Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (875.07 KB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ TUYẾT THANH

TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ TUYẾT THANH

TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THỊ HOÀI PHƯƠNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tác giả,


khơng hề sao chép từ luận văn của các tác giả khác. Tác giả chịu trách nhiệm
danh dự về cơng trình nghiên cứu của mình.

Người viết

NGUYỄN THỊ TUYẾT THANH


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BAST

Bản án sơ thẩm

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLLĐ

Bộ luật Lao động

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

HĐTPTANDTC

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao


GĐT

Giám đốc thẩm

GQVA

Giải quyết vụ án

LDS

Luật Dân sự

LHN&GĐ

Luật Hơn nhân và gia đình

PLTTGQCVADS

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

PLTTGQCVAKT

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế

PLTTGQCTCLĐ
động

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao

TAND


Tòa án nhân dân

Tp.HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

TTDS

Tố tụng dân sự

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU .......................................................................................... 1
CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI
QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ ........................................................................ 6
1.1. Khái niệm và đặc trưng pháp lý của tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự .... 6
1.2. Ý nghĩa của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ................................. 9
1.3. Hậu quả pháp lý của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự .................. 10
1.4. Qui định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong pháp luật Việt Nam
từ năm 1945 đến 01/01/2005 ............................................................................. 11

1.5. Quy định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong pháp luật tố tụng
dân sự một số nước ............................................................................................ 17

CHƯƠNG II. QUI ĐỊNH VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
DÂN SỰ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH,
THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT ...................................................................................................... 26
2.1. Qui định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam hiện hành ...................................................................................... 26
2.2. Thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật .................................. 46

KẾT LUẬN ............................................................................................. 70


1

LỜI NĨI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là một thủ tục tố tụng trong quá trình
giải quyết vụ án dân sự. Khi áp dụng thủ tục tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự,
có thể ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của một số đương sự nhất định. Vì
vậy, pháp luật qui định việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự phải bảo đảm
những căn cứ nhất định, do pháp luật tố tụng dân sự qui định.
Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành qui định nhiều căn cứ để tạm
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, qua một thời gian áp dụng đã bộc lộ
khơng ít bất cập, làm cho việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thực tế
gặp nhiều khó khăn. Nhiều trường hợp đương sự cịn lợi dụng việc tạm đình chỉ để
kéo dài thời gian giải quyết vụ án, gây khó khăn cho các đương sự khác. Một số cơ
quan, tổ chức đang lưu giữ tài liệu, chứng cứ của vụ án còn chưa kịp thời trong việc
cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án, cũng làm cho vụ án bị tạm

đình chỉ kéo dài... Một số quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa
án các cấp chưa bảo đảm căn cứ pháp luật, bị kháng cáo, kháng nghị và bị Tòa án
cấp phúc thẩm hủy để yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm phải tiếp tục giải quyết vụ án.
Do vậy, việc nghiên cứu một cách tồn diện về tạm đình chỉ giải quyết vụ án
trong tố tụng dân sự là rất cần thiết. Việc nghiên cứu này nhằm làm sáng tỏ bản chất
pháp lý của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, cơ sở khoa học của việc xây
dựng các qui định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Trên cơ sở nghiên cứu lý
luận, luận văn sẽ nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết
vụ án, làm rõ những hạn chế, vướng mắc, bất cập trong việc áp dụng những qui
định về căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thực tiễn. Qua nghiên cứu
lý luận và thực tiễn, tác giả mong muốn đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Với những lý do trên, học viên
chọn đề tài “Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự” để nghiên cứu làm Luận văn
Thạc sĩ Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là một cơng trình nghiên cứu mang tính
chất lý luận chuyên sâu. Đây là một đề tài ít được nghiên cứu trong thời gian qua.
Trong thực tế, đã có một số cơng trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài này,


2

nhưng việc nghiên cứu chưa mang tính chất chuyên sâu và tồn diện, có một số giới
hạn nhất định về phạm vi và thời gian nghiên cứu. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên
cứu trên là một nguồn tư liệu tham khảo bổ ích đối với tác giả, giúp cho tác giả có
thêm những quan điểm, góc nhìn hồn chỉnh hơn về đề tài nghiên cứu. Liên quan
đến đề tài tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong tố tụng dân sự Việt Nam có thể
kể đến một số cơng trình nghiên cứu sau:
Phạm Hải Tâm (2010), Tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự theo
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại

học Luật Hà Nội, 2010. Tại cơng trình này, tác giả nghiên cứu chung hai thủ tục
đình chỉ và tạm đình chỉ giải quyết đối với hai loại vụ và việc dân sự. Trong cơng
trình nghiên cứu của mình, tác giả đã phân tích qui định của pháp luật tố tụng dân
sự năm 2004, thực trạng áp dụng tại một số địa phương và nêu lên một số khó khăn,
vướng mắc đồng thời đề xuất giải pháp hoàn thiện1.
Hoàng Thị Phương Liên (2010), Tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ việc
dân sự, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2010. Tại cơng trình
này, tác giả cũng nghiên cứu hai thủ tục là đình chỉ và tạm đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự đối với cả vụ và việc dân sự. Cơng trình này cũng như cơng trình của tác giả
Phạm Hải Tâm, nghiên cứu qui định của pháp luật về đình chỉ, tạm đình chỉ giải
quyết vụ, việc dân sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004. Tác giả cũng chỉ ra
một số khó khăn, vướng mắc và đề xuất giải pháp hồn thiện2.
Cả hai cơng trình nghiên cứu nêu trên cũng đã chỉ ra được một số vấn đề bất
cập trong qui định của pháp luật về thủ tục đình chỉ và tạm đình chỉ giải quyết vụ,
việc dân sự. Tuy nhiên, hai cơng trình nêu trên cịn có hạn chế là chưa đi sâu phân
tích qui định của pháp luật về căn cứ để ban hành quyết định tạm đình chỉ giải quyết
vụ án và nội dung nghiên cứu chỉ dựa trên cơ sở Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, chưa
được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2011. Do đó, cả hai cơng trình nghiên cứu nêu trên chưa có điều kiện
tiếp cận những quan điểm mới của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành nên việc

1

Xem thêm: Phạm Hải Tâm (2010), Tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Luật
TTDS 2004, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường đại học luật Hà Nội, 2010;
2

Xem thêm: Hoàng Thị Phương Liên (2010), Tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự, Khóa luận tốt
nghiệp, Trường đại học luật Hà Nội, 2010.



