Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.76 KB, 56 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỚC

MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TỪ
THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

NGUYỄN THỊ HỒNG PHƯỚC

MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TỪ
THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ TƯỜNG VY

Hà Nội, năm 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết quả nêu trong
Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Hồng Phước


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM...............................................................12

1.1. Khái niệm, đặc điểm miễn trách nhiệm hình sự...........................................................12
1.2. Nguyên tắc, ý nghĩa, tác dụng của phân loại miễn trách nhiệm hình sự.......................20
1.3. Phân biệt miễn TNHS và miễn hình phạt.....................................................................21
1.4. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy phạm về miễn trách nhiệm hình sự
trong pháp luật hình sự Việt Nam........................................................................................24

1.5. Quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về miễn trách nhiệm hình sự 33
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ MIỄN
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG
NAI...........................................................................................................................................38

2.1. Quy định của Bộ luật hình sự 2015 về miễn trách nhiệm hình sự...............................38
2.2. Thực tiễn áp dụng miễn trách nhiệm hình sự trên địa bàn tỉnh Đồng Nai...................49

Chương 3: HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ NHẰM BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI.................64

3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
về chế định miễn trách nhiệm hình sự.................................................................................64

3.2. Một số kiến nghị đối với quy định về miễn trách nhiệm hình sự cần được hướng dẫn để tạo
điều kiện thuận lợi trong thực tiễn áp dụng.........................................................................66

3.3. Những giải pháp khác nhằm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình
về miễn trách nhiệm hình sự trên địa bàn tỉnh Đồng Nai....................................................68
KẾT LUẬN.............................................................................................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................73


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

:

Bộ luật Hình sự BTP :

Bộ Tư pháp
TNHS

TAND

:


Trách nhiệm hình sự TA

:

Tịa án

:

Tịa án nhân dân TTHS

:

Tố tụng hình sự XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa VKS

:

Viện kiểm sát CQĐT :

Cơ quan điều tra

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Miễn trách nhiệm hình sự giai đoạn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ 2015-2020 51
Bảng 2: Bảng so sánh tỷ lệ miễn tnhs/ hình phạt................................................................52
của TAND Đồng Nai và TAND cả nước.............................................................................52
Bảng 3: Miễn trách nhiệm hình sự giai đoạn điều tra, truy tố trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ
2015-2020.........................................................................................................................52



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Mahatma Gandhi – vĩ nhân lớn của đất nước Ấn Độ đã từng nói “Cơng lý mà tình u
mang lại là sự đầu hàng, công lý mà luật pháp mang lại là sự trừng phạt. Justice that love gives
is a surrender, justice that law gives is a punishment”.
Đúng vậy, khi pháp luật ẩn chứa đằng sau sự trừng trị là tính nhân đạo nhân văn, việc áp
dụng pháp luật nhằm giúp cho người phạm tội sửa chữa những lỗi lầm, phát huy phần NGƯỜI
trong bản chất con người của mình.
Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49/NQ-TW về Chiến lược Cải cách
tư pháp đến năm 2020; trong đó, xác định nhiệm vụ “coi trọng việc hồn thiện chính sách hình
sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phịng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý
người phạm tội”[16, Tr4].
Miễn trách nhiệm hình sự (TNHS) là một trong những chế định quan trọng của Luật Hình
sự Việt Nam thể hiện rõ nét nhiệm vụ nêu trên. Đây là biện pháp mang tính chất khoan hồng,
nhân đạo của Nhà nước ta, thông qua việc các cơ quan tiến hành tố tụng quyết định xoá bỏ hậu
quả pháp lý cho người thực hiện hành vi phạm tội mà hành vi đó đã đủ yếu tố cấu thành tội
phạm. Quy định này tạo điều kiện cho người phạm tội có mơi trường để tự cải tạo, giáo dục,
nhanh chóng trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội mà không phải gánh chịu các hậu quả
pháp lý bất lợi của TNHS.
Chế định miễn TNHS trong BLHS năm 2015 được xây dựng dựa trên tinh thần kế thừa
những quy định của BLHS 1985 và BLHS năm 1999 với nhiều nội dung mới quán triệt tinh thần
của Hiến pháp 2013, đề cao tính tích cực, hướng thiện của con người. Tuy nhiên, trong thực tiễn
áp dụng pháp luật, do một số nội dung miễn TNHS vẫn còn bất cập nên dẫn đến việc các cơ quan
tiến hành tố tụng nhận thức không đúng, áp dụng pháp luật không thống nhất, chẳng hạn: tình tiết
do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội khơng cịn nguy hiểm cho xã hội nữa khơng rõ
ràng, tiêu chí xác định bệnh hiểm nghèo chưa cụ thể, cho phép miễn TNHS mang tính tùy nghi
dẫn đến việc áp dụng tùy tiện... Vì vậy, cần có sự quan tâm nghiên cứu quy định về miễn TNHS

tại Điều 29 BLHS năm 2015 một cách thấu đáo trên cơ sở phát hiện các vướng mắc, bất cập từ
thực tiễn áp dụng pháp luật để đề xuất những giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế định
này.
Đồng Nai là một tỉnh nằm ở cửa ngõ phía đơng Thành phố Hồ Chí Minh và là một tỉnh
nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam. Với nền kinh tế phát triển năng động,
Đồng Nai cũng đang đứng trước những thách thức về tình hình phát triển tội phạm gia tăng, việc
đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm đang đè nặng lên vai trò của các cơ quan tư pháp trong
việc áp dụng pháp luật hình sự.

6


Từ những lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài “Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn
tỉnh Đồng Nai” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Miễn TNHS là chế định thể hiện rõ nét nhất chính sách phân hố TNHS và chính sách nhân
đạo của luật hình sự. Chính vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu luật học trong và ngoài nước rất quan
tâm đến đề tài này.

2.1. Tình hình nghiên cứu ngồi nước
Liên quan đến đề tài nghiên cứu, có các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi gồm một số cơng
trình nghiên cứu bằng tiếng Anh và tiếng Nga, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về cơng trình nghiên cứu bằng tiếng Anh:

- Michael Bogdan (chủ biên), Mục 4 - Miễn trách nhiệm hình sự, trong sách: Luật hình sự
Thụy Điển trong kỷ nguyên mới, Nxb. Elanders Gotab, Stockholm, 2000;

- TS. AgnêBaransKaitê và TS. Jonas Prapistis, Miễn trách nhiệm hình sự và mối quan hệ
với Hiến pháp và tư pháp, Tạp chí Tư pháp, Cộng hịa Látvia, số 7 (85)/2006;

- GabrielHallevy, The Matrix of Derivative Criminal Liability, Nxb.
Spinger, London, 2012;
- Iveta VitkutėZvezdinienė, Exemption from Criminal Liability: the Problems of the
Implementation of the Presumption of Innocence Principle, Social Studies Journal, Lithuania,số
04/2009;
Thứ hai, về cơng trình nghiên cứu bằng tiếng Nga:

- Iakovlev A. M, “Cuộc đấu tranh chống tình trạng tái phạm”, Maxcova, 1964;
- Bagri-Sakhamatov L.V, “Trách nhiệm hình sự và hình phạt”, NXb. Đại học, Minsk, 1976;
- TkatrevxkiIu. M, “Trách nhiệm hình sự và cơ sở của trách nhiệm hình sự”. Chương 2 –
Trong sách: Luật hình sự Xô Viết (Phần chung), Nxb.
ĐHTH Maxcova, 1981;

- Naumov A. V. “Trách nhiệm hình sự và cơ sở của trách nhiệm hình sự”. Chương 10 –
Trong sách: Giáo trình Luật hình sự (Phần chung), Nxb. XPARK, Maxcova, 1996,…
Những cơng trình nghiên cứu này đã tổng hợp những vấn đề lý luận về TNHS nói chung,
đây là những vấn đề được các nhà luật học trên thế giới thừa nhận về khái niệm, bản chất của
TNHS nói chung. Những vấn đề lý luận của TNHS được đề cập đến trong các cơng trình trên là
cơ sở quan trọng để tác giả tiếp cận dưới góc độ miễn TNHS của pháp luật Việt Nam.

