản lý tài sản riêng của con.
Qua nghiên cứu chương 1, tác giả rút ra một số kết luận sau:
Một là, quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ trong việc
quản lý tài sản của con và thực tế áp dụng của cơ quan Tòa án cũng như đời sống xã
hội còn nhiều điểm bất cập, chưa phù hợp làm cho quy định của pháp luật khơng
mang tính khả thi, nếu tranh chấp xảy ra thiếu quy định để áp dụng.
Hai là, BLDS 2015 thay thế BLDS 2005 vừa có hiệu lực thi hành ngày
01/01/2017 quy định thêm người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, do
đó xu hướng phát triển sau này cần sửa đổi Luật HNGĐ theo hướng bổ sung thêm
quy định quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi để tương thích với BLDS.


20
CHƯƠNG 2
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHA MẸ
ĐỐI VỚI VIỆC ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN CỦA CON
Trong quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con cũng giống như các quan hệ
pháp luật dân sự khác nhưng chủ thể cha mẹ và con là chủ thể đặc biệt vì gắn liền
với tình cảm u thương, trách nhiệm đảm bảo lợi ích tốt nhất cho con. Bởi thế, cha
mẹ được pháp luật trao quyền quản lý tài sản riêng của con chưa đáp ứng được nhu
cầu của cha mẹ bảo vệ tài sản của con, do đó pháp luật quy định thêm quyền và
nghĩa vụ của cha mẹ định đoạt tài sản riêng của con nhằm một mục đích duy nhất
muốn hướng tới đó là giúp con có được ngồi tình u thương của cha mẹ thì con
cịn có cuộc sống vật chất đầy đủ, đảm bảo cho sự phát triển của con. Thời hạn,
phạm vi cha mẹ thực hiện quyền và nghĩa vụ định đoạt tài sản của con phụ thuộc
vào độ tuổi, loại tài sản và mục đích định đoạt tài sản.
2.1. Phạm vi định đoạt của cha mẹ đối với tài sản của con
2.1.1. Đối với tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc

không dùng để kinh doanh
Pháp luật quy định cha mẹ được quyền quản lý tài sản riêng của con đồng
thời trao cả quyền định đoạt tài sản. Hai quyền này không thể tách rời nhau, ngược
lại, còn bổ sung cho nhau giúp cha mẹ thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với tài sản
của con một cách đầy đủ. “Khi con dưới 15 tuổi có tài sản riêng do cha, mẹ quản
lý thì cha mẹ được quyền định đoạt tài sản đó. Hai quyền quản lý và định đoạt của
cha, mẹ với khối tài sản của con thực chất xét cho cùng gắn liền với nhau để thỏa
mãn một mục đích cuối cùng là bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của
con”8. Quy định này là cần thiết, vì cha mẹ ni con từ lúc sinh ra cho đến khi con
đủ 15 tuổi là cả một quá trình dài, trong thời gian này để đảm bảo nhu cầu ăn,
mặc, khám chữa bệnh, học tập, vui chơi, giải trí của con phải tốn nhiều chi phí.
Khoản 1 Điều 77 Luật HNGĐ đã quy định: “Trường hợp cha mẹ hoặc người giám
hộ quản lý tài sản riêng của con dưới 15 tuổi thì có quyền định đoạt tài sản đó vì
lợi ích của con, nếu con từ đủ 9 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của
con”. Vậy, con dưới 15 tuổi có tài sản riêng khơng phân biệt tài sản là động sản
8

Tập bài giảng Luật HNGĐ Trường Đại học luật TPHCM 2008-2009, tr.136-137.


×