3

nghiên cứu có nhiều hạn chế. Từ sau khi Bộ luật Tố tụng dân sự được sửa đổi, bổ
sung vào năm 2011 đến nay, vấn đề này chưa có cơng trình nghiên cứu chun sâu.
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề chung về tạm đình chỉ
việc giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân các cấp trong pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam, tìm hiểu thực trạng áp dụng các căn cứ về tạm đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự trong thực tiễn giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân các cấp.
Trên cơ sở đó, Luận văn sẽ phân tích, đánh giá những điểm còn vướng mắc, bất cập
của pháp luật hiện hành về căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Từ những
vướng mắc trong thực tiễn, tác giả đề xuất những kiến nghị nhằm góp phần hồn
thiện pháp luật về căn cứ tạm đình giải quyết vụ án dân sự cho phù hợp với thực
tiễn giải quyết các vụ án dân sự hiện nay.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các qui định của pháp luật hiện hành
về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Luận văn dự kiến tập trung làm rõ một số
vấn đề cụ thể sau đây:
- Làm rõ một số vấn đề cơ bản về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự như:
khái niệm, đặc trưng pháp lý, ý nghĩa, hậu quả pháp lý của việc tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự; cơ sở khoa học của việc xây dựng các qui định về tạm đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự, qui định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của pháp
luật một số nước trên thế giới và sự phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự từ năm 1945 đến nay.
- Phân tích, đánh giá những qui định của BLTTDS 2004, và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011 về căn cứ tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng qui định về căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ

án trong pháp luật tố tụng dân sự hiện hành tại Toà án nhân dân các cấp, nhằm phát
hiện những hạn chế, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng. Trên cơ sở tổng
hợp các kết quả nghiên cứu, Luận văn sẽ đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần


4

hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong thủ tục tố tụng dân sự có vụ và việc dân sự. Thủ tục tạm đình chỉ giải
quyết được qui định chủ yếu đối với vụ án dân sự. Đối với việc dân sự, thủ tục tố
tụng về tạm đình chỉ giải quyết chưa có qui định riêng. Thủ tục tạm đình chỉ giải
quyết việc dân sự được dựa trên những thủ tục tạm đình chỉ đối với vụ án dân sự.
Hơn nữa, trong thực tiễn giải quyết việc dân sự, vấn đề tạm đình chỉ ít xảy ra. Vì
các lý do trên, giới hạn của Luận văn là chỉ nghiên cứu những qui định về tạm đình
chỉ giải quyết vụ án dân sự mà khơng nghiên cứu vấn đề tạm đình chỉ giải quyết đối
với việc dân sự. Trong Luận văn, tác giả cũng chủ yếu nghiên cứu những qui định
của pháp luật Việt Nam hiện hành về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự mà
khơng nhằm mục đích so sánh luật với các nước về vấn đề này, tuy rằng trong một
số điểm có so sánh nhưng mục đích chỉ làm rõ hơn qui định của căn cứ tạm đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự trong pháp luật Việt Nam.
Về số liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này, tác giả dựa trên cơ sở số
liệu giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và Tịa án nhân dân
tỉnh Bình Dương, là các Tịa án có số lượng án thụ lý cao trong khu vực và cả nước,
trong đó, có nhiều vụ án dân sự được áp dụng biện pháp tạm đình chỉ giải quyết vụ
án.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa MacLenin và tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu đề tài. Trong từng chương, tác giả áp
dụng một số phương pháp cụ thể như sau:

Trong Chương I, tác giả tập trung sử dụng phương pháp phân tích để phân
tích, làm rõ những khái niệm, đặc trưng pháp lý, ý nghĩa và hậu quả pháp lý của
việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Tác giả phân tích qui định về tạm đình
chỉ giải quyết vụ án dân sự trong pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Bằng
phương pháp phân tích kết hợp với phương pháp so sánh, trong Chương I tác giả
cũng có phân tích qui định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong pháp luật
của một số nước và so sánh, đối chiếu với pháp luật của Việt Nam.


5

Trong Chương II, tác giả cũng dùng phương pháp phân tích để phân tích qui
định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong pháp luật Việt Nam hiện hành.
Tác giả dùng phương pháp phân tích kết hợp với phương pháp thống kê để phân
tích những vướng mắc, bất cập, thống kê những số liệu, bản án được áp dụng trong
thực tế có phát sinh vướng mắc, bất cập của pháp luật hiện hành về tạm đình chỉ
giải quyết vụ án. Sau khi phân tích, thống kê, tác giả dùng phương pháp tổng hợp để
tổng hợp, khái quát kết quả nghiên cứu, làm cơ sở để đưa ra một số đề xuất, kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hiện hành về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
Có thể nói phương pháp phân tích và tổng hợp là hai phương pháp chủ yếu được áp
dụng trong suốt Luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Luận văn góp phần làm rõ về cơ sở lý luận của việc tạm đình giải quyết vụ
án trong thủ tục tố tụng dân sự hiện hành. Luận văn cũng góp phần phân tích, đánh
giá thực tiễn áp dụng căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong thời gian
gần đây, từ đó chỉ ra một số vướng mắc, bất cập và xây dựng một số cơ sở nhằm
kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện hành về tạm đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng như một tài liệu tham
khảo cho những người làm việc liên quan đến việc giải quyết các vụ án dân sự,

những đọc giả có quan tâm đến việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo pháp
luật Việt Nam hiện hành. Luận văn có thể có ích cho những đọc giả là cán bộ cơng
tác trong các ngành Tịa án, Viện kiểm sát cũng như sinh viên các Trường Cao đẳng,
Đại học có chuyên ngành Luật.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài lời mở đầu và phần kết luận, Luận văn kết cấu gồm 2 chương:
Chương I: Một số vấn đề chung về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Chương II: Qui định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành, thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện pháp
luật.