2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Với tư cách là một chế định cơ bản của Luật Hình sự, miễn TNHS thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của đông đảo các học giả trong nước, được thể hiện qua các cơng trình nghiên cứu

7


như sau:

2.2.1. Nhóm các luận án, luận văn, Khóa luận

- Trịnh Tiến Việt, “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về miễn trách nhiệm hình sự theo luật
hình sự Việt Nam”, luận án tiến sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2008.
Trong cơng trình nghiên cứu tầm tiến sĩ này tác giả đã phân tích những vấn đề cơ bản miễn
TNHS và thực tiễn áp dụng chế định này theo quy định của BLHS năm 1999.

- Mai Khắc Phúc, Biện pháp miễn, giảm trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự 1999,
Luận văn thạc sĩ luật học, Trường đại học Luật TPHCM, năm 2006; trong luận văn tác giả đề cập
vấn đề lý luận, thực tiễn của các biện pháp miễn TNHS theo quy định của BLHS năm 1999.

- Mai Thị Thuỷ, Miễn, giảm trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội
trong Luật Hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐH Luật TPHCM, năm 2013.

- Đặng Ngọc Huy, Miễn trách nhiệm hình sự theo Luật Hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ
luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2015;

- Võ Chí Vương, Miễn, giảm trách nhiệm hình sự trong chấp hành án theo pháp luật Hình
sự Việt Nam. Lý luận và thực tiễn, Khoá luận tốt nghiệp, Trường đại học Luật TPHCM, năm
2002,

- Đỗ Thị Thư Nhàn, Biện pháp miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự Việt Nam
năm 1999 – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khoá luận tốt nghiệp, Trường đại học Luật
TPHCM, năm 2012;

- Trần Thị Thơ, Biện pháp miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự 1999. Những
vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp, Trường đại học Luật TPHCM, năm 2015.

- Nguyễn Ngọc Thương, Miễn trách nhiệm hình sự trong Luật Hình sự Việt Nam, Khố luận
tốt nghiệp, Trường Đại học Luật TPHCM, 1999.
Qua tiếp cận các công trình trong nước cho thấy rằng đề tài miễn TNHS được rất nhiều nhà
khoa học quan tâm. Đây cũng là nguồn tư liệu phong phú làm nền tảng cho tác giả nghiên cứu đề

tài của mình. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu trên, một mặt chỉ nghiên cứu những vấn đề
chung của miễn TNHS hoặc là đi vào các biện pháp miễn TNHS cụ thể.
Về thực tiễn, do hầu hết các cơng trình trên nghiên cứu trước năm 2015 nên chỉ dừng lại ở
việc nghiên cứu áp dụng các quy định của BLHS năm 1999. Điều đó cho thấy việc miễn TNHS
theo Điều 29 BLHS 2015 vẫn đang còn bỏ ngỏ, đặc biệt là một số trường hợp miễn TNHS mới
mà BLHS 2015 mới bổ sung. Đây là nhiệm vụ mà trong đề tài nghiên cứu này tác giả sẽ làm sáng
tỏ.

2.2.2. Nhóm các sách chun khảo, giáo trình
Chế định miễn TNHS được đề cập đến trong các sách chuyên khảo như:

- Chương XVIII Miễn trách nhiệm hình sự, trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam
8


(Phần chung). Tập thể tác giả do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, 2001;

- TSKH. Lê Cảm, “Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam” (Nhà
nước và pháp luật Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 2002)
;

- TS. Trịnh Tiến Việt, “Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự“(Nhà xuất bản
Tư pháp, năm 2010), Chương 3, Trong sách: Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2013 và Pháp luật hình sự Việt Nam về miễn trách nhiệm hình sự và thực tiên
áp dụng, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013;

- TS.Uông Chu Lưu, “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam 1999” – Tập 1. Phần
chung (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2001) đã đề cập đến vấn đề miễn TNHS và phân
tích các trường hợp miễn TNHS.

Vấn đề miễn TNHS là một nội dung lớn trong Luật Hình sự. Vì vậy, từ xưa đến nay, từ
Đơng sang Tây, các cơng trình nghiên cứu lý luận về vấn đề này rất phong phú- đây là nguồn tư
liệu quý giá làm cơ sở nền tảng vững chắc cho tác giả tiếp cận đề tài của mình. Tuy nhiên, tác giả
nhận thấy các cơng trình nghiên cứu trên chủ yếu phân tích về lý luận và quy định của pháp luật
về miễn TNHS trên cơ sở BLHS 1999 và BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung 2009). Ngồi ra, một số
cơng trình đưa ra những đánh giá chi tiết thực trạng dựa trên số liệu của tình hình áp dụng các
biện pháp miễn TNHS trên thực tế. Từ đó, nêu lên những bất cập, hạn chế của quy định pháp luật
còn tồn tại và đưa ra phương hướng giải quyết phù hợp.

2.2.3. Nhóm các bài viết, bài báo
Nghiên cứu về đề tài này, hiện nay có nhiều bài viết, bài báo có nội dung liên quan. Tuy
nhiên, tác giả chỉ chọn lọc một số bài viết, bài báo viết về chế định này theo quy định của BLHS
năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), cụ thể như sau:

- Tác giả Trịnh Việt Tiến trong bài viết “Miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự
năm 2015 và những vấn đề đặt ra trong quá trình áp dụng” trên tạp chí Luật học, số 07 năm
2016. Trên cơ sở phân tích các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về miễn TNHS, bài viết
nêu lên những vấn đề đặt ra trong quá trình áp dụng và đề xuất hướng sửa đổi phù hợp.

- Tác giả Phạm Mạnh Hùng trong bài viết “Một số ý kiến về các quy định của Bộ luật
Hình sự năm 2015 về chế định miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt” trên tạp chí Khoa
học Kiểm sát, số 02 năm 2016. Nội dung chủ yếu của bài viết là phân tích quy định mới về miễn
TNHS và miễn hình phạt của BLHS 2015 so với BLHS 1999. Từ đó, nêu lên những bất cập cần
được hoàn thiện của hai chế định này trên thực tế.

- Tác giả Đinh Văn Quế trong bài viết Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật
Hình sự 2015 trên tạp chí Luật sư Việt Nam, số 10 năm 2017. Bài viết phân tích từng trường hợp

9



cụ thể của việc áp dụng biện pháp miễn TNHS tại Điều 29 BLHS 2015 trên cơ sở quy định pháp
luật và thực tế áp dụng. Từ đó tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp
luật này.