6

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TẠM ĐÌNH CHỈ
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ

1.1. Khái niệm và đặc trưng pháp lý của tạm đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự
1.1.1. Khái niệm tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Theo giải thích của Từ điển Tiếng Việt thì “tạm là chỉ trong một thời gian
nào đó, khi có điều kiện sẽ thay đổi3”; cịn “đình chỉ là ngừng lại hoặc làm cho
phải ngừng lại trong một thời gian hoặc vĩnh viễn4”. Như vậy, tạm đình chỉ là tạm
thời ngừng lại hoặc làm cho phải ngừng lại trong một thời gian nào đó, khi có điều
kiện thì sẽ được tiếp tục.
“Vụ án dân sự” là một thuật ngữ pháp lý, theo Từ điển giải thích thuật ngữ
luật học, “vụ án dân sự là việc phát sinh tại Toà án, thuộc thẩm quyền xét xử về dân
sự của Toà án, do cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức xã hội khởi
kiện, Viện kiểm sát khởi tố u cầu Tồ án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình,

của Nhà nước, của tập thể hay của người khác5”. Tuy nhiên, qua thời gian, cách
giải thích về vụ án dân sự có nhiều thay đổi. Theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự năm 1989, vụ án dân sự là những tranh chấp hay yêu cầu liên quan đến
tài sản, nhân thân trong quan hệ dân sự, hơn nhân gia đình và lao động6. Sau khi
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (1994), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các tranh chấp lao động (1996) được ban hành thì khái niệm “vụ án dân sự” được
loại trừ những tranh chấp về kinh tế và lao động, chỉ gồm những vụ án về dân sự và
hơn nhân gia đình.
Sau khi Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 được ban hành, các tranh chấp về dân
sự, hơn nhân gia đình, lao động, kinh doanh thương mại được thống nhất giải quyết

3

Viện ngôn ngữ học (2005), Từ điển Tiếng việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học, Đà Nẵng, tr.887.

4

Viện Ngôn ngữ học, tdđd 1, tr.450.

5

Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, NXB Công an nhân dân, Hà Nội,
tr.219.
6

Xem thêm: Điều 10 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989.


7


thành một thủ tục chung, được qui định trong Bộ luật Tố tụng dân sự. Bộ luật Tố
tụng dân sự qui định thủ tục giải quyết những tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa
các bên đương sự, phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, quan hệ pháp luật hơn
nhân và gia đình, quan hệ pháp luật kinh doanh, thương mại và quan hệ pháp luật
lao động. Do đó, khái niệm vụ án dân sự phải được hiểu lại như sau: Vụ án dân sự
là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ, phát sinh trong quan hệ pháp luật dân sự, hơn
nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động do các đương sự khởi kiện, được Tòa
án thụ lý giải quyết bằng pháp luật tố tụng dân sự.
Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự theo giải thích của Từ điển thuật ngữ
luật học là “tạm thời ngừng giải quyết vụ án dân sự đã thụ lý7”. Tuy nhiên, một số
nhà nghiên cứu có quan điểm thêm rằng: “Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là
việc Tòa án quyết định tạm ngừng việc giải quyết vụ án dân sự khi có những căn cứ
do pháp luật qui định8” hoặc “Tạm đình chỉ giải quyết vụ án là hành vi tố tụng sau
khi thụ lý vụ án của Tịa án có thẩm quyền tạm dừng q trình giải quyết vụ án khi
phát hiện có một trong những căn cứ để tạm đình chỉ theo qui định của pháp luật.
Vụ án được tiếp tục giải quyết lại nếu căn cứ tạm đình chỉ khơng cịn nữa9”.
Qua các khái niệm nêu trên, chúng ta thấy rằng khái niệm tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự được giải thích ở nhiều góc độ khác nhau, nhưng về bản chất là
thống nhất. Theo đó, tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là một thủ tục của Tòa án,
tạm dừng việc giải quyết vụ án trong một thời gian, dựa trên những căn cứ do pháp
luật qui định và khi căn cứ tạm đình chỉ khơng còn nữa, vụ án sẽ được tiếp tục giải
quyết. Với cách hiểu như trên là tương đối rõ ràng và đầy đủ với bản chất của việc
tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
1.1.2. Đặc trưng pháp lý của tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Thứ nhất, tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là một thủ tục trong tố tụng
dân sự. Việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự được pháp luật qui định cho một
cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện theo một thủ tục nhất định, trên cơ sở những căn
7

Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb. Cơng an nhân dân, 1999, tr.

231.
8

Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Cơng an nhân dân,
2012, tr.267.
9

Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Hồng Đức,
tr.263.


8

cứ pháp luật. Chỉ có Tịa án, với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng, có quyền
quyết định việc tạm đình chỉ trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Pháp luật tố
tụng dân sự qui định rõ về thẩm quyền, thủ tục và hậu quả pháp lý của việc tạm
đình chỉ giải quyết vụ án. Việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án cịn phải được quyết
định dựa trên những căn cứ do pháp luật qui định. Căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ
án phải bảo đảm tính khách quan, chính xác, chặt chẽ, bảo đảm quyền và lợi ích của
tất cả các đương sự trong vụ án dân sự. Do việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án làm
cho việc giải quyết vụ án bị kéo dài thêm, có thể gây thiệt hại đến quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự, cho nên việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án phải bảo đảm
dựa trên những căn cứ cụ thể theo qui định của pháp luật. Khi có những căn cứ do
pháp luật qui định, Tịa án mới được tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án. Thẩm phán
không thể tùy tiện dựa trên ý chí chủ quan hay theo những đề nghị khơng có căn cứ
pháp lý của đương sự mà áp dụng biện pháp tạm đình chỉ giải quyết vụ án để kéo
dài thời hạn giải quyết vụ án một cách trái pháp luật.
Thứ hai, việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự chỉ được Tòa án tiến hành
sau khi vụ án đã được thụ lý. Lúc này, căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án mới dó
điều kiện xuất hiện. Trước khi thụ lý vụ án, ở giai đoạn đương sự mới nộp đơn

nhưng chưa đóng tạm ứng án phí, cịn cần phải chờ bổ sung tài liệu khởi kiện thì vụ
án chưa được bắt đầu cho nên không đặt ra vấn đề tạm dừng việc giải quyết. Sau khi
thụ lý vụ án, Thẩm phán mới tiến hành các thủ tục tố tụng cần thiết để giải quyết vụ
án. Khi đó, nếu phát hiện những căn cứ theo qui định của pháp luật, làm cho việc
giải quyết vụ án khơng thể tiếp tục tiến hành thì Tịa án mới phải tạm dừng việc giải
quyết vụ án. Do đó, việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án chỉ được đặt ra sau khi thụ lý
vụ án, cụ thể là trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc tại phiên tịa sơ thẩm, phúc
thẩm.
Thứ ba, việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án chỉ có tính chất tạm thời, không
phải là vĩnh viễn và không được xem là một hình thức để kết thúc việc giải quyết vụ
án dân sự. Sau khi tạm đình chỉ, vụ án sẽ có cơ hội được tiếp tục giải quyết khi
những lý do tạm đình chỉ khơng cịn nữa. Do đó, Tịa án không đặt vấn đề xử lý số
tiền tạm ứng án phí khi ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án và Thẩm phán
phải thường xuyên xem xét lý do tạm đình chỉ đã được khắc phục hay chưa, để sớm
đưa vụ án trở lại giải quyết. Khi phát hiện lý do tạm đình chỉ khơng cịn, các đương


9

sự cũng có quyền u cầu Tịa án phải tiếp tục giải quyết vụ án để bảo đảm quyền
lợi tố tụng của mình.
1.2. Ý nghĩa của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
1.2.1 Bảo đảm quyền tham gia tố tụng của đương sự và người đại diện
hợp pháp của họ
Giải quyết vụ án là một quá trình. Trong thực tế, q trình giải quyết vụ án
có thể xuất hiện các sự kiện làm cho việc tham gia tố tụng của đương sự gặp trở
ngại, khó khăn, khơng bảo đảm sự có mặt khi Tịa án triệu tập. Nếu trong những
trường hợp như vậy mà vụ án không được tạm dừng giải quyết thì có nguy cơ thiếu
vắng sự tham gia của một bên đương sự, gây thiệt hại cho một hoặc một số đương
sự của vụ án. Có thể kể đến những trường hợp như: Đương sự là cá nhân đã chết, cơ

quan, tổ chức đã sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa có cá nhân, cơ quan, tổ chức
kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó; đương sự là cá
nhân mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định được người đại diện theo pháp
luật của đương sự đó; việc đại diện hợp pháp của đương sự đã bị chấm dứt mà chưa
xác định được người thay thế… Trong những trường hợp như thế, việc tạm dừng
giải quyết vụ án dân sự trong một thời gian là cần thiết, nhằm bảo đảm quyền tham
gia tố tụng của các đương sự, tạo điều kiện cho đương sự bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Do đó, pháp luật qui định việc tạm dừng giải quyết vụ án dân
sự trong những trường hợp này là rất cần thiết.
1.2.2 Bảo đảm tính khách quan, chính xác và toàn diện trong việc giải
quyết vụ án dân sự
Để phán quyết về một vụ án, phải dựa trên cơ sở các chứng cứ đã được thu
thập đầy đủ. Trong nhiều trường hợp, việc thu thập chứng cứ của Tòa án phải lệ
thuộc vào cơ quan khác như đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp hoặc đợi cơ quan,
tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tịa án. Ngồi ra, cịn có
trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan tới kết quả giải quyết của một
vụ án khác (như vụ án dân sự, hình sự, hành chính…). Khi chưa có đầy đủ chứng cứ
cần thiết, Tịa án khó có thể đưa ra phán quyết về vụ án một cách khách quan, chính
xác và tồn diện được. Trong khi thời hạn giải quyết vụ án dân sự đã hết, nếu khơng
có qui định cho phép Tòa án được tạm dừng việc giải quyết vụ án thì Tịa án buộc
phải đưa ra phán quyết trong tình trạng chưa đầy đủ những cơ sở cần thiết. Trong


10

tình trạng như thế, nếu buộc phải có phán quyết để kết thúc vụ án, Tịa án có thể
dựa vào suy đoán chủ quan, phiến diện để phán quyết. Những phán quyết dựa trên
sự suy đoán, thiếu căn cứ của Tịa án khó bảo đảm khách quan, chính xác, đúng
pháp luật và có thể gây bất lợi cho đương sự. Do đó, luật qui định các căn cứ cho
Tịa án được tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự trong những trường hợp cần

thiết cũng là để bảo đảm việc giải quyết vụ án được khách quan, chính xác, tồn
diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ án.
1.3. Hậu quả pháp lý của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
Việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự sẽ làm gián đoạn quá trình tố tụng
dân sự. Do đó, hậu quả của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là làm kéo dài
thời hạn tố tụng của vụ án thêm một khoảng thời gian nhất định tùy thuộc vào sự
tồn tại của căn cứ tạm đình chỉ. Khi căn cứ tạm đình chỉ khơng cịn nữa thì vụ án sẽ
được phục hồi việc giải quyết mà không phải khởi kiện lại từ đầu. Hậu quả của việc
tạm đình chỉ chỉ là tạm dừng chứ không phải chấm dứt hẳn việc giải quyết, vụ án sẽ
tiếp tục được xem xét trở lại trong tương lai. Cho nên, trong trường hợp Tịa án tạm
đình chỉ giải quyết vụ án thì xem như vụ án đó vẫn cịn đang thụ lý, Tịa án khơng
xóa tên vụ án trong sổ thụ lý. Tịa án có thể ghi chú vào cột tạm đình chỉ vụ án trong
sổ thụ lý về số, ngày, tháng, năm và lý do của quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ
án để phân biệt và xác định thời hạn giải quyết vụ án.
Về án phí, do chỉ là tạm dừng trong một thời gian nhất định chứ chưa phải
chấm dứt việc giải quyết vụ án nên Tòa án chưa thể xử lý số tiền tạm ứng án phí của
đương sự khi tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Tiền tạm ứng án phí mà đương
sự đã nộp theo u cầu của Tịa án sẽ tiếp tục được giữ lại (tại Kho bạc Nhà nước).
Số tiền này sẽ được xử lý khi vụ án được giải quyết trở lại10.
Quyết định tạm đình chỉ vụ án dân sự cũng có khả năng gây thiệt hại đến
quyền và lợi ích của các đương sự. Do đó, luật qui định cho các đương sự có quyền
phản đối việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Pháp luật tố tụng dân sự qui định quyết
định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật ngay mà có thể bị đương sự kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ

10

Theo khoản 2 Điều 190 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004.