- Tác giả Lê Nam trong bài viết Bàn về trường hợp miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật
Hình sự Việt Nam trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 09 năm 2016. Nội dung bài viết xoay
quanh giải quyết các vấn đề về lý luận chung về miễn trách nhiệm hình sự, giới thiệu về các
trường hợp miễn TNHS trong BLHS 2015. Bên cạnh đó, bài viết đặt ra vấn đề khi áp dụng và đề
xuất hướng giải quyết cụ thể cho trường hợp miễn TNHS tại khoản 3 Điều 29 BLHS 2015.
Mặt khác, một số tác giả cũng có cơng trình nghiên cứu về chế định miễn trách nhiệm hình
sự theo các mức độ khác như: 1) Chế định miễn trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam
(Tạp chí Khoa học (KHXH), số 4/1997) của TS. Nguyễn Ngọc Chí; 2) Về chế định miễn trách
nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/1988) và về chế
định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 (Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số
12/2001) của PGS.TS Phạm Hồng Hải; 3) Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự (Tạp
chí Luật học, số 5/1997) của TS. Lê Thị Sơn; 4) Một số ý kiến về miễn trách nhiệm hình sự (Tạp
chí Tịa án nhân dân, số 2/1993) và Hồn thiện các quy định của luật tố tụng hình sự về đình chỉ
điều tra và đình chỉ vụ án (Tạp chí Kiểm sát, số 5/2002) của tác giả Phạm Mạnh Hùng; 5) Những
trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự theo Điều 48 Bộ luật hình sự (Tạp chí Kiểm sát, số
chun đề về Bộ luật hình sự, số 4/1999) của tác giả Thái Quế Dung; 6) Miễn trách nhiệm hình
sự trong trường hợp "Do sự chuyển biến của tình hình mà người phạm tội khơng cịn
nguy hiểm cho xã hội nữa" theo quy định của Điều 25 Bộ luật hình sự (Tạp chí Kiểm sát, số
1/2002) của tác giả Nguyễn Hiển Khanh; 7) Phân biệt miễn trách nhiệm hình sự với miễn hình
phạt (Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2/2004) của TSKH Lê Cảm và Trịnh Tiến Việt; 8) Hoàn thiện
các quy định về miễn trách nhiệm hình sự (Tạp chí Kiểm sát, số 5/2004); Về chế định miễn trách
nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, Tạp chí Khoa học, chuyên san Kinh tế.
Nghiên cứu các bài viết trên các tạp chí khoa học cho thấy do chỉ dừng lại ở góc độ là bài
viết học thuật được giới thiệu trên tạp chí nên phạm vi nghiên cứu chưa bao quát hết các vấn đề
về biện pháp miễn TNHS theo quy định của BLHS 2015.

Việc tìm hiểu các bài viết giúp tác giả hiểu sâu về vấn đề cần nghiên cứu, để từ đó định
hướng nghiên cứu cho cơng trình của mình một cách phù hợp. Vấn đề về miễn TNHS là một vấn
đề không mới nhưng trong những nội dung về miễn TNHS tại Điều 29 BLHS 2015 đã có sự thay
đổi đáng kể. Mặt khác vấn đề áp dụng miễn TNHS trên địa bàn tỉnh Đồng Nai được áp dụng phù
hợp với thực tiễn của địa phương là một vấn đề cần nghiên cứu.
Dựa trên những tài liệu đã nghiên cứu, với khoá luận này, tác giả không chỉ nghiên cứu
những vấn đề lý luận chung về miễn TNHS mà còn đi sâu vào phân tích từng trường hợp cụ thể
của nội dung miễn TNHS tại Điều 29 BLHS 2015 trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Tác giả tập trung
phân tích và làm rõ những điểm mới, khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan

10


nhằm đề xuất những kiến nghị phù hợp trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật. Vì vậy, nghiên
cứu về miễn TNHS từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai đạt được mục tiêu tính mới của đề tài.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luật, pháp luật và nghiên cứu thực trạng áp dụng
pháp luật về các trường hợp miễn TNHS tại Điều 29 BLHS 2015 từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai, tác
giả đánh giá thực trạng cũng như những vướng mắc, bất cập của pháp luật hiện hành và đề xuất,
kiến nghị, giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về chế định miễn TNHS theo quy định của
BLHS 2015 nhằm mục đích xây dựng được khung pháp lý an toàn cho việc áp dụng, bảo đảm sự
nghiêm minh của pháp luật.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Căn cứ việc xác định mục đích từ cơ sở nêu trên, luận văn được tiến hành nghiên cứu như
sau:

- Thứ nhất, về mặt lý luận cần phân tích và làm sáng tỏ khái niệm, nội dung, đặc điểm

phân loại của miễn trách nhiệm hình sự.

- Thứ hai, khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy phạm về miễn TNHS để có cái
nhìn xun suốt về tư duy pháp lý của một quá trình lịch sử đối với vấn đề miễn TNHS từ sau
năm 1945 đến nay.

- Thứ ba, nghiên cứu vấn đề miễn TNHS của một số nước trên thế giới; đặc biệt, là các
nước có tầm ảnh hưởng đến pháp luật Việt Nam như: pháp luật của Cộng Hoà Liên bang Nga;
của Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào…trên cơ sở có cái nhìn so sánh một cách toàn diện.

- Thứ tư, nghiên cứu thực tiễn áp dụng vấn đề miễn TNHS từ địa bàn tỉnh Đồng Nai, tìm ra
những hạn chế, vướng mắc để đưa ra các giải pháp hoàn thiện việc áp dụng pháp luật về chế định
miễn TNHS.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Miễn trách nhiệm hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu vấn đề áp dụng miễn TNHS trong phạm vi tỉnh
Đồng Nai.

- Về thời gian: Các bản án, quyết định đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ vụ án mà luận
văn nghiên cứu áp dụng miễn TNHS từ năm 2015-2020.

- Nội dung nghiên cứu: Với một dung lượng của đề tài luận văn nghiên cứu trong phạm vi
địa phương là địa bàn tỉnh Đồng Nai, luận văn không nghiên cứu tất cả các trường hợp miễn
TNHS theo Điều 29 BLHS năm 2015 trên phạm vi cả nước mà luận văn chỉ tập trung nghiên cứu

11



quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng quy định pháp luật liên quan đến các trường hợp miễn
TNHS từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Việc nghiên cứu luận văn được vận dụng từ cơ sở hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN; những thành tựu của các ngành khoa học: Triết học, tội phạm học, luật hình sự,
tâm lý học, xã hội học. Các cơng trình nghiên cứu, sách nghiên cứu, sách chun khảo của các
nhà khoa học trong nước.

5.2. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng
liên quan đến áp dụng các tình tiết miễn TNHS theo quy định của BLHS năm 1999, BLHS năm
2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

5.3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử. Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: Lịch sử, lơgíc, hệ thống, thống
kê, phân tích, tổng hợp, so sánh pháp luật...

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn trong việc nâng cao hiệu quả áp dụng chế định miễn TNHS theo quy định tại Điều 29 BLHS
năm 2015 trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử.
Những giải pháp đề cập trong đề tài luận văn giúp các cơ quan có thẩm quyền xem xét,
nghiên cứu áp dụng, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng chế định miễn TNHS theo quy định
của pháp luật hình sự Việt Nam.
Luận văn nêu trên có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng

dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự cũng như việc áp dụng chế định miễn
TNHS của các cơ quan tiến hành tố tụng...