11

tục phúc thẩm11. Ngồi ra, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có hiệu
lực pháp luật cịn có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong trường hợp
hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mới có khiếu nại, kiến nghị và Tịa án cấp sơ
thẩm ban hành quyết định tạm đình chỉ đó cho rằng quyết định tạm đình chỉ là đúng
và vẫn giữ nguyên12.
1.4. Qui định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong pháp luật
Việt Nam từ năm 1945 đến 01/01/2005
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1959
Năm 1945, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, thành lập Nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc xây dựng hệ
thống pháp luật. Trước mắt, để giữ ổn định xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành
Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945, cho áp dụng tạm thời một số luật lệ hiện hành
của chế độ cũ, nếu không trái với nguyên tắc độc lập của đất nước. Sau đó, Nhà
nước ta đã liên tục cho biên soạn và ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng
trong lĩnh vực tư pháp như Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức Tòa án và
các ngạch Thẩm phán, Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 qui định về thẩm quyền
các Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong ngành Tòa án. Đặc biệt là việc
sớm ban hành Hiến pháp năm 1946, xây dựng nền tảng hệ thống pháp luật của đất
nước. Sau khi có Hiến pháp 1946, nhiều văn bản pháp luật liên tục được ban hành,
trong đó có những băn bản pháp luật nhằm xây dựng một hệ thống cơ quan tư pháp
và thủ tục tố tụng tư pháp vững mạnh như Sắc lệnh số 130/SL ngày 19/7/1946 quy
định về thể thức thi hành án, Sắc lệnh số 185/SL ngày 26/5/1948 qui định về thẩm
quyền các Tòa án sơ cấp và đệ nhị cấp, Sắc lệnh số 85/SL ngày 25/5/1950 về cải
cách bộ máy tư pháp…
Từ năm 1954, đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền Nam, Bắc. Do
chế độ chính trị khác nhau nên hệ thống pháp luật cũng khác nhau. Miền Bắc theo
thể chế chủ nghĩa xã hội nên ra sức tiến hành xây dựng hệ thống pháp luật xã hội
chủ nghĩa; Miền Nam còn bị tư bản, đế quốc xâm chiếm nên vẫn tiếp tục sử dụng

các văn bản pháp luật cũ thời Pháp thuộc. Ngay tại Miền Bắc, do còn trong thời kỳ

11

Theo khoản 3 Điều 190 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004.

12

Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006, khoản 9.2, Mục II.


12

chiến tranh nên hệ thống văn bản pháp luật được xây dựng và ban hành còn hạn chế,
chỉ thiên về tố tụng hình sự và quản lý hành chính, các văn bản pháp luật về tố tụng
dân sự ít được phát triển. Từ đó, vấn đề tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự cũng
chưa được qui
định rõ ràng trong thời kỳ này.
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến 1989
Năm 1959, nước ta thay đổi Hiến pháp lần đầu tiên. Hiến pháp 1959 tạo nên
một chuyển biến lớn trong kỹ thuật lập pháp, mở đường cho việc xây dựng một hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh. Từ nền tảng căn bản của Hiến pháp 1959, một số văn
bản pháp luật về tố tụng dân sự ra đời, trong đó qui định về tạm đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự cũng dần dần được hình thành. Năm 1972, Tịa án nhân dân tối cao
ban hànhThông tư số 39/NCLP ngày 21/1/1972, hướng dẫn việc thụ lý, di lý, xếp và
tạm xếp vụ kiện về hơn nhân-gia đình và những tranh chấp về dân sự. Theo qui định
tại Thông tư số 39/NCLP ngày 21/1/1972, Tòa án quyết định tạm xếp vụ kiện trong
các trường hợp: “Nguyên đơn được gọi nhiều lần đều vắng mặt khơng có lý do
chính đáng; bị đơn giấu địa chỉ, khơng tới tồ án…”. Những căn cứ tạm đình chỉ
trong thời gian này tuy chưa phong phú nhưng cũng đáp ứng phần nào nhu cầu tạm

dừng việc giải quyết vụ án trong một thời gian nhất định đối với những trường hợp
không thể tiếp tục giải quyết vụ án dân sự.
Năm 1980, Hiến pháp được thay đổi lần thứ hai. Từ Hiến pháp 1980, Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân cùng được ban
hành. Trên cơ sở Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 1982, nhiều văn bản pháp luật về tố tụng dân sự tiếp tục được ban
hành, nhưng trong thời gian này chưa có qui định thêm về việc tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự.
Như vậy, trong giai đoạn này, qui định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự bước đầu được hình thành và được gọi bằng thuật ngữ “tạm xếp vụ kiện”. Căn cứ
tạm đình chỉ trong giai đoạn này chưa phát triển, chỉ giới hạn trong một số trường
hợp và trong phạm vi loại việc về hơn nhân gia đình, tranh chấp dân sự.


13

1.4.3. Giai đoạn từ 1990 đến ngày 01/01/2005
Thời kỳ này mới thực sự là thời kỳ phát triển vượt bậc của pháp luật về tố
tụng dân sự, đỉnh cao là việc ban hành ba pháp lệnh về tố tụng là Pháp lệnh Thủ tục
giải quyết các vụ án dân sự ngày 29/11/1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ
án kinh tế ngày 16/3/1994, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động
ngày 11/4/1996.
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 qui định khá hồn
chỉnh việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Pháp lệnh dành nhiều điều khoản
qui định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong từng giai đoạn tố tụng khác
nhau như chuẩn bị xét xử, tại phiên tòa sơ thẩm, tại Tòa án cấp phúc thẩm. Theo
Pháp lệnh này, các căn cứ để Tòa án có thể quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự được qui định cụ thể như sau13:
- Nguyên đơn hoặc bị đơn chết mà chưa có người thừa kế tham gia tố tụng;
- Đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà một trong các đương sự khơng thể có

mặt vì bị ốm nặng hoặc có lý do chính đáng khác;
- Khơng tìm được địa chỉ của bị đơn;
- Cần đợi kết quả giải quyết vụ án hình sự, vụ án dân sự khác;
- Sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ quan tổ chức khác giải quyết
trước mới giải quyết được vụ án.
Không chỉ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, mà tại phiên tòa sơ thẩm, Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 cũng qui định cho Tịa án tạm
đình chỉ giải quyết vụ án nếu có các căn cứ tạm đình chỉ. Tại Tịa án cấp phúc thẩm,
trong quá trình giải quyết tiếp vụ án, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
năm 1989 cũng cho phép Tòa án cấp phúc thẩm tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án
dân sự khi phát hiện có các căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự14.
Để có nhận thức thống nhất trong việc vận dụng pháp luật về thủ tục giải
quyết vụ án dân sự, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành văn bản pháp luật hướng
dẫn thi hành Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989. Tại Nghị
quyết số 03/NQ-HĐTP ngày 19/10/1990, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối

13

Theo Điều 45 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989.