7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội
dung của luận văn được chia thành ba chương:

- Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình
sự Việt Nam

- Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về miễn trách nhiệm hình sự
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai

- Chương 3: Một số kiến nghị nhằm bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật về
12


miễn trách nhiệm hình sự trên địa bàn tỉnh Đồng Nai

13


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH
SỰ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái niệm, đặc điểm miễn trách nhiệm hình sự
1.1.1. Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, được áp dụng đối với người có hành
vi vi phạm pháp luật hình sự, được thể hiện bằng việc người phạm tội bị áp dụng một hoặc nhiều

các biện pháp cưỡng chế hình sự khác nhau của Nhà nước do Luật Hình sự quy định.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, tuy có nhiều cách thể hiện khác nhau, song tựu
trung lại các nhà khoa học luật hình sự nước ta về cơ bản đều thống nhất về nội hàm của khái
niệm TNHS- là hậu quả pháp lý bất lợi được áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội
và được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật
hình sự quy định [7, tr. 122], [13, tr. 14], [27, tr. 281-282], [32, tr. 14], [50, tr. 65].
Trong Luận án tiến sỹ luật học của Trịnh Tiến Việt cho rằng “trách nhiệm hình sự được
hiểu là một dạng của trách nhiệm pháp lý và là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội
phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do
luật hình sự quy định đối với người phạm tội.” [ 50.tr 26]
Trên thực tế, các tội phạm và trường hợp phạm tội đều không giống nhau. Do đó, để cơng
tác đấu tranh phịng, chống tội phạm đạt hiệu quả cũng như phân hóa các trường hợp phạm tội để
có đường lối xử lý phù hợp, cơng bằng, chính xác và đúng pháp luật. Đặc biệt sự phân hóa các
trường hợp tội phạm và người phạm tội cịn thể hiện ở chỗ không phải tất cả trường hợp đều
bị truy cứu TNHS khi có đầy đủ những điều kiện nhất định thì một người đã phạm tội họ có thể
được miễn TNHS.
Về mặt lý luận pháp luật hình sự cho thấy khi việc truy cứu TNHS đối với một người là
khơng cần thiết do tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi thì sẽ có trường hợp trên thực tế
Nhà nước khơng buộc người đó phải chịu TNHS mà cho họ được miễn TNHS. Vì vậy, việc đặt ra
chế định miễn TNHS đối với người thực hiện hành vi phạm tội ở chừng mực nhất định thể hiện
chính sách phân hố tội phạm; đồng thời, thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước đối
với người phạm tội. Qua đó, nhằm động viên, khuyến khích họ lập cơng chuộc tội, nhanh chóng
hịa nhập với cộng đồng và xã hội.
Trên cơ sở khái niệm TNHS được đề cập như trên, khái niệm miễn TNHS được hiểu là
việc cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào từng giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể hủy bỏ
việc áp dụng các hậu quả pháp lý được áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội khi có
các căn cứ do pháp luật hình sự quy định.

14



Miễn TNHS là một chế định quan trọng thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật hình
sự. Tuy nhiên, về mặt khoa học pháp lý thì mãi đến BLHS năm 1985, chế định miễn TNHS mới
được nhà làm luật nước ta ghi nhận chính thức. Xét về phương diện pháp lý thì bản chất pháp lý
của chế định miễn TNHS là tư tưởng nhân đạo được thực hiện bởi các cơ quan tiến hành tố tụng
trong quá trình áp dụng mà căn cứ vào các điều kiện cụ thể theo chế định miễn TNHS đối với
người mà hành vi của người đó đã thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể
trong BLHS để xem xét miễn TNHS cho họ. Các điều kiện được miễn TNHS được quy định cụ
thể trong Phần Chung và Phần Các Tội phạm của BLHS năm 2015. Mặc dù người được miễn
TNHS không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội nhưng có thể phải
chịu một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế phi hình sự được quy
định trong các ngành luật khác như: Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Cơng chức, Luật Viên
chức; Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước...
Cùng với khái niệm TNHS, miễn TNHS cũng được các nhà lý luận định nghĩa dưới nhiều
góc độ khác nhau, cụ thể:
Theo quan điểm của tác giả người Nga B.X. Xavelôva: “Miễn trách nhiệm hình sự được
hiểu theo hai nghĩa: nghĩa hẹp - khơng kèm theo việc quyết định hình phạt, tức là miễn trách
nhiệm hình sự do Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát thực hiện, cũng như do Tịa án thực hiện
(khi khơng đưa ra bản án kết tội đối với người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự) và theo
nghĩa rộng - suy cho cùng đó cũng đồng thời chính là miễn hình phạt [55, tr. 428]. Hay tác giả
Kêlina X.G (Liên bang Nga) cho rằng: "Miễn trách nhiệm hình sự là việc hủy bỏ sự đánh giá
tiêu cực đối với người đó dưới hình thức bản án" [56, tr. 31].
Quan điểm này cũng có những hạt nhân hợp lý của nó như việc thừa nhận một người phải
có TNHS thì mới có thể được miễn TNHS mà việc xác định một người có hay khơng là thuộc
thẩm quyền của Tòa án. Điều này cũng được Hiến pháp 2013 quy định: “Người bị buộc tội được
coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của
Tịa án đã có hiệu lực pháp luật” (khoản 1 Điều 31) [19/tr5]. Cụ thể hóa trong Bộ luật Tố tụng
hình sự (BLTTHS) Việt Nam 2015 được xây dựng và thực hiện theo 27 nguyên tắc cơ bản (từ
Điều 7 đến Điều 33).
Các nhà lý luận hình sự Việt Nam đề cập đến khái niệm miễn TNHS ở những khía cạnh

sau:

- Quan điểm thừa nhận nội dung và chỉ rõ bản chất pháp lý của Miễn TNHS “là một chế
định nhân đạo của luật hình sự Việt Nam và được thể hiện bằng việc xóa bỏ hậu quả pháp lý
của việc thực hiện hành vi nguy hiểm choxã hội bị luật hình sự cấm đối với người bị coi là có
lỗi trong việc thực hiện hành vi đó" [8, tr. 7];

- Quan điểm ghi nhận nội dung và hậu quả pháp lý của miễn TNHS nhưng không đề cập
15


thẩm quyền áp dụng và giai đoạn áp dụng: Miễn trách nhiệm hình sự là "miễn những hậu quả
pháp lý đối với một tội phạm do pháp luật quy định" [45, tr. 269] hay là "không buộc tội một
người chịu trách nhiệm hình sự về tội mà họ đã thực hiện" [43, tr. 321];

- Nhóm quan điểm ghi nhận tương đối đầy đủ về nội dung, phân định các giai đoạn áp
dụng, thẩm quyền áp dụng và hậu quả pháp lý: Miễn trách nhiệm hình sự là "miễn truy cứu trách
nhiệm hình sự và đương nhiên kéo theo phải miễn chịu các hậu quả tiếp theo do việc thực hiện
trách nhiệm hình sự từ phía Nhà nước đem lại như: miễn bị kết tội, miễn phải chịu biện pháp
cưỡng chế của trách nhiệm hình sự và miễn bị mang án tích. Trên thực tiễn ở giai đoạn xét xử có
thể có trường hợp người phạm tội được Tịa án miễn trách nhiệm hình sự. Và theo đó, miễn trách
nhiệm hình sự chỉ bao gồm miễn chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự và mang án
tích" [41, tr. 19];
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng các nhà lý luận hình sự đều thống nhất một
số nội dung quan trọng của chế định miễn TNHS: Nội dung, điều kiện, thủ tục các hình thức
miễn TNHS.
Trên cơ sở tổng kết các quan điểm khoa học đã nêu, kết hợp với việc phân tích các quy
định của pháp luật hình sự có liên quan, dưới góc độ khoa học luật hình sự, theo chúng tơi khái
niệm miễn TNHS có thể được định nghĩa như sau: Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định
nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam, là sự hủy bỏ việc áp dụng các hậu quả pháp lý đối với

người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự khi họ thực hiện những hành vi phạm tội được
quy định trong BLHS nếu đáp ứng các điều kiện được miễn TNHS mà pháp luật quy định.

1.1.2. Đặc điểm miễn trách nhiệm hình sự
Căn cứ các khái niệm đã đề cập như trên và trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp
luật hình sự hiện hành về chế định miễn TNHS, có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của chế
định này như sau:
Thứ nhất, miễn TNHS là người thực hiện tội phạm được miễn những hậu quả pháp lý về các
tội phạm khi họ đáp ứng những điều kiện theo quy định pháp luật. Theo đó, người được miễn
TNHS, họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm. Tuy
nhiên, tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng, các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử xem
xét, xác định tính cần thiết của việc truy cứu TNHS đối với người đó hay khơng mà vẫn đáp ứng
được yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm cũng như đảm bảo tính giáo dục, cải tạo cao.
Thứ hai, miễn TNHS thể hiện chính sách phân hóa tội phạm và người phạm tội, cũng như thể
hiện nguyên tắc "nghiêm trị kết hợp với khoan hồng", "trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết
phục, cải tạo" trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Thứ ba, miễn TNHS do cơ quan tiến hành tố tụng quyết định phải được thể hiện dưới hình
thức văn bản. Cụ thể: “theo quy định của BLTTHS Việt Nam năm 2003, cơ quan Điều tra ra

16


quyết định đình chỉ điều tra khi có căn cứ miễn TNHS quy định tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2
Điều 69 BLHS (Điều 164); VKS ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong các căn cứ miễn
TNHS quy định tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 BLHS (Điều 169) hoặc rút quyết định
truy tố và đề nghị Tịa án đình chỉ vụ án (Điều 181), Tịa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án
sơ thẩm trong trường hợp miễn TNHS hoặc miễn hình phạt cho bị cáo (điểm a khoản 1 Điều
249)”.
Thứ tư, miễn TNHS chỉ áp dụng đối với người mà trong hành vi của họ đã thỏa mãn các dấu
hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự nhưng họ lại có

những điều kiện nhất định để được miễn TNHS. Cụ thể khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, do
sự chuyển biến của tình hình mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét thấy hành vi phạm tội hoặc
người phạm tội khơng cịn nguy hiểm cho xã hội nữa thì được miễn trách nhiệm hình sự (khoản 2
Điều 29) hay khi có quyết định đại xá (khoản 3 Điều 25 Bộ luật hình sự). Điều này có nghĩa, nếu
TNHS chỉ áp dụng đối với người mà trong hành vi của họ đã thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu
thành tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự, thì miễn TNHS cũng áp dụng với
đối tượng như vậy, nhưng trường hợp của họ lại có những điều kiện nhất định để được miễn
TNHS.
Thứ năm, chế định miễn TNHS cịn áp dụng có lợi cho người phạm tội là họ không phải chịu
các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội do mình thực hiện một cách hiển nhiên
(như: khơng bị truy cứu trách nhiệm hình sự, khơng bị kết tội, khơng phải chịu hình phạt hoặc
biện pháp cưỡng chế về hình sự khác, khơng bị coi là có án tích và khơng bị coi là có tội).

1.2. Ngun tắc, ý nghĩa, tác dụng phân loại miễn TNHS
1.2.1. Nguyên tắc của chế định miễn TNHS trong Luật Hình sự Việt Nam
Thứ nhất, nguyên tắc nhân đạo trong miễn TNHS
Nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc chung và là nguyên tắc quan trọng trong pháp luật hình sự.
Nhân đạo nói chung và trong pháp luật nói riêng được cụ thể hóa thơng qua các quy định của pháp
luật với ý nghĩa bảo vệ lợi ích của cơng dân khi bị tội phạm xâm phạm, có thể là lợi ích hợp pháp
của cá nhân người phạm tội nếu xứng đáng được hưởng khoan hồng của Nhà nước và đáp
ứng các điều kiện nhất định. Vì vậy, nghiên cứu miễn TNHS vừa thể hiện nguyên tắc nhân đạo
vừa tạo cơ sở pháp lý cho sự kết hợp các biện pháp cưỡng chế hình sự với các biện pháp tác động
xã hội trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội, lấy gia đình, nhà trường, xã hội làm nơi giúp họ
tự cải tạo, giáo dục để khuyến khích họ lập cơng chuộc tội mà không buộc họ cách ly ra khỏi cộng
đồng.
Về nguyên tắc nhân đạo, PGS.TS Hồ Sĩ Sơn viết: “Nguyên tắc nhân đạo trong Luật Hình sự
là tư tưởng chủ đạo được ghi nhận trong Luật Hình sự chỉ đạo hoạt động xây dựng và áp dụng
Luật Hình sự mà nội dung cơ bản của nó là sự khoan hồng của Luật Hình sự đối với người phạm

17



tội. Mức độ phạm vi của sự khoan hồng của Luật Hình sự đối với người phạm tội được quyết định
bởi điều kiện xã hội và bị ràng buộc bởi các yêu cầu khác của Luật Hình sự mà trước hết là công
bằng, công lý xã hội”[18, tr. 9]
Thứ hai, nguyên tắc "nghiêm trị kết hợp với khoan hồng", "trừng trị kết hợp với giáo dục,
thuyết phục, cải tạo".
Là nguyên tắc được xem là xuyên suốt của BLHS đối với chế định miễn TNHS, là chính sách
hình sự của pháp luật hình sự áp dụng với người phạm tội. Đây là nguyên tắc nhân đạo đối với
người phạm tội; đồng thời, tạo cơ sở pháp lý cho sự kết hợp các biện pháp cưỡng chế hình sự của
Nhà nước với các biện pháp tác động xã hội trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội, cũng là
một trong những hình thức đảm bảo khơng để lọt tội phạm và người phạm tội.
Thứ ba, nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự
Miễn trách nhiệm hình sự thể hiện chính sách phân hóa tội phạm và người phạm tội trong
pháp luật hình sự. Phân hóa trong luật hình sự nước ta được thể hiện trên nhiều phương diện như:
phân loại tội phạm, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, hệ thống hình phạt và các biện pháp tư
pháp, phân hóa tráchnhiệm hình sự, đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự hay có thể được
miễn trách nhiệm hình sự.
Thứ tư, nguyên tắc công bằng, công minh trong miễn TNHS
Nguyên tắc này được xem là nguyên tắc cơ bản, là tư tưởng chủ đạo, định hướng xuyên suốt
quá trình xây dựng và áp dụng Bộ luật hình sự. Nguyên tắc này đặt trong mối tương quan giữa
Nhà nước với người phạm tội, thể hiện thông qua “đối xử” của Nhà nước đối với người phạm tội
như thế nào: đối xử công bằng giữa những người phạm tội; đối xử với người phạm tội tương xứng
với hành vi phạm tội của họ.
Người được miễn TNHS không phải chịu các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm
tội nhưng có thể chịu một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế không phải hình sự được quy định
trong các ngành luật trong hệ thống pháp luật. Như vậy, việc công bằng trong đánh giá hành vi
phạm tội có ý nghĩa trong việc áp dụng chế định miễn trách nhiệm hình sự.
Nhìn chung, chế định miễn TNHS trong luật hình sự Việt Nam khơng chỉ phản ánh ngun tắc
nhân đạo trong chính sách hình sự mà cịn thể hiện ngun tắc xử lý kết hợp hài hòa giữa trừng trị

với giáo dục, thuyết phục; đồng thời, phản ánh sự cần thiết, việc xem xét của cơ quan tiến hành tố
tụng có truy cứu trách nhiệm hình sự một người hay khơng nhưng cốt lõi vẫn đảm bảo yêu cầu đấu
tranh, phòng chống tội phạm và giáo dục cải tạo người phạm tội đó và răn đe người khác trong xã
hội.