14

Theo Điều 69 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989.


14

cao đã hướng dẫn chi tiết về việc áp dụng các quy định về tạm đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự. Cụ thể, trường hợp “khơng tìm được địa chỉ của bị đơn được hiểu là
sau khi Tòa án đã thụ lý vụ án thì bị đơn khơng có mặt tại địa chỉ do nguyên đơn

cung cấp và không ai biết địa chỉ của bị đơn. Trong trường hợp này Tịa án u cầu
ngun đơn tìm địa chỉ của bị đơn. Tịa án cũng có thể áp dụng những biện pháp
cần thiết để xác định địa chỉ của bị đơn. Nếu khơng tìm thấy địa chỉ của bị đơn thì
Tịa án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án15”. Và trong trường hợp “bị
đơn cố ý giấu địa chỉ, cố ý lẩn tránh khơng đến Tịa án nhưng trước đó Tịa án đã
lấy lời khai của họ, đã thu thập được chứng cứ đầy đủ, thì Tịa án có quyền xét xử
vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 48 của Pháp lệnh16”.
Về thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ, Nghị quyết số 03/NQ-HĐTP
ngày 19/10/1990, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn cụ thể:
“Trước khi mở phiên tịa, Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ
án, cịn tại phiên tịa thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ
án17”. Hậu quả pháp lý của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự cũng được
Pháp lệnh qui định rõ, cụ thể là quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án của
Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm18. Tịa
án cấp phúc thẩm có trách nhiệm xét kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định tạm
19

đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự của Tòa cấp sơ thẩm . Quyết định tạm đình
chỉ việc giải quyết vụ án của Tòa án cấp phúc thẩm cũng như các quyết định khác
của Tòa án cấp phúc thẩm đều là chung thẩm, có hiệu lực thi hành, chỉ có thể bị
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm và nếu có khiếu nại thì giải
quyết theo thủ tục giải quyết đơn khiếu nại20.
Do bản chất của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự chỉ là tạm dừng
việc giải quyết trong một thời gian, nên Nghị quyết 03/NQ-HĐTP ngày 19/10/1990
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nêu rõ trách nhiệm của Tòa án là

15

Khoản 2 Mục VIII Nghị quyết số 03/NQ-HĐTP ngày 19/10/1990.


16

Khoản 1 Mục VIII Nghị quyết số 03/NQ-HĐTP ngày 19/10/1990.

17

Khoản 3 Mục VIII Nghị quyết số 03/NQ-HĐTP ngày 19/10/1990.

18

Theo quy định tại khoản 1 Điều 58 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989.

19

Theo quy định tại Điều 66 và Điều 70 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989.

20

Theo khoản 4 Mục VIII Nghị quyết số 03/NQ-HĐTP ngày 19/10/1990.


15

phải thường xuyên kiểm tra lý do tạm đình chỉ, nếu thấy lý do tạm đình chỉ giải
quyết vụ án khơng cịn nữa thì Tịa án phải tiếp tục đưa vụ án ra giải quyết. Khi
nhận được đơn kháng cáo, kháng nghị, khiếu nại về quyết định tạm đình chỉ, Tòa án
cũng phải tự kiểm tra lại quyết định tạm đình chỉ của mình. Nếu thấy việc tạm đình
chỉ là đúng qui định của pháp luật thì chuyển hồ sơ vụ án lên Tịa án cấp trên có
thẩm quyền để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm; nếu xét thấy việc
tạm đình chỉ giải quyết vụ án là khơng đúng hoặc lý do của việc tạm đình chỉ khơng

cịn nữa, thì Tịa án cần tiến hành ngay việc tiếp tục giải quyết vụ án và báo cho
người đã kháng cáo, kháng nghị, khiếu nại biết việc tiếp tục giải quyết, để Tòa án
cấp trên khỏi giải quyết việc kháng cáo, kháng nghị, khiếu nại theo thủ tục phúc
thẩm hoặc giám đốc thẩm một cách không cần thiết21.
Năm 1994, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế được tiếp tục ban
hành, để đáp ứng cho việc giải quyết các vụ tranh chấp về kinh tế đang ngày càng
phát sinh. Các căn cứ Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án được qui định là:
Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết, pháp nhân đã giải thể mà chưa có cá
nhân, pháp nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng; đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử
mà một trong các đương sự khơng thể có mặt vì lý do chính đáng; chưa tìm được
địa chỉ của bị đơn hoặc bị đơn bỏ trốn; cần đợi kết quả giải quyết vụ án hình sự, vụ
án dân sự và vụ án kinh tế khác; đã có Tồ án thụ lý đơn u cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp, mà doanh nghiệp đó là đương sự của vụ án và trong khi đang giải
quyết vụ án có liên quan đến doanh nghiệp mà phát hiện doanh nghiệp đó lâm vào
tình trạng phá sản22. Ngồi việc Thẩm phán thụ lý vụ án ra quyết định tạm đình chỉ
giải quyết vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét
xử cũng có quyền ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án, nếu có các căn cứ
tạm đình chỉ giải quyết vụ án23. Khi giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm, Tịa án cấp
phúc thẩm cũng có quyền tạm đình chỉ giải quyết vụ án nếu có căn cứ tạm đình
chỉ24.

21

Theo khoản 4 Mục VIII Nghị quyết số 03/NQ-HĐTP ngày 19/10/1990.

22

Khoản 1 Điều 38 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994.

23


Theo khoản 2 Điều 50 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994.

24

Theo khoản 4 Điều 70 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994.