1.2.2. Ý nghĩa và tác dụng của miễn TNHS và phân loại TNHS
Việc nghiên cứu chế định miễn TNHS là một vấn đề quan trọng và cấp thiết, một mặt góp
phần đấu tranh phịng, chống tội phạm, một mặt thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà

18


nước ta đối với người phạm tội và hành vi do họ thực hiện. Qua đó, nhằm động viên khuyến
khích người phạm tội lậpcông chuộc tội, được sự giám sát, giáo dục, cải tạo từ phía nhà trường,
gia đình, xã hội giúp họ hòa nhập với cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội. Do đó, nó
có ý nghĩa quan trọng, được thể hiện trên các phương diện sau:
Thứ nhất, về phương diện chính trị-xã hội, việc quy định những trường hợp miễn trách
nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng nhận thức đúng đắn và
áp dụng trường hợp nào người phạm tội và hành vi phạm tội không cịn nguy hiểm cho xã hội
nữa hoặc khơng cần thiết phải áp dụng TNHS mà vẫn đảm bảo yêu cầu đấu tranh và phòng,
chống tội phạm, hạn chế tới mức thấp nhất sự lạm dụng và tùy tiện áp dụng hoặc e ngại khi áp
dụng chế định này. Mặt khác, việc áp dụng chế định miễn TNHS trong thực tiễn cũng là một
trong những hình thức xã hội hóa giáo dục để Nhân dân, cơ quan, đoàn thể, nhà trường và gia
đình tham gia vào việc giáo dục, cải tạo người phạm tội, giúp họ hoàn lương, hướng thiện, lao
động chân chính và có ích cho xã hội.
Thứ hai, về phương diện pháp lý, biện pháp miễn TNHS chỉ có thể đặt ra đối với một người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà LHS quy định hành vi đó là tội phạm nhưng đối với
người đó lại có căn cứ pháp lý và những điều kiện nhất định để được miễn TNHS trong từng
trường hợp tương ứng mà pháp luật hình sự hiện hành quy định cũng như tùy thuộc vào từng
trường hợp miễn TNHS đó có tính chất tùy nghi hay tính chất bắt buộc.

Ngồi ra, cũng với phương diện này, người được miễn TNHS đương nhiên khơng phải chịu
các hậu quả pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội do mình thực hiện như: không bị truy cứu
TNHS, không bị kết tội, không phải chịu hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế về hình sự khác,
khơng bị coi là có án tích và khơng bị coi là có tội. Tuy nhiên, họ vẫn có thể phải chịu trách
nhiệm pháp lý như: dân sự, hành chính, trách nhiệm pháp lý kỷ luật nếu thuộc trường hợp là cán
bộ, công chức tùy theo từng trường hợp tương ứng cụ thể.
Thứ ba, về phương diện nhân đạo và bảo vệ quyền con người trong pháp luật hình sự, miễn
TNHS là một trong những chế định mang tính nhân đạo sâu sắc với nội dung thực hiện chính
sách “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, “trừng trị kết hợp với thuyết phục, giáo dục, cải tạo”
trong đường lối xử lý của Nhà nước ta. Miễn trách nhiệm hình sự là một biện pháp hữu hiệu của
Nhà nước thể hiện chính sách phân hóa tội phạm cũng như yêu cầu không cần thiết phải truy cứu
TNHS người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Luật Hình sự quy định là tội phạm
mà vẫn đảm bảo yêu cầu đấu tranh và phòng, chống tội phạm.
Thứ tư, về phương diện kỹ thuật lập pháp, nếu những trường hợp miễn TNHS được nhà làm
luật nước ta quy định trong Bộ luật Hình sự một cách chặt chẽ, đầy đủ, có hệ thống và phù hợp
với thực tiễn thì đó cũng là một trong những cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng và hoàn thiện
một số chế định khác có liên quan đến nó như: tội phạm, trách nhiệm hình sự, hình phạt, miễn
hình phạt…Hơn nữa, nó cịn thể hiện sự tiến bộ về mặt lập pháp hình sự trong việc xây dựng

19


từng chế định của luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
của dân, do dân và vì dân; góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng, chống tội
phạm.

1.3. Phân biệt miễn TNHS với miễn hình phạt
Miễn TNHS và miễn hình phạt là hai chế định quan trọng, thể hiện chính sách nhân đạo,
khoan hồng của Luật Hình sự Việt Nam, mang giá trị nhân văn sâu sắc mà ở đó ngun tắc chủ
đạo, xun suốt trong chính sách hình sự của Nhà nước luôn là sự kết hợp giữa việc trừng trị với

khoan hồng, khuyến khích người phạm tội tự giáo dục mình để nhận lấy sự tha miễn đó. Theo đó,
việc nghiên cứu hai chế định này trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền có ý nghĩa rất
quan trọng thể hiện tư tưởng, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm trong từng thời kỳ nhấtđịnh. Chính sách hình sự về tư tưởng nhân đạo được
Đảng và Nhà nước ta thể hiện ở đường lối, hình thức xử lý đối với người phạm tội trên cơ sở kết
hợp hài hòa giữa mục đích trừng trị và mục đích giáo dục, phịng ngừa tội phạm; trong đó, Đảng
và Nhà nước ln coi trọng mục đích giáo dục người phạm tội, đề cao tính “hướng thiện”.
Về cơ bản, hai chế định này có điểm giống nhau ở một số điểm sau: cả hai chế định đều xuất
phát từ cơ sở của TNHS và phản ánh rõ nét nguyên tắc nhân đạo của Nhà nước ta; không cách ly
người phạm tội và người bị kết án ra khỏi cuộc sống xã hội mà tạo điều kiện cho họ nhanh chóng
tái hịa nhập cộng đồng, trở thành người có ích cho xã hội; chỉ áp dụng khi đáp ứng đủ các điều
kiện luật định, không phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi của việc phạm tội, của quyết định hình
phạt và án tích.
Tuy nhiên giữa miễn TNHS và miễn hình phạt có nhiều điểm khác nhau, thể hiện rõ nét ở các
điểm sau:
Một là, miễn TNHS là việc không bắt buộc người phạm tội phải chịu TNHS về tội mà họ đã
thực hiện, còn miễn hình phạt thì khơng buộc người bị kết án phải chịu hình phạt về tội họ đã
thực hiện. Riêng về đối tượng của miễn TNHS có thể là người đã bị kết án hoặc chưa kết án; đối
tượng của miễn hình phạt là người đã bị kết án bằng một bản án có hiệu lực pháp luật.
Hai là, người phạm tội được miễn TNHS khi có một trong những căn cứ, điều kiện như: “khi
tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do có sự thay đổi của chính sách, pháp luật làm cho hành vi
phạm tội khơng cịn nguy hiểm cho xã hội nữa; khi có quyết định đại xá” theo Điều 29 BLHS.
Ngoài ra, người phạm tội có thể được miễn TNHS khi có một trong những căn cứ được quy định
tại BLHS: “khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội
khơng cịn nguy hiểm cho xã hội nữa; khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc
bệnh hiểm nghèo dẫn đến không cònkhả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; Người phạm tội tự
thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn
chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập cơng chuộc tội và có cống hiến đặc biệt, được
Nhà nước và xã hội thừa nhận. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm


20


trọng do vơ ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người
khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị
miễn TNHS thì có thể được miễn TNHS”.
Đối với người phạm tội được miễn hình phạt khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại
khoản 1, 2 Điều 54 BLHS đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn
TNHS. Cụ thể: Khi quyết định mức hình phạt trong khung hình phạt, Tịa án có thể căn cứ và
quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng phải trong khung hình
phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định
tại khoản 1 Điều 51 BLHS; Tịa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của
khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn
của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có
vai trị khơng đáng kể.
Ba là, chủ thể có thẩm quyền áp dụng của chế định miễn TNHS rộng hơn so với chế định
miễn hình phạt. Miễn TNHS được thực hiện bởi cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án tương ứng
với từng giai đoạn tiến hành tố tụng; cịn miễn hình phạt chỉ do tịa án là cơ quan duy nhất có
thẩm quyền áp dụng.
Bốn là, về hậu quả pháp lý: sau khi được miễn TNHS, người phạm tội được xem là khơng có
án tích. Đối với miễn hình phạt, người bị kết án vẫn được xem là có án tích nhưng thuộc trường
hợp đương nhiên được xóa án tích.
Tóm lại, với các quy phạm của chế định miễn TNHS và miễn hình phạt có tính chất nhân đạo
nêu trên, nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho họ sớm thích nghi với các yêu cầu của pháp luật
để trở lại cuộc sống bình thường, phấn đấu thành người lương thiện để có ích cho xã hội. Tuy
nhiên, xét về góc độ chính trị-xã hội, chế định miễn TNHS giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng
xác định chính xác và đúng đắn trường hợp nào người phạm tội và hành vi phạm tội khơng cịn
nguy hiểm cho xã hội nữa hoặc không cần thiết phải áp dụng TNHS mà vẫn đảm bảo yêu cầu đấu
tranh và phòng, chống tội phạm, góp phần giảm bớt các chi phí của Nhà nước trong từng giai
đoạn tương ứng với quá trình điều tra, truy tố hoặc xét xử, nhất là chi phí, nguồn lực sẽ được cắt

giảm nhiều nếu việc miễn TNHS được áp dụng ở giai đoạn đầu. Mặt khác, việc áp dụng chế định
miễn THNS sẽ không gây mặc cảm, tự ti đối với người phạm tội vì họ được “tha miễn”, khơng
được xem là có án tích như chế định hình phạt. Vì vậy, sẽ giúp họ mau chóng hịa nhập với cộng
đồng và tích cực hướng thiện, làm những việc có ích cho xã hội.

1.4. Khái qt lịch sử hình thành và phát triển các quy phạm về miễn trách nhiệm
hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam.

1.4.1. Giai đoạn từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến Bộ luật hình sự Việt Nam
năm 1985
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam bước vào thời kỳ khôi phục lại

21


nền kinh tế, thiết lập các quan hệ pháp luật của Nhà nước non trẻ trong điều kiện hoàn cảnh
“ngàn cân treo sợi tóc”. Song song với nhiệm vụ bảo vệ Tổ Quốc, Đảng và Nhà nước ta khơng
ngừng hồn thiện các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội, phòng, chống tội
phạm, giữ vững an ninh chính trị. Trong điều kiện hồn cảnh khó khăn của đất nước, Pháp luật
hình sự thời kỳ này chưa mang tính thống nhất, cịn tản mạn ở nhiều văn bản khác nhau.
Đối với khái niệm miễn TNHS vẫn còn là một vấn đề mới mẽ nên trong các văn bản pháp lý
chính thống chưa đề cập đến khái niệm miễn TNHS. Tuy nhiên, xuất phát từ ưu điểm của Nhà
nước ta là nhà nước “của dân do dân vì dân” nên các giá trị nhân đạo ln là những giá trị cốt lõi
xuyên suốt trong hệ thống pháp luật. Trong thực tiễn xét xử và một số văn bản pháp lý đã manh
nha hình thành một số nội dung của miễn TNHS như các Sắc lệnh, Thông tư, Pháp lệnh từ năm
1945 đến năm 1982…. đã thừa nhận và áp dụng với nhiều tên gọi khác nhau như: "xá miễn", "tha
miễn trách nhiệm hình sự", "miễn tố", "tha bổng bị cáo", "miễn nghị cho bị cáo", "miễn hết cả
tội"...
Như vậy, cho đến thời điểm trước khi ban hành BLHS năm 1985, mặc dù chưa có khái niệm
chính thống về miễn TNHS là gì nhưng trong một số văn bản hiện hành của thời kỳ đó đã manh

nha hình thành các nội dung của miễn TNHS.
Bộ luật Hình sự năm 1985, với tư cách là văn bản lập pháp hình sự lớn và quan trọng đầu
tiên mà trong đó chứa đựng hệ thống pháp luật hình sự thực định đã được pháp điển hóa của Nhà
nước Việt Nam thống nhất sau 40 năm kể từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(năm 1945) và sau 10 năm kể từ khi đất nước đã được thống nhất và thu về một mối (năm 1975)
thì trong suốt 14 năm áp dụng Bộ luật Hình sự của năm 1985 (nếu tính đến năm 1999 khi có Bộ
luật Hình sự thứ hai) như là nguồn trực tiếp duy nhất của pháp luật hình sự thực định nước nhà
sau pháp điển hóa mà trong đó lần đầu tiên đã có sự phân chia rõ ràng giữa các quy phạm của
Phần chung và Phần riêng với cơ cấu gồm 12 chương và được phân chia thành 280 điều để kịp
thời điều chỉnh về mặt pháp lý hình sự các quan hệ xã hội đang tồn tại và đáp ứng yêu cầu của
cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm ở nước ta trong suốt 14 năm từ giữa những năm 80 đến
cuối những năm 90 của thế kỷ XX (1985-1999).
Bộ luật Hình sự nói riêng chính là đạo luật quan trọng nhất của nước ta quy định về tội phạm
và hình phạt nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trên mọi mặt của xã hội, có nhiệm vụ bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa, trật tự xã hội, bảo vệ các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của cơng dân, chống
mọi hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh chống
và phịng ngừa tội phạm.
Bên cạnh đó, đối với chế định miễn TNHS với các tên gọi khác nhau được áp dụng trong thời
kỳ này chủ yếu để thực hiện phương châm trong đường lối xử lý, đó là "nghiêm trị kết hợp với
khoan hồng", "trừng trị kết hợp với giáo dục cải tạo". Đối với trường hợp đại xá, cùng với truyền

22


thống nhân đạo của dân tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã thực thi chính sách nhân đạo về xử
lý hình sự và thi hành án hình sự đối với người phạm tội, được quy định trong các văn bản pháp
luật hình sự, tố tụng hình sự, thi hành án hình sự, thơng qua đó tạo điều kiện cho người phạm tội
hưởng nhiều chính sách khoan hồng, tự nguyện cải tạo và tái hịa nhập cộng đồng. Có thể nói,
khơng có một biện pháp cưỡng chế, răn đe hay giáo dục, cải tạo nào có tác động mạnh mẽ, trực
tiếp đến tâm lý của người phạm tội như đại xá, bằng việc những phạm nhân được trực tiếp chứng

kiến việc trả lại tự do cho những phạm nhân được hưởng đại xá. Đại xá đã mang lại cho phạm
nhân đang chấp hành hình phạt tù khát vọng được trở về xã hội, tái hòa nhập cộng đồng và làm
lại cuộc đời.
Như vậy, miễn TNHS được áp dụng trong trường hợp xá miễn. Và cũng theo Điều 4 Sắc
lệnh số 52/SL này thì "Những tội được xá miễn đều coi như không phạm bao giờ; quyền công tố
sẽ tiêu hủy, những chính hình và phụ hình mà Tịa án đã tuyên đều bỏ hết”. Hay tại Điều 2 Sắc
lệnh số 223/SL ngày 17/11/1946 quy định tội phạm về chức vụ ghi nhận "Trong trường hợp này,
tang vật hối lộ được hoàn trả" [38, tr. 476]. Như vậy, trong văn bản này, thuậtngữ “miễn hết cả
tội” được sử dụng như miễn TNHS như quy định pháp luật hiện hành.
Điều 20 Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967 quy định về những
trường hợp giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn hình phạt như sau: "Kẻ nào phạm tội phản cách mạng
nêu ở mục 2 mà tội phạm thuộc vào một hoặc nhiều trường hợp sau đây thì được giảm nhẹ hoặc
miễn hình phạt”.

1. Có âm mưu phạm tội, nhưng đã tự nguyện không thực hiện tội phạm.
2. Tội phạm chưa bị phát giác mà thành thật tự thú, khai rõ những âm mưu và hành động
của mình và của đồng bọn….
Sau năm 1975, khi đất nước thống nhất. Pháp luật hình sự thời kỳ này bắt đầu đi vào củng
cố và phát triển để điều chỉnh các quan hệ xã hội của thời kỳ xã hội mới- xã hội chủ nghĩa. Nhà
nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN. Tất cả các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhân viên nhà nước và mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp
hành Hiến pháp, pháp luật, kiên quyết đấu tranh để phòng ngừa và chống các tội phạm, các việc
làm vi phạm Hiến pháp và pháp luật theo tinh thần nghiêm khắc và kiên quyết, song khi xử lý
từng vụ án cụ thể cần phải kết hợp "Nghiêm trị với khoan hồng, trừng trị với cải tạo, giáo dục".
Do đó, tháng 04/1976, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 03-BTP/TT hướng dẫn thi hành Sắc
luật quy định về tội phạm và hình phạt vẫn nêu rõ nguyên tắc xét xử bọn phản cách mạng là:
"Nghiêm trị bọn chủ mưu, bọn cầm đầu, bọn có nhiều tội ác, bọn ngoan cố chống lại cách mạng;
khoan hồng đối với những kẻ bị ép buộc, bị lừa phỉnh, lầm đường và những kẻ thật thà hối cải;
giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn hình phạt cho những kẻ lập cơng chuộc tội".[33]
Đối với tội nhận hối lộ, vào ngày 20/05/1981, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp

lệnh trừng trị tội hối lộ. Khi Pháp lệnh này được ban hành, đánh dấu một bước ngoặt trong công

23


tác lập pháp, nhằm góp phần củngcố, giữ vững và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, động
viên và khuyến khích tất cả cơng dân tích cực tham gia đấu tranh chống tệ nạn hối lộ. Trong Pháp
lệnh đã ghi nhận chính thức vấn đề miễn TNHS và Điều 8 Pháp lệnh đã quy định cụ thể ba
trường hợp miễn TNHS, giảm nhẹ hình phạt và miễn hình phạt, đó là:
"1. Người phạm tội hối lộ, trước khi bị phát giác, chủ động khai rõ sự việc, giao nộp đầy đủ
của hối lộ, thì có thể được miễn TNHS; nếu là phạm tội nghiêm trọng thì có thể được giảm nhẹ
hình phạt.
2. Người phạm tội hối lộ, sau khi bị phát giác, tỏ ra thành thực hối cải, khai rõ sự việc, giao
nộp đầy đủ của hối lộ thì có thể được giảm nhẹ hình phạt.
3. Người phạm tội lần đầu và không nghiêm trọng, sau khi bị phát giác tỏ ra thành thực hối
cải khai rõ sự việc, giao nộp đầy đủ của hối lộ, thì có thể được miễn hình phạt".[55; tr15]
Trên cơ sở nghiên cứu các văn bản pháp luật hình sự đã ban hành trong thời kỳ này cho thấy,
những trường hợp được xem xét để áp dụng miễn TNHS có thể bao gồm:

1. Có quyết định đại xá;
2- Có âm mưu phạm tội nhưng tự nguyện nửa chừng chấm dứt việc phạm tội;
3- Trước khi sự việc bị phát giác đã thành thật tự thú khai rõ âm mưu, hành động của
mình và của đồng bọn;

4- Người phạm tội đã có những hành động ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của
tội phạm;

5- Bị bắt trước khi bị xét xử, người phạm tội đã tỏ ra thành thật hối cải lập công chuộc
tội hoặc tự nguyện bồi thường hoặc sửa chữa thiệt hại gây ra;


6- Phạm tội vì bị ép buộc, lừa phỉnh và việc làm chưa gây thiệt hại lớn hoặc phạm tội
có tính chất cơ hội.

1.4.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 đến Bộ
luật hình sự năm 1999.

1.4.2.1. Bộ luật hình sự năm 1985
Ngày 27 tháng 6 năm 1985, Quốc Hội nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thơng qua BLHS đầu tiên của nước CHXH Việt Nam. Sự ra đời của BLHS năm 1985 đã đánh
dấu một bước phát triển mới trong công tác lập pháp, cụ thể là BLHS nói chung, các quy định về
miễn TNHS nói riêng. Theo đó, chế định miễn TNHS được chính thức quy định tại một số điều
của Phần chung và Phần các tội phạm BLHS. Trong BLHS năm 1985, tại Điều
48. Miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt
“1- Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu khi tiến hành điều tra
hoặc xét xử do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không

24


còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
2- Nếu trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc
góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp
nhất hậu quả của tội phạm, thì cũng có thể được miễn trách nhiệm hình sự.”.
Mặc dù BLHS năm 1985 khơng định nghĩa khái niệm miễn TNHS là gì nhưng tại Điều 48
đã ghi nhận những trường hợp người phạm tội được miễn TNHS nếu trong quá trình điều tra
hoặc xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội hoặc hành vi phạm tội khơng cịn
nguy hiểm cho xã hội nữa thì người đó được miễn TNHS. Trong Khoản 2 Điều 48 BLHS năm
1985 ghi nhận thêm trường hợp được miễn TNHS nếu trước khi hành vi phạm tội
bị phát giác người phạm tội tự thú mà họ đã có thành tích trong việc khai rõ tội phạm đã thực
hiện, giúp cơ quan có thẩm quyền điều tra tội phạm.

Ngồi ra BLHS năm 1985 còn quy định những trường hợp miễn TNHS bao gồm: Tại
Điều 16 quy định “Miễn TNHS do tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội”; tại đoạn 1 khoản 1
Điều 48 “do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội khơng cịn
nguy hiểm cho xã hội nữa”; tại đoạn 2 khoản 1 Điều 48 “do người phạm tội tự thú, thật thà khai
báo, ăn năn hối cải”; tại khoản 3 Điều 59 “người chưa thành niên phạm tội”; tại khoản 3 Điều 74
“cho người phạm tội gián điệp”; tại khoản 5 Điều 227 “cho người phạm tội đưa hối lộ”; tại khoản
2 Điều 247 “cho người phạm tội không tố giác tội phạm”.
Sau một thời gian áp dụng BLHS năm 1985, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã ban hành
Nghị quyết số 02-HĐTP ngày 05/01/1986, trong đó, có hướng dẫn cụ thể về việc tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội của người thực hành tội phạm, cụ thể đề cập đến các điều kiện của tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, việc miễn TNHS trong trường hợp người tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội là người tổ chức tội phạm.
Ngày 05/01/1986, Hội đồng thẩm phán TANDTC ban hành Nghị quyết số 02/HĐTP; văn bản
này chỉ mới hướng dẫn về việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người thực hành tội
phạm, chưa có hướng dẫn về việc “tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong các trường hợp
với ba loại người đồng phạm còn lại: người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức”. Theo
Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ngày 19/04/1989 về việc Hướng dẫn bổ sung
việc áp dụng một số quy định của BLHS năm 1985, trong đó có hướng dẫn cụ thể đối với ba loại
người đồng phạm trên. Cụ thể:
- “Đối với người xúi giục, người tổ chức phải thuyết phục, khuyên bảo, đe dọa để người thực
hành không thực hiện tội phạm hoặc phải báo cho cơ quanNhà nước có thẩm quyền, báo cho
người sẽ là nạn nhân biết về tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện để cơ quan Nhà nước hoặc
người sẽ là nạn nhân có biện pháp ngăn chặn tội phạm.
- Đối với người giúp sức phải chấm dứt việc tạo những điều kiện tinh thần, vật chất cho việc

25


×