16

Đối với các tranh chấp về lao động, để có sự tương thích về thủ tục giải
quyết tại Tịa án, Nhà nước tiếp tục ban hành Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh
chấp lao động năm 1996. Việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án vẫn được tiếp tục qui
định đối các vụ án lao động. Các căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án là: Nguyên
đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết, tổ chức đã giải thể mà chưa có cá nhân, tổ chức
kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng; đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà một trong các
đương sự không thể có mặt vì lý do chính đáng; chưa tìm được địa chỉ của bị đơn;
cần đợi kết quả giải quyết vụ án hình sự, vụ án dân sự, vụ án kinh tế, vụ án hành
chính hoặc vụ án lao động khác có liên quan; đã có Tồ án thụ lý đơn yêu cầu tuyên
bố phá sản doanh nghiệp mà doanh nghiệp đó là đương sự của vụ án; đã có quyết
định sáp nhập, phân chia doanh nghiệp, chuyển quyền sở hữu, quyền quản lý hoặc
quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp mà chưa xác định được người kế thừa
quyền và nghĩa vụ tố tụng25. Ngoài cấp sơ thẩm, khi giải quyết vụ án ở cấp phúc
thẩm hoặc theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì Tịa án cũng có quyền tạm đình
chỉ giải quyết vụ án khi có một trong các căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án nêu
trên26.
Nhìn chung, các qui định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án trong hai Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các tranh chấp lao động năm 1996 đều dựa trên nền tảng qui định của Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989. Tuy nhiên, hai pháp lệnh này có bổ

sung thêm một số căn cứ tạm đình chỉ đối với đương sự là tổ chức kinh tế và trong
lĩnh vực kinh tế, lao động như phá sản, sáp nhập, phân chia doanh nghiệp, chuyển
quyền sở hữu, quyền quản lý hoặc quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp…
Những điểm bổ sung này là cần thiết để phù hợp với tính chất của các vụ tranh chấp
về kinh tế, lao động theo cơ chế mới.
Sau các Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động nêu
trên, thủ tục tố tụng dân sự không ngừng được Nhà nước xây dựng hoàn thiện, đỉnh
cao là việc ban hành Bộ luật Tố tụng dân sự. Ngày 27/5/2004, Quốc hội Nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự đầu tiên của đất
nước, thống nhất thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế và lao động thành một
25

Theo khoản 1 Điều 40 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động 1996.

26

Theo khoản 2 Điều 70 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động 1996.


17

bộ luật chính thức, có giá trị pháp lý cao hơn. Trong Bộ luật Tố tụng dân sự, vấn đề
tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự như căn cứ, thẩm quyền, hiệu lực, hậu quả
pháp lý của việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án ở các cấp xét xử được quy định đầy
đủ và chi tiết hơn. Sau khi Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực, Tịa án nhân dân tối
cao đã có những văn bản hướng dẫn chi tiết việc áp dụng các qui định của Bộ luật,
trong đó có vấn đề tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Có thể kể đến là Nghị
quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005, Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP
ngày 12/5/2006, Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 4/8/2006…
Như vậy, vấn đề tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự được hình thành muộn

nhưng ngày càng được quan tâm bổ sung. Cho đến nay, những qui định về tạm đình
chỉ giải quyết vụ án tương đối phong phú, góp phần vào việc giải quyết các vụ án
dân sự ngày càng khách quan, chính xác, bảo vệ quyền tham gia tố tụng, quyền và
lợi ích chính đáng của các đương sự.
1.5. Quy định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong pháp luật tố
tụng dân sự một số nước
1.5.1. Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong pháp luật tố tụng dân sự
Liên bang Nga
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2003 là văn bản pháp luật qui định khá hoàn
chỉnh những vấn đề pháp lý trong tố tụng dân sự của Liên bang Nga, trong đó có
những qui định về vấn đề tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự27. Việc tạm đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự được Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga qui định thành
nghĩa vụ và quyền của Tịa án.
Xét theo góc độ nghĩa vụ, Tịa án bắt buộc phải tạm đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự trong các trường hợp28:
- Công dân bị chết (nếu quan hệ pháp luật tranh chấp cho phép được kế thừa
quyền, nghĩa vụ) hoặc pháp nhân bị tổ chức lại, nếu cơng dân và pháp nhân đó là
ngun đơn, bị đơn hoặc là những người có quyền, nghĩa vụ liên quan tới yêu cầu
độc lập;

27
Các vấn đề liên quan đến việc tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự được qui định tại Chương XVII, từ
Điều 215 đến Điều 219.
28

Theo Điều 215, Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga.


18


- Một bên là người khơng có năng lực hành vi hoặc vắng mặt đại diện hợp
pháp của người không có năng lực hành vi;
- Nguyên đơn hoặc bị đơn tham gia vào những hoạt động quân sự, thực hiện
nhiệm vụ trong tình trạng khẩn cấp hoặc chiến tranh, cũng như trong tình trạng
xung đột chiến tranh;
- Việc giải quyết vụ án không thể thực hiện được trước khi vụ án khác được
giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự, hành chính hoặc hình sự;
- Tịa án đề nghị Tịa án Hiến pháp Liên bang Nga kiểm tra tính hợp hiến của
pháp luật đang được áp dụng.
Dưới góc độ là quyền, Tịa án cũng có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu của
những người tham gia tố tụng, quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án trong
những trường hợp29:
- Nguyên đơn hoặc bị đơn đang điều trị;
- Tìm kiếm bị đơn;
- Trưng cầu giám định;
- Cơ quan đỡ đầu hoặc giám hộ quyết định kiểm tra điều kiện sống của cha
mẹ nuôi đối với vụ việc về nuôi con nuôi hoặc những vụ việc khác liên quan tới
quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em;
- Tịa án ủy thác thu thập chứng cứ.
Như vậy, trong tố tụng dân sự của Liên bang Nga, vấn đề tạm đình chỉ giải
quyết vụ án được xác định rõ ràng là nghĩa vụ hay quyền của Tòa án. Đối với nghĩa
vụ thì Tịa án phải thực hiện khi có những căn cứ tạm đình chỉ. Đối với quyền thì
Tịa án có thể tùy nghi xem xét. Việc qui định rõ ràng như trên tạo điều kiện thuận
lợi hơn trong việc vận dụng pháp luật trong thực tiễn. Về căn cứ tạm đình chỉ giải
quyết vụ án, trong tố tụng dân sự Liên bang Nga có những căn cứ khác tố tụng dân
sự Việt Nam như là căn cứ “Tòa án đề nghị Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga kiểm
tra tính hợp hiến của pháp luật đang được áp dụng”. Như vậy, trong pháp luật Liên
bang Nga có qui định cho phép Tịa án có quyền đề nghị kiểm tra tính hợp hiến của
văn bản pháp luật đang được áp dụng, và trong khi chờ đợi sự kiểm tra này của Tòa


29

Theo Điều 216, BLTTDS Liên bang Nga.


19

án Hiến pháp Liên bang thì vụ án được tạm đình chỉ. Đây là một căn cứ khác pháp
luật nước ta.
Trong tố tụng dân sự của Liên bang Nga có qui định thời hạn tạm đình chỉ
giải quyết vụ án theo từng trường hợp cụ thể. Đối với trường hợp công dân bị chết
hoặc pháp nhân bị tổ chức lại, trường hợp người khơng có năng lực hành vi hoặc
vắng mặt đại diện hợp pháp của người khơng có năng lực hành vi thì tạm đình chỉ
cho đến khi xác định được người thừa kế quyền, nghĩa vụ hoặc chỉ định được người
đại diện hợp pháp cho người khơng có năng lực hành vi. Trường hợp nguyên đơn
hoặc bị đơn tham gia vào những hoạt động quân sự, thực hiện nhiệm vụ trong tình
trạng khẩn cấp hoặc chiến tranh, cũng như tình trạng xung đột chiến tranh thì tạm
đình chỉ cho đến khi khắc phục được những tình tiết mà theo đó việc giải quyết vụ
án bị tạm đình chỉ. Trường hợp việc giải quyết vụ án không thể thực hiện được
trước khi vụ án khác được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự, hành chính hoặc
hình sự thì tạm đình chỉ cho đến khi bản án, quyết định của Tịa án, bản án kết tội
có hiệu lực pháp luật, hoặc cho đến khi Tòa án ra phán quyết theo thủ tục tố tụng
hành chính đối với vụ án. Trường hợp Tòa án đề nghị Tòa án Hiến pháp Liên bang
Nga kiểm tra tính hợp hiến của pháp luật đang được áp dụng thì tạm đình chỉ cho
đến khi Tòa án hiến pháp Liên bang Nga ra quyết định30. So sánh với pháp luật tố
tụng dân sự Việt Nam thì tạm đình chỉ giải quyết vụ án trong tố tụng dân sự của
Liên bang Nga về thời hạn tạm đình chỉ được qui định chi tiết, rõ ràng hơn, tạo điều
kiện thuận lợi hơn trong quá trình vận dụng trong thực tiễn.
Trong tố tụng dân sự của Liên bang Nga, sau khi tạm đình chỉ, vụ án có thể
được khôi phục lại. Việc khôi phục lại vụ án bị tạm đình chỉ có thể theo u cầu của

các bên đương sự hoặc của Tòa án, sau khi những nguyên nhân gây ra việc tạm đình
chỉ giải quyết vụ án đã được khắc phục. Tuy nhiên, thủ tục tố tụng dân sự Liên bang
Nga tiến bộ hơn thủ tục tố tụng dân sự Việt Nam là khi khôi phục lại vụ án, Tịa án
có thơng báo cho những người tham gia tố tụng về việc khôi phục lại việc giải quyết
vụ án31.

30
31

Theo Điều 217, BLTTDS Liên bang Nga.
Theo Điều 219, BLTTDS Liên bang Nga.


20

1.5.2. Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong pháp luật tố tụng dân sự Cộng
hòa Liên bang Đức.
Trong pháp luật tố tụng dân sự của Cộng hòa Liên bang Đức, vấn đề tạm
đình chỉ giải quyết vụ án cũng được qui định thành những căn cứ rõ ràng, cụ thể,
các căn cứ để Tòa án áp dụng biện pháp tạm đình chỉ giải quyết vụ án bao gồm:
- Tạm đình chỉ do một đương sự chết: Trong q trình giải quyết vụ án dân sự,
đương sự có thể bị chết. Pháp luật tố tụng dân sự của Liên bang Đức qui định khi có
một đương sự bị chết, vụ án dân sự phải bị tạm đình chỉ để xác định người thừa kế
pháp lý để người này tiếp nhận vị trí kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương
sự bị chết. Nếu người thừa kế pháp lý từ chối tiếp nhận vị trí của đương sự đã chết
thì theo yêu cầu của bên đương sự đối lập, Tòa án phải triệu tập người này để họ
tiếp nhận vị trí tố tụng và tham gia vào thủ tục tố tụng chính. Người thừa kế pháp lý
khơng có mặt vào thời gian triệu tập theo yêu cầu thì phải coi người thừa kế pháp lý
đã tiếp nhận vị trí tố tụng và tham gia thủ tục tố tụng chính. Người thừa kế khơng có
nghĩa vụ phải tiếp tục tranh chấp trước khi tuyên bố nhận thừa kế32. Như vậy, pháp

luật tố tụng dân sự của Liên bang Đức qui định chặt chẽ để buộc người thừa kế
quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự phải tiếp nhận vị trí và tham gia tố tụng vào
vụ án dân sự. Việc tham gia tố tụng của họ được xác định rõ ràng bằng việc tuyên
bố nhận thừa kế. Họ khơng có nghĩa vụ phải tiếp tục tranh chấp khi mà chưa tuyên
bố nhận thừa kế. Vấn đề thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong
trường hợp này pháp luật tố tụng dân sự của Liên bang Đức tương tự như pháp luật
Việt Nam, nhưng qui định thể hiện trong văn bản luật có phần chi tiết, chặt chẽ hơn.
- Tạm đình chỉ do thủ tục phá sản: quá trình giải quyết vụ án dân sự có thể
xảy ra trường hợp tài sản của một đương sự bị mở thủ tục phá sản. Pháp luật tố tụng
dân sự của Liên bang Đức qui định trường hợp này thì vụ án dân sự sẽ bị tạm đình
chỉ để chờ kết quả giải quyết thủ tục phá sản, cho đến khi các quyết định về thủ tục
phá sản được rút lại hoặc cho tới khi thủ tục phá sản đã kết thúc33 thì vụ án mới
được tiếp tục giải quyết. So sánh với pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, với căn cứ
“trường hợp tài sản của một đương sự bị mở thủ tục phá sản” thì áp dụng biện pháp

32

Theo Điều 239, BLTTDS Cộng hịa Liên bang Đức.

33

Theo Điều 240, BLTTDS Cộng hòa Liên bang Đức.